Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng giai đoạn năm 2009 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.8 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG
BỘ MÔN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG

---o0o---

BÀI TIỂU LUẬN:

PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG GIAI ĐOẠN NĂM 2009-2013
NHÓM THỰC HIỆN:
GV: Th.S Nguyễn Thị Minh Châu


I. Mục

tiêu và chiến lược kinh doanh Ngân hàng.
1.1 Cơ sở lý thuyết.
Mục tiêu: là đích đến của Ngân hàng. Mục tiêu xây dựng phải phù hợp với
tiềm năng, thực lực hiện có của từng NH và sứ mệnh của NH trong tương lai.
Chiến lược kinh doanh: Mỗi NH cần đề ra cho mình những chiến lược
kinh doanh phù hợp với tiềm lực và thế mạnh của mình để không rơi vào thế bị
động trong hoạt động kinh doanh của mình. Dựa trên chiến lược kinh doanh dài
hạn đúng đắn, NH mới có thể có những kế hoạch đúng đắn cho từng thời kỳ để
đảm bảo thực hiện mục tiêu đề ra.
Vào giai đoạn khủng hoảng tài chính, Việt Nam tuy không là quốc gia nằm
trong tâm bão của cuộc khủng hoảng, nhưng cũng không tránh khỏi những tác
động của các cơn lốc nhỏ. Riêng đối với hệ thống NH Việt Nam, cơn lốc tài
chính này không đè bẹp được ý chí tự lập, tự cường của mỗi ngân hàng, góp
sức vào công cuộc đấu tranh chống lạm phát vào năm 2009 và tiếp tục chống


suy giảm kinh tế.
Trong giai đoạn này, tùy vào mỗi thời điểm nhất định thì sẽ có những chính
sách được hoạch địch cụ thể. Có thể nói, chất lượng tín dụng của NH có tốt hay
không nó còn phụ thuộc vào việc xây dựng một chính sách tín dụng của NH có
đúng đắn hay không.
1.2 Thực trạng.
- Khi tốc độ huy động vốn, khả năng thanh khoản đều tăng, các NH sẵn lòng
trong việc cho KH vay làm tăng tốc độ tăng trưởng tín dụng. Và ngược lại, khi
chênh lệch lãi suất bình quân thì lại làm giảm tốc độ tăng trưởng bình quân. Có
thể nhìn nhận theo cách khả quan rằng, mục tiêu tăng trưởng trong năm 2011
của các NH là “ Các TCTD duy trì mức tăng trưởng thực tế dưới 20% trong
suốt năm 2011”. Từ mục tiêu đó, các NHTM sẽ tích cực thu hồi nợ thay vì mở
rộng cho vay.
- Vào năm 2013, các NH thực hiện yêu cầu tăng trưởng tín dụng 12-14% với
mục tiêu duy trì lãi suất trần ngoại tệ để ổn định lãi suất thị trường, tạo thuận
lợi cho tăng trưởng tín dụng. Với mục tiêu đó, các NH đều kỳ vọng huy động
vốn từ nền kinh tế và dư nợ tính dụng của đơn vị mình trong năm 2014 sẽ tăng
so với năm 2013, mức tăng phổ biến từ 10%-20%. Trong đó, huy động và dư
nợ tín dụng bằng VNĐ được kỳ vọng tăng cao hơn so với ngoại tệ, huy động
vốn các kỳ hạn ngắn dưới 6 tháng tăng trưởng cao hơn các kỳ hạn dài.
- Nhằm thực hiện được mục tiêu kinh tế, các NH trong giai đoạn này phải có
những chiến lược để nhận diện khách hàng tốt. Những khách hàng có tình hình
tài chính không đến nỗi tệ nhưng sau đó nếu kinh tế có biến động thì chưa chắc
DN đương đầu nổi. Vì vậy, chiến lược đặt ra là ngân hàng đánh giá khách hàng
không nên chỉ nhì về quá khứ hay hiện tại mà phải đánh giá được triển vọng
tương lai của nền kinh tế và của KH, xây dựng hệ thống quản lý tín dụng tốt để


hỗ trợ DN tiếp cận được vốn vay. Khả năng phục hồi của DN sau khủng hoảng
kinh tế trở nên khá hơn. Năm 2013, một số DN ngưng hoạt động đã giảm, và

có thể phục hồi trong năm 2014.
- Để đạt được mục tiêu tăng từ 12-14% tín dụng khả thi thì các NH phải đề
ra chiến lược giảm lãi suất trung hạn nếu được mới kích thích các DN đầu tư
mới, tạo điều kiện cho những DN lành mạnh vay vốn. Lúc này các NH còn
vướng phải việc áp dụng Thông tư 02, chuẩn về tín dụng sẽ khắt khe hơn.
- Khi các DN có hướng hoạt động tốt, có nhu cầu vay vốn thì vẫn có nguồn tín
dụng cho DN. Hơn nữa, năm 2014, NHNN vẫn tiếp tục đặt mục tiêu trọng
tâm cho vay đối với 5 lĩnh vực ưu tiên gồm nông nghiệp nông thôn, công
nghiệp phụ trợ, xuất khầu, DN nhỏ vừa và DN ứng dụng công nghệ cao =>
Chất lượng tín dụng tăng.
- Cụ thể hơn, các NH có 2 xu hướng nhìn nhận về tăng trưởng tín dụng trong
giai đoạn này: lạc quan và thận trọng.
+ Theo lãnh đạo của Sacombank, với tỷ lệ tăng trưởng tín dụng cả năm 2013
đạt khoảng 14% , năm 2014 Sacombank tiếp tục đặt mục tiêu sẽ đạt 3.000 tỷ
đồng lợi nhuận trước thuế, tổng nguồn vốn huy động tăng 18%, tổng dư nợ tín
dụng tăng 14-15% và đảm bảo tỷ lệ nợ xấu dưới 3%.
+ VietinBank đưa ra kế hoạch năm 2014 với dự kiến tăng tổng tài sản thêm
10-15%, nguồn vốn huy động tăng 10-15% và dư nợ tín dụng và đầu tư tăng
10-15%, tỷ lệ nợ xấu giảm xuống dưới 3% và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 10%.
+ VietcomBank triển khai mục tiêu năm 2014 và cho biết sẽ tăng cường
kiểm soát chất lượng tín dụng những của đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 1517%.
+ BaovietBank dù dự báo kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng vẫn tự tin đặt
mục tiêu tăng trưởng hoạt động tín dụng từ 25-30%, trên cơ sở có kiểm soát
chặt chẽ, đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng công tác quản trị rủi ro, tập
trung vào công tác quản lý nợ.
II.Vốn tự có và các điều kiện nội lực của ngân hàng.
2.1 Vốn tự có.
Quy mô vốn tự có là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá
mức độ an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo thông lệ quốc
tế. Tại Việt Nam vốn tự có luôn nhận được sự quan tâm đăc biệt của các nhà

quản trị ngân hàng trong các mục tiêu, chiến lược, kế hoạch thực hiện. Đối với
tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, quy định cụ thể có thể liên quan đầu tiên là quyết
định 297/1999 QĐ-NHNN quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác
định là 8% trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Năm 2005, NHNN đã
ban hành Quyết định 457/2005 QĐ-NHNN với tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn tối
thiểu vẫn là 8% nhưng đã tiếp cận tương đối toàn diện Basel 1. Năm 2010,


