Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng giai đoạn 2009 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.16 KB, 17 trang )

I. MỤC TIÊU VÀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
1. MỤC TIÊU :
Trong năm 2009, tăng trưởng tài sản các ngân hàng tụt lại so với tăng trưởng
các khoản vay bởi các ngân hàng Việt Nam chú trọng nhiều hơn đến tăng
trưởng tín dụng. Thay đổi này mang yếu tố hỗ trợ đối với một số tỉ suất quan
trọng như ROAA và tỉ lệ vốn hữu hình/tổng tài sản (tangible equity/assets),
thế nhưng cũng khiến rủi ro tín dụng tăng cao
Trong năm 2009, mặc dù vẫn điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất cơ bản,
nhưng ngay từ đầu năm NHNN đã cho phép các TCTD được tự thỏa thuận
lãi suất với khách hàng đối với hoạt động cho vay tín dụng tiêu dùng và cho
vay thẻ tín dụng.
Ngày 14/4/2010, kiểm soát lãi suất lại được tháo bỏ khi NHNN cho phép
các TCTD cho vay bằng VND đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận
theo Thông tư 12/2010/TT-NHNN. Yêu cầu đối với các TCTD là phải niêm
yết công khai và báo cáo NHNN các mức lãi suất cho vay. Quyết định số
16/2008/QĐ-NHNN của NHNN quy định trần lãi suất bằng 150% lãi suất cơ
bản hết hiệu lực.
Tăng trưởng tín dụng ở các ngân hàng thương mại cổ phần ở mức cao.
Năm 2009, tín dụng tại các ngân hàng Việt Nam tăng trưởng nóng, mức
tăng trưởng tín dụng lên tới 38% trong khi con số này năm 2008 chỉ là 25%,
dù vậy tăng trưởng tín dụng năm 2009 vẫn trong xu thế đi lên so với tăng
trưởng tín dụng các năm 2002 - 2004. Tăng trưởng tín dụng chững lại trong
tháng 1/2010, mức tăng trưởng chỉ đạt 1% trong khi đó tăng trưởng huy động
tiền gửi là 0,3%.


Yếu tố chính làm nên tăng trưởng tín dụng năm 2009 chính là chính sách
nới lỏng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, cùng lúc đó chính phủ đưa ra biện
pháp kích thích tài khóa khiến nhu cầu đối với các khoản vay tăng cao, tăng
trưởng GDP năm 2009 được hỗ trợ. Phần lớn tiền được cho vay với lãi suất
thấp theo chương trình hỗ trợ lãi suất của chính phủ. Tổng giá trị các khoản


vay mới năm 2009 đạt 505 nghìn tỷ đồng tương đương 28 tỷ USD, 89% trong
số này là khoản vay được hỗ trợ lãi suất.
Những ngân hàng tăng trưởng nhanh nhất
4 ngân hàng thương mại của nhà nước bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp
(Agribank), Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công
Thương Việt Nam (Vietinbank).
Nhóm ngân hàng này tiếp tục thống trị hệ thống ngân hàng Việt Nam,
cung cấp tới 51% tổng số các khoản vay trong toàn hệ thống tính đến hết
tháng 9/2009 (con số này năm 2008 là 52% và năm 2007 là 54%). Nhóm ngân
hàng này cung cấp tới 2/3 trong số các khoản vay hỗ trợ lãi suất và vì thế bảo
vệ được thị phần.
Hai ngân hàng thương mại cổ phần lớn nhất là Ngân hàng Thương mại
cổ phần Á Châu (ACB) và ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương
Tín (Sacombank) có mức tăng trưởng tín dụng rất cao trong khoảng thời gian
9 tháng đầu năm 2009.
Tăng trưởng tiền gửi
Tăng trưởng tiền gửi ở mức 27% trong năm 2009 không theo kịp tăng
trưởng tín dụng. Tỷ lệ cho vay trên vốn huy động trung bình (LDR) ở thời
điểm cuối năm 2009 tăng lên mức 105%, tỷ lệ này năm 2008 là 95%.
Nhóm ngân hàng có tỷ lệ LDR cao nhất bao gồm Ngân hàng Đầu tư Phát
triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt
Nam (Vietinbank) và Ngân hàng Nông nghiệp (Agribank). Tỷ lệ này tại Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) ở mức vừa phải là 87%. Tuy
nhiên tỷ lệ này đã tăng 15% tính từ cuối năm 2008.
2. CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
Hội nhập quốc tế đặt ra cho các doanh nghiệp VN, đặc biệt là các ngân hàng
thương mại (NHTM) – Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền
tệ - tín dụng đứng trước những thách thức lớn. Để vượt qua những thách
thức và tận dụng tốt cơ hội đòi hỏi các NHTMVN phải ra chiến lược phù

hợp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn của sự phát triển phù hợp với xu thế
trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích quốc gia và doanh nghiệp.
Một là, trong quá trình hội nhập quốc tế, VN cần phải xây dựng một hệ
thống ngân hàng có uy tín, có khả năng cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả,
an toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở


rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất
nước.
Hai là, xây dựng các qui chế quản lý và hoạt động phù hợp với chuẩn mực
quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị nguồn vốn, kiểm tra kiểm toán nội bộ,
xây dựng quy trình tín dụng hiện đại và sổ tay tín dụng, xây dựng và hoàn
thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ chỉ số an toàn và hiệu quả kinh
doanh ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn VN.
Ba là, mở cửa thị trường trong nước trên cơ sở xoá bỏ dần các giới hạn về số
lượng, loại hình tổ chức, phạm vi hoạt động, tỷ lệ góp vốn của nước ngoài,
đảm bảo quyền kinh doanh của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước
ngoài theo các cam kết đa phương và song phương.
Bốn là, đổi mới mô hình tổ chức bộ máy của các NHTM. Một nội dung
quan trọng trong đề án tái cơ cấu là đổi mới tổ chức bộ máy theo hướng
NHTM hiện đại. Từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, chức năng
của hệ thống NHNN nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả điều hành vĩ mô của
NHNN, nhất là việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia và trong
việc quản lý, giám sát hoạt động của các trung gian tài chính.
Năm là, Tăng quy mô về vốn cho các ngân hàng thông qua tích tụ và tập
trung vốn theo hướng:
(1) Nghiên cứu và xem xét tiến hành sát nhập các NHTM quốc doanh để trở
thành một ngân hàng có đủ tiềm lực về tài chính có thể cạnh tranh với các
ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.
(2) Tiến hành cổ phần hoá các NHTM nhằm tận dụng các nguồn lực tài

chính trong dân chúng trong nước và nước ngoài. Trên cơ sở đó thay đổi mô
hình quản lý từ đó tạo sắc thái mới trong hoạt động kinh doanh.
(3) Đẩy mạnh liên doanh liên kết trong hệ thống ngân hàng để tận dụng vốn
và kỹ thuật cũng như trình độ quản lý từ các nước tiên tiến trong khu vực và
thế giới.
Sáu là, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhất là hệ thống thông tin quản lý
cho toàn hệ thống ngân hàng phục vụ công tác điều hành hoạt động kinh
doanh, kiểm soát hoạt động ngân hàng, quản lý vốn tài sản, quản lý rủi ro,
quản lý công nợ và công tác kế toán, hệ thống giao dịch điện tử và giám sát
từ xa, vv.. nhằm nâng cao chất lượng phục vụ cho khách hàng.
Bảy là, đẩy mạnh phát triển các dịch vụ ngân hàng, thực hiện các dịch vụ
ngân hàng điện tử nhằm phục vụ cho khách hàng 24/24, từ đó giảm được
việc phát triển các chi nhánh tốn kém trong việc xây dựng trụ sở và lãng phí
trong sử dụng lao động.
Tám là, đào tạo, nâng cao trình độ nhận thức và kỹ năng nghiệp vụ ngân
hàng là yêu cầu thường xuyên. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên, đào
tạo và đào tạo lại cán bộ thực hiện tốt nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, tiêu


chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những cán
bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc tế, cán
bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế,
cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới.


II.

VỐN TỰ CÓ VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN NỘI LỰC
Trong những năm qua, hệ thống các TCTD phát triển nhanh và góp
phần quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên,

hệ thống các TCTD đã bộc lộ nhiều yếu kém, rủi ro gây mất an toàn hoạt
động và đe dọa sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng rất lớn, đặc biệt rủi ro tín dụng của
các TCTD Việt Nam: Tín dụng cho nền kinh tế tăng nhanh nhưng chất lượng
tín dụng của các TCTD thấp. Theo báo cáo của các TCTD, đến cuối tháng
9/2011 nợ xấu của toàn hệ thống là 82.700 tỷ đồng tương đương 3,31% tổng
dư nợ cho nền kinh tế, trong đó: Nhóm TCTD Việt Nam là 3,44%
(NHTMNN: 3,62%, NHTMCP: 2,44%, Công ty tài chính: 3,11%, Công ty
cho thuê tài chính : 51,7%) và nhóm TCTD nước ngoài: 2,09% (Ngân hàng
100% vốn nước ngoài: 1,21%; Ngân hàng liên doanh: 4,46%; Chi nhánh
ngân hàng nước ngoài: 1,63%; Công ty tài chính: 5,52%, Công ty cho thuê
tài chính: 5,88%).
Theo số liệu giám sát đến cuối tháng 6/2011 của Cơ quan Thanh tra,
giám sát ngân hàng, tỉ lệ nợ xấu thực tế của hệ thống các TCTD hiện nay là
6,62% tổng dư nợ tín dụng. Nếu phân loại nợ theo chuẩn mực quốc tế thì tỉ
lện nợ xấu của hệ thống các TCTD có thể lên tới 2 chữ số (Tổ chức xếp hạng
Fitch Rating đánh giá ở mức 13%), khi đó trích lập dự phòng đầy đủ thì
nhiều TCTD của Việt Nam bị lỗ, thậm chí không còn vốn tự có.
Dự phòng rủi ro không được trích lập đầy đủ tương xứng với mức độ
rủi ro. Đến ngày 30/9/2011, dự phòng rủi ro (dự phòng cụ thể và dự phòng
chung) sẵn có chi tương đương 47,85% nợ xấu (theo số liệu nợ xấu của
TCTD báo cáo) hay tương đương 26,67% nợ xấu (theo nợ xấu của Cơ quan
Thanh tra, giám sát ngân hàng), thấp hơn so với nhiều nước. Tỉ lệ này còn
thấp hơn nhiều niếu phân loại nợ theo tiêu chuẩn quốc tế.
Rủi ro của hệ thống các TCTD cao là do:
(1) Hệ thống khách hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro và phụ thuộc nhiều vào
vốn của hệ thống các TCTD, nhất là hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tập


đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có tình hình tài chính kém lành mạnh,

kinh doanh kém hiệu quả.
(2) Đạo đức của một bộ phận cán bộ ngân hàng thoái hóa, biến chất,
câu kết với khách hàng vi phạm pháp luật, trục lợi cá nhân.
(3) Chuẩn mực, điều kiện cấp tín dụng thiếu chặt chẽ; Trình độ, năng
lực thẩm định, đánh giá, quản lý tín dụng của các TCTD còn nhiều yếu kém.
(4) Mức độ tập trung tín dụng rất lớn vào các lĩnh vực kinh doanh rủi
ro và không có hiệu quả cao như bất động sản, doanh nghiệp nhà nước, tập
đoàn kinh tế.
(5) Cấp tín dụng cho các bên liên quan, nhất là các cá nhân hoặc
doanh nghiệp thuộc quyền quản lý, kiểm soát của các cổ đông lớn của ngân
hàng.
+ Tín dụng tập trung vào lĩnh vực bất động sản quá lớn đặt sự an
toàn của hệ thống các TCTD phụ thuộc vào thị trường bất động sản. Theo
báo cáo của các TCTD dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản đến
cuối tháng 9/2011 là 2.3.600 tỉ đổng (giảm 13,46% so với cuối năm 2010),
tương đương 8,15% tổng dư nợ tín dụng. Nếu bao gồm cả các khoản tín
dụng được đảm bảo bằng bất động sản thì dư nợ tín dụng đối với bất động
sản là 1.331.032 tỷ đồng tương đương 53,3% tổng dư nợ tín dụng, trong đó
dư nợ tín dụng được đảm bảo bằng bất động sản của các TCTD Việt Nam là
1.298.633 tỷ đồng, tương đương 57,3% tổng dư nợ tín dụng của các TCTD
Việt Nam.
Dư nợ tín dụng đối với bất động sản lớn, song chất lượng tín dụng
thấp và đang có chiều hướng giảm do thị trường bất động sản suy giảm đang
trở thành rủi ro rất lớn đối với các TCTD. Giá trị bất động sản giảm tác động
tiêu cực đến khả năng trả nợ của khách hàng vay và gí trị tài sản đảm bảo
bằng bất động sản. Theo số liệu của các TCTD đến cuối tháng 9/2011, nợ
xấu cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản là 8.445 tỷ đồng tương đương
4,15% dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản. Trong đó, các TCTD
trong nước có nợ xấu cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản là 8.350 tỷ
đồng tương đương 4.36% dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản.



Ước tính tổn thất nợ xấu liên quan đến bất động sản: Trong tổng nợ
xáu 143.013 tỉ đồn đến cuối tháng 6/2011 (theo Cơ quan Thanh tra, giám sát
ngân hàng), ước tính có 76.226 tỷ đồng nợ xấu liên quan đến bất động sản,
trong đó có khả năng mất vốn là 30.000 tỷ đồng.
+ Mức độ tập trung tín dụng đối với một số khách hàng và nhóm
khách hàng liên quan rất lớn. Khi những khách hàng vay lớn gặp khó khăn
về tài chính và kinh doanh có khả năng gây tổn thất lớn cho TCTD. Đến cuối
tháng 9/2011 dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước là 415.347 tỷ
đồngtương đương 16,9% tổng dư nợ tín dụng, trong đó dư nợ cho vay 12 tập
đoàn kinh tế của nhà nước là 218.738 tỷ đồng (riêng Tập đoàn Dầu khí Việt
Nam 72.300 tỷ đồng, Tập đoàn Điện lực 62.800 tỷ đồng, Tập đoàn Công
nghiệp Than, Khoáng sản 20.500 tỷ đồng và Tập đoàn Công nghiệp Tàu
thủy 19.600 tỷ đồng) tương đương 8,76% tổng dư nợ tín dụng toàn ngành và
chiếm 52,66% dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước.
Theo số liệu đến cuối tháng 6/2011 của Cơ quan Thanh tra, giám sát
ngân hàng, trong tổng số 1.002.962 khách hàng được chọn xem xét có dư nợ
tín dụng tạ 60 TCTD trong nước có 88 khách hàng và nhóm khách hàng liên
quan có dư nợ lớn (trên 1.000 tỷ đồng) với hơn 2.300 món vay. Tổng dư nợ
cấp tín dụng của 88 khách hàng và nhóm khách hàng liên quan này là
400.972 tỷ đồng và chiếm tới 16,3% tổng dư nợ tín dụng của 60 TCTD trong
nước.
+ Hệ thống doanh nghiệp phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng
nhưng hiệu quả kinh doanh thấp, tài chính kém lành mạnh: Theo số liệu
giám sát đến cuối tháng 6/2011 của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng,
chỉ tính riêng 2649 khách hàn thua lỗ có tổng dư nợ tín dụng 67.911 tỷ đồng
tương đương 2,7% tổng dư nợ tín dụng của toàn ngành. 1% khách hàng vay
ngân hàng chiếm 13,6% tổng dư nợ tín dụng có hệ số nợ so vốn chủ sở hữu
từ 3 lần trở lên.

