Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

PHÂN TÍCH các NHÂN tố ẢNH HƯỞNG đến HOẠT ĐỘNG tín DỤNG TRONG GIAI đoạn 2009 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.97 KB, 16 trang )

Namanhemsieunhannamanhemsi
eunhannamanhemsieunhanhoat
dongkinhdoanhnganhangbaotieu
luanvecayeutoanhhyigdenhotind
Bài tiểu luận
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH
uyngtyuiopasdfghjklzxcvbnmqwe
HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
TRONG GIAI ĐOẠN 2009 - 2013
rtyuiopasdfghjklzxcvbnmqwerty
uiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuio
pasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopas
dfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfg
hjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjk
lzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxc
vbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbn
mqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmq
wertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwer
tyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyu
iopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiop


I.

Mục tiêu và chiến lược kinh doanh

1. Mục tiêu
Những năm 2009 - 2013, hầu hết các ngân hàng đều dự đoán rằng đây sẽ là giai đoạn rất
khó khăn cho hoạt động ngân hàng do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế và sau suy thoái,
cho nên tất cả đều không dám đặt chỉ tiêu lợi nhuận quá cao, chủ yếu tìm kiếm lợi nhuận
từ mảng phi tín dụng. Các ngân hàng thay vì quan tâm nhiều về lợi nhuận thì còn đẩy


hướng đi của mình sang việc đảm bảo duy trì được khả năng hoạt động của ngân hàng
nhằm vượt qua cơn khủng hoảng kinh tế 2009, đợi chờ sự sắc của nền kinh tế trong
những năm sau.

2. Chiến lược kinh doanh
• Lãi suất huy động VNĐ được điều chỉnh tại tất cả các kỳ hạn, đặc biệt tại các
kỳ hạn ngắn.
Trong năm 2009, những ngân hàng đã lỡ lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá
nhiều hoặc vay nhiều trên thị trường liên ngân hàng để đem cho vay lại đã phải điều
chỉnh tăng liên tục lãi suất huy động để thu hút nguồn tiền từ dân cư nhằm thu hút 1
nguồn nhàn rỗi nhằm giải quyết bài toán thanh khoản. Trong 10 tháng khi lãi suất cơ bản
ở mức 7%, lãi suất huy động tăng từ 1-2,5% cho mỗi kỳ hạn. Từ đầu tháng 12 khi lãi suất
cơ bản tăng 1% lên mức 8%, các ngân hàng tiếp tục nâng lãi suất huy động, đặc biệt tại
các kỳ hạn ngắn, khoảng từ 1-1,6% cho các kỳ hạn khác nhau. Tuy nhiều ngân hàng tăng
lãi suất huy động hơn mức cho phép qua các hình thức khuyến mãi nhưng vẫn không đáp
ứng được nhu cầu của thị trường.


Năm 2011, lãi suất huy động tăng mạnh, Trong 3 tháng đầu năm, lạm phát tăng cao dẫn
đến lãi suất huy động có xu hướng tăng trên thị trường (lạm phát bình quân cả năm 2011
ở mức 18,58% so với năm 2010), hơn mức trần lãi suất (14%/năm) đã khiến lãi suất huy
động thực tế đang ở mức âm. Vì thế, trong thời gian này các ngân hàng thương mại đã
“xé rào” lãi suất huy động cả VNĐ và USD, huy động vốn với mức lãi suất bình quân
khoảng 17-18%/năm, lãi suất cho vay VNĐ bình quân thực tế khoảng 18,74%/năm, trong
đó lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất đã lên đến 22-25%/năm.
Năm 2013, lãi suất huy động và cho vay VNĐ duy trì xu hướng giảm nhưng tốc độ đã
chậm lại so với năm 2012. Mặt bằng lãi suất trên thị trường có mức giảm mạnh, vào
khoảng 0,8-1,5% đối với các kỳ hạn dưới 1 năm và lên tới 2,5-3,5% đối với các kỳ hạn
trên 1 năm so với cuối năm 2012. Lãi suất cho vay VND cũng được điều chỉnh giảm
thêm 3-4%/năm để hỗ trợ khách hàng. Đến cuối năm 2013, lãi suất cho vay phổ biến

trong khoảng 8-11,5%/năm kỳ hạn ngắn và 11,5-13%/năm trung dài hạn.