NHNN ban hành thông tư số 13 thay thế Quyết định 457/2005 QĐ-NHNN
nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 9% và phương pháp tính toán đã từng bước
tiếp cận Basel 2.
Giai đoạn từ năm 2008 đến nay, quy mô tổng tài sản của hệ thống NHTM
Việt Nam, nhất là ở nhóm NHTMCP với tốc độ tăng trưởng trung bình vào
khoảng 45%/năm. Tuy nhiên tốc độ tăng vốn tự có của cả nhóm NHTMCP lại
không theo kịp tốc độ mở rộng tổng tài sản. Điều đó dẫn đến hiện tượng an
toàn vốn của nhóm ngân hàng này có xu hướng giảm. Trong danh mục tài sản
của các NHTMCP giai đoạn 2010-2011, tỷ trọng tiền gửi và chứng khoán đầu
tư tăng lên trong khi tỷ trọng tín dụng giảm xuống. Các NHTMCP nhỏ vốn có
tỷ lệ dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản trên tổng dư nợ ở mức cao, khi thị
trường bất động sản rơi vào tình trạng trầm lắng, nhiều khoản vay tới hạn
không thể thanh trả được nợ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng là 3,39%, tương đương với
khoản 20% mức vốn tự có. Trong thực tế mặc dù hệ số CAR của nhóm
NHTMCP cao hơn quy định của NHNN nhưng không đồng nghĩa với việc khả
năng chống chịu rủi ro của các ngân hàng được bảo đảm. Đối với nhóm
NHTMNN, những năm gần đây, các ngân hàng này đã tiến hàng IPO và phát
hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ, bán cổ phần cho các tổ chức nước ngoài cũng
như nhận sự bổ sung vốn góp từ Chính phủ nên vốn tự có trên tổng tài sản đã
tăng lên tương đối. Hơn thế khi so sánh trong mối quan hệ với các NHTM
trong khu vực, mức độ an toàn vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam

khá thấp. Hệ số an toàn vốn hệ thống các TCTD tại Việt Nam và một số nước
trên thế giới.
Khi kinh tế xuất hiện những bất ổn các NHTM có thể gặp những khó khăn
hơn rất nhiều so với trong giai đoạn bình thường của nền kinh tế. Việc nâng cao
mức an toàn vốn được nhiều chuyên gia ví như “tấm điệm” giúp các NHTM
chống các “cú sốc” từ môi trường kinh doanh biến động.
Vốn chủ sở hữu thể hiện năng lực tài chính, năng lực hoạt động của ngân
hàng. Vốn chủ sở hữu ảnh hưởng tới quy mô mở rộng mạng lưới cũng như quy
mô hoạt động của ngân hàng. Quy mô vốn chủ sở hữu các NHTM Việt Nam
giai đoạn 2009- 2013 tăng qua các năm với tỷ lệ trung bình đạt mức cao
23,92%, trong đó Vietinbank có mức tăng trưởng bình quân cao nhất là 42,43%
và ACB có mức tăng trưởng thấp nhất là 5,5%.


Biểu đồ: Quy mô vốn chủ sở hữu của các NHTM Việt Nam

(Nguồn Báo cáo tài chính các NHTM Việt Nam)

Mặc dù quy mô vốn chủ sở hữu của các ngân hàng tăng nhanh qua các năm
nhưng so với các ngân hàng trong khu vực và thế giới, vốn chủ sở hữu của các
NHTM Việt Nam vẫn ở mức khiêm tốn.

Bảng1: Vốn chủ sở hữu của một số ngân hàng năm 31/12/2013

Ngân hàng

Quốc
gia

Đơn

tính

vị Vốn chủ sở
hữu

1. Citi Bank

USA

Tỷ USD

206


2. Bank of Canada

Canada

Triệu
USD

435

3.Bank
of
Corporation

USA

nghìn

USD

232.685.000

4. HSBC

Việt
Nam

Triệu
VND

6.623.643

5. Mizuho

Nhật
Bản

Triệu
JPY

84.905

American

(Nguồn Báo cáo tài chính các ngân hàng năm 2013)

Việc đảm bảo an toàn và phát triển vốn là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt
trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Để đảm bảo an toàn cho phần tài

sản có chứa đựng rủi ro, ngân hàng cần duy trì một mức vốn tự có cần thiết
được đo bằng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Theo quy định của hiệp ước Basel và
theo quy định tại thông tư 13/2010/TT-NHNN, hệ số an toàn vốn (CAR) của
các ngân hàng thương mại Việt Nam tối thiểu là 8%. Đến cuối nam 2013, các
NHTM Việt Nam thuộc nhóm nghiên cứu có hệ số CAR đều trên 9%.

Bảng2: Hệ số an toàn vốn của các NHTM Việt Nam
Đơn vị tính: %

TT Ngân hàng

2009 2010 2011

2012

2013

1

Agribank

6.21 6.4

9.49

9.11

2

BIDV


7.55

9.04

11.28

8.0

9.32 10.1


3

VCB

8.11

9.0

11.14 14.83

4

Vietinbank

9.0

8.02 9.0


10.33

13.17

5

ACB

9.97

8.9

9.3

14.66

6

Techcombank

9.6

12.3 11.43 11.6

9.25

13.37

14.03


(Nguồn Báo cáo thường niên các NHTM Việt Nam)
2.2 Tỷ lệ nợ xấu.
Chất lượng tín dụng thể hiện thông qua tỷ lệ nợ xấu. Những món nợ xấu
hay còn gọi là những món nợ không hiệu quả, ngay sau khi giải ngân đã cho
thấy những dấu hiệu có khả năng gặp phải rủi ro như khách hàng gặp phải rủi
ro hoặc sử dụng vốn sai mục đích, chậm trễ hoặc không thể thực hiện những
điều kiện giải ngân,… Không phải tất cả những món nợ xấu đều dẫn đến rủi ro
tín dụng, song thông thường nợ xấu là cơ hội phát sinh rủi ro tín dụng như nợ
quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn và NHTM phải thực hiện xóa nợ. Quy định và
tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng tín dụng của một NHTM là tốt và NHTM có
thể phát triển bền vững khi tỷ lệ nợ xấu dưới mức 5% tổng dư nợ.
Chất lượng tín dụng của các NHTM Việt Nam được cải thiện nhờ áp dụng
đồng loạt các giải pháp tăng cường năng lực tự kiểm soát chất lượng tín dụng
của các tổ chức tín dụng; thanh tra giám sát xử lý các khoản nợ xấu. Tỷ lệ nợ
xấu của các NHTM đã giảm dần từ 3.5% năm 2008 xuống 2.8% năm 2010.
Một số NHTMNN có tỷ lệ nợ xấu giảm đáng kể trong giai đoạn 2006-2010, ví
dụ như BIDV năm 2010 giảm 6.8% so với năm 2006, Vietinbank giảm 3.7%.
Đối với nhóm NHTMCP, tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp hơn nhóm NHTMNN như
ACB có mức nợ xấu 0.34%, Techcombank có tỷ lệ 2.29%. Trong năm 2011, tỷ
lệ nợ xấu của toàn bộ hệ thống NHTM là 3.29% cao hơn so với năm 2010.
Sang năm 2012, nợ xấu toàn ngành ngân hàng tăng vọt với mức 8.8%. Tuy
nhiên tỷ lệ này đã giảm chỉ còn 3.79% vào năm 2013 và Agribank vẫn là ngân
hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất toàn hệ thống, chiếm 25% tổng số nợ xấu của
toàn hệ thống.