+ Nhóm lợi ích và sở hữu chéo giữa các TCTD rất lớn làm cho rủi
ro hệ thống rất cao nếu như một ngân hàng gặp khó khăn hoặc đổ vỡ.
Ngân hàng trong những năm qua là ngành có tốc độ phát triển nhanh đã thu
hút các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đầu tư vốn kinh doanh trong


lĩnh vực ngân hàng. Đặc biệt, nhiều tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà
nước đầu tư, nắm giữ cổ phiếu và là cổ đông lớn hoặc chủ sở hữu của ngân
hàng và TCTD phi ngân hàng. Không ít TCTD đã bị các cổ đông lớn lạm
dụng trở thành kênh cung cấp vốn cho các cổ đông, doanh nghiệp thuộc
quyền sở hữu nhà nước hoạt động chủ yếu phục vụ tập đoàn và doanh nghệp
thành viên của tập đoàn. Điều này dễ dẫn đến vi phạm các nguyên tắc quản
trị rủi ro, xung đột lợi ích và sự an toàn, ổn định của TCTD phụ thuộc vào
các cổ đông lớn của TCTD. Luật các TCTD quy định một số trường hợp
không được cung cấp tín dụng (thành viên hội đồng quản trị, Tổng giám
đốc/Phó Tổng giám đốc của TCTD,…), một số trường hợp bị hạn chế cấp tín
dụng và giới hạn cấp tín dụng (không vượt quá 15% vốn tự có đối với một
khách hàng và không quá 25% vốn tự có đối với một khách hàng và người
có liên quan). Tuy nhiên, trên thực tế bằng nhiều kỹ thuật khác nhau không ít
đối tượng không tuân thủ các quy định an toàn hoạt động tín dụng.
Kết luận
Tăng trưởng tín dụng qua nhanh và nhanh hơn huy động vốn trong
một thời gian kéo dài làm cho bộ phận TCTD phụ thuộc vào nguồn vốn từ
NHNN và huy động vốn từ thị trường liên ngân hàng để tài trợ thanh khoản
thiếu hụt hoặc tạo nguồn mở rộng tín dụng. Đến cuối tháng 9/2011, số dư
NHNN cho vay TCTD qua các kênh tái cấp vốn và thị trường mở chưa đến
hạn là 121.112 tỷ đồng tương đương 6,33% tổng dư nợ tín dụng bằng VNĐ
của cả hệ thống; Số dư vốn huy động của các TCTD Việt Nam từ thị trường
liên ngân hàng là 702.527 tỷ đồng, tương đương 18,12% so với dư nợ tín
dụng của nền kinh tế. Quy mô thị trường liên ngân hàng đến cuối tháng

9/2010 là 831.066 tỷ đồng tương đương 33,3% tổng dư nợ của toàn hệ thống
cho thấy: Một khối lượng vốn không nhỏ chảy lòng vòng trên thị trường liên
ngân hàng tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các TCTD; Rủi ro hệ thống rất
lớn khi có thị trường biến động đột ngột; Thị trường hình thành một nhóm
ngân hàng chuyên đầu tư, cho vay TCTD khác để kiếm lời và một bộ phận
TCTD phụ thuộc vào nguồn vốn của thị trường liên ngân hàng.
Cho vay quá mức dẫn đến hệ số sử dụng vốn của các TCTD Việt Nam
rất cao và vượt mức an toàn: Đến cuối tháng 9/2011, tỉ lệ tổng dư nợ tín
dụng cho nền kinh tế so với huy động vốn từ nên kinh tế là 100,4%; Nếu


