Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Phân tích thực tế những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại giai đoạn 2009 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.35 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
----

Bài tập nhóm
Môn: Hoạt động kinh doanh ngân hàng

Phân tích thực tế những yếu tố ảnh hưởng
đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng
thương mại giai đoạn 2009-2013

Nhóm: LITTLE STAR

Lớp: D09
Giảng viên: Th.S Nguyễn Thị Minh Châu


MỤC LỤC


1. Mục tiêu và chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Đây là yếu tố đầu tiên chi phối hoạt động tín dụng của một ngân hàng. Mục tiêu kinh
doanh là chỉ rõ cái đích mà ngân hàng phải đạt được trong một thời kỳ nhất định. Mục
tiêu xây dựng phải phù hợp với tiềm năng, thực lực hiện có của từng ngân hàng và sứ
mạng của ngân hàng trong tương lai. Mục tiêu kinh doanh được biểu hiện cụ thể qua các
con số xác định về lợi nhuận kỳ vọng, về thị phần, mức độ rủi ro có thể chấp nhận. Các
ngân hàng khác nhau sẽ có những mục tiêu khác nhau và trong một ngân hàng, ở những
giai đoạn phát triển khác nhau các mục tiêu cũng sẽ được nhấn mạnh với mức độ khác
nhau.
Sau khi đã xác định được mục tiêu, thì bước quan trọng tiếp theo là hoạch định chiến
lược thích hợp để đạt được mục tiêu. Nếu mục tiêu là đích đến của ngân hàng thì chiến


lược là cách thức để ngân hàng lựa chọn để Chúng đều xuất phát từ nhũng hiểu biết sâu
sắc về điều kiện nội tại của từng ngân hàng chẳng hạn như: vốn, cơ sở vật chất, trình độ
đội ngũ nhân viên, mạng lưới chi nhánh, địa bàn hoạt động…. cũng như những tác động
chi phối từ bên ngoài như tình hình kinh tế, xã hội, pháp lý… Nếu chiến lược chọn không
đúng, không phù hợp thì mục tiêu sẽ không đạt được, hoặc là mất quá nhiều thời gian cho
việc thực hiện mục tiêu đó, điều này cũng được xem như là một thất bại, bởi bì hiệu quả
đạt được thấp. Có thể thấy rằng mục tiêu của ngân hàng sẽ khó khả thi nếu không có một
đường lối chiến lược phù hợp với mục tiêu đã đặt ra.
Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu và chiến lược kinh doanh của ngân hàng đã có ảnh
hưởng chi phối rất lớn ngay từ khi ngân hàng thiết kế danh mục tín dụng. Ngân hàng
Agribank là một trong những NHTM hàng đầu Việt Nam với mục tiêu là phục vụ cho sự
nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn với chiến lược cho vay tập trung vào đối tượng
sản xuất kinh doanh ở khu vực nông thôn, đặc biệt là các hộ sản xuất nông, lâm, ngư,
diêm nghiệp, thì danh mục tín dụng của ngân hàng Agribank sẽ khác biệt với danh mục
tín dụng của các ngân hàng khác có mục tiêu lợi nhuận, đầu tư thương mại dàn trải ở
nhiều lĩnh vực. Cơ cấu danh mục tín dụng của Agribank so với các ngân hàng còn lại
cũng sẽ không giống nhau. Cụ thể tại Agribank, dư nợ sẽ tập trung cho các hộ sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp (do tính chất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún không hệ thống ở
nước ta). Còn ở các ngân hàng còn lại, chủ yếu dư nợ sẽ thuộc về các doanh nghiệp có
quy mô vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và công nghệ nhẹ hoặc
cá nhân, hộ gia đình, tiểu thương… Trong giai đoạn khủng hoảng 2009-2013, hưởng ứng
chính sách hỗ trợ khu vực nông thôn của chính phủ, các ngân hàng thương mại đồng loạt
giảm lãi suất vay cho VND từ 1-3%/năm đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất
khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sản xuất – kinh doanh… phổ biến ở
mức 14,5-16%/năm, thấp nhất 13,5%/năm áp dụng đối với khách hàng doanh nghiệp cam
kết bán ngoại tệ cho ngân hàng; cho vay sản xuất – kinh doanh khác 16,5-20%/năm, thấp
nhất 15%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất 20-25%/năm. Trong năm 2012, Agribank
3



với chủ trương thực hiện chính sách “Tam nông” đã tập trung nguồn vốn (bao gồm cả
nguồn thu nợ từ lĩnh vực cho vay lĩnh vực phi sản xuất chuyển sang) để đáp ứng nhu cầu
vốn cho lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Agribank tổng dư nợ cho vay tăng
trưởng khoảng 10% so với năm 2011. Dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn tăng 15 18%; chiếm tỷ trọng hơn 70%/tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Bên cạnh đó, Agribank
giảm dư nợ và tỷ trọng cho vay phi sản xuất (đối với lĩnh vực bất động sản và cho vay
tiêu dùng), tập trung chủ yếu vào cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Agribank đẩy
mạnh huy động vốn từ nền kinh tế trong nước và nước ngoài; tập trung mọi nguồn vốn
huy động và nguồn thu nợ từ cho vay lĩnh vực phi sản xuất chuyển sang để cho vay lĩnh
vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, cho vay xuất khẩu, các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cũng tương tự như vậy, một ngân hàng thương mại hoạt động lâu năm, có mục tiêu hàng
đầu là lợi nhuận, nhưng chiến lược đạt lợi nhuận cảu ngân hàng là từ các hoạt động dịch
vụ phi lãi/ thu phí, thì trong danh mục tài sản của ngân hàng đó, danh mục tín dụng chỉ
có một quy mô khiêm tốn, tủ trong so với tổng giá trị của danh mục tài sản không thể cao
bằng một ngân hàng có mục tiêu lợi nhuận chủ yếu từ lãi trong hoạt động tín dụng. Vì
vậy, có thể thấy hoạt động tín dụng của một ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn và phản
ánh rõ mục tiêu cũng như đường lối kinh doanh của ngân hàng đó.
2. Vốn tự có và các điều kiện nội lực của ngân hàng
Quy mô vốn tự có là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá mức độ an
toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo thông lệ quốc tế. Ðối với tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu (mức đủ vốn tối thiểu), quy định cụ thể có liên quan đầu tiên là Quyết
định 297/1999/QÐ-NHNN5 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của
ngân hàng thương mại (NHTM). Ðến năm 2005, NHNN đã ban hành Quyết định
457/2005/QÐ-NHNN với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn là 8% nhưng phương pháp tính
toán đã tiếp cận tương đối toàn diện Basel I. Năm 2010, NHNN ban hành Thông tư số
13/TT-NHNN thay thế Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN, nâng tỷ lệ an toàn tối thiểu lên
9% và phương pháp tính toán đã từng bước tiếp cận Basel II. Như vậy, quản lý Nhà nước
đối với mức độ đủ vốn của các NHTM luôn hướng theo chuẩn mực quốc tế.
Tỷ lệ an toàn vốn của toàn ngành Ngân hàng năm 2010 - 2011

