Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ở ngân hàng thương mại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.05 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG Ở
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 2009 – 2013

GVHD:Nguyễn Thị Minh Châu


I. MỤC TIÊU VÀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
1. Mục tiêu:

Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính nhận tiền gửi của khách hàng sau đó sử
dụng khoản tiền này để cho các cá nhân và doanh nghiệp vay. Ngoài những hoạt
động này, ngân hàng thương mại còn cung cấp các dịch vụ tài chính như tài khoản
séc, thẻ tín dụng và tài khoản tiết kiệm. Ngân hàng thương mại thuộc sở hữu của
các cổ đông và hoạt động vì mục đích sinh lợi.
Ngân hàng thương mại hoạt động vì hai mục tiêu chính: cung cấp dịch vụ tài chính
cho khách hàng cá nhân và doang nghiệp; thu phí và tính lãi từ các sản phẩm và
dịch vụ đã cung cấp cho khách hàng với mục đích tạo ra lợi nhuận cho cổ đông.
Ngân hàng thương mại cung cấp rất nhiều dịch vụ đa dạng với nỗ lực đáp ứng tất
cả nhu cầu tài chính của từng khách hàng. Điều này sẽ tạo ra cơ hội tối đa hóa
doanh thu từ mỗi khách hàng.
Các ngân hàng khác nhau sẽ có những mục tiêu khác nhau và trong một số ngân
hàng, ở những giai đoạn phát triển khác nhau các mục tiêu cũng sẽ được nhấn
mạnh với các mức độ khác nhau.

2
1


Cho thấy các ngân hàng đang nghiên về đảm bảo hoạt động vượt qua nền khủng


hoảng kinh tế vào năm 2009 hơn là mục tiêu lợi nhuận và đợi chờ sự khỏi sắc của
nền kinh tế trong các năm về sau.

2. Chiến lược kinh doanh

Chiến lược đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động của một tổ chức.
Chiến lược được xem như là một kế hoạch tổng thể, dài hạn của một tổ chức nhằm
đạt được mục tiêu lâu dài.
Sau khi hiểu được tầm nhìn, mục tiêu kinh doanh, sứ mệnh của ngân hàng, ta sẽ
xem ngân hàng có thế mạnh, điểm yếu như thế nào; để từ đó sẽ đưa ra các quan
điểm về tài chính, về khách hàng, quy trình kinh doanh nội bộ, quan điểm nâng cao
năng lực quản trị, công nghệ, nguồn nhân lực để hiện thực hóa tầm nhìn sứ mệnh
như thế nào. Việc xây dựng chiến lược sẽ có nhiều cách khác nhau. Nhưng điểm
chung nhất là từ những tầm nhìn lớn, ta sẽ đưa ra các định hướng lớn, các chiến
lược bộ phận cụ thể cho từng mảng, từng bộ phận. Từ đó, thiết lập các KPIs (chỉ số
mục tiêu - Key perfomance indicators) cho từng cấp theo chiều dọc hoặc chiều
ngang, để cụ thể hóa các mục tiêu đề ra của ngân hàng.


Điều chỉnh lãi suất Ngân hàng.

Từ năm 2009 đến nay, mặt bằng lãi suất đã có nhiều biến động theo những thăng
trầm của nền kinh tế. Về cơ bản, lãi suất tăng mạnh trong giai đoạn 2009-2011 do
lạm phát tăng cao khiến NHNN phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ. Điều này
đã dẫn tới hiện tượng khan hiếm tiền đồng trên toàn hệ thống, thúc đẩy các ngân
hàng bước vào cuộc chạy đua lãi suất mặc dù NHNN đã đưa ra nhiều chính sách để
hạn chế tình trạng tăng lãi suất.
Năm 2011, NHNN đã 2 lần tăng lãi suất chiết khấu (từ 7% năm 2010 lên 13%), 4
lần tăng lãi suất tái cấp vốn (từ 9% lên 15%), 5 lần tăng lãi suất OMO (từ 8% lên
15%). Lãi suất cơ bản đã được giữ nguyên 9% kể từ năm 2010.

Lãi suất bắt đầu leo thang kể từ đầu tháng 5/2011, có thời điểm huy động VND lên
đến 20%/năm, lãi suất cho vay nông nghiệp nông thôn lên 16,5-20%/năm, cho vay
phi sản xuất từ 25-28%/năm.
Quy định trần lãi suất 14%/năm khiến các NHTM gặp khó về thanh khoản và phải
đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao. Cá biệt, có những giao dịch
lãi suất lên tới mức 30-40%/năm kỳ hạn 1 tháng.