Bảng3: Tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Đơn vị tính: %
TT


Ngân hàng

2009 2010

2011 2012 2013

1

Agribank

2.6

6.7

6.0

5.8

2

BIDV

2.8

2.8

2.7

2.77 2.35


3

VCB

2.47

2.83

2.03 2.5

7.56

2.98

(Nguồn 4
Báo
Vietinbank
0.61 0.66
0.75 1.5 2.47
cáo
thường
niên
của các 5
NHTM
ACB
0.3
0.34
0.89 2.5 3.34
Việt
Nam

20062010)
2.3
Phẩm
6
Techcombank 2
2.29
2.6 5.9 3.6
chất và
trình
độ cán
bộ.
Chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng là nhân tố quyết định đến sự thành
bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và trong hoạt động tín
dụng nói riêng. Sở dĩ như vậy là vì cán bộ tín dụng là người tham gia trực tiếp
vào mọi khâu của quy trình tín dụng, từ bước đầu tiên đến bước cuối cùng.
Cán bộ tín dụng mà không có đạo đức nghề nghiệp, làm việc thiếu tinh thần
trách nhiệm, cố ý làm trái pháp luật sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng quyết định đến sự thành công của công
tác tín dụng. Cán bộ tín dụng giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ năng, có
kinh nghiệm đánh giá chính xác tính khả thi của dự án, xác định được tính chân
thực của các báo cáo tài chính, phát hiện các hành vi cố tình lừa đảo của khách
hàng (như sửa chữa báo cáo tài chính, lập hồ sơ cố chấp giả, dùng một tài sản
đi thế chấp vay ở nhiều nơi,…) từ đó phân tích được khả năng quản lí và năng
lực thực sự của khách hàng để quyết định có cho vay hay không.
Bên cạnh đó cán bộ tín dụng cần có sự hiểu biết rộng về pháp luật, môi
trường kinh tế xã hội, đường lối phát triển của đất nước, sự thay đổi của thị


trường, …dự đoán trước được những biến động có thể xảy ra từ đó tư vấn lại
cho khách hàng xây dựng lại phương án kinh doanh cho phù hợp.

2.4 Công tác quản lí nhân sự.
Bên cạnh chất lượng nhân sự thì công tác quản lý nhân sự cũng cần đặc biệt
chú ý, bởi lẻ không phải cứ có cán bộ tín dụng giỏi là có chất lượng tín dụng
cao. Mỗi cán bộ tín dụng đều có những điểm mạnh và điểm yếu riêng, điều
quan trọng là phải bố trí, sắp xếp công việc của họ sao cho phát huy hết thế
mạnh và hạn chế điểm yếu của từng người, đồng thời có chế độ đãi ngộ hợp lý
nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, tạo sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động
của từng thành viên trong một guồng máy thống nhất cùng hướng tới một mục
tiêu chung là nhu cầu chất lượng tín dụng ngân hàng.
2.5 Trình độ công nghệ.
Ngân hàng là ngành ứng dụng công nghệ thông tin sớm nhất và nhiều nhất,
đòi hỏi những tiêu chuẩn nghiêm ngặt. Một dịch vụ ngân hàng đem lại khả
năng cạnh tranh cao thì phải có tính phổ biến và năng lực tương tác cao nhưng
lại luôn có sự thách thức về an toàn bảo mật, rủi ro cao, không cho phép sai sót
và nhiều yếu tố khác.
Công nghệ ngân hàng, trang thiết bị kĩ thuật cũng là một nhân tố tác động
tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, nhất là trong một thời
đại khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Một ngân hàng sử dụng
công nghệ hiện đại được trang bị các phương tiện kĩ thuật chất lượng cao sẽ tạo
điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện
lợi tối da cho khách hàng vay vốn. Đó là tiền đề để ngân hàng thu hút thêm
khách hàng, mở rộng tín dụng. Sự hỗ trợ của các phương tiện kĩ thuật hiện đại
còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế
hoạch, xây dựng chính sách tín dụng cũng có hiệu quả hơn.
2.6 Hệ thống thông tin tín dụng.
Trên thực tế không phải khách hàng nào cũng sử dụng vốn tín dụng đúng
mục đích và có chất lượng vì vậy hoạt động tín dụng muốn tăng trưởng, có hiệu
quả đòi hỏi phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ nắm bắt kịp thời,
chính xác các nguồn thông tin về khách hàng, phân tích tìm ra những cơ hội tốt
trong kinh doanh cũng như để đề phòng chống rủi ro có thể xảy ra trong hoạt

động của mỗi ngân hàng thương mại.
III. Môi trường kinh tế và xã hội trong nước.
Nền kinh tế bao gồm các hoạt động kinh tế có quan hệ biện chứng, ràng
buộc lẫn nhau nên bất kỳ một sự biến động của một hoạt động kinh tế nào đó
cũng sẽ gây ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh của các lĩnh vực còn lại.
Hoạt động của ngân hàng thương mại có thể được coi là chiếc cầu nối giữa các
lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy, sự ổn định hay mất ổn định của nền


kinh tế sẽ có tác động mạnh mẽ đến hoạt động của ngân hàng- đặc biệt là hoạt
động tín dụng.

3.1. Chu kì kinh tế.
Chu kì kinh tế là những biến động không mang tính quy luật có tác động rất
lớn đến hoạt động tín dụng. Một chu kì kinh tế có 5 giai đoạn: phát triển=>tăng
trưởng=>suy thoái=>phục hồi => hưng thịnh.
Trong giai đoạn năm 2009-2013, cơn bão suy thoái kinh tế bắt đầu từ Mỹ
hùng mạnh tràn qua nhiều nước khác. Hiệu ứng Domino đã xảy ra và Việt Nam
đã không nằm ngoài vòng xoáy đó. Những dư âm từ gói kích thích kinh tế
trong năm 2009 không kéo dài lâu, và nền kinh tế tăng trưởng dưới tiềm năng
cho tới nửa đầu năm 2013. Trong thời kỳ này, sản xuất vượt quá nhu cầu dẫn
tới hàng tồn kho lớn, hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn do các doanh
nghiệp không phát triển được. Hơn nữa nếu ngân hàng bỏ qua các nguyên tắc
tín dụng thì lại càng làm giảm chất lượng tín dụng.

Hình1: phân tích chu kì kinh tế năm 1990-2013.
Nguồn:bainghiencuu”tongquankinh
tevietnam2013”
Các biến số kinh tế vĩ mô như lạm phát, khủng hoảng sẽ ảnh hưởng rất lớn
tới chất lượng tín dụng. Ta có thể thấy tỉ lệ lạm phát ở đầu năm 2009 và cuối

năm 2013 ở mức ngang nhau khoảng 1%. Các tỉ lệ lạm phát đột biến ở năm
2010, 2011, 2012 lần lượt là 2%, 2.2%, 3.3%. Khi một nền kinh tế ổn định tỷ lệ
lạm phát vừa phải sẽ tạo điều kiện cho các khoản tín dụng có chất lượng cao.
Tức là các doanh nghiệp hoạt động trong một môi trường ổn định thì khả năng


tạo ra lợi nhuận cao hơn, từ đó mà có thể trả vốn và lãi cho ngân hàng. Ngược
lại khi nền kinh tế biến động thì các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh cũng
thất thường ảnh hưởng đến thu nhập của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới khả
năng thu nợ của ngân hàng.
3.2. Môi trường pháp lí.
Hệ thống pháp luật là cơ sở để điều tiết các hoạt động trong nền kinh tế.
Nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ, hay thay đổi sẽ làm cho hoạt động kinh
doanh gặp khó khăn. Ngược lại nếu nó phù hợp với thực tế khách quan thì sẽ
tạo một môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành
thuận
lợi