Tỷ lệ an toàn vốn


Năm 2010

9/2011

11,02%

11,92%

Nguồn: UBGSTCQG

4


Tuy nhiên, tình hình đảm bảo an toàn vốn tối thiểu của các NHTM có xu hướng phân
nhóm rõ rệt. Trong các NHTM NN lớn, Agribank và Vietinbank vẫn không thể đạt được
quy định về mức an toàn vốn tối thiểu 9% trong năm 2010. Ðiều này là đáng lo ngại nếu
xét trên phương diện rủi ro hệ thống.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của một số NHTM năm 2010 (Đơn vị: %)
CAR

VCB

CTG

ARG

BIDV

TCB


STB

ACB

EAB

2010

9

8.02

6.09

9.32

10.32

10.4

10.84

13.11

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ các báo cáo thường niên của các NHTM
Ðối với khối NHTMCP, các ngân hàng quy mô lớn đều có xu thế đạt được yêu cầu mới
của NHNN về tỷ lệ an toàn vốn. Trái lại, các NHTMCP nhỏ thực sự gặp khó khăn trước
yêu cầu tăng vốn tự có nhằm đảm bảo an toàn. Cụ thể đến thời điểm 31/6/2011, tỷ lệ
CAR của nhiều các ngân hàng cổ phần như ACB, Sacombank, Eximbank, Techcombank,

Ðông Á, Quân đội… đã đạt trên 9% theo tinh thần của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN.
Trong khi đó, đến tháng 11/2011, vẫn còn 5 NHTM cổ phần vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu.
Nếu xem xét theo tinh thần Nghị định 141/NÐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ thì
tính đến thời điểm hết tháng 6 năm 2011, vẫn còn 15 NHTMCP (chiếm tỷ trọng 36,59%)
có vốn điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng, chủ yếu ở khoảng
2.000 tỷ đồng. Như vậy, dù giãn tiến độ 1 năm nhưng một số ngân hàng nhỏ của Việt
Nam vẫn không thể đạt được các quy định đảm bảo mức vốn pháp định.
Hình 2.1: Vốn điều lệ của các NHTM đến 30/6/2011

7; 14,63%

15; 36,59%

9; 21,95%
10; 24,39%

5


Nguồn: UBGSTCQG
Như vậy, nếu xem xét về hình thức, các NHTM Việt Nam có thể đạt được các chuẩn mực
của Basel I với mức an toàn vốn tối thiểu 8%. Tuy nhiên, vấn đề đặc biệt đáng lưu ý là
những NHTM có quy mô lớn nhất hệ thống lại không đảm mức an toàn và có thể đe dọa
an toàn hệ thống. Ngoài ra, các NHTMCP chuyển từ NHTM nông thôn dường như gặp
nhiều khó khăn để đáp ứng yêu cầu an toàn vốn tối thiểu 9%.
Căn cứ theo các số liệu được công bố chính thức, hệ số an toàn vốn của toàn hệ thống
NHTM đạt ở mức trên 8% (theo Quyết định 457/2005/NHNN) và trên 9% (theo Thông
tư 13/2010/TT-NHNN). Tuy nhiên, nếu căn cứ đúng những quy định của Ủy ban Basel
về an toàn vốn tối thiểu thì sự an toàn của hệ thống NHTM về vốn cần có những đánh

giá lại.
Hình 2.2: Các chỉ tiêu tài chính hệ thống ngân hàng Việt Nam giai
đoạn 2008 – 9/2011

Nguồn: UBGSTCQG

Thứ nhất, đối với khối NHTMCP, giai đoạn từ năm 2008 đến nay, đã chứng
kiến sự mở rộng mạnh mẽ về quy mô tổng tài sản của hệ thống NHTM Việt Nam, đặc
biệt là ở nhóm NHTMCP với tốc độ tăng trưởng tổng tài sản trung bình vào khoảng
45%/năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng vốn tự có của nhóm NHTMCP lại không theo kịp tốc
độ mở rộng tổng tài sản. Ðiều đó dẫn đến hiện tượng hệ số an toàn vốn của nhóm ngân
hàng này có xu thế giảm, đặc biệt trong năm 2010 và 2011. Hơn thế, như khuyến nghị
của Basel III, trong tình huống hệ số an toàn vốn ổn định nhưng tỷ lệ đòn bẩy tăng cao
cũng có thể báo hiệu những rủi ro tiềm ẩn trong hệ thống NHTM. Ðối với khối
NHTMCP, xu hướng hệ số đòn bẩy tài chính cao có thể nhận thấy khá rõ. Trên đà tăng
như hiện nay, khả năng chống đỡ của NHTMCP trước rủi ro là rất đáng lo ngại.
6