3
1


Khi NHNN chủ trương hạ lãi suất vào những tháng cuối năm 2011, lãi suất liên
ngân hàng đã hạ nhiệt nhờ NHNN bơm một lượng vốn đáng kể trên thị trường
OMO


Trọng tâm hỗ trợ lãi suất

Ngân hàng đón chính sách hỗ trợ lãi suất hồ hởi, nhưng triển khai thận trọng. Đây
là chính sách chưa có trong tiền lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng tiếp
cận khách hàng và tăng trưởng tín dụng tốt hơn (lãi suất thấp, khả năng trả nợ của
doanh nghiệp tốt hơn). Ngược lại, vì chưa có tiền lệ, có nhiều thủ tục và vướng
mắc trên thực tế nên có sự thận trọng trong triển khai.
Tính đến ngày 17/12/2009, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đã đạt 415.216,48 tỷ
đồng. Trong đó, dư nợ của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước và quỹ tín dụng
nhân dân Trung ương đạt 276.668,75 tỷ đồng; nhóm ngân hàng thương mại cổ
phần đạt 108.762,04 tỷ đồng; nhóm ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài đạt 21.222,83 tỷ đồng; công ty tài
chính đạt 8.562,86 tỷ đồng.



Tăng trưởng tín dụng vượt định hướng

Từ cuối năm 2008, chính sách tiền tệ bắt đầu có sự chuyển hướng, từ thắt chặt sang
dần nới lỏng. Cùng với chủ trương kích cầu và ngăn chặn suy giảm kinh tế, sự
chuyển hướng trên là một yếu tố tạo điều kiện để tín dụng tăng trưởng mạnh trở lại
trong năm 2009.
Tuy nhiên, so với các mốc định hướng mà Ngân hàng Nhà nước dự kiến ở các thời
điểm trong năm, tăng trưởng tín dụng thực tế đã vượt xa. Cụ thể, đầu năm, tăng
trưởng tín dụng dự kiến từ 21% - 23%; giữa năm là định hướng không quá 30%;
còn theo dự tính cả năm con số này thực tế có thể lên tới trên 36%, tăng mạnh so
với năm 2008 (21%) và ở mức cao trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây.
Tăng trưởng tín dụng cao năm 2009 cũng là một cơ sở để Ngân hàng Nhà nước
xem xét bắt đầu có hướng thắt chặt dần chính sách tiền tệ, cụ thể ở tín hiệu nâng lãi
suất cơ bản, phòng ngừa lạm phát cao có thể trở lại trong năm 2010.


Huy động vốn góp từ các ngân hàng ngoại

Tập trung cấp giấy phép từ cuối năm 2008, bước sang năm 2009, hệ thống ngân
hàng Việt Nam bắt đầu đón nhận những ngân hàng 100% vốn ngoại đầu tiên.

4
1


Những thành viên mới này được hoạt động đẩy đủ hơn, cạnh tranh toàn diện hơn
thay vì phụ thuộc vào các điều kiện kinh doanh hạn chế trước đó.
Trong năm 2009, 5 ngân hàng đầu tiên của khối này đã nhận giấy phép, thành lập
và mở rộng hoạt động, gồm HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và Hong

Leong; trong đó, HSBC và ANZ đã nhanh chóng khai trương nhiều điểm giao dịch
mới. Lợi thế của khối này và áp lực cạnh tranh đã được đề cập nhiều từ năm 2007
và nay đang dần hiện hữu.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, khối các tổ chức tín dụng nước ngoài tại
Việt Nam hiện có 45 chi nhánh của 33 ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên
doanh với hơn 20 chi nhánh phụ thuộc, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 8 tổ
chức tín dụng phi ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài; ngoài ra còn có 56 văn
phòng đại diện của các tổ chức tín dụng khác.
Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước, nhóm thành viên này hiện đang hoạt
động hiệu quả. Dự tính, năm 2009, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân
hàng 100% vốn nước ngoài đạt mức thu nhập trước thuế đạt 2.612 tỷ đồng, nguồn
vốn huy động và dư nợ tín dụng tăng 17,8% và 10,8%, tổng tài sản có tăng 14% so
với cuối năm 2008; các ngân hàng liên doanh đạt thu nhập trước thuế 477 tỷ đồng,
huy động vốn tăng 18,2%, dư nợ tín dụng tăng 34,3%, tổng tài sản có tăng 18,3%
so với cuối năm 2008.