đạt
kết
quả
cao.
Các chính sách của nhà nước ổn định hay không ổn định cũng tác động đến
chất lượng tín dụng. Khi các chính sách này không ổn định sẽ gây khó khăn
cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó gây trở ngại cho
ngân hàng khi thu hồi nợ và ngược lại.
Những văn bản pháp luật quy định đầy đủ rõ ràng, đồng bộ sẽ tạo điều kiện
cho ngân hàng yên tâm hoạt động kinh doanh, cạnh tranh trong lĩnh vực cho
vay và giúp ngân hàng tăng cường hoạt động cho vay . Vì sự thay đổi những
chủ chương chính sách về ngân hàng cũng ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của

doanh nghiệp, sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay nhà nước cho
phép nhiềudoanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng dẫn
đến rủi ro, thua lỗ, ảnh hưởng đến hoạt động cho vay ngân hàng.Do đó hệ
thống pháp luật ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của NHTM.
Đã có sự kiểm soát chặt chẽ hơn với hệ thống ngân hàng sau khi khủng
hoảng tài chính toàn cầu (2007-2009) xảy ra. Tất nhiên, các quốc gia đều lựa
chọn siết chặt một cách hợp lý. Ngày 15/01/2009 Chính phủ đã quyết định các
phương án sử dụng khoản kích cầu 1 tỷ USD (17.000 tỷ VN D) để hỗ trợ 4%
lãi suất vốn vay cho một số đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ. N gày
04/04/2009 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về gói kích cầu thứ hai
với tổng số lãi được hỗ trợ là 20.000 tỷ đồng, theo đó các tổ chức, cá nhân vay
vốn trung, dài hạn ngân hàng bằng đồng Việt N am để thực hiện đầu tư mới
phát triển sản xuất - kinh doanh, kết cấu hạ tầng sẽ được N hà nước hỗ trợ lãi
suất tiền vay 4%/năm trong khoảng thời gian tối đa 24 tháng. Việc hỗ trợ lãi
suất này được thực hiện từ ngày 1/4/2009 đến ngày 31/12/2011. Chính phủ
cũng đã ban hành cơ chế bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp có vốn
Mặc dù vô tình hay cố ý các cơ quan hoạch định chính sách vẫn phải trách
nhiệm trước Chính phủ và Quốc Hội về việc đề xuất chính sách hỗ trợ lãi suất
4%, áp dụng cho các khoản vay mới kể từ ngày 1/2/2009, và đã tạo ra lý do
cùng điều kiện cho các hoạt động đảo nợ diễn ra trên diện rộng, chẳng những
làm tổn hại cho ngân sách đến hàng chục tỷ VND mà còn tác động nền kinh tế
của đất nước vào nguy cơ bế tắc với khả năng suy thoái trầm trọng trong một
cơn bão lốc kinh tế Tài chính thế giới cực kỳ nguy hiểm
Tóm lại, hai gói kích cầu đã và đang được triển khai không phát huy được
mục đích mà còn tạo ra những tác động nguy hại cho nền kinh tế.


Bên cạnh đó cũng có những tích cực nghị quyết số 01/ Q-CP ngày
07/01/2013 của Chính phủ xác định ba mục tiêu chính là “tăng cường ổn định

kinh tế vĩ mô, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012”, được thực
hiện nhờ “tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh”.
Nghị quyết số 01 phản ánh nhận thức đúng hướng ngay từ đầu năm của Chính
phủ để vực dậy động lực
Chính phủ ban hành nghị quyết số 02/ Q-CP ngày 07/01/2013 về các giải
pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất- kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết
nợ xấu trong năm 2013. Nội dung của các biện pháp tài khoá cho thấy Chính
phủ đã quyết tâm hỗ trợ doanh nghiệp trong năm 2013, cụ thể là gia hạn thời
hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế giá trị gia tăng (GTGT) và
thời hạn nộp tiền sử dụng đất; giảm tỷ lệ thu đối với một số khoản thu N NN và
hoàn lại tiền thuế bảo vệ môi trường đã nộp, nhưng nếu so sánh với 2012 thì
quy mô nhỏ hơn.
3.3. Sự phát triển của thị trường tài chính.
Thị trường tài chính ngày càng phức tạp, tinh vi. Sự phát triển sản phẩm dịch vụ tài chính - ngân hàng diễn ra mạnh mẽ, cho dù tại các ngân hàng lớn
hiện nay đã có hàng trăm sản phẩm ngân hàng bán buôn, bán lẻ, nhưng vẫn
chưa đáp ứng đủ yêu cầu.
Thế giới còn bắt đầu xuất hiện những sản phẩm cực kỳ tinh vi như ví điện
tử, onecoin, bitcoin, chứng khoán hóa, phái sinh… Rõ ràng, hệ thống ngân
hàng nếu không sáng tạo, không có những sản phẩm - dịch vụ mới cùng với mô
thức quản lý mới sẽ không theo kịp thời đại.
Trong giai đoạn 2009-2013, sau cuộc ảnh hưởng khủng hoảng tài chính
toàn cầu mức tăng trưởng tín dụng giảm dần qua các năm từ khoảng 35% đến
còn 10%. Đến năm 2013 nền kinh tế có khởi sắc mức tăng trưởng lên trở lại.
Các thị trường tài chính cũng theo chiều hướng tích cực. Việc áp dụng quy chế
điều hành thị trường mở (OMO) hợp lý hơn (hỗ trợ thanh khoản chủ động)
cùng việc quy định chặt chẽ hơn (yêu cầu trích lập dự phòng), thị trường liên
ngân hàng có một năm 2013 tương đối trật tự. Với việc lãi suất luôn luôn điều
chỉnh mức phù hợp việc huy động trở nên tốt hơn các khoản tín dụng ngắn hạn
luôn có nhu cầu nhiều hơn, khoản tín dụng trung và dài hạn ít nhu cầu.



Hình 2: Tăng trưởng tín dụng
Nguồn: (NHNN2014) bainghiencuu”tongquankinhtevietnam2013”
3.4. Môi trường kinh tế địa phương.
Việc xác định khách hàng đi vay có cung cấp các thông tin chính xác hay
không, có khả năng tài chính để trả khoản vay không,... Vì thế, cơ chế kinh tế
địa phương có tác động không nhỏ đến hoạt động tín dụng cũng như rủi ro tín
dụng.
Trong giai đoạn 2009-2013, cũng chịu sự tác động của khủng hoảng kinh tế
môi trường kinh doanh cũng như cơ chế quản lí của các địa phương cũng giảm
không hề nhẹ. Lúc này cầu tín dụng của khách hàng và cung tín dụng của các
NHTM cũng bị tác động.
IV. Xu thế hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
4.1 Cải cách mạnh mẽ và nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng
Thương mại Việt Nam:
Các bằng chứng nghiên cứu gần đây cho thấy ở các quốc gia mà sở hữu
Nhà nước trong hệ thống ngân hàng chiếm tỷ trọng cao thường đi liền với tình
trạng hiệu quả hoạt động của ngân hàng thấp, tiết kiệm và cho vay ít hơn, năng
suất và tăng trưởng kinh tế thấp hơn. Các nghiên cứu trên cũng cho thấy: sở
hữu Nhà nước ở các nước đang phát triển còn chiếm tỷ trọng cao và do còn sự
phân biệt đối xử, mà kinh tế tư nhân rất khó tiếp cận được nguồn tín dụng từ
các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước. Chính vì vậy, cải cách cấu trúc sở hữu
thông qua việc mở rộng sự tham gia của các ngân hàng ngoài Nhà nước ở các
nước này sẽ đem lại nhiều lợi ích tiềm năng. Tuy lợi ích tiềm năng đó là rất lớn
nhưng công cuộc cải cách hệ thống ngân hàng ở các quốc gia này thường
không dễ dàng và khó có thể thành công bởi thể chế trong các quốc gia này còn
rất yếu kém. Thực tế ở nhiều quốc gia cho thấy: nếu hệ thống ngân hàng được
mở mang, thì thị trường tín dụng sẽ mang tính cạnh tranh cao, khó khăn trong
vay mượn vốn ngân hàng của các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp tư
nhân nói riêng sẽ giảm đi rất nhiều. Nhằm tạo ra một hệ thống ngân hàng theo