Hình 2.3: Các chỉ tiêu tài chính của nhóm NHTMNN và NHTMCP giai đoạn 2008 – 9/2011

Nguồ
n: UBGSTCQG
Bên cạnh đó, danh mục tài sản có của các NHTMCP trong giai đoạn 2010-2011 đang có
sự thay đổi đáng chú ý: tỷ trọng tiền gửi tại các NHTM và chứng khoán đầu tư tăng lên
đáng kể trong khi tỷ trọng tín dụng giảm xuống. Bên cạnh tác động khách quan từ nền
kinh tế và hạn mức tăng trưởng tín dụng 20%, việc NHNN yêu cầu các NHTM giảm tín
dụng phi sản xuất xuống còn 16% vào cuối năm 2011 có thể đã hạn chế năng lực mở
rộng các khoản cho vay đối với các ngân hàng này, đặc biệt là các NHTMCP nhỏ vốn có
tỷ lệ dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản trên tổng dư nợ ở mức cao. Do thị trường

bất động sản đang rơi vào tình trạng trầm lắng, nhiều khoản vay đến hạn không trả được
nợ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng (ngân hàng buộc phải
chuyển nhóm nợ và trích lập dự phòng rủi ro, tình hình thanh khoản bị suy giảm). Tỷ lệ
nợ xấu được NHNN công bố cho toàn ngành Ngân hàng là 3,39%, tương đương với
khoảng 20% mức vốn tự có. Tuy nhiên, số liệu nợ xấu chưa phản ánh đúng thực chất
RRTD của hệ thống ngân hàng Việt Nam do tiêu chuẩn phân loại nợ cũng như công tác
phân loại nợ của các ngân hàng còn nhiều bất cập. Nếu như các ngân hàng phân loại nợ
đúng theo chuẩn mực quốc tế và định giá chính xác giá trị tài sản bảo đảm cho các khoản
vay (53% là bất động sản) thì chi phí dự phòng rủi ro sẽ tăng lên, và vốn tự có của hệ
thống ngân hàng sẽ bị ăn mòn đáng kể.
Thứ hai, đối với nhóm NHTMNN, những năm gần đây, các ngân hàng này đã tiến hành
IPO và phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ, bán cổ phần cho các tổ chức nước ngoài
cũng như nhận được bổ sung vốn góp từ Chính phủ nên tỷ trọng vốn tự có trên tổng tài
sản đã tăng lên tương đối. Mặc dù vậy, hệ số CAR của một số ngân hàng trong một số
thời kỳ vẫn không đạt mức yêu cầu theo quy định tại Thông tư 13/2010/TT-NHNN. Ðặc
biệt, Agribank - ngân hàng có mức vốn điều lệ và tổng tài sản lớn nhất trong hệ thống
ngân hàng Việt Nam chỉ đạt mức 6,09% vào năm 2010.
Chỉ cần đơn giản tính chênh lệch giữa vốn tự có thực có của khối NHTMNN tại thời
điểm tháng 9/2011 với vốn tự có theo quy định an toàn vốn tối thiểu tại Thông tư
13/2010/TT-NHNN thì cần phải bổ sung một lượng vốn là 17.638,756 tỷ VND cho khối
7


NHTMNN. Hơn thế, tỷ lệ đòn bẩy của khối này lại ở mức cao hơn so với khối NHTMCP
trong suốt giai đoạn từ 2008 đến nay. Ðặc biệt, như trên đã phân tích, khối NHTMNN
cho vay lại các NHTMCP với một lượng vốn khá lớn. Do đó, một khi một trong những
NHTMCP có vấn đề, hiệu ứng lan truyền rủi ro sẽ cao.
Thứ ba, xét trên khía cạnh toàn hệ thống, chỉ tiêu an toàn vốn của toàn bộ NHTM Việt
Nam đạt trên mức 9%. Tuy nhiên, điều này chưa thể hiện được mức đủ vốn của hệ thống
NHTM. Bởi thứ nhất, phần mẫu số theo quy định của Thông tư 13/2010/TT-NHNN mới

chỉ xác định rủi ro tín dụng chứ chưa tính đến rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động (rủi
ro tác nghiệp). Hơn thế, theo khuyến nghị của Basel III, cần nâng mức an toàn vốn tới
13% để bao gồm cả rủi ro do biến động kinh tế vĩ mô (rủi ro có tính chu kỳ) và rủi ro
chéo trong trường hợp ngân hàng hoạt động theo mô hình tập đoàn tài chính. Nếu xét
tình huống Việt Nam trong năm 2011 thì cả hai vấn đề rủi ro có tính chu kỳ và rủi ro chéo
cần được tính tới. Hơn thế, khi đánh giá trong mối quan hệ với các NHTM trong khu
vực, mức độ an toàn vốn của các NHTM Việt Nam ở mức khá thấp.
Hệ số an toàn vốn hệ thống các TCTD tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới
Quốc gia
CAR
Việt Nam

11,85%

TCTD Việt Nam

11,13%

TCTD nước ngoài

28,58%

Trung Quốc

11,8%

Ấn Độ

13,6%


Indonesia

17,6%

Malaysia

16,4%

Pakistan

13,6%

Philippines

16,7%

Thái Lan

15,5%

Nguồn: Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ thống ngân hàng VN giai đoạn 2011- 2015

Rõ ràng, khi kinh tế xuất hiện những bất ổn, các NHTM có thể gặp những khó khăn hơn
rất nhiều so với trong giai đoạn bình thường của nền kinh tế. Việc nâng cao mức an toàn
vốn tương tự như một “tấm đệm” giúp các NHTM chống các “cú sốc” từ môi trường
kinh doanh biến động.