tính cả các khoản đầu tư khác (đầu tư, góp vốn, mua trái phiếu doanh
nghiệp, các khoản phải thu khác) thì tổng đầu tư của toàn hệ thống cho nền
kinh tế là 2.813.591 tỷ đồng bằng 113% huy động vốn từ nền kinh tế. Việc
cho vay quá mức dẫn đến dự trữ thanh khoản thấp, TCTD phải vay NHNN
hoặc vaynước ngoài để tài trợ tăng trưởng tín dụng.
Cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn không ổn định; Mất cân đối
nghiêm trọng về kỳ hạn giữa nguồn vốn vả sử dụng vốn. Trong tổng vốn huy
động từ nền kinh tế đến cuối tháng 9/2011, nguồn vốn không kỳ hạn và có
kỳ hạn dưới 6 tháng chiếm đến 77,77% tổng vốn huy động từ nguồn thanh
toán (trong đó: 79,44% đối với VNĐ và 71,52% đối với ngoại tệ) làm cho
nguồn vốn thiếu tính ổn định: Trong khi đó dư nợ tín dụng trung, dài hạn lại
chiếm tỉ trọng 42,4% tổng dư nợ tín dụng (trong đó: 41,48% đối với VNĐ và
45,47% đối với ngoại tệ) dẫn đến thanh khoản của các TCTD yếu.


III. MÔI TRƯỜNG KINH TẾ TRONG NƯỚC
1. Chu kỳ phát triển kinh tế
Từ năm 2009 đến nay, mặt bằng lãi suất đã có nhiều biến động theo những
thăng trầm của nền kinh tế. Về cơ bản, lãi suất tăng mạnh trong giai đoạn

2009-2011 do lạm phát tăng cao khiến NHNN phải áp dụng chính sách thắt
chặt tiền tệ. Điều này đã dẫn tới hiện tượng khan hiếm tiền đồng trên toàn hệ
thống, thúc đẩy các ngân hàng bước vào cuộc chạy đua lãi suất mặc dù
NHNN đã đưa ra nhiều chính sách để hạn chế tình trạng tăng lãi suất.

Giai đoạn 2007, Việt Nam luôn được coi một trong những điểm sáng
trong bản đồ kinh tế toàn cầu với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 7,8%.
Với việc gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, tốc độ
tăng trưởng GDP lên tới gần 8,5%.
- Năm 2009: Tình trạng mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và cho
vay đã khiến cho hầu hết các NHTM tham gia vào cuộc chạy đua lãi suất
huy động bắt đầu từ tháng 2 khi Chính phủ triển khai chương trình cho vay
hỗ trợ lãi suất 4% đến hết năm 2009. Để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong
dân cư, các NHTM đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động tại tất cả các kỳ hạn.
Với diễn biến này, Ngân hàng Nhà nước phát thông điệp kiểm tra toàn diện
các trường hợp có lãi suất huy động từ 10,5%/năm trở lên khiến nhiều
NHTM đồng loạt áp lãi suất ở mức 10,49%/năm.
- Năm 2010, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng VND ổn định ở
mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9%
trong hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát. Tính đến cuối năm


2010, mặt bằng lãi suất huy động VND khoảng 2,4-3,0% đối với không kỳ
hạn; 12,0-13,5% đối với cá kỳ hạn dưới 12 tháng; và 12,0-13,0% với kỳ hạn
trên 12 tháng. Đến tháng 7/2010, để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất
huy động trên thị trường, NHNN và Hiệp hội Ngân hàng đã yêu cầu các
NHTM đồng thuận giảm lãi suất huy động vốn bằng VND để góp phần thực
hiện hạ mặt bằng lãi suất của thị trường .
- Năm 2011, Tình hình lãi suất từ đầu năm tới hết quý III/2011 đã có
chuyển biến rất nhiều và diễn biến khá phức tạp qua các thời kỳ. Trong 3

tháng đầu năm, lạm phát tăng cao dẫn đến lãi suất huy động có xu hướng
tăng trên thị trường. Trước tình hình đó, NHNN đã ban hành Thông tư
02/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng
Việt Nam không vượt quá 14%/năm, nhằm tránh một cuộc đua lãi suất giữa
các ngân hàng, gây bất ổn cho hệ thống. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát tăng cao
(lạm phát bình quân cả năm 2011 ở mức 18,58% so với năm 2010), hơn mức
trần lãi suất (14%/năm) đã khiến lãi suất huy động thực tế đang ở mức âm.
- Năm 2012, sau 5 lần điều chỉnh của NHNN, trần lãi suất huy động
VND đã giảm tổng cộng 6%, từ mức 14% xuống còn 8% tại thời điểm cuối
năm. Cũng giống như lãi suất huy động, lãi suất cho vay VND được điều
chỉnh giảm từ 1-3%/năm đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất
khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sản xuất – kinh
doanh… phổ biến ở mức 14,5-16%/năm, thấp nhất 13,5%/năm áp dụng đối
với khách hàng doanh nghiệp cam kết bán ngoại tệ cho ngân hàng; cho vay
sản xuất – kinh doanh khác 16,5-20%/năm, thấp nhất 15%/năm, cho vay lĩnh
vực phi sản xuất 20-25%/năm. Lãi suất cho vay USD vẫn ở mức cao, phổ
biến ở mức 6-7,5%/năm đối với ngắn hạn, 7,5-9%/năm đối với trung và dài
hạn.
Năm 2013, trong năm 2013, mặt bằng lãi suất trên thị trường có mức
giảm mạnh, vào khoảng 0,8-1,5% đối với các kỳ hạn dưới 1 năm và lên tới
2,5-3,5% đối với các kỳ hạn trên 1 năm so với cuối năm 2012. Nguyên nhân
là do năng lực tài chính của các TCTD được cải thiện đáng kể, các TCTD
cũng điều chỉnh giảm lãi suất thay vì bám sát trần huy động như giai đoạn
trước. Đến cuối năm 2013, lãi suất cho vay phổ biến trong khoảng 811,5%/năm kỳ hạn ngắn và 11,5-13%/năm trung dài hạn. Trong đó, các lĩnh