Tăng trưởng tín dụng ngoại tệ

Năm 2010, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt 29,81%; trong đó tín dụng VND
tăng 25,3%; tín dụng ngoại tệ tăng 49,3%. Nếu trừ hư số do tỷ giá và giá vàng tăng
thì tổng dư nợ tăng 27,6%; trong đó tín dụng VND tăng 25,3%, tín dụng ngoại tệ
tăng 37,7%.
Hạ dự trữ bắt buộc, mở rộng đối tượng được vay và đặc biệt là chênh lệch lớn về
lãi suất là những yếu tố chính tạo nên một năm hiện tượng với sự bùng nổ của tín
dụng bằng ngoại tệ. Đây được cho là một áp lực nổi bật đối với những biến động
của thị trường ngoại hối.
Năm 2010 cũng ghi nhận sự khác biệt khi tốc độ tăng trưởng huy động luôn cao
hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng trong phần lớn thời gian của năm. Tuy nhiên, trong
hai tháng cuối năm, huy động vốn tăng chậm và tín dụng tăng cao hơn. Tính

chung, huy động vốn cả năm tăng 27,2%; nếu trừ hư số do tỷ giá và giá vàng tăng
thì huy động vốn tăng 24,5%.

5
1




Siết kinh doanh vàng

Năm 2010 ghi nhận sự can thiệp mạnh của nhà quản lý đối với hoạt động kinh
doanh vàng của các tổ chức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước chính thức chỉ đạo
đóng cửa các sàn giao dịch vàng, tất toán trạng thái kinh doanh vàng trên tài khoản
ở nước ngoài.
Thị trường vàng trong năm 2010 cũng chứng kiến nhiều biến động, trong đó có
những thời điểm giá trong nước vượt trội so với giá thế giới. Biện pháp mà nhà
điều hành thường đưa ra là cho phép nhập khẩu để bình ổn, trong khi vẫn còn
những tranh cãi quanh con số khoảng 1.000 tấn vàng nằm trong dân.
II.

VỐN TỰ CÓ VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN NỘI LỰC

Nhân tố vốn tự có được các nhà làm luật ví như tấm đệm chống đỡ rủi ro cho ngân
hàng, bảo vệ các khách hàng của ngân hàng. Vì vậy hầu hết các hoạt động của
ngân hàng đều bị giới hạn theo mức vốn tự có thực tế của ngân hàng. Chúng ta có
thể thấy rõ điều này thông qua những quy định an toàn vốn của ủy ban Basel. Cụ
thể như

(Nguồn: Tạp chí tài chính)

Tại Việt Nam, những quy định về an toàn vốn này phải sau hơn 11 năm kể từ ngày
Basel 1 ra đời mới được nghiên cứu và áp dụng.
Năm 1999, hệ số CAR đầu tiên được quy định tại Việt Nam theo Quyết định số
297/1999/QĐ - NHNN ngày 25/8/1999 ban hành quy định về các tỷ lệ bảo đảm an
toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng chính thức. Theo đó, Quyết định nêu rõ
tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% nhưng phương pháp tính đơn giản và chưa phản
ánh đầy đủ nội dung Basel I.

6
1


Ðến năm 2005, NHNN đã ban hành Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN với tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu vẫn là 8% nhưng phương pháp tính toán đã tiếp cận tương đối
toàn diện Basel I. Năm 2010, NHNN ban hành Thông tư số 13/TT-NHNN thay thế
Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN, nâng tỷ lệ an toàn tối thiểu lên 9% và phương
pháp tính toán đã từng bước tiếp cận Basel II.
Việc đảm bảo an toàn và phát triển vốn là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt trong
hoạt động kinh doanh của NHTM. Để đảm bảo an toàn cho phần tài sản có chứa
đựng rủi ro, ngân hàng cần duy trì một mức vốn tự có cần thiết được đo bằng tỷ lệ
vốn an toàn tối thiểu. Theo quy định của hiệp ước BASEL và theo quy định tại
thông tư 13/2010/TT-NHNN, hệ số an toàn vốn (viết tắt là CAR: Capital Adequacy
Ratio) của các NHTM Việt Nam tối thiểu là 8%. Đến cuối năm 2013, các NHTM
Việt Nam thuộc nhóm nghiên cứu có hệ số CAR đều trên 9%.
Bảng 1.3 Tỷ lệ cho vay của các NHTM Việt Nam
(Nguồn Báo cáo tài chính các NHTM Việt Nam thời kỳ 2009-2013)
Đơn vị tính:%
STT