8



3. Môi trường kinh tế xã hội trong nước
3.1.
Chu kỳ phát triển kinh tế
Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một yếu tố vĩ mô có tác động trực tiếp đến mọi
hoạt động của các ngân hàng thương mại nên ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng. Từ năm
2009 đến nay, mặt bằng lãi suất đã có nhiều biến động theo những thăng trầm của nền
kinh tế. Về cơ bản, lãi suất tăng mạnh trong giai đoạn 2009-2011 do lạm phát tăng cao
khiến NHNN phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ. Điều này đã dẫn tới hiện tượng
khan hiếm tiền đồng trên toàn hệ thống, thúc đẩy các ngân hàng bước vào cuộc chạy đua
lãi suất mặc dù NHNN đã đưa ra nhiều chính sách để hạn chế tình trạng tăng lãi suất.
Độ sâu tài chính, hay quy mô của ngành ngân hàng so với tổng thể nền kinh tế Việt Nam
đã thay đổi đáng kể cùng với sự tăng trưởng tín dụng. Năm 2000, tỷ lệ tín dụng/GDP chỉ
đạt 35,1%, khá thấp so với các nước trong cùng khu vực (Thái Lan (138%), Singapore
(78%), Philippines (58%), Trung Quốc (120%)). Tuy nhiên, sau mười năm tăng trưởng
tín dụng quá mức, năm 2010, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đạt đỉnh ở mức 135,8%.
Tỷ lệ tín dụng/GDP ở Việt Nam năm 2012 đạt 115,4%.
Hình 3.1

-

Năm 2009: Tình trạng mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và cho vay đã khiến cho
hầu hết các NHTM tham gia vào cuộc chạy đua lãi suất huy động bắt đầu từ tháng 2 khi
Chính phủ triển khai chương trình cho vay hỗ trợ lãi suất 4% đến hết năm 2009. Để thu
hút nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, các NHTM đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động tại
tất cả các kỳ hạn. Trong 10 tháng khi lãi suất cơ bản ở mức 7%, lãi suất huy động tăng từ
1-2,5% cho mỗi kỳ hạn. Từ đầu tháng 12 khi lãi suất cơ bản tăng 1% lên mức 8%, các
ngân hàng tiếp tục nâng lãi suất huy động, đặc biệt tại các kỳ hạn ngắn, khoảng từ 1-1,6%
cho các kỳ hạn khác nhau. Với diễn biến này, Ngân hàng Nhà nước phát thông điệp kiểm
tra toàn diện các trường hợp có lãi suất huy động từ 10,5%/năm trở lên khiến nhiều
NHTM đồng loạt áp lãi suất ở mức 10,49%/năm. Đáng chú ý, mặc dù lãi suất huy động


9


-

-

-

-

đã được điều chỉnh tăng nhưng vẫn còn thấp so với lợi suất của các kênh đầu tư khác như
chứng khoán, vàng, và bất động sản.
Năm 2010, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng VND ổn định ở mức 8% trong suốt 10
tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối năm trước sức
ép của lạm phát. Tính đến cuối năm 2010, mặt bằng lãi suất huy động VND khoảng 2,43,0% đối với không kỳ hạn; 12,0-13,5% đối với cá kỳ hạn dưới 12 tháng; và 12,0-13,0%
với kỳ hạn trên 12 tháng. Đến tháng 7/2010, để tạo sự thống nhất về mặt bằng lãi suất
huy động trên thị trường, NHNN và Hiệp hội Ngân hàng đã yêu cầu các NHTM đồng
thuận giảm lãi suất huy động vốn bằng VND để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất
của thị trường theo Nghị quyết 23/NQ-CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp sản xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với vốn của khu vực ngân
hàng khi mà tăng trưởng tín dụng có xu hướng giảm hoặc tăng nhẹ trong những tháng
đầu năm. Lãi suất cho vay trong hai tháng cuối năm ở mức khá cao (khoảng 14,5-18%).
Năm 2011, Tình hình lãi suất từ đầu năm tới hết quý III/2011 đã có chuyển biến rất nhiều
và diễn biến khá phức tạp qua các thời kỳ. Trong 3 tháng đầu năm, lạm phát tăng cao dẫn
đến lãi suất huy động có xu hướng tăng trên thị trường. Trước tình hình đó, NHNN đã
ban hành Thông tư 02/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng
đồng Việt Nam không vượt quá 14%/năm, nhằm tránh một cuộc đua lãi suất giữa các
ngân hàng, gây bất ổn cho hệ thống. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát tăng cao (lạm phát bình

quân cả năm 2011 ở mức 18,58% so với năm 2010), hơn mức trần lãi suất (14%/năm) đã
khiến lãi suất huy động thực tế đang ở mức âm. Vì thế, trong thời gian này các ngân hàng
thương mại đã “xé rào” lãi suất huy động cả VNĐ và USD, huy động vốn với mức lãi
suất bình quân khoảng 17-18%/năm, lãi suất cho vay VNĐ bình quân thực tế khoảng
18,74%/năm, trong đó lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất đã lên đến 22-25%/năm.Lãi
suất cho vay VNĐ phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức
14,5-17%/năm, thấp nhất 13,5%/năm; cho vay sản xuất - kinh doanh khác 17-20%/năm,
thấp nhất 15%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất 22-25%/năm.
Năm 2012, sau 5 lần điều chỉnh của NHNN, trần lãi suất huy động VND đã giảm tổng
cộng 6%, từ mức 14% xuống còn 8% tại thời điểm cuối năm. Cũng giống như lãi suất
huy động, lãi suất cho vay VND được điều chỉnh giảm từ 1-3%/năm đối với lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sản
xuất – kinh doanh… phổ biến ở mức 14,5-16%/năm, thấp nhất 13,5%/năm áp dụng đối
với khách hàng doanh nghiệp cam kết bán ngoại tệ cho ngân hàng; cho vay sản xuất –
kinh doanh khác 16,5-20%/năm, thấp nhất 15%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất 2025%/năm. Lãi suất cho vay USD vẫn ở mức cao, phổ biến ở mức 6-7,5%/năm đối với
ngắn hạn, 7,5-9%/năm đối với trung và dài hạn.
Năm 2013, trong năm 2013, mặt bằng lãi suất trên thị trường có mức giảm mạnh, vào
khoảng 0,8-1,5% đối với các kỳ hạn dưới 1 năm và lên tới 2,5-3,5% đối với các kỳ hạn
trên 1 năm so với cuối năm 2012. Nguyên nhân là do năng lực tài chính của các TCTD
được cải thiện đáng kể, các TCTD cũng điều chỉnh giảm lãi suất thay vì bám sát trần huy