mô hình hiện đại, an toàn và hiệu quả trong nền kinh tế thị trường, ngày càng
hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, Việt Nam đã tiến hành cải cách một cách
thận trọng hệ thống ngân hàng trước hết về tổ chức và cơ chế hoạt động. Từ hệ
thống ngân hàng tổ chức theo mô hình một cấp, hoạt động theo cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, đến nay Việt Nam đã xây dựng được hệ thống ngân hàng
hai cấp, từng bước hoạt động theo cơ chế thị trường. Trong hệ thống ngân hàng
này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, tín
dụng ngân hàng và thị trường tài chính; các NHTM và các tổ chức tín dụng
khác là các đơn vị kinh doanh tiền tệ. Với phương châm đa dạng hoá hình thức
sở hữu và loại hình kinh doanh ngân hàng, sau 20 năm cải cách và phát triển,


đến nay Việt Nam đã có 5 NHTM nhà nước, 37 NHTM cổ phần, 35 chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh với ngân hàng nước ngoài, 2
ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 9 công ty tài chính, 12 công ty cho thuê tài
chính và 996 quỹ tín dụng nhân dân .Cải cách NHTM nhà nước bằng giải pháp
cổ phần hoá được coi là yêu cầu bức thiết nhằm tạo ra “sân chơi” bình đẳng
cho các thành phần kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh cho hệ thống ngân
hàng Việt Nam. Theo kế hoạch, (Vietcombank) và Ngân hàng Phát triển nhà
đồng bằng sông Cửu Long sẽ phát hành cổ phiếu trong năm 2006, đến năm
2010 sẽ hoàn thành chương trình cổ phần hoá cả 5 NHTM nhà nước. Việc triển
khai kế hoạch do nhiều nguyên nhân đã bị chậm lại, nhưng đến năm 2007,
Vietcombank cũng đã thực hiện thành công việc tổ chức đấu giá phát hành cổ
phiếu lần đầu ra công chúng. Hiện nay, Vietinbank và Bidvbank cũng đang xúc
tiến việc cổ phần hoá các ngân hàng này. Từ 1/4/2007, theo các cam kết WTO,
các ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ được phép hoạt động ở Việt Nam. Đến
nay, đã có 2 ngân hàng được cấp Giấy phép thành lập là (HSBC) 22 V.T. Dậu /
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25 (2009) 17-24 và
Standard Chartered (vốn pháp định của HSBC là 183 triệu USD, còn Standard
Chartered là 61 triệu USD). Các ngân hàng này sẽ đi vào hoạt động vào năm

2009. Đây là hai ngân hàng đã có chi nhánh ở Việt Nam từ nhiều năm và đã có
cổ phần trong Techcombank và ACB. Sự kiện này được coi là những cam kết
mạnh mẽ đối với WTO của Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng. Các cam kết
của Việt Nam trong WTO đã trở thành động lực thực sự cho việc thúc đẩy tiếp
tục cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cải cách hệ thống NHTM Việt Nam
đã làm thay đổi căn bản và toàn diện hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, để tạo ra
“sân chơi” bình đẳng hơn giữa các ngân hàng trên thị trường tín dụng, một mặt,
cần đẩy mạnh cải cách NHTM hơn nữa với phương châm đa dạng hoá các chủ
thể trong nước và quốc tế tham gia thị trường, chuyển mạnh hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác theo các nguyên tắc thị
trường; mặt khác, ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần thực hiện nới lỏng các
hạn chế đối với ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài về hoạt động
huy động vốn bằng VND và tài sản thế chấp cho vay đối với doanh nghiệp
nhằm tạo điều kiện mở rộng thị phần tín dụng cho khối các ngân hàng này. Sự
tham gia một cách tích cực và bình đẳng của ngân hàng liên doanh và ngân
hàng nước ngoài sẽ giúp NHTM nội địa của Việt Nam nâng cao được năng lực
kinh doanh do những nỗ lực trong cạnh tranh và tiếp thu được những kinh
nghiệm, trình độ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Cũng cần phải thấy
rằng, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, với một môi trường hoạt động còn
nhiều bất cập, sự điều tiết và giám sát của Chính phủ cũng như Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam còn chưa hiệu quả, sẽ là thiếu hiện thực nếu mong muốn quá
trình cải cách hệ thống ngân hàng một cách nhanh chóng với sự thay đổi mạnh


về cấu trúc sở hữu và cơ chế hoạt động trong một thời gian ngắn. Quá trình
chuyển đổi phải được tiến hành dần dần cùng với sự nỗ lực hoàn thiện khả
năng điều tiết và giám sát của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Cùng với việc đẩy mạnh quá trình cải cách về tổ chức và hoạt động của hệ
thống ngân hàng, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam
được coi là vấn đề sống còn đối với các ngân hàng này trong môi trường cạnh

tranh mới. Trên thị trường Việt Nam, mỗi khu vực ngân hàng cũng như mỗi
ngân hàng đều có những lợi thế riêng, nhưng nhìn chung năng lực cạnh tranh
của khu vực NHTM nội địa còn thấp: qui mô vốn nhỏ, tỷ lệ vốn tự có/tài sản có
thấp, tỷ lệ nợ quá hạn còn cao. Bốn trong năm NHTM nhà nước gồm
Vietcombank, Vietinbank, Agribank, Bidvbank đều không đạt tiêu chuẩn hệ số
an toàn vốn tự có của Hiệp định Balse (theo tiêu chuẩn này, hệ số an toàn vốn
tự có phải đạt tối thiểu 8%), trong đó, ngân hàng có hệ số an toàn vốn tự có cao
nhất trong các NHTM nhà nước là Agribank cũng chưa đến 5%. Đây là những
trở ngại rất lớn đối với các ngân hàng Việt Nam khi tham gia hội nhập quốc tế.
WB đánh giá chất lượng tài sản có của các NHTM Việt Nam rất thấp, với tỷ lệ
nợ xấu/tổng dư nợ còn cao. Nếu tình hình không được cải thiện thì các ngân
hàng Việt Nam sẽ dễ bị tổn thương nặng nề trong môi trường cạnh tranh WTO.
Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước của Việt Nam đều ở mức cao, chủ yếu là
do mối quan hệ ràng buộc giữa NHTM nhà nước với các DNNN Việt Nam.
Với tình trạng hoạt động còn nhiều yếu kém, các DNNN gặp khó khăn trong
việc hoàn trả vốn vay cho các NHTM nhà nước. Nguyên nhân thứ hai làm tỷ lệ
nợ xấu cao là do những bất cập và khó khăn trong quá trình xử lý nợ tồn đọng.
Quá trình xử lý nợ tồn đọng, đặc biệt là việc tổ chức và phát mại tài sản thế
chấp làm cho tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu của các NHTM vẫn chưa đạt được
mục tiêu đề ra. Theo báo cáo nợ xấu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam , các
NHTM nhà nước có số nợ xấu khoảng 10.000 tỷ VND (chiếm 2,7% tổng dự
nợ), các NHTM cổ phần nợ xấu chiếm khoảng 2% tổng dư nợ. Mặc dù hệ
thống ngân hàng Việt Nam đã xử lý được 92% tổng số nợ tồn đọng, xử lý cấp
bổ sung 12.000 tỷ đồng vốn điều lệ cho cả 5 NHTM nhà nước, đưa tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu lên trên 4,5%, nhưng tình trạng nợ xấu V.T. Dậu / Tạp chí
Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25 (2009) 17-24 23 vẫn là vấn đề
cấp bách cần được giải quyết trong quá trình chuẩn bị thực hiện đầy đủ các cam
kết quốc tế. WB cho rằng nợ xấu của các NHTM Việt Nam trong những năm
gần đây không phải ở mức một vài phần trăm, mà có thể ở mức cao hơn
(khoảng từ 8 đến 10% tổng dư nợ); hơn nữa, giải quyết nợ xấu của các NHTM