vực ưu tiên lần lượt là 8-9%/năm và 11-12%/năm; các lĩnh vực khác là 911%/năm và 11,5-13%/năm. Đặc biệt, một số doanh nghiệp có tình hình tài
chính lành mạnh, minh bạch, phương án, dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả
đã được vay với mức lãi suất chỉ từ 7-7,5%/năm.
2. Môi trường kinh tế địa phương

Chỉ số CPI giảm xuống đáng kể từ Quý 2/2009 đến cuối năm 2009, kết thúc
năm ở mức 6,52% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số này lại bắt đầu xu
hướng đi lên từ đầu năm 2010 khi nó đạt đỉnh ở mức 23,02% vào tháng
08/2011, một phần do chính sách nới rộng tiền tệ được thực hiện vào năm
2009 và nửa đầu năm 2010. Chỉ số này sau đó đã quay đầu giảm xuống
chỉ còn 6,9% vào tháng 06/2012.
Vào tháng 02/2009, nhằm hỗ trợ thanh khoản và hạ bớt lãi suất cho vay,
NHNN đã hạ thấp lãi suất hoạt động vốn đã được giữ mức thấp từ trước đó
bằng một vài sự điều chỉnh nhỏ cho tới cuối năm 2010 khi chính sách tiền tệ
được định hướng lại.

Trong số những dự án đệ trình xin vay vốn, nhiều dự án tiềm ẩn những tác
động tiêu cực lớn đối với môi trường và xã hội. Nói cách khác, các tổ chức
tín dụng có thể gián tiếp gây những tác động môi trường và xã hội như ô
nhiễm môi trường, hủy hoại nguồn nước, mất rừng, suy giảm đa dạng sinh
học, lạm quyền và xung đột đất đai. Trong bối cảnh các yêu cầu bảo vệ môi
trường và nhân quyền ngày càng được thừa nhận, luật hóa và tuân thủ, thì
các tổ chức tín dụng cũng đối mặt với nhiều rủi ro và thách thức. Trên thế
giới, nhiều dự án buộc phải hủy bỏ bởi sự phản đối của cộng đồng và xã hội


dù đã được chính phủ chấp thuận triển khai, thậm chí đã được ngân hàng
cam kết cấp tín dụng.
Khi áp dụng các biện phát nhằm kiềm chế lạm phát cho sản xuất, đầu
tư sẽ bị thu hẹp khiến cho nền kinh tế có khả năng đi vào suy thoái .Chính
bởi vậy một khi lạm phát đã được kiềm chế, giảm phát thì Ngân hàng TW sẽ
giảm lãi suất tín dụng nhằm giúp cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp
trong nền kinh tế dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn. Để có thể mở rộng sản
xuất, đầu tư giúp cho nền kinh tế phục hồi. Trong nền kinh tế thị trường thì
lạm phát và lãi suất có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại mật thiết với

nhau .
Nếu nhìn từ góc độ kỹ thuật, kể từ khi VN-Index đạt đỉnh xấp xỉ 1.180 điểm
vào tháng 3/2007 và chạm đáy 234 điểm vào tháng 2/2009, ngay cả nỗ lực đi
lên mạnh mẽ năm 2009 cũng chưa đẩy chỉ số này phục hồi được quá 38,2%
mức sụt giảm đó. Tuy nhiên nhìn vào những “lát cắt” nhỏ hơn trong 6 năm
đó, thị trường cũng đã có những chuyển biến tích cực dần để có thể tích lũy
lại thành một nền tảng vững chắc. Sau những biến động không còn quá dữ
dội từ năm 2010-2012 và nhất là từ đầu năm 2013 đến nay, thị trường đã
định hình được một xu hướng phục hồi khá chắc chắn. Đặc biệt, kể từ năm
2009, tỷ lệ nợ xấu liên tục tăng dần qua các năm, từ mức 2,2% (năm 2009)
lên mức 3,4% của năm 2011, tiếp tục tăng lên mức 4,08% cuối năm 2012 và
đã giảm về mức 2,52% vào cuối năm 2015; 3.1% vào năm 2013.
Vào ngày 17/08/2010, NHNN lại đột ngột tăng tỷ giá thêm 2,1% lên 18.932
VND/USD mặc dù lúc đó áp lực thị trường vẫn chưa rõ ràng và khoảng cách
giữa tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá chính thức vẫn đang ở mức thấp khoảng
500 VND/USD. Ngay lập tức, các NHTM tăng tỷ giá của họ lên kịch trần.
Động thái của NHNN có thể đã giúp giảm áp lực và ổn định tỷ giá nếu
không có nhiều những yếu tố bất lợi diễn ra trong những tháng cuối của năm
2010. Không thể tiếp tục duy trì tỷ giá, NHNN đã tuyên bố mức phá giá cao
nhất trong lịch sử (9,3%) vào đầu tháng 2/2011, nâng tỷ giá chính thức lên
20.693 VND/USD và giảm biên độ xuống còn +/-1%. Nỗ lực này đã không
có kết quả ngay lập tức. Tỷ giá thị trường tự do vọt lên trên 22.100
VND/USD trong vòng vài ngày kể từ sau lần phá giá này. Sau đó, trong năm
2012, thành công lớn nhất của NHNN là giữ được tỷ giá ổn định không có
những diễn biến bất thường.