Ngân hàng


2009

2010

2011

2012

2013

1

Agribank

75.70

79.02

77.75
%

78.38
%

78.06
%

2


Vietcombank

54.00

55.70

64.70
%

58.19
%

59.01
%

3

BIDV

77.67

80.23

82.98
%

74.62
%

72.68

%

4

Vietinbank

66.94

64.11

63.81
%

72.71
%

67.08
%

5

ACB

58.71

42.16

36.23
%


58.41
%

64.55
%

6

TCB

45.32

34.81

34.65
%

42.98
%

38.82
%

7
1


Trung bình

63.06


59.34

60.02
%

64.22
%

63.37
%

Năm 2011, lần đầu tiên Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ động công bố tỷ lệ nợ
xấu trong các ngân hàng. Theo đó, nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng ở mức 3,6 3,8% tổng dư nợ. Con số này tới cuối năm 2012, theo công bố của NHNN là 4,08
%, cho dù theo các tổ chức đánh giá độc lập thì con số thực tế cao hơn nhiều.
Bước sang năm 2013, tỷ lệ nợ xấu vẫn tiếp tục tăng cao, chạm mức 4,67% vào
tháng 4/2013. Tuy nhiên, con số mà NHNN vừa cập nhật tỷ lệ nợ xấu trong tổng
dư nợ tín dụng tính đến tháng 6/2013 chỉ còn ở mức 4,46%, giảm đáng kể so với
mức 4,65% tính đến cuối tháng 5/2013.
Dữ liệu cập nhật mới nhất cho thấy, nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) đã
giảm tháng thứ 2 liên tiếp với mức đáng kể...
Tuy nhiên, con số trên được NHNN cập nhật trên cơ sở báo cáo định kỳ của các
TCTD. Còn con số qua giám sát từ xa của cơ quan này, thường cao hơn nhiều, và
hiện chưa có công bố chính thức để so sánh. Nhiều chuyên gia kinh tế cũng lo
ngại, con số thực mà các ngân hàng chưa công bố còn cao hơn mức trên không
ít.Vì vậy, trên thực tế, nợ xấu vẫn là vấn đề đáng báo động.
Hiện tại, đã có khoảng 15 ngân hàng công bố báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm.
Trong số các ngân hàng đã niêm yết thì tỷ lệ nợ xấu của SHB đang dẫn đầu với
9%, tiếp đến là Navibank với 6,1% và TechcomBank (5,28%). Các ngân hàng còn
lại đều có nợ xấu dưới 3% như ACB 2,99%; Sacombank 2,55%; Vietinbank 2,1%;

Vietcombank 2,81%; Eximbank 1,49% và MB 2,44%.
Như vậy, theo báo cáo của các ngân hàng, nợ xấu có vẻ đã giảm khi hầu hết ngân
hàng đều có tỷ lệ nợ xấu dưới mức 3%- mức được xem là an toàn, nằm trong tầm
kiểm soát. Tuy nhiên, theo tính toán, các ngân hàng này chiếm khoảng 75% tổng
dư nợ của toàn hệ thống. Điều này cho thấy, các khoản nợ xấu vẫn đáng lo ngại,
đặc biệt là sự gia tăng liên tục của nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Tại thời
điểm 30/06/2013, nợ nhóm 5 đã chiếm gần 50% tổng nợ xấu của các ngân hàng

8
1


này, tức là chỉ tính riêng với nhómcác ngân hàng niêm yết đã lên tới hơn 14 nghìn
tỷ đồng.
III. MÔI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ XÃ HỘI TRONG NƯỚC
1. Chu kỳ phát triển kinh tế

Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một yếu tố vĩ mô có tác động trực tiếp đến
mọi hoạt động của các ngân hàng thương mại nên ảnh hưởng đến hoạt động tín
dụng. Từ năm 2009 đến nay, mặt bằng lãi suất đã có nhiều biến động theo những
thăng trầm của nền kinh tế. Về cơ bản, lãi suất tăng mạnh trong giai đoạn 20092011 do lạm phát tăng cao khiến NHNN phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ.
Điều này đã dẫn tới hiện tượng khan hiếm tiền đồng trên toàn hệ thống, thúc đẩy
các ngân hàng bước vào cuộc chạy đua lãi suất mặc dù NHNN đã đưa ra nhiều
chính sách để hạn chế tình trạng tăng lãi suất.
Độ sâu tài chính, hay quy mô của ngành ngân hàng so với tổng thể nền kinh tế Việt
Nam đã thay đổi đáng kể cùng với sự tăng trưởng tín dụng. Năm 2000, tỷ lệ tín
dụng/GDP chỉ đạt 35,1%, khá thấp so với các nước trong cùng khu vực (Thái Lan
(138%), Singapore (78%), Philippines (58%), Trung Quốc (120%)). Tuy nhiên, sau
mười năm tăng trưởng tín dụng quá mức, năm 2010, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt
Nam đạt đỉnh ở mức 135,8%. Tỷ lệ tín dụng/GDP ở Việt Nam năm 2012 đạt

115,4%.
-

-

Năm 2009: Tình trạng mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và cho vay đã khiến
cho hầu hết các NHTM tham gia vào cuộc chạy đua lãi suất huy động bắt đầu từ
tháng 2 khi Chính phủ triển khai chương trình cho vay hỗ trợ lãi suất 4% đến hết
năm 2009. Để thu hút nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư, các NHTM đã điều chỉnh
tăng lãi suất huy động tại tất cả các kỳ hạn. Trong 10 tháng khi lãi suất cơ bản ở
mức 7%, lãi suất huy động tăng từ 1-2,5% cho mỗi kỳ hạn. Từ đầu tháng 12 khi lãi
suất cơ bản tăng 1% lên mức 8%, các ngân hàng tiếp tục nâng lãi suất huy động,
đặc biệt tại các kỳ hạn ngắn, khoảng từ 1-1,6% cho các kỳ hạn khác nhau. Với diễn
biến này, Ngân hàng Nhà nước phát thông điệp kiểm tra toàn diện các trường hợp
có lãi suất huy động từ 10,5%/năm trở lên khiến nhiều NHTM đồng loạt áp lãi suất
ở mức 10,49%/năm. Đáng chú ý, mặc dù lãi suất huy động đã được điều chỉnh tăng
nhưng vẫn còn thấp so với lợi suất của các kênh đầu tư khác như chứng khoán,
vàng, và bất động sản.
Năm 2010, NHNN đã duy trì lãi suất cơ bản bằng VND ổn định ở mức 8% trong
suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối

9
1


-

-

-


năm trước sức ép của lạm phát. Tính đến cuối năm 2010, mặt bằng lãi suất huy
động VND khoảng 2,4-3,0% đối với không kỳ hạn; 12,0-13,5% đối với cá kỳ hạn
dưới 12 tháng; và 12,0-13,0% với kỳ hạn trên 12 tháng. Đến tháng 7/2010, để tạo
sự thống nhất về mặt bằng lãi suất huy động trên thị trường, NHNN và Hiệp hội
Ngân hàng đã yêu cầu các NHTM đồng thuận giảm lãi suất huy động vốn bằng
VND để góp phần thực hiện hạ mặt bằng lãi suất của thị trường theo Nghị quyết
23/NQ-CP ngày 7/5/2010 của Chính phủ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản
xuất trong nền kinh tế tiếp cận được với vốn của khu vực ngân hàng khi mà tăng
trưởng tín dụng có xu hướng giảm hoặc tăng nhẹ trong những tháng đầu năm. Lãi
suất cho vay trong hai tháng cuối năm ở mức khá cao (khoảng 14,5-18%).
Năm 2011, Tình hình lãi suất từ đầu năm tới hết quý III/2011 đã có chuyển biến rất
nhiều và diễn biến khá phức tạp qua các thời kỳ. Trong 3 tháng đầu năm, lạm phát
tăng cao dẫn đến lãi suất huy động có xu hướng tăng trên thị trường. Trước tình
hình đó, NHNN đã ban hành Thông tư 02/2011/TT-NHNN quy định mức lãi suất
huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam không vượt quá 14%/năm, nhằm tránh
một cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng, gây bất ổn cho hệ thống. Tuy nhiên, tỷ lệ
lạm phát tăng cao (lạm phát bình quân cả năm 2011 ở mức 18,58% so với năm
2010), hơn mức trần lãi suất (14%/năm) đã khiến lãi suất huy động thực tế đang ở
mức âm. Vì thế, trong thời gian này các ngân hàng thương mại đã “xé rào” lãi suất
huy động cả VNĐ và USD, huy động vốn với mức lãi suất bình quân khoảng 1718%/năm, lãi suất cho vay VNĐ bình quân thực tế khoảng 18,74%/năm, trong đó
lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất đã lên đến 22-25%/năm.Lãi suất cho vay
VNĐ phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 14,517%/năm, thấp nhất 13,5%/năm; cho vay sản xuất - kinh doanh khác 17-20%/năm,
thấp nhất 15%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất 22-25%/năm.
Năm 2012, sau 5 lần điều chỉnh của NHNN, trần lãi suất huy động VND đã giảm
tổng cộng 6%, từ mức 14% xuống còn 8% tại thời điểm cuối năm. Cũng giống như
lãi suất huy động, lãi suất cho vay VND được điều chỉnh giảm từ 1-3%/năm đối
với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp
nhỏ và vừa, sản xuất – kinh doanh… phổ biến ở mức 14,5-16%/năm, thấp nhất
13,5%/năm áp dụng đối với khách hàng doanh nghiệp cam kết bán ngoại tệ cho