Mở rộng 1 số hoạt động kinh doanh mới

Để giải quyết 1 phần bài toán thanh khoản, những ngân hàng có đa dạng hóa được hoạt
động kinh doanh thì tập trung vào mảng phi tín dụng như thanh toán quốc tế, mở L/C,…
để tìm lợi nhuận cao vì hình thức tín dụng truyền thống trong thời buổi kinh tế suy thoái
không thể mang lại lợi nhuận nhiều.


Đặt sự an toàn lên hàng đầu

Đứng trước những khó khăn do suy thoái, hầu hết các ngân hàng cho biết một mặt vẫn
tiếp tục đặt mục tiêu tăng trưởng trong năm 2010 nhưng mặt khác sẽ đặt vấn đề an toàn
lên hàng đầu. Bà Nguyễn Thị Tâm, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Techcombank, cho
rằng tín dụng vẫn là mảng kinh doanh chính của ngân hàng nhưng Techcombank sẽ chú
trọng mục tiêu an toàn tín dụng. Trong khi đó, ông Lý Xuân Hải, Tổng giám đốc Ngân
hàng ACB thì cho rằng “ACB vẫn lấy vấn đề quản lý rủi ro đặt lên hàng đầu trong năm
2010”.
Vào những năm sau đó, trong giai đoạn 2010 – 2011, thực hiện đảm bảo an toàn vốn tối
thiểu 9% theo tinh thần của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN nhưng nhìn chung các ngân hàng
vẫn giữa mức tỷ lệ an toàn vốn cao hon ngưỡng cho phép


Tuy nhiên, tình hình đảm bảo an toàn vốn tối thiểu của các NHTM có xu hướng phân nhóm rõ
rệt. Trong các NHTM NN lớn, Agribank và Vietinbank vẫn không thể đạt được quy định về mức
an toàn vốn tối thiểu 9% trong năm 2010.




Ngân hàng hút mạnh vốn từ cổ đông chiến lược nước ngoài

Năm 2011, hàng loạt ngân hàng đã tăng vốn được nhờ việc bán cổ phần cho đối tác
ngoại. Riêng hai ngân hàng lớn là Vietinbank và Vietcombank đã tìm được đối tác chiến
lược. Vietinbank chào bán hơn 168,58 triệu cổ phần cho các tổ chức đầu tư thuộc Tổ chức
tài chính quốc tế - IFC. Giá phát hành là 21.000 đồng/cổ phần. Đồng thời, Vietinbank dự
định bán tiếp 15% cổ phần cho Bank of Nova Scotia của Canada.

I.

Vốn tự có và nguồn lực bên trong

1. Quy mô vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu thể hiện năng lực tài chính, năng lực họat động của ngân hàng. Vốn chủ
sở hữu ảnh hưởng tới quy mô mở rộng mạng lưới cũng như quy mô họat động của ngân
hàng. Quy mô vốn chủ sở hữu (VCSH) các NHTM Việt Nam giai đoạn 2009-2013 tăng
qua các năm với tỷ lệ trung bình đạt mức cao 23,92%, trong đó Vietinbank có mức tăng
trưởng bình quân cao nhất là 42,43% và ACB có mức tăng trưởng thấp nhất là 5.5%.
Biểu đồ 2.1: Quy mô vốn chủ sở hữu của các NHTM Việt Nam


(Nguồn Báo cáo tài chính các NHTM Việt Nam)

Mặc dù quy mô VCSH của các ngân hàng tăng nhanh qua các năm nhưng so với các ngân
hàng trong khu vực và trên thế giới, VCSH của các NHTM Việt Nam vẫn ở mức khiêm
tốn.
Bảng 2.1 Vốn chủ sở hữu của một số ngân hàng năm 31/12/2013
Đơn


vị Vốn

tính

hữu

USA

Tỷ USD

206

Canada

Triệu USD

435

USA

nghìn USD 232.685.000

Ngân hàng

Quốc gia

1. Citi Bank
2. Bank of Canada
3.Bank
Corporation


of

American

chủ

4. HSBC

Việt Nam Triệu VND 6.623.643

5. Mizuho

Nhật Bản Triệu JPY

sở

84.905

(Nguồn Báo cáo tài chính các ngân hàng năm 2013)
Việc đảm bảo an toàn và phát triển vốn là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong hoạt
động kinh doanh của NHTM. Để đảm bảo an toàn cho phần tài sản có chứa đựng rủi ro,
ngân hàng cần duy trì một mức vốn tự có cần thiết được đo bằng tỷ lệ vốn an toàn tối
thiểu. Theo quy định của hiệp ước BASEL và theo quy định tại thông tư 13/2010/TTNHNN, hệ số an toàn vốn (viết tắt là CAR: Capital Adequacy Ratio) của các NHTM Việt