Việt Nam không đơn giản do con nợ chủ yếu là các DNNN [3]. Năng lực cạnh
tranh thấp của các NHTM Việt Nam còn biểu hiện ở số lượng và chất lượng
dịch vụ ngân hàng thấp (chủ yếu vẫn là dịch vụ nhận tiền gửi và tín dụng), do
vậy, các ngân hàng dễ bị tổn thương khi có những biến động nhiều từ lãi suất.


Trong môi trường cạnh tranh, đã diễn ra những đợt đua tranh về tăng lãi suất
giữa các NHTM. Đầu năm 2008, bắt đầu từ việc tăng mạnh lãi suất trong khu
vực NHTM cổ phần, sau đó là việc tăng lãi suất trong khu vực các NHTM nhà
nước lên mức hai con số. Đứng trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã
khuyến cáo tới Hiệp hội các ngân hàng để giữ mức lãi suất huy động vốn cao
nhất là 12%/năm, sau đó giảm xuống 11%/năm. Đặc biệt trong điều kiện chống
lạm phát một cách cấp bách, Ngân hàng Nhà nước đã tăng lãi suất cơ bản lên
12%, rồi 14%/năm từ tháng 6/2008, khiến cho lãi suất huy động của các
NHTM đã tăng lên tới mức 18 - 19%/năm, lãi suất cho vay từ 19 - 21%/năm.
Tình trạng trên đã khiến cho các NHTM gặp nhiều rủi ro trong hoạt động. Điều
đó cho thấy: mặc dù lãi suất là một trong các công cụ cạnh tranh giữa các ngân
hàng, nhưng sẽ là bất cập khi sử dụng công cụ cạnh tranh này trong điều kiện
có những biến động mạnh như hiện nay, do vậy, các ngân hàng Việt Nam cần
mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng để nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình. Sự đa dạng hoá dịch vụ cung ứng sẽ cho phép các ngân hàng
tạo ra nhiều nguồn thu nhập khác nhau từ các dịch vụ đa dạng và giảm được
những rủi ro từ biến động của lãi suất. Trong thời gian qua, mặc dù đã có
những cố gắng chú trọng đến mở rộng và đổi mới sản phẩm dịch vụ nhưng số
lượng và chất lượng dịch vụ của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam ở
mức thấp so với các quốc gia khác. Số lượng sản phẩm dịch vụ do NHTM cung
cấp ở Việt Nam khoảng từ 450 đến 500, ít hơn nhiều so với một số nước khác
trong khu vực: Thái Lan cung cấp trên 2.000 sản phẩm, Malaixia cung cấp từ
2.800 đến 3.000, Trung Quốc cung cấp 800 - 900 sản phẩm. Không chỉ vậy, số
năm phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới cũng chỉ trong vòng từ 3 đến 5 năm

trở lại đây, kém hơn nhiều so với nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung
Quốc. Đây cũng chính là một trong những điểm yếu của hệ thống NHTM ở
Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong kỷ nguyên của khoa
học kỹ thuật, công nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của hệ
thống ngân hàng. Nhưng theo đánh giá của WB, các loại hình công nghệ hiện
đại được áp dụng như thẻ rút tiền tự động ATM, phone banking, internet
banking... của các NHTM Việt Nam còn chưa đạt được trình độ trung bình của
thế giới. Mặc dù đã được sự hỗ trợ từ nhiều dự án của WB cũng như đã tích
cực triển khai công nghệ, nhưng chỉ số công nghệ của ngân hàng Việt nam chỉ
mới dừng lại ở con số - 0,47, bị tụt hậu hơn nhiều so với những nước như
Trung Quốc - 0,35; Thái Lan - 0,07, Singapore là 1,95... [5]. Bởi vậy, công
nghệ cũng là một thách thức lớn đối với hệ thống NHTM của Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế thì các ngân hàng nước ngoài mới là
đối thủ của nhau trong cung cấp các dịch vụ ngân hàng cao cấp, nhưng khả
năng mất thị phần tín dụng nói riêng và mất thị phần hoạt động ngân hàng nói
chung của các NHTM Việt Nam trong quá trình tự do hóa thị trường tiền tệ rất


dễ xảy ra khi Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết WTO. Điều đó cho thấy
sự cần thiết của việc cải thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM
nội địa của Việt Nam. Để nâng cao năng lực cạnh tranh, các NHTM nội địa
Việt Nam cần tích cực thực hiện một số giải pháp như: tăng vốn điều lệ và vốn
chủ sở hữu; giải quyết triệt để nợ quá hạn và ngăn ngừa nợ xấu phát sinh; tăng
cường tính minh bạch trong hoạt động ngân hàng; nâng cao số lượng, chất
lượng các loại hình dịch vụ; nâng cao trình độ công nghệ ngân hàng... 24 V.T.
Dậu / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25 (2009) 17-24
Như vậy, việc hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng thống nhất, mang
tính cạnh tranh cao không chỉ là đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, mà còn là
yêu cầu của quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam. Một khi
thị trường tín dụng Việt Nam khắc phục được tình trạng không thống nhất, bị

phân mảng, nó sẽ phản ánh đầy đủ, chính xác quan hệ cung cầu tín dụng cũng
như mức độ khan hiếm vốn trên thị trường, tính cạnh tranh trên thị trường được
nâng cao, mặt bằng chung về lãi suất được hình thành. Hơn nữa, khi có sự bình
đẳng giữa các chủ thể tham gia thị trường, các chủ thể này sẽ trở nên nhạy cảm
với những biến động về lãi suất, thị trường tín dụng trở nên năng động hơn và
vốn trong nền kinh tế được sử dụng hiệu quả hơn. Khi đó, Việt Nam sẽ có được
thị trường tín dụng đáp ứng tốt nhất cho tăng trưởng, phát triển kinh tế đất nước
và đạt được hiệu quả cao trong quá trình hội nhập
4.2 Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của các tổ chức tín dụng ở Việt
Nam.
 Cơ hội.