ngân hàng; cho vay sản xuất – kinh doanh khác 16,5-20%/năm, thấp nhất
15%/năm, cho vay lĩnh vực phi sản xuất 20-25%/năm. Lãi suất cho vay USD vẫn ở
mức cao, phổ biến ở mức 6-7,5%/năm đối với ngắn hạn, 7,5-9%/năm đối với trung
và dài hạn.
Năm 2013, trong năm 2013, mặt bằng lãi suất trên thị trường có mức giảm mạnh,
vào khoảng 0,8-1,5% đối với các kỳ hạn dưới 1 năm và lên tới 2,5-3,5% đối với

10
1


các kỳ hạn trên 1 năm so với cuối năm 2012. Nguyên nhân là do năng lực tài chính
của các TCTD được cải thiện đáng kể, các TCTD cũng điều chỉnh giảm lãi suất
thay vì bám sát trần huy động như giai đoạn trước. Đến cuối năm 2013, lãi suất cho
vay phổ biến trong khoảng 8-11,5%/năm kỳ hạn ngắn và 11,5-13%/năm trung dài
hạn. Trong đó, các lĩnh vực ưu tiên lần lượt là 8-9%/năm và 11-12%/năm; các lĩnh
vực khác là 9-11%/năm và 11,5-13%/năm. Đặc biệt, một số doanh nghiệp có tình
hình tài chính lành mạnh, minh bạch, phương án, dự án sản xuất kinh doanh hiệu
quả đã được vay với mức lãi suất chỉ từ 7-7,5%/năm.

2. Tình hình vĩ mô ( Môi trường kinh tế địa phương).
- Năm 2008, cuộc khủng hoảng giá lương thực và giá dầu toàn cầu gây ra lạm

phát cao ở Việt Nam ở mức 19,89% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số CPI
giảm xuống đáng kể từ Quý 2/2009 đến cuối năm 2009, kết thúc năm ở mức
6,52% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số này lại bắt đầu xu hướng đi lên từ
đầu năm 2010 khi nó đạt đỉnh ở mức 23,02% vào tháng 08/2011, một phần
do chính sách nới rộng tiền tệ được thực hiện vào năm 2009 và nửa đầu năm
2010. Chỉ số này sau đó đã quay đầu giảm xuống
chỉ còn 6,9% vào tháng 06/2012.