Nam tối thiểu là 8%. Đến cuối năm 2013, các NHTM Việt Nam thuộc nhóm nghiên cứu
có hệ số CAR đều trên 9%.
Bảng 2.2 Hệ số an toàn vốn của các NHTM Việt Nam
Đơn vị tính: %

2010
6.4
9.32
9.0
8.02
8.9
12.3

(Nguồn Báo cáo thường niên các NHTM Việt Nam)
2. Nguồn lực bên trong
2.1 Quy mô và chất lượng tài sản
Quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản có sẽ quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
NHTM. Chất lượng tài sản là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về tài
chính, năng lực quản lý của một NHTM. Đánh giá qui mô, chất lượng tài sản được thể
hiện qua các chỉ tiêu: tăng trưởng tổng tài sản, tỷ lệ cho vay..
Tăng trưởng tổng tài sản của các NHTM Việt Nam bình quân trong thời kỳ 2009-2013 là
16,7%. Trong đó nhóm NHTM nhà nước có mức tăng trưởng tài sản cao hơn nhóm
NHTM cổ phần. Cụ thể Vietinbank có mức tăng trưởng tài sản cao nhất là 24,4%, tiếp
theo là Techcombank 21.6%. NGân hàng ACB là ngân hàng có mức tăng tài sản bình
quân thấp nhất chiếm 9.7%.
Biểu đồ 2.2 Tăng trưởng tổng tài sản của các NHTM Việt Nam


(Nguồn Báo cáo tài chính các NHTM Việt Nam)

Tỷ lệ cho vay của ngân hàng phản ánh việc sử dụng tài sản để đầu tư cho vay của các
ngân hàng. Thực tế về cơ cấu tài sản, các khoản cho vay chiếm phần nhiều trong tổng tài
sản của ngân hàng. Dựa trên bảng số liệu trên, tỷ lệ cho vay cho vay của các ngân hàng
đều ở mức tăng trưởng nhẹ, tương đối ổn định qua các năm, phản ánh hoạt động kinh
doanh duy trì ở mức ổn định, bất chấp cả khủng hoảng kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, qua

số liệu cho thấy dư nợ tín dụng trên tổng tài sản của các ngân hàng thương mại Việt Nam
đều vượt khung an toàn Camel đưa ra là <= 60%. Chỉ có Techcombank thuộc nhóm các
NHTMCP có đảm bảo tỷ lệ an toàn.
Bảng 2.3 Tỷ lệ cho vay của các NHTM Việt Nam
Đơn vị tính :%
2010

2011

79.02

77.75%

55.70

64.70%

80.23

82.98%

64.11

63.81%


42.16

36.23%


34.81

34.65%

59.34

60.02%

(Nguồn Báo cáo tài chính các NHTM Việt Nam thời kỳ 2009-2013)
Chất lượng tín dụng thể hiện thông qua tỷ lệ nợ xấu: Những món nợ xấu hay còn được
gọi là những món nợ không hiệu quả, ngay sau khi giải ngân đã cho thấy những dấu hiệu
có khả năng gặp phải rủi ro như khách hàng gặp phải rủi ro hoặc sử dụng vốn sai mục
đích, chậm trễ hoặc không thể thực hiện những điều kiện giải ngân, v.v… Không phải tất
cả những món nợ xấu đều dẫn đến rủi ro tín dụng, song thông thường nợ xấu là “cơ hội”
phát sinh rủi ro tín dụng như nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn và NHTM phải thực hiện
xóa nợ. Quy định và tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng tín dụng của một NHTM là tốt và
NHTM có thể phát triển bền vững khi tỷ lệ nợ xấu dưới mức 5% tổng dư nợ.
Chất lượng tín dụng của các NHTM Việt Nam được cải thiện nhờ áp dụng đồng loạt các
giải pháp tăng cường năng lực tự kiểm soát chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng;
thanh tra giám sát xử lý các khoản nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM đã giảm dần từ
3.5% năm 2008 xuống 2,5% năm 2010. Một số NHTMNN có tỷ lệ nợ xấu giảm đáng kể
trong giai đoạn 2006-2010, ví dụ như BIDV năm 2010 giảm 6.8% so với năm 2006,
Vietinbank giảm 3.7%. Đối với nhóm NHTMCP, tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp hơn nhóm
NHTM nhà nước như ACB có mức nợ xấu 0.34%, Techcombank có tỷ lệ 2.29%. Trong
năm 2011, tỷ lệ nợ xấu của toàn bộ hệ thống NHTM là 3.29% cao hơn so với năm 2010.
Sang năm 2012, nợ xấu toàn ngành ngân hàng tăng vọt với mức 8.8%. Tuy nhiên tỷ lệ
này đã giảm chỉ còn 3.79% vào năm 2013 và Agribank vẫn là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu
cao nhất toàn hệ thống, chiếm 25% tổng số nợ xấu của toàn hệ thống.
Nguyên nhân của sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu là do các NHTM đã không chủ động giới hạn
cho vay vào các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao như cho vay kinh doanh bất động sản, đầu