10


động như giai đoạn trước. Đến cuối năm 2013, lãi suất cho vay phổ biến trong khoảng 811,5%/năm kỳ hạn ngắn và 11,5-13%/năm trung dài hạn. Trong đó, các lĩnh vực ưu tiên
lần lượt là 8-9%/năm và 11-12%/năm; các lĩnh vực khác là 9-11%/năm và 11,513%/năm. Đặc biệt, một số doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch,
phương án, dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả đã được vay với mức lãi suất chỉ từ 77,5%/năm.
 Qua lãi suất của các năm ta có thể thấy được lãi suất thay đổi liên tục và nó có ảnh
hưởng đến huy động vốn và sâu xa hơn là ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của
ngân hàng.

3.2.

Môi trường kinh tế địa phương

Mức độ phát triển kinh tế của địa phương quy định quy mô và khối lượng đầu tư tín
dụng. Nếu đầu tư tín dụng vượt quá khối lượng cần thiết, không phù hợp với sự phát triển
kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Giai đoạn từ 2009 đến 2013, cấu
trúc các khoản vay của các ngân hàng đã dần cân bằng hơn. Tỷ lệ các khoản vay dành
cho khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm đi và tỷ lệ dành cho khu vực ngoài quốc doanh
đã tăng. Đây là một dấu hiệu cải thiện trong hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, tỷ trọng các
khoản vay, mặc dù không thay đổi nhiều, đã phân bổ tăng dần cho khu vực nông nghiệp,
nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, và các dịch vụ khác. Những ngành này đang hoạt
động tương đối tốt và thể hiện khả năng phục hồi trong môi trường kinh doanh khó khăn.
Bởi vậy, mở rộng cho vay cho những ngành này thực tế là một điều tốt cho các ngân
hàng.

11


Hình 3.2:

Với chức năng cung cấp tài chính, các tổ chức tín dụng luôn có vai trò quyết định đối
với việc triển khai các dự án phát triển, tuy nhiên hầu như không được nhắc đến khi bàn
về trách nhiệm giải trình môi trường - xã hội phát sinh từ các hoạt động kinh tế đó. Trong
số những dự án đệ trình xin vay vốn, nhiều dự án tiềm ẩn những tác động tiêu cực lớn đối
với môi trường và xã hội. Nói cách khác, các tổ chức tín dụng có thể gián tiếp gây những
tác động môi trường và xã hội như ô nhiễm môi trường, hủy hoại nguồn nước, mất rừng,
suy giảm đa dạng sinh học, lạm quyền và xung đột đất đai. Trong bối cảnh các yêu cầu
bảo vệ môi trường và nhân quyền ngày càng được thừa nhận, luật hóa và tuân thủ, thì các
tổ chức tín dụng cũng đối mặt với nhiều rủi ro và thách thức. Trên thế giới, nhiều dự án

buộc phải hủy bỏ bởi sự phản đối của cộng đồng và xã hội dù đã được chính phủ chấp
thuận triển khai, thậm chí đã được ngân hàng cam kết cấp tín dụng.

12


3.3.

Thị trường tài chính
Sự phát triển năng động của thị trường tài chính tác động đến hoạt động tín dụng nói
chung và danh mục tín dụng của ngân hàng nói riêng, khiến cho các khoản tín dụng của
ngân hàng có thể linh hoạt và uyển chuyển hơn, thông qua hoạt động trao đổi, mua bán
các khoản cho vay trên thị trường.

− Lạm phát là một trong những nhân tố chủ chốt ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng.
Giai đoạn 2009-2011, mặt bằng lãi suất đã có nhiều biến động theo những thăng trầm của
nền kinh tế. Về cơ bản, lãi suất tăng mạnh trong giai đoạn 2009-2011 do lạm phát tăng
cao khiến NHNN phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ. Điều này đã dẫn tới hiện
tượng khan hiếm tiền đồng trên toàn hệ thống, thúc đẩy các ngân hàng bước vào cuộc
chạy đua lãi suất mặc dù NHNN đã đưa ra nhiều chính sách để hạn chế tình trạng tăng lãi
suất.
− Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố giới hạn mức cho vay đối với một khách hàng,
kỳ hạn của khoản vay, lãi suất cho vay và mức lệ phí, phương thức cho vay, hướng giải
quyết phần khách hàng vay vượt giới hạn, xử lý các khoản vay có vấn đề...tất cả các yếu
tố đó có tác dụng trực tiếp và mạnh mẽ đến việc mở rộng cho vay của Ngân hàng.
Giai đoạn 2006 - 2011, chính sách tín dụng đầu tư nhà nước có nhiều thay đổi quan
trọng, đặc biệt là sự ra đời của VDB. Điểm nổi bật của chính sách tín dụng đầu tư nhà
nước giai đoạn 2006 - 2011 là đã bước đầu xây dựng danh mục các dự án vay vốn tín
dụng đầu tư, tập trung nguồn lực đầu tư của Nhà nước cho các dự án đầu tư phát triển
thuộc các lĩnh vực, ngành nghề quan trọng, thông qua đó tác động tích cực tới tăng