11
1


Trước tình hình lạm phát ở mức cao năm 2008, NHNN đã thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt trong sáu tháng đầu năm. Lãi suất cơ bản tăng dần từ
8,75% lên 14% . Lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn cũng đạt đỉnh lần
lượt ở mức 15% và 13%. Hệ quả là lãi suất huy động đạt đỉnh ở mức 20% và
lãi suất cho vay chạm tới 24-25%.
- Tuy nhiên, việc thắt chặt tiền tệ không thể kéo dài trước nguy cơ kinh tế suy
thoái do chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính toàn cầu.
Từ tháng 09/2008, NHNN đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt hơn bao
gồm việc cắt giảm lãi suất hoạt động. Lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu và
lãi suất tái cấp vốn giảm xuống chỉ còn 8,5%, 7,5%, và 9,5% vào cuối năm
2008. Lãi suất cho vay cao nhất giảm xuống chỉ còn 12,75% và lãi suất huy
động cũng hạ xuống quanh mức 8%/năm. Vào tháng 02/2009, nhằm hỗ trợ
thanh khoản và hạ bớt lãi suất cho vay, NHNN đã hạ thấp lãi suất hoạt động
vốn đã được giữ mức thấp từ trước đó bằng một vài sự điều chỉnh nhỏ cho
tới cuối năm 2010 khi chính sách tiền tệ được định hướng lại.
 Lạm phát là một trong những nhân tố chủ chốt ảnh hưởng đến lãi suất tín
dụng. Khi lạm phát tăng lên một trong những biện pháp của Nhà nước để giảm
phát chính là áp dụng các biện pháp để hút bớt lượng tiền lưu thông về. Đồng
thời các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế đang nắm giữ lượng vốn, tiền cũng
sẽ không dám cho vay do lo sợ đồng vốn của mình sẽ bị mất giá, bởi vậy họ sẽ
chuyền hướng sang dự trữ các loại hàng hoá như vàng, ngoại tệ hay đầu tư ra
nước ngoài. Hai điều này khiến cho khả năng cung ứng vốn trên thị trường sẽ
giảm nhanh chóng, khi cung ứng vốn giảm thì tất yếu sẽ khiến cho lãi suất tang.
Khi áp dụng các biện phát nhằm kiềm chế lạm phát cho sản xuất, đầu tư sẽ bị
thu hẹp khiến cho nền kinh tế có khả năng đi vào suy thoái .Chính bởi vậy một

khi lạm phát đã được kiềm chế, giảm phát thì Ngân hàng TW sẽ giảm lãi suất
tín dụng nhằm giúp cho các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong nền kinh tế dễ
dàng tiếp cận được nguồn vốn. Để có thể mở rộng sản xuất, đầu tư giúp cho nền
kinh tế phục hồi. Trong nền kinh tế thị trường thì lạm phát và lãi suất có mối
quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại mật thiết với nhau .
-

3. Môi trường chính trị, xã hội

Sự ổn định của môi trường chính trị, xã hội là một căn cứ quan trọng để ra quyết
định của các nhà đầu tư. Nếu môi trường này ổn định thì các nhà đầu tư sẽ yên tâm
thực hiện việc mở rộng đầu tư và do đó nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng trung và
dài hạn tăng lên. Ngược lại nếu môi trường bất ổn thì họ sẽ tìm cách thu hẹp sản
xuất để bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro khi đó nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng. Môi

12
1


trường chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh, đặc
biệt đối với các hoạt động kinh doanh ngân hàng. Tính ổn định về chính trị trong
nước sẽ là một trong những nhân tố thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh có hiệu quả. Nếu xẩy ra các diễn biến gây bất ổn chính trị như: chiến tranh,
xung đột đảng phái, cấm vận, bạo động, biểu tình, bãi công,…có thể dẫn đến
những thiệt hại cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế nói chung (làm tê liệt sản xuất,
lưu thông hàng hoá đình trệ,…). Và như vậy, những món tiền doanh nghiệp vay
ngân hàng sẽ khó được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn, ảnh hưởng xấu đến chất
lượng tín dụng.
4. Môi trường pháp lý


Chúng ta đều nói “sống, làm việc theo hiến pháp và pháp luật”. Nếu mọi người
hiểu được quy định cuả pháp luật và tuân thủ những quy định của pháp luật, chúng
ta sẽ thực hiện được việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như
dự thảo văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X.
Hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung muốn phát triển
bền vững phải nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở tuân thủ các quy định của
pháp luật Việt Nam và áp dụng các chuẩn mực, thông lệ tốt của thế giới.
Để hiểu đúng những quy định của pháp luật trong từng lĩnh vực hoàn toàn không
đơn giản và để thực hiện đúng, hành xử đúng quy định của pháp luật phải trên cơ
sở hiểu đúng nội dung quy định của pháp luật.
Với nhận thức: hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng là lĩnh vực rộng lớn, vô
cùng phức tạp như những đặc điểm lớn đã nêu ở phần trên, chúng tôi muốn tìm
hiểu những quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng để cùng với những người
làm công tác tín dụng và với những khách hàng tín dụng cùng hiểu, làm đúng các
quy định của pháp luật. Trong bài này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến những vấn đề
cơ bản của pháp luật quy định về hoạt động tín dụng, còn nội dung cụ thể sẽ được
dẫn giải bởi những bài viết khác.
Trước hết, cần xác định danh mục các văn bản quy phạm pháp luật quy định về
hoạt động tín dụng. Theo chúng tôi, quan hệ tín dụng là quan hệ dân sự nên Bộ luật
Dân sự năm 1995 và được điều chỉnh, bổ sung năm 2005 của Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là văn bản pháp luật gốc, bao trùm - Luật các Tổ
chức tín dụng năm 1997 và được điều chỉnh, bổ sung năm 2004 cuả Quốc hội, là