Trên thực tế, NHNN đã rất quyết liệt triển khai nhiệm vụ theo tinh thần đề
án 254, bằng cách phân loại hệ thống NHTM thành ba nhóm: Nhóm 1, gồm
các NHTM có tình hình tài chính lành mạnh, có năng lực quy mô đủ lớn để

phát triển thành các ngân hàng trụ cột của hệ thống; Nhóm 2, gồm các
NHTM có tài chính lành mạnh, nhưng quy mô nhỏ; Nhóm 3, gồm các
NHTM có tình hình tài chính khó khăn buộc phải thực hiện tái cơ cấu. Đến
hết năm 2012, NHNN chỉ tập trung củng cố thanh khoản hệ thống ngân
hàng, lành mạnh hóa hoạt động tài chính, tái cơ cấu tổ chức, tăng cường
quản trị hệ thống ngân hàng…để tiến đến xử lý nợ xấu toàn diện.
Hệ thống NHTM và các TCTC giữ vai trò quan trọng trong khu vực tài
chính Việt Nam, vì đây là thị trường cung cấp vốn chủ yếu cho các doanh
nghiệp (DN). Tốc độ tăng trưởng tín dụng ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Tính đến 31/12/2013, tổng tài sản của toàn hệ thống các
TCTD đạt khoảng 5,75 triệu tỷ đồng, tăng 13,2% so với năm 2012; Dư nợ
tín dụng đối với nền kinh tế đạt khoảng 3,48 triệu tỷ đồng (khoảng 100%
GDP), tăng 12,52% so với dư nợ tại thời điểm 31/12/2012. Về lãi suất, từ
năm 2013 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nhiều lần điều chỉnh
các mức lãi suất điều hành để hạ mặt bằng lãi suất cho vay của NHTM và
giúp các DN có thể tiếp cận vốn. Ở thời điểm năm 2014, lãi suất huy động
vốn được quy định ở mức 6% đối với tiền gửi dưới 6 tháng.
3. Môi trường pháp lý
Ngân hàng nhà nước đã có thông tư 04/2010/TT-NHNN ngày 11 tháng 2
năm 2010 hướng dẫn cụ thể quy trình thực hiện một thương vụ M&A trong
ngành ngân hàng một cách khá đầy đủ. Dựa trên đó, Nhà nước có thể phát
triển thành luật sáp nhập hoàn thiện không chỉ đối với ngành ngân hàng mà
cả những loại hình doanh nghiệp khác.
Các ngân hàng có thể tăng tỷ lệ CAR bằng cách tăng vốn điều lệ hoặc
cắt giảm các tài sản có tính rủi ro cao. Khi tính tỷ lệ CAR, các khoản cho
vay đầu tư chứng khoán được xếp vào tài sản “Có” có hệ số rủi ro là 250%
khiến cho dòng vốn từ ngân hàng đổ vào thị trường chứng khoán bị thu hẹp
lại. Một điểm quan trọng trong thông tư là tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn
vốn huy động đối với ngân hàng là 80% và đối với các tổ chức tín dụng là
85%.

Tính đến 31/12/2013, tổng tài sản của toàn hệ thống các TCTD đạt khoảng
5,75 triệu tỷ đồng, tăng 13,2% so với năm 2012; Dư nợ tín dụng đối với nền