trưởng kinh tế và xuất khẩu, góp phần phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tín dụng đầu tư thực hiện thông qua kênh VDB
trong giai đoạn năm 2011 tăng trưởng khá mạnh, bình quân đạt gần 17%/năm, gấp hơn 2
lần so với năm 2006.
− Tỷ lệ nợ xấu cũng gây ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng.
 Năm 2010, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM là 2,52%, tương đương khoảng 58.000 tỉ
đồng. Con số khá nhỏ và trong tầm kiểm soát, mặc dù gia tăng khá nhiều so với năm
2009 là 2,05%. Trong thời gian này, nợ xấu vẫn chưa được đánh giá là vấn đề đặc biệt
nghiêm trọng gây ra bất ổn tài chính quốc gia. Do đó, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng năm
2010 tiếp tục duy trì ở mức tăng 27,65%, tổng phương tiện thanh toán tăng 23%...Và các
NHTM phải tự xử lý nợ xấu thông qua trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo quy định
hoặc phát mãi tài sản bảo đảm hoặc tái cơ cấu lại nợ vay.
 Năm 2011, nợ xấu bắt đầu gia tăng về giá trị lên 85.000 tỉ đồng, chiếm 3,3% tổng dư nợ.
Nợ xấu tăng nhanh trong khi tín dụng tăng thấp cho thấy chất lượng tín dụng đang suy
giảm và phản ánh những khó khăn của doanh nghiệp trong năm 2011, làm tăng rủi ro tín
dụng cho hệ thống ngân hàng.

13


 Năm 2012, kết quả tất yếu là bùng nổ tỷ lệ nợ xấu. Trong giai đoạn, 2008 – 2011, tốc độ
tăng trưởng tín dụng bình quân là 26,56%, nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu lại ở mức
51%. Do đó, nợ xấu được quan tâm không chỉ ở cấp độ NHTM, hay NHNN mà còn lên ở
nghị trường Quốc hội lẫn Chính phủ.
Chính vì vậy, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01/NQ – CP, về những giải pháp chủ
yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách
nhà nước năm 2012. Trong Nghị quyết trên, một vấn đề lớn được đề cấp là hoạt động
“Tái cơ cấu hệ thống tài chính, ngân hàng, trọng tâm là các ngân hàng thương mại” với
việc kiểm soát tỷ lệ nợ xấu và bảo đảm trích lập dự phòng rủi ro ở các ngân hàng. Và từ
đó, đề án số “cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 – 2015” theo Quyết

định 254/QĐ – TTg ra đời.
Trên thực tế, NHNN đã rất quyết liệt triển khai nhiệm vụ theo tinh thần đề án 254, bằng
cách phân loại hệ thống NHTM thành ba nhóm: Nhóm 1, gồm các NHTM có tình hình tài
chính lành mạnh, có năng lực quy mô đủ lớn để phát triển thành các ngân hàng trụ cột
của hệ thống; Nhóm 2, gồm các NHTM có tài chính lành mạnh, nhưng quy mô nhỏ;
Nhóm 3, gồm các NHTM có tình hình tài chính khó khăn buộc phải thực hiện tái cơ
cấu. Đến hết năm 2012, NHNN chỉ tập trung củng cố thanh khoản hệ thống ngân hàng,
lành mạnh hóa hoạt động tài chính, tái cơ cấu tổ chức, tăng cường quản trị hệ thống ngân
hàng…để tiến đến xử lý nợ xấu toàn diện.
Hệ thống NHTM và các TCTC giữ vai trò quan trọng trong khu vực tài chính Việt Nam,
vì đây là thị trường cung cấp vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp (DN). Tốc độ tăng
trưởng tín dụng ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tính đến 31/12/2013,
tổng tài sản của toàn hệ thống các TCTD đạt khoảng 5,75 triệu tỷ đồng, tăng 13,2% so
với năm 2012; Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế đạt khoảng 3,48 triệu tỷ đồng (khoảng
100% GDP), tăng 12,52% so với dư nợ tại thời điểm 31/12/2012. Về lãi suất, từ năm
2013 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nhiều lần điều chỉnh các mức lãi suất
điều hành để hạ mặt bằng lãi suất cho vay của NHTM và giúp các DN có thể tiếp cận
vốn. Ở thời điểm năm 2014, lãi suất huy động vốn được quy định ở mức 6% đối với tiền
gửi dưới 6 tháng. Theo đó, các mức lãi suất cho vay được thị trường điều chỉnh tương
ứng ở mức khoảng 8,5-10% tùy theo đối tượng khách hàng.
3.4.

Môi trường pháp lý

Trong nền kinh tế thị trường mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về hoạt động
sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ của pháp luật.
Do đó hệ thống pháp luật cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của Ngân hàng thương
mại.