Việc hội nhập của đất nước dẫn đến phải mở cửa thị trường, trong đó có
thị trường tài chính. Mở cửa thị trường tài chính đồng nghĩa với việc Chính
phủ giảm dần sự can thiệp trực tiếp vào thị trường và buộc các chủ thể tham
gia thị trường phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Khi đó thị trường sẽ trở nên
sôi động hơn, các chi phí giao dịch giảm, các dự án được ưu tiên nguồn vốn sẽ
phải giảm dần và chuyển sang những khoản đầu tư có lợi nhuận cao hơn,
góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế.
Đối với hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng Việt Nam, giai đoạn
mở cửa và hội nhập sẽ đặt ra nhiều cơ hội như sau:
- Cơ hội lựa chọn dịch vụ ngân hàng đối với khách hàng và lành mạnh hóa các
ngân hàng


Đối với các chủ thể là khách hàng, sẽ có nhiều lựa chọn các dịch vụ ngân
hàng, đặc biệt là các dịch vụ của ngân hàng quốc tế. Hội nhập giúp các doanh
nghiệp trong nước có nhiều cơ hội tiếp cận với thị trường hàng hóa quốc tế,
đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời cũng buộc các doanh nghiệp phải đổi mới tư
duy, nâng cao năng lực và kinh doanh có hiệu quả hơn. Các nhà đầu tư, doanh

nghiệp quốc tế cũng có nhiều cơ hội thâm nhập và xuất khẩu hàng hóa vào thị
trường Việt Nam nên các luồng vốn chu chuyển thông qua hệ thống tài chính,
ngân hàng cũng gia tăng. Vì vậy môi trường kinh doanh ngân hàng có mức độ
rủi ro thấp hơn, hoạt động của các ngân hàng sẽ an toàn, lành mạnh và hiệu
quả hơn.
- Cơ hội nâng cao năng lực quản trị, điều hành đối với ngân hàng
Đối với các chủ thể là ngân hàng, sẽ có nhiều cơ hội để nâng cao năng lực
quản trị, điều hành, hiệu quả hoạt động, khả năng cạnh tranh. Việc hội nhập
sâu rộng đồng nghĩa phải mở rộng thị trường dịch vụ ngân hàng theo cam kết
song phương và đa phương. Do đó, sẽ có nhiều ngân hàng nước ngoài, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng con 100% vốn
nước ngoài,… trong hệ thống tài chính Việt Nam. Các ngân hàng và các tổ
chức tín dụng Việt Nam sẽ có điều kiện học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ
công nghệ và quản trị ngân hàng. Sự tham gia điều hành, quản trị của các nhà
đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng trong nước là yếu tố quan trọng để cải
thiện nhanh chóng trình độ quản trị kinh doanh ở các ngân hàng trong nước.
Các ngân hàng trong nước có nhiều cơ hội nhận được sự hỗ trợ về tư vấn, đào
tạo, bồi dưỡng kiến thức mới của các ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài
chính quốc tế; hỗ trợ xây dựng năng lực quản trị ngân hàng tiên tiến. Bên cạnh
đó, các ngân hàng trong nước có khả năng huy động các nguồn vốn từ thị
trường tài chính quốc tế và sử dụng vốn có hiệu quả hơn để giảm thiểu rủi ro và
các chi phí cơ hội. Hội nhập tạo động lực thúc đẩy cải cách ngân hàng, thúc
đẩy cải cách thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật và năng lực hoạt động của
các cơ quan quản lý tài chính.
- Cơ hội nâng cao năng lực điều hành của Ngân hàng Nhà nước
Hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội cho Ngân hàng Nhà nước nâng cao
năng lực và hiệu quả điều hành, thực thi chính sách tiền tệ độc lập; đổi mới cơ
chế kiểm soát tiền tệ, lãi suất, tỷ giá dựa trên cơ sở thị trường, tạo ra lực đẩy
cho sự phát triển của thị trường tiền tệ. Hệ thống ngân hàng thương mại và
thị trường tiền tệ hoạt động hiệu quả và an toàn góp phần quan trọng tạo môi

trường hoạt động chính sách tiền tệ hữu hiệu.


 Thách thức

Bên cạnh những cơ hội, việc Việt Nam hội nhập với thế giới cũng đặt sự
phát triển của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam trước nhiều thách thức.
- Đối với Ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân hàng
+ Thách thức từ hệ thống pháp luật ngân hàng còn chưa hoàn thiện
Hiện tại, hệ thống pháp luật ngân hàng còn gây ra sự cạnh tranh thiếu lành
mạnh, tạo ra sự phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng, giữa các
nhóm ngân hàng và giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài.
Điều đó cho thấy hệ thống pháp luật ngân hàng còn thiếu, chưa đồng bộ
và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này đặt ra thách thức phải sửa
đổi, bổ sung, thay thế pháp luật ngân hàng nhằm tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng, thông thoáng theo nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quá
trình hội nhập.
+ Thách thức từ việc gia tăng rủi ro cho thị trường tài chính
Việc mở cửa thị trường tài chính sẽ làm tăng rủi ro cho thị trường do các tác
động từ bên ngoài, từ thị trường tài chính khu vực và thế giới. Trong khi,
Ngân hàng Nhà nước còn nhiều hạn chế trong điều hành chính sách tiền tệ
cũng như năng lực giám sát hoạt động, việc xây dựng và vận hành các công
cụ điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả là cần thiết. Các khuôn khổ chính
sách quản lý thận trọng, thích hợp đảm bảo cho hệ thống ngân hàng Việt Nam
phòng ngừa được các rủi ro và chống đỡ kịp thời, hiệu quả với các cú sốc kinh
tế, tài chính quốc tế cần được nghiên cứu triển khai.
- Đối với các Ngân hàng thương mại trong nước
+ Thách thức do áp lực cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài
Hội nhập buộc Việt Nam phải mở cửa thị trường dẫn đến xuất hiện nhiều
ngân hàng nước ngoài với năng lực tài chính tốt, công nghệ, trình độ quản lý

và hệ thống sản phẩm đa dạng và có chất lượng cao hơn có thể đáp ứng
nhu cầu đa dạng của khách hàng. Lợi thế cạnh tranh đối với các tổ chức tín
dụng trong nước có nguy cơ suy giảm khi số lượng các ngân hàng các nước
trong khu vực và thế giới có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ
quản lý tham gia vào thị trường tài chính nội địa ngày càng tăng. Hệ thống
ngân hàng trong bối cảnh hội nhập tài chính ngày càng sâu rộng cần thiết phải
duy trì lợi thế cạnh tranh và củng cố vai trò của hệ thống ngân hàng Việt Nam


trong bối cảnh áp lực cạnh tranh tăng dần theo lộ trình nới lỏng các quy định
đối với các tổ chức tài chính nước ngoài.
+ Thách thức do sự yếu kém của các ngân hàng thương mại trong nước
Tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam chưa có một định chế tài chính
nào có phạm vi hoạt động mang tính khu vực và toàn cầu. Hệ thống ngân hàng
hiện nay có nhiều loại hình hoạt động và đa dạng về hình thức sở hữu, tuy
nhiên quy mô và năng lực tài chính còn rất nhỏ bé so với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Một số ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn
về nguồn lực, khả năng quản trị, sức canh tranh tốt, chiếm thị phần đáng kể
trong khu vực ngân hàng, nhưng vẫn còn đó một số ngân hàng thương mại cổ
phần có quy mô rất nhỏ, gần như không thể cạnh tranh hoạt động và trụ vững
về tài chính trong dài hạn. Các định chế tài chính phi ngân hàng phát triển ở
mức hạn chế, thiếu các định chế tài chính vi mô. Các sản phẩm tài chính và
dịch vụ ngân hàng chưa phủ hết các vùng miền lãnh thổ và các loại hình sản
xuất kinh doanh. Các tổ chức tín dụng chủyếu tập trung ở thành phố và đô thị
lớn. Ở các vùng nông thôn, đô thị nhỏ và nhất là vùng sâu, vùng xa, khu vực
hẻo lánh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tiếp cận dịch vụ ngân
hàng còn rất hạn chế. Với cấu trúc như vậy, cần có sự cải cách mạnh
mẽ để có thể bảo đảm sự phát triển lĩnh vực ngân hàng ổn định, vững mạnh,
cạnh tranh được trên thị trường khu vực và toàn cầu. Các ngân hàng thương
mại Việt Nam đang phải đối mặt với các thách thức như: Chất lượng nguồn