kinh tế đạt khoảng 3,48 triệu tỷ đồng (khoảng 100% GDP), tăng 12,52% so
với dư nợ tại thời điểm 31/12/2012. Về lãi suất, từ năm 2013 đến nay, Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) đã nhiều lần điều chỉnh các mức lãi suất điều hành
để hạ mặt bằng lãi suất cho vay của NHTM và giúp các DN có thể tiếp cận
vốn. Ở thời điểm năm 2014, lãi suất huy động vốn được quy định ở mức 6%
đối với tiền gửi dưới 6 tháng. Theo đó, các mức lãi suất cho vay được thị
trường điều chỉnh tương ứng ở mức khoảng 8,5-10% tùy theo đối tượng
khách hàng. Về điều hành tỷ giá và giá vàng, NHNN đã và đang thực hiện
điều hành linh hoạt tỷ giá, đảm bảo tính ổn định và có dự báo trước đối với
thị trường ngoại hối. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng hiện ở mức 21.246
VND/USD và tỷ giá mua bán VND/ USD tại các NHTM vào khoảng 21.300
- 21.360 VND/USD. Đối với nghiệp vụ quản lý hoạt động kinh doanh vàng,
ngày 03/04/2012, Chính phủ ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP, trong đó
quy định Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất và nhập khẩu vàng
nguyên liệu để sản xuất vàng miếng. Theo đó, bắt đầu từ tháng 03/2013,
NHNN đã tiến hành 76 phiên đấu thầu vàng với khối lượng chào bán là
1.932.000 lượng và trúng thầu là 1.819.900 lượng, giá trị khoảng 71,3 nghìn
tỷ đồng.


IV.

XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu và đang diễn ra ngày càng sâu
rộng về nội dung và qui mô trên nhiều lĩnh vực.

Trong xu thế đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được bắt đầu từ
năm 1986, khi Đại hội Đảng lần thứ VI đã mở đường cho công cuộc đổi mới một
cách toàn diện theo hướng chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong các năm 2009-2013,
NHNN Việt Nam vẫn thể hiện vai trò tích cực trong tiến trình hợp tác tài chính tiền tệ khu vực ASEAN và ASEAN + 3, đặc biệt là Thống đốc Nguyễn Văn Giàu
đã chủ trì Hội nghị thường niên IMF/WB năm 2009 và Hội nghị NHTW các nước
ASEAN năm 2010.
Thực tế cho thấy, ngành Ngân hàng đã có nhiều nỗ lực cải cách đáng kể theo
hướng thị trường và mở cửa khu vực dịch vụ tài chính – ngân hàng trước yêu cầu
phát triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 2009 nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng lớn bởi khủng hoảng kinh tế, sau đó
phục hồi vào năm 2010, nhưng từ 2011 đến 2013 tình hình kinh tế vẫn khó khăn và
chưa có dấu hiệu phục hồi rõ ràng. Sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, đầu tư, tiêu
dùng giảm sút, lạm phát cao, nhu cầu tín dụng giảm,vốn tín dụng đã thực hiện cũng
khó có thể sử dụng có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Hoạt động tín
dụng ngân hàng giảm sút về quy mô và chất lượng.Mức độ phù hợp giữa lãi suất
ngân hàng với mức lợi nhuận của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ
trong nền kinh tế quốc dân cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, lợi tức của
ngân hàng thu được bị giới hạn bởi lợi nhuận của doanh nghiệp sử dụng vốn vay
ngân hàng, nên với mức lãi suất cao các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng không có
khả năng trả nợ ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và
tới toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hoạt động tín dụng ngân hàng lúc này không
còn là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và chất lượng tín dụng
cũng giảm sút. Ngoài ra những sự biến động về lãi suất thị trường, tỷ giá thị trường
cũng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất của ngân hàng.
Việt Nam trở thành viên của tổ chức WTO năm 2007, Việt Nam bắt đầu mở
cửa cho các tổ chức tín dụng nước ngoài.


Năm 2009, hàng loạt các tổ chức tín dụng 100% vốn đầu tư nước ngoài như

HSBC, ANZ…
Với việc mở cửa thị trường tài chính, các ngân hàng trong nước được tiếp
cận với thị trường tài chính quốc tế, có điều kiện học hỏi, nâng cao trình độ quản
trị, điều hành, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới và kỹ năng kinh doanh, nhất là
về các hoạt động nghiệp vụ mà các ngân hàng trong nước chưa có hoặc ít có kinh
nghiệm như kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc
tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, quản lý quỹ, môi giới tiền tệ, quản lý rủi ro.
Việc mở cửa hệ thống ngân hàng còn gây tác động mạnh lên hoạt động thị trường
ngân hàng tại Việt Nam. Có thể thấy sự cạnh tranh, hay chính xác hơn, quan ngại
về tiềm năng của các địnhchế ngân hàng nước ngoài, khiến các NHTMCP trong
nước tự điều chỉnh và cải thiện khả năng hoạt động và khả năng cung ứng dịch
vụ.Rất nhiều ngân hàng thương mại trong nước đã thuê chuyên gia nước ngoài
cung cấp các gói thầu tư vấn tập trung vào những vấn đề không được chú ý trước
khi gia nhập WTO (như xây dựng chiến lược, lập kế hoạchkinh doanh, quản trị rủi
ro, quản trị nhân sự, đánh giá chất lượng dịch vụ…). Điển hình như, Ngân hàng
Hàng hải đã thuê công ty tư vấn hàng đầu thế giới McKinsey trong giai đoạn 20092010 để cơ cấu lại hoạt động ngân hàng với mục tiêu đưa ngân hàng trở thành ngân
hàng trong nhóm những ngân hàng dẫn đầu về cả tài sản và chất lượng dịch vụ.



×