tư chứng khoán,... trong khi vẫn phải tiếp tục phải thực hiện mục tiêu tăng vốn với tốc độ
cao.
Muốn tăng trưởng tổng tài sản bền vững đòi hỏi phải nghiên cứu mối tương quan giữa cơ
cấu tài sản và nguồn vốn. Qua mối tương quan này sẽ đánh giá được tính tối ưu trong cơ
cấu tài sản - nguồn vốn, khả năng phản ứng của ngân hàng trước những hiện tượng bất
thường của môi trường kinh doanh và đáp ứng yêu cầu rút tiền của công chúng. Sự phối
hợp hiệu quả sẽ giúp ngân hàng tối đa hoá thu nhập đồng thời kiểm soát chặt chẽ các rủi
ro.


Bảng 2.4 Tỷ lệ nợ xấu của các NHTM Việt Nam
Đơn vị tính :%
2010
6.7
2.8
2.83
0.66
0.34
2.29

(Nguồn Báo cáo thường niên của các NHTM Việt Nam 2009-2013)
2.2 Khả năng sinh lời
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh hiệu quả kinh doanh cũng như sự phát triển bền
vững của một ngân hàng.Hiệu quả hoạt động và khả năng sinh lời của ngân hàng có mối
quan hệ chặt chẽ với khả năng thanh toán và triển vọng phát triển trong tương lai của
ngân hàng đó.Để đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng, có thể đo lường bằng nhiều
chỉ tiêu khác nhau như: Lợi nhuận sau thuế, tỷ suất lợi nhuận trên tài sản có bình quân
(ROA), tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE).
Tổng lợi nhuận các NHTM Việt Nam 2009-2013 tăng trưởng bình quân 7% trong đó
Vietinbank có mức tăng trưởng bình quân cao nhất 45.73%. Năm 2012, toàn ngành ngân

hàng có lợi nhuận, sụt giảm gần 50% so với năm 2011. Tình hình lợi nhuận ảm đạm trong
2012 đã chấm dứt những thời kỳ lãi “khủng” của các ngân hàng thương mại. Hầu hết các
ngân hàng đều bị sụt giảm lợi nhuận rất mạnh, ngay cả những ngân hàng lớn như
Vietcombank, Vietinbank, BIDV, cũng không tăng trưởng đáng kể so với năm trước, dù
vẫn đứng đầu toàn ngành về lợi nhuận. Nguyên nhân chính dẫn đến lợi nhuận giảm trong
năm 2012: do tăng trưởng tín dụng trong năm 2012 khá thấp, lãi suất cho vay hạ nhiệt,
chi phí dự phòng rủi ro tăng mạnh do nợ xấu gia tăng. Trong năm 2013, trong nhóm ngân
hàng nghiên cứu chỉ có hai ngân hàng có sự tăng trưởng về lợi nhuận là Vietinbank và
ACB, các ngân hàng còn lại đều có sự sụy giảm lợi nhuận.