nhân lực trong khu vực ngân hàng còn nhiều bất cập, số lượng cán bộ có kỹ
năng nghiệp vụ cũng như quản trị điều hành và hoạch định chính sách tốt còn
ít, các chương trình đào tạo còn chưa thật sát với yêu cầu thực tế; Vấn đề đạo
đức nghề nghiệp hiện cũng đang là một thách thức lớn; Hệ thống thanh tra
giám sát và các quy định an toàn, thận trọng còn có khoảng cách xa với khu
vực và thế giới.
+ Thách thức đến từ rủi ro về khách hàng
Hội nhập quốc tế có thể mang đến nhiều rủi ro về khách hàng cho các
ngân hàng thương mại hiện có khách hàng là các doanh nghiệp nhà nước làm
ăn yếu kém. Việc mở cửa thị trường đặt các doanh nghiệp này trước nguy cơ
mất thị phần, kinh doanh thua lỗ, phá sản...; điều này có thể làm tăng rủi ro
cho hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó là năng lực quản trị, quản trị rủi ro chưa
được phát triển đầy đủ để giải quyết một cách hiệu quả các rủi ro về thị trường
và hoạt động. Hệ thống và chế độ báo cáo tài chính, công khai tài chính của
các tổ chức tín dụng nội địa vẫn còn thấp, còn có khoảng cách khá xa so với


các chuẩn mực quốc tế, nên khó đánh giá chính xác và minh bạch về sự lành
mạnh của tổ chức tín dụng.
+ Thách thức tới từ hạ tầng tài chính chưa phát triển đầy đủ: Hạ tầng tài chính
phát triển chưa đầy đủ, gồm: công nghệ, hệ thống thanh toán, thị trường liên
ngân hàng.. là thách thức không nhỏ để phát triển một khu vực ngân hàng ổn
định.
4.3 Khuyến nghị chính sách
Để Việt Nam sẵn sàng cho hội nhập kinh tế mới, tận dụng được các cơ
hội và vượt qua các thách thức, về cơ bản vẫn là quyết tâm thay đổi mô hình
tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế một cách quyết liệt, đi kèm với cải cách thể
chế kinh tế và đổi mới tư duy kinh tế. Theo đó, kinh tế sẽ tăng trưởng theo
chiều sâu, cân bằng tiết kiệm đầu tư được xác lập, nền tảng kinh tế vĩ mô lành
mạnh, cấu trúc sản xuất được cải thiện, gia tăng khả năng chống đỡ các rủi ro

từ bên ngoài.
Do những điều kiện cho tự do hóa tài chính của Việt Nam vẫn chưa đủ,
nên mở cửa thị trường tài chính cần theo lộ trình thận trọng và hợp lý.
Để tận dụng được những lợi ích và hạn chế những tiêu cực của tự do hóa tài
chính, Việt Nam cần tái cấu trúc hiệu quả các ngân hàng trước khi tự do hóa tài
chính. Một số vấn đề cần được giải quyết trong giai đoạn tái cấu trúc này là cần
nâng cao các quy định về mức độ đủ vốn, xây dựng chiến lược tăng vốn đi kèm
với sử dụng vốn hợp lý để bảo đảm phát triển bền vững. Vấn đề nợ xấu cần
được giải quyết nhanh chóng, cần có sự phối hợp thực hiện từ nhiều cơ quan
nhà nước (Chính phủ, NHNN, Bộ Tài chính), các doanh nghiệp nhà nước và
các TCTD. Mức độ sinh lời của hệ thống NHTM cần được cải thiện thông qua
đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ; tăng thu từ lãi thông qua tiếp tục mở rộng cấp
tín dụng dựa trên một số cơ sở nhất định; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất,
công nghệ hiện đại để giảm chi phí giao dịch; tăng cường trau dồi chuyên môn
cho ban kiểm soát. Kiểm soát vấn đề thanh khoản cho các NHTM cũng cần
được tăng cường, bên cạnh đó, cần gia tăng năng lực quản trị điều hành của các
TCTD. Cơ sở hạ tầng của hệ thống tài chính cũng cần được cải thiện như đảm
bảo quyền sở hữu tài sản, xây dựng hành lang pháp lý có hiệu quả và tăng
cường minh bạch thông tin.
Bên cạnh đó, cần cải thiện mô hình giám sát hệ thống tài chính thông qua
các giải pháp:


- Cần nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan giám sát. Trước mắt cần
xây dựng quy trình và tiêu chí giám sát chung giữa các cơ quan giám
sát chuyên ngành, quy chế xác định khung hợp tác giữa các cơ quan giám sát
chuyên ngành như cơ chế chia sẻ, trao đổi thông tin, cùng hợp tác, phân tích,
đưa ra cảnh báo, cùng nhau kiến nghị chính sách.
- Xác định rõ phạm vi, nhiệm vụ của Nhà nước trong việc tổ chức, hỗ trợ,
kiểm soát hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường tài chính và dịch vụ tài

chín h theo hướng tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức này
không phân biệt thành phần kinh tế, đồng thời củng cố quyền quản lý, giám sát
và can thiệp kịp thời của Chính phủ đảm bảo thị trường hoạt động lành mạnh,
an toàn, hiệu quả.


Tài liệu tham khảo:
1. Anh Khánh (2015), Lộ trình hội nhập tài chính của Việt Nam trong ASEAN,
Tạp chí tài chính Việt Nam ngày 16/12/2015.
2. Hồng Chí (2015), Thị trường bảo hiểm: Chờ đón cơ hội lớn từ TPP, Thời
báo Tài chính Việt Nam online.
3. Ngân hàng Nhà nước (2007), Lộ trình mở cửa của hệ thống ngân hàng Việt
Nam trong cam kết gia nhập WTO, Tạp chí ngân hàng (Số 1/2007).
4. Nguyễn Thị Kim Thanh (2010), Định hướng phát triển khu vực ngân hàng
đến năm 2020, Tạp chí Ngân hàng số 21/2010.
5. Phùng Khắc Lộc (2008), Thị trường bảo hiểm Việt Nam sau khi Việt Nam
gia nhập WTO, Tạp chí phát triển kinh tế số 213.
6. TS. Nguyễn Minh Kiều ( 2008), “ Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân
hàng”, Nhà xuất bản Tài chính.
7.Số
liệu
trích
dẫn
từ
nguồn:
/>OverviewGEPV.pdf
8. Nghị quyết Đại hội lần thứ 8 Đảng Cộng Sản Việt Nam họp từ 28/6 đến
1/7/1996.
9. ThS. Đường Thị Thanh Hải, 2014. Theo tạp chí Tài chính “ Nâng cao hiệu
quả huy động vốn”.

/>10. />


×