14



Khung pháp lý các NHTM phải tuân thủ:

Thông tư số 07/2010/TT-NHNN của Ngân hàng nhà nước vào ngày 26/2/2010 và thông
tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 cho phép các ngân hàng thương mại thực hiện
lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn cũng như ngắn hạn và có thể
thỏa thuận với khách hàng để cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất trần. Sự thông thoáng
về lãi suất này đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng cùng vốn cho các doanh nghiệp với mục
đích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Trong quý I/2011, NHNN đã điểu chỉnh giảm dự trữ bắt buộc tiền gửi bằng ngoại tệ, điều
hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn để hỗ trợ thanh khoản cho các đơn vị
tổ chức tín dụng và nền kinh tế, giữ ổn định mức lãi suất cơ bản, tái cấp vốn, tái chiết
khấu, áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn bằng
VND, điều chỉnh tỷ giá tăng cho phù hợp cung cầu thị trường và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Năm 2013, có thời điểm nợ xấu tại các tổ chức tín dụng của Việt Nam tăng mạnh tới
23,73% so với năm 2012. Lúc này, nợ xấu thật sự là mối đe dọa đến an ninh hệ thống
ngân hàng và ổn định tài chính quốc gia. Nợ xấu đã ngày càng xấu lẫn vượt tầm kiểm
soát của từng ngân hàng. Do đó, trong năm 2013, Chính phủ và NHNN phải tất bật thông

15


qua nhiều giải pháp, sáng kiến nhằm xử lý triệt để nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Và
nhiệm vụ của NHNN trong đề án 254 được thực thi sang giai đoạn hai, là lành mạnh hóa
tài chính hệ thống ngân hàng với việc tăng cường xây dựng các quy định về an toàn vốn,
xử lý nợ xấu hệ thống qua việc thành lập VAMC và nâng cao quản trị rủi ro, hướng đến
hoàn thiện chuẩn mực Basel II. Lần lượt các Quyết định và Thông tư được ra đời:
- Ngày 21/01/2013, NHNN ban hành Thông tư 02/2013/TT – NHNN, quy định về phân
loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự

phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài. Thông tư này quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng hướng theo chuẩn mực
Basel II mà nhiều nước trên thế giới đang áp dụng.
- Nghị định số 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/05/2013, về việc thành lập, tổ
chức và hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam
(VAMC)
- Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các TCTD” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
ngày 31/5/2013 theo Quyết định 843/2013/QĐ-TTg, với nguyên tắc xử lý nợ xấu phải
khẩn trương, quyết liệt, đồng bộ, bằng nhiều biện pháp, và đặt trong tổng thể chương
trình tái cơ cấu nền kinh tế.
- Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 09/09/2013, quy định về việc mua, bán và xử lý nợ
xấu của Công ty Quản lý Tài sản của các TCTD (VAMC).
4. Xu thế hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ bởi những tác động của quá trình hội nhập quốc tế, điều này thể hiện rõ trong giai
đoạn từ năm 2009 đến 2013.
-

Năm 2009, khủng hoảng tài chính toàn cầu tuy ít ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam vì
chưa tham gia nhiều vào thị trường tài chính thế giới nhưng cuộc khủng hoảng này đã
ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa các ngân hàng (Libor và Sibor, tức London
Inter Bank offer rate, Singapore Inter Bank Offer rate) thường được dùng làm lãi suất cơ
sở để cho các xí nghiệp và ngân hàng Việt Nam vay.
Ngoài ra, theo cam kết gia nhập WTO từ 2007, trong năm 2009 các ngân hàng ngoại
bắt đầu mở rộng tầm ảnh hưởng bằng việc thành lập những ngân hàng 100% vốn nước
ngoài tại Việt Nam như HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong Leong. Điều
này tạo ra thách thức không nhỏ cho các NHTM Việt Nam, khiến cho sự cạnh tranh trên
thị trường tài chính ngày càng trở nên quyết liệt. Lợi nhuận từ dịch vụ thấp, các ngân
hàng cổ phần lao vào tín dụng, cho vay chỉ chiếm 20% cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng
nước ngoài, nhưng lại chiếm đến 75-80% lợi nhuận của Ngân hàng nội. Sự lệch pha đó

dẫn đến sự lệch pha về chất lượng tín dụng của hai khối. Năm 2009 tỷ lệ nợ xấu của ngân
hàng nước ngoài ở TPHCM chỉ chiếm 0,63% tổng dư nợ; với ngân hàng cổ phần, tỷ lệ
16


-

-

này là 1,39%, gấp hơn hai lần tỷ lệ của ngân hàng nước ngoài. Còn so với ngân hàng
quốc doanh, nơi nợ xấu chiếm 2,02% tổng dư nợ, thì tỷ lệ nợ xấu của nước ngoài chỉ
bằng một phần ba. Xét về mặt tích cực, các TCTD nước ngoài là kênh truyền dẫn vào
Việt Nam các công nghệ ngân hàng hiện đại và kinh nghiệm quản trị ngân hàng tiên tiến,
đồng thời bổ sung nguồn tài chính không nhỏ cho thị trường tài chính Việt Nam. Bên
cạnh đó, xu hướng mở chi nhánh ở nước ngoài cũng được nhiều ngân hàng thương mại
khác tại Việt Nam triển khai, nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các khách hàng là những DN đang
hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Từ rất sớm, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank) đã mở chi nhánh tại Lào (năm 2008) và Campuchia (từ năm 2009).
Năm 2010, các ngân hàng tiếp tục mở rộng ra thị trường nước ngoài, điển hình là ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là đơn vị tiên phong mở chi nhánh ở thị
trường Myanmar.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng của NHTM cũng chịu sự ảnh hưởng của Hiệp ước
Basel. Hiệp ước Basel I ra đời từ năm 1988 nhưng phải 17 năm sau Việt Nam mới bắt
đầu thực hiện theo Basel I với sự ra đời của hai quyết định quan trọng: quyết định
457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005, quyết định này sau đó đã được thay thế bằng
Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 và Thông tư 19/2010/TT-NHNN ngày
27/09/2010, về đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các TCTD. Các quy định
này nhìn chung đã theo tinh thần của Basel I, tuy nhiên mức độ vận dụng Basel I của các
ngân hàng Việt Nam vẫn còn chưa đầy đủ do thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở dữ
liệu. Cụ thể, tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng thương mại lớn dù đã đạt mức 8%,