Bảng 2.5 Lợi nhuận sau thuế của các NHTM Việt Nam
Đơn vị tính: triệu đồng
STT Ngân hàng
1

Agribank

2

2009

2010

2011

2012

2013


182,968

1,300,237

3,633,593

2,565,000

2,303,000

Vietcombank

3,944,753

4,235,792

4,217,332

4,427,206

4,371,270

3

BIDV

2,817,501

3,760,715


3,199,608

3,318,863

4,065,079

4

Vietinbank

1,284,283

3,405,478

6,243,795

6,151,545

5,794,236

5

ACB

2,201,204

2,334,794

3,207,841


784,040

824,458

6

Techcombank

1,700,169

2,072,755

3,153,766

765,686

659,000

Cộng

12,130,878 17,109,771 23,655,935 18,012,340 18,017,043

(Nguồn Báo cáo tài chính các NHTM VIệt Nam)
Phân tích ROE trung bình của các NHTM Việt Nam có thể thấy: Năm 2009 ROE ở mức
khá cao, khoảng 18,64%; năm 2010 18,04 và năm 2011 tăng vọt 20,32% nhưng sang năm
2012 và 2013 giảm xuống chỉ còn là 10,3 và 8,35. Việc giảm sút này do nhiều nguyên
nhân như hiệu quả hoạt động yếu (dù chênh lệch giữa lãi suất đầu vào đầu ra có xu hướng
giãn ra, có lợi cho các NHTM); tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng tăng đã khiến tỷ lệ trích
lập dự phòng rủi ro của các NHTM thấp so với yêu cầu của NHNN. Bên cạnh đó các
NHTM Việt Nam mở rộng quá mức mạng lưới chi nhánh với hy vọng tốc độ tăng tài sản

sẽ nhanh như những năm trước. Nhưng năm nay do hạn chế tăng trưởng tín dụng và cạnh
tranh huy động vốn gay gắt, đã khiến hoạt động một số chi nhánh ngân hàng không có
hiệu quả.
Biểu đồ 2.3: Hệ số ROA của các NHTM Việt Nam


Tỷ lệ lãi ròng cận biên (NIM) là tổng giá trị thu được từ tiền lãi cho vay, chi phí trả lãi
tiền gửi và tổng tài sản của ngân hàng. Đây là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của
các NHTM VIệt Nam.
Bảng 2.6 Tỷ lệ lãi ròng cận biên (NIM) của các NHTM Việt Nam

009

2010

.54

3.35

.87

3.07

.74

2.95

.83

4.18


.55

2.74

.54

2.39

(Nguồn Báo cáo thường niên các NHTM Việt Nam)
Tỷ lệ lãi ròng cận biên của các NHTM Việt Nam có xu hướng giảm dần qua 2011-2013,
đặc biệt năm 2013 hầu hết các NHTM Việt Nam có tỷ lệ lãi ròng cận biên giảm. Nguyên
nhân của sự giảm sút này là do tỷ lệ huy động của các NHTM Việt Nam tăng cao trong
khi cho vay thấp khiến cho nguồn vốn ứ đọng.
3 Đánh giá


Thông qua việc phân tích tài chính các NHTM Việt Nam cho thấy trong thời kỳ 20092013 cácNHTM Việt Nam đã đạt được những kết quả khả quan cụ thể:
- Vốn tự có của các NHTM tăng mạnh, hệ số an toàn vốn CAR đạt chuẩn trên 8%.
- Khả năng thanh khoản của NHTM Việt Nam được cải thiện đáng kể với tỷ lệ cho
vay/huy động luôn nhỏ hơn 100%, tỷ trọng đi vay trong tổng tài sản giảm dần. Công tác
quản lý thanh khoản của NHTM Việt Nam đang được chú trọng, đặc trưng là việc thiết
lập cơ chế kiểm soát và theo dõi hợp lý tình trạng thanh khoản hàng ngày và dài hạn.
Trong những năm qua NHTM Việt Nam đã tuân thủ đúng quy định của NHNN về dự trữ
bắt buộc, tỷ lệ khả năng chi trả, quản lý tốt dòng tiền vào-ra theo kì hạn để chủ động xử
lý nguồn vốn thanh khoản khi thiếu hụt hoặc thặng dư.
- Chất lượng tài sản của NHTM Việt Nam được nâng cao thể hiện qua cơ cấu tài sản ngày
càng chuyển biến hợp lý và hiệu quả hơn: Tài sản có tính thanh khoản cao tăng nhẹ do
yêu cầu tăng dự trữ bắt buộc theo quy định mới của NHNN; Cơ cấu khách hàng cũng
được chuyển dịch phù hợp với xu hướng phát triển hiện nay, đó là ưu tiên phát triển tín

dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tăng tỷ
trọng cho vay ngắn hạn và giảm tỷ trọng cho vay trung dài hạn.
- Tuy nhiên, đánh giá hiệu quả kinh doanh của các NHTM Việt Nam vẫn ở mức thấp.
Hầu hết các NHTM Việt Nam có tỷ lệ cho vay cao hơn ngưỡng 60%. Lợi nhuận sau thuế
của hầu hết các NHTM Việt Nam đều giảm so với kỳ trước.