nhưng các tỷ lệ này được tính toán trên cở sở các chuẩn mực kế toán Việt Nam. Nếu tính
toán dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế, tỷ lệ này sẽ bị thiếu hụt. Hơn nữa, các ngân
hàng Việt Nam mới chỉ đo lường rủi ro tín dụng trong phép tính CAR mà chưa lượng hóa
những rủi ro quan trọng khác như rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, do đó chưa tính toán
được tỷ lệ CAR thực sự.
Bước sang năm 2011, mọi rào cản đối với ngân hàng nước ngoài theo cam kết năm 2007
khi Việt nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, được tháo dỡ. Tại Việt
nam, CAR của nhiều ngân hàng thương mại đã vượt 9% mà NHNN đặt ra tại Thông tư
13. Ví dụ, đến thời điểm 31/12/2010 : VCB xấp xỉ 10%; ACB: 10,6%; Eximbank:
17,8%...Nhưng, nếu theo cách tính hệ số an toàn vốn tối thiểu của Basel (có tính đến vốn
dành cho rủi ro thị trường) thì số các NHTMVN đạt chuẩn chắc chắn sẽ không nhiều. Nợ
xấu có chiều hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống các
NHTM là 2,5% . Dễ dàng nhận thấy một sự lệch pha nhau trong chiến lược kinh doanh
của các ngân hàng thương mại trong nước và nước ngoài. Trong khi các NHTM trong
nước vẫn tiếp tục cuộc chiến cạnh tranh khốc liệt nhằm phát triển tín dụng, chạy đua lãi
suất để thu được lợi nhuận cao thì các NH nước ngoài đi sâu phát triển các lĩnh vực tài
chính doanh nghiệp, kinh doanh vốn trên thị trường ngoại hối; nghiệp vụ ngân hàng toàn

17


cầu, TTQT và cung ứng dịch vụ lưu ký chứng khoán, vốn vẫn được coi là thế mạnh của
ngân hàng ngoại.
Hội nhập quốc tế còn là cơ hội để các ngân hàng thu hút vốn từ cổ đông chiến lược
nước ngoài, phục vụ cho hoạt động của mình. Năm 2011, hàng loạt ngân hàng đã tăng
vốn được nhờ việc bán cổ phần cho đối tác ngoại. Riêng hai ngân hàng lớn là Vietinbank
và Vietcombank đã tìm được đối tác chiến lược. Vietinbank chào bán hơn 168,58 triệu cổ
phần cho các tổ chức đầu tư thuộc Tổ chức tài chính quốc tế - IFC. Đồng thời, Vietinbank
bán tiếp 15% cổ phần cho Bank of Nova Scotia của Canada. Đến tháng 9/2011,
Vietinbank trở thành ngân hàng Việt đầu tiên vươn hệ thống của mình sang Đức, khi mở

chi nhánh tại TP Frankfurt (Đức) và sau đó là thêm nhiều chi nhánh tại các TP khác trên
thế giới. “Sau hơn 2 năm, đến nay chi nhánh ở Đức đã hoạt động một cách bài bản, theo
tiêu chuẩn của một ngân hàng thương mại hiện đại cả về thể chế, nhân sự, công nghệ và
cơ sở vật chất tại một thị trường đã phát triển”, lãnh đạo Vietinbank chia sẻ.
-

Năm 2012-2013
Sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008, Thủ tướng đã ban hành quyết định
254/2012/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng,
trong đó đã đề cập đến định hướng và mục tiêu hoàn thành triển khai các chuẩn mực an
toàn vốn theo Basel II đến năm 2015. Cụ thể, NHNN sau đó đã ban hành Thông tư
02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 để thay thế cho quyết định 493 và quyết định 780
(về việc phân loại nợ đã được điều chỉnh, gia hạn). So với quyết đinh 493, Thông tư 02
có rất nhiều thay đổi, và có tính tuân thủ cao hơn đối với hiệp ước Basel II. Những thay
đổi bao gồm: bổ sung phân loại và trích lập dự phòng cho một số tài sản; định giá tài sản
đảm bảo; các khoản vay vi phạm phải bị phân loại nợ nhóm 3, các ngân hàng phải lấy
thông tin từ Trung tâm Thông tin Tín dụng đề phân loại nợ; những quy định này giúp
đánh giá chất lượng tài sản của các TCTD chính xác hơn.
Việc chinh phục các thị trường khu vực, quốc tế tiếp tục được các nhà băng nội quan
tâm. Đến năm 2012, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank) cũng được
Chính phủ Myanmar cấp giấy phép thành lập văn phòng và bắt đầu hoạt động từ năm
2013. Tại Lào, chi nhánh của Vietinbank cũng đạt kết quả khả quan. Tính đến cuối năm
2013, vốn điều lệ của Vietinbank chi nhánh Lào đạt 22 triệu USD (512.6 tỷ đồng), dư nợ
đạt 50,4 triệu USD, tăng 104,9% so với năm trước.
Qua thực trạng trên cho thấy, bên cạnh những thách thức cũng như áp lực cạnh tranh, hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng còn tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và
nâng cao tính minh bạch, tính tự chịu trách nhiệm, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành
trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng nói chung và cải thiện chất lượng tín dụng nói riêng.

18



Tài liệu tham khảo
Agribank giảm lãi suất ( />Ths. Nguyễn Đức Trung, An toàn vốn của các NHTM – thực trạng Việt Nam và giải
pháp cho việc áp dụng Hiệp ước tiêu chuẩn vốn Basel II & III.
Báo cáo ngành ngân hàng Việt Nam
( />ang_020114_VPBS.pdf)
Minh Đức (2009) , 10 điểm nổi bật trong hoạt động ngân hàng
( />Ngọc Bích (2013), Thách thức đối với hệ thống ngân hàng sau 5 năm gia nhập WTO
( />Phương Mai (2011) , 10 sự kiện tài chính ngân hàng nổi bật. ( />Trí Dũng, Hiệp ước vốn Basel ( />
19




×