II.

Các yếu tố kinh tế xã hội ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng

-

Môi trường tự nhiên : Nói chung môi trường tự nhiên không tác động trực tiếp tới hoạt
động tín dụng của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện qua sự tác động đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mà hoạt động của
chúng phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt động trong các
ngành nông nghiệp, ngư nghiệp. Điều kiện tự nhiên diễn biến thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả năng
trả nợ cho ngân hàng.

-

Môi trường kinh tế : Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng cũng như doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường này. Sự biến động
của nền kinh tế theo chiều hướng tốt hay xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân
hàng và doanh nghiệp biến động theo. Một nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định sẽ
làm giá cả luôn giữ ở mức ổn định, tình hình lạm phát ở mức thấp tạo điều kiện cho ngân
hang thương mại mở rộng quy mô hoạt động của mình và tránh được những thiệt hại cho
ngân hàng do sự mất giá của đồng tiền…Đặc biệt, trong điều kiện quốc tế hóa mạnh mẽ
như hiện nay, hoạt động của các ngân hàng và doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng

của môi trường kinh tế trong nước mà cả môi trường kinh tế quốc tế. Những tác động do


môi trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp đối với ngân hàng hoặc tác động xấu đến
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín
dụng ngân hàng.
-

Môi trường chính trị, xã hội: Một quốc gia ổn định về chính trị, không có chiến tranh.
Trong xã hội có nhiều truyền thống tốt đẹp, ít tệ nạn xã hội như lừa đảo làm ăn phi pháp
cũng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Sự ổn định của môi trường chính trị, xã hội
là một căn cứ quan trọng để ra quyết định của các nhà đầu tư. Nếu môi trường này ổn
định thì các nhà đầu tư sẽ yên tâm thực hiện việc mở rộng đầu tư và do đó nhu cầu vốn
tín dụng ngân hàng trung và dài hạn tăng lên. Ngược lại nếu môi trường bất ổn thì họ sẽ
tìm cách thu hẹp sản xuất để bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro khi đó nhu cầu vốn tín dụng
ngân hàng
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG BỊ ẢNH HƯỞNG TỬ MÔI TRƯỜNG KINH TẾ XÃ
HỘI TỪ 2009 – nay

-

Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Khủng
hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới vào
tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường
lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội khác của nước ta. Ở
trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh
hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
- Từ năm 2009 đến nay, mặt bằng lãi suất đã có nhiều biến động theo những thăng trầm

của nền kinh tế. Về cơ bản, lãi suất tăng mạnh trong giai đoạn 2009-2011 do lạm phát

tăng cao khiến NHNN phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ. Điều này đã dẫn tới hiện
tượng khan hiếm tiền đồng trên toàn hệ thống, thúc đẩy các ngân hàng bước vào cuộc
chạy đua lãi suất mặc dù NHNN đã đưa ra nhiều chính sách để hạn chế tình trạng tăng
lãi suất.
-

Trong giai đoạn 2012-2014, mặt bằng lãi suất đã liên tục giảm dần theo định hướng của
NHNN. Cùng với đó, các chỉ số kinh tế vĩ mô như GDP và lạm phát đều khởi sắc hơn,
tạo đà cho các ngân hàng tiếp tục giảm lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất
kinh doanh, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

-

Từ năm 2015 đến nay, mặt bằng lãi suất được duy trì tương đối ổn định theo chiều hướng
giảm nhẹ lãi suất VNĐ (tuy nhiên gần đây lãi suất huy động trung dài hạn có chiều hướng
tăng do các ngân hàng cần huy động nguồn vốn TDH để đáp ứng Thông tư 06), giữ
nguyên lãi suất huy động USD ở mức 0% và tiếp tục giảm lãi suất cho vay USD để hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế và chống đô la hóa.


III.

Xu thế hội nhập
1. Mở cửa cho các tổ chức tín dụng nước ngoài

- Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc khuyến khích và thu hút đầu tư
nước ngoài, NHNN đã cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức tài chính và ngân hàng
của nhiều nước vào Việt Nam để hoạt động.
- Với việc mở cửa thị trường tài chính, các ngân hàng trong nước được tiếp cận với thị
trường tài chính quốc tế, có điều kiện học hỏi, nâng cao trình độ quản trị, điều hành, phát

triển các sản phẩm dịch vụ mới và kỹ năng kinh doanh, nhất là về các hoạt động nghiệp
vụ mà các ngân hàng trong nước chưa có hoặc ít có kinh nghiệm như kinh doanh ngoại
hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, quản lý
quỹ, môi giới tiền tệ, quản lý rủi ro.
- Bên cạnh đó, khi các ngân hàng nước ngoài đầu tư mua cổ phần của ngân hàng trong
nước, các ngân hàng trong nước sẽ có điều kiện thuận lợi để tăng vốn, tiếp thu kiến thức,
kinh nghiệm quản lý và công nghệ hiện đại trong hoạt động ngân hàng với sự tham gia
của các đối tác chiến lược là các ngân hàng có danh tiếng trên thế giới.
- Ngoài ra, việc mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng sẽ thúc đẩy NHNN nâng cao năng
lực và hiệu quả điều hành, thực thi chính sách tiền tệ, chia sẻ thông tin với các ngân hàng
trung ương khác.
- Hội nhập kinh tế cũng góp phần thúc đẩy quá trình thu hút nguồn vốn đầu tư, tạo điều
kiện giúp các NHTM phát triển các mối quan hệ đại lý, thanh toán quốc tế, tài trợ thương
mại, hợp tác đầu tư và trao đổi công nghệ...


- Theo Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ngày 28/2/2006, các loại hình các tổ chức tín dụng
(TCTD) nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam bao gồm: chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện
của TCTD nước ngoài tại Việt Nam.
- Mặc dù thị phần hoạt động của các TCTD nước ngoài vẫn còn ở mức khiêm tốn
(khoảng 10%), nhưng có vị trí quan trọng trong hệ thống các định chế tài chính tại Việt
Nam. Các TCTD nước ngoài là kênh truyền dẫn vào Việt Nam các công nghệ ngân hàng
hiện đại và kinh nghiệm quản trị ngân hàng tiên tiến, đồng thời bổ sung nguồn tài chính
không nhỏ cho thị trường tài chính Việt Nam.

2. Năng lực điều hành của NHNN không ngừng được nâng cao
- NHNN đã điều chỉnh các mục tiêu chính sách tiền tệ (CSTT) ngắn hạn cho phù hợp với
yêu cầu và điều kiện phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Do Việt Nam đang hội nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới, những yếu kém nội tại của nền kinh tế bắt đầu bộc lộ rõ nét,

lạm phát có nguy cơ tăng cao, ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời
sống của người dân, Chính phủ đã thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm kiềm chế lạm
phát và điều chỉnh giảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8-9% xuống còn 7%. Cùng với
việc thắt chặt tài khóa, CSTT thắt chặt được thực hiện thông qua việc sử dụng phối hợp
các công cụ CSTT như tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành 20.300 tỉ đồng tín phiếu
NHNN, nâng các mức lãi suất chủ đạo. Việc thực hiện đồng bộ các công cụ CSTT đã góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế quí 2/2009 mặc dù vẫn ở mức thấp nhưng
đã đạt 4,5%, cao hơn mức 3,1% trong quí trước, lạm phát được kiềm chế một phần, mặc
dù vẫn ở hai con số là 12,63% vào năm 2008 và 19,89% vào năm 2009, hoạt động của
các TCTD ổn định dần.
- Luật các TCTD năm 2010 đã có nhiều qui định nhằm nâng cao mức độ an toàn trong
hoạt động của TCTD trên cơ sở quán triệt quan điểm: TCTD là doanh nghiệp đặc biệt,
cần được quản lý một cách đặc biệt và tiếp cận sát với thông lệ quốc tế về các yêu cầu
bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Tóm lại, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đang hội nhập sâu vào cộng đồng tài chính, ngân
hàng quốc tế và đã vượt qua những biến động bất thường từ bên ngoài, điển hình là
khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và suy thoái toàn cầu.


Tài liệu tham khảo
/> /> /> />dDocName=SBV281678&filename=283446.pdf

/> />


×