13
1


quy định cụ thể. Căn cứ Bộ luật Dân sự, Luật các Tổ chức tín dụng, Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các Bộ liên quan đã ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết về: quy chế cho vay; quy

chế bảo lãnh; quy định an toàn tín dụng; quy định về bảo đảm tiền vay; quy định
về đăng ký giao dịch bảo đảm, về công chứng, chứng thực; quy định về thế chấp
giá trị quyền sử dụng đất,...
Điều cần chú ý là: các văn bản của các tổ chức tín dụng không phải là văn bản quy
phạm pháp luật.
Thứ hai, theo các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, cần chú ý các quy định
đối với tổ chức tín dụng:
• Các từ ngữ trong hoạt động tín dụng theo luật quy định như: Ngân hàng,
hoạt động tín dụng, cấp tín dụng, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng,
chiết khấu giấy tờ có giá, cho vay, nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay, giao
dịch bảo đảm, cầm cố tài sản, thế chấp tài sản,... Các khái niệm theo luật cho
từng loại doanh nghiệp; hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác; hợp tác xã... Những
từ ngữ này được nêu tại các văn bản quy phạm pháp luật.
• Xác định khách hàng tín dụng (vay vốn, thuê tài chính, nhận bảo lãnh) theo
quy định của pháp luật.
• Khi cấp tín dụng, bên chủ thể cấp tín dụng - các tổ chức tín dụng, theo quy
định của pháp luật có những việc phải làm (bắt buộc); những việc không
được làm (cấm); những việc làm bị hạn chế (làm có điều kiện): những việc
được quyền, được phép làm và những việc phải thoả thuận với khách hàng.
IV. XU THẾ HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu và đang diễn ra ngày càng sâu
rộng về nội dung và qui mô trên nhiều lĩnh vực.
Trong xu thế đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được bắt đầu từ
năm 1986, khi Đại hội Đảng lần thứ VI đã mở đường cho công cuộc đổi mới một
cách toàn diện theo hướng chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền

14
1



kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong các năm 2009-2013,
NHNN Việt Nam vẫn thể hiện vai trò tích cực trong tiến trình hợp tác tài chính tiền tệ khu vực ASEAN và ASEAN + 3, đặc biệt là Thống đốc Nguyễn Văn Giàu
đã chủ trì Hội nghị thường niên IMF/WB năm 2009 và Hội nghị NHTW các nước
ASEAN năm 2010.
Thực tế cho thấy, ngành Ngân hàng đã có nhiều nỗ lực cải cách đáng kể theo
hướng thị trường và mở cửa khu vực dịch vụ tài chính – ngân hàng trước yêu cầu
phát triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ bởi những tác động của quá trình hội nhập quốc tế, điều này thể hiện rõ
trong giai đoạn từ năm 2009 đến 2013.
-

Năm 2009, khủng hoảng tài chính toàn cầu tuy ít ảnh hưởng trực tiếp đến Việt
Nam vì chưa tham gia nhiều vào thị trường tài chính thế giới nhưng cuộc khủng
hoảng này đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa các ngân hàng (Libor
và Sibor, tức London Inter Bank offer rate, Singapore Inter Bank Offer rate)
thường được dùng làm lãi suất cơ sở để cho các xí nghiệp và ngân hàng Việt Nam
vay.
Ngoài ra, theo cam kết gia nhập WTO từ 2007, trong năm 2009 các ngân hàng
ngoại bắt đầu mở rộng tầm ảnh hưởng bằng việc thành lập những ngân hàng 100%
vốn nước ngoài tại Việt Nam như HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và
Hong Leong. Điều này tạo ra thách thức không nhỏ cho các NHTM Việt Nam,
khiến cho sự cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên quyết liệt. Lợi
nhuận từ dịch vụ thấp, các ngân hàng cổ phần lao vào tín dụng, cho vay chỉ chiếm
20% cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng nước ngoài, nhưng lại chiếm đến 75-80% lợi
nhuận của Ngân hàng nội. Sự lệch pha đó dẫn đến sự lệch pha về chất lượng tín
dụng của hai khối. Năm 2009 tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng nước ngoài ở TPHCM
chỉ chiếm 0,63% tổng dư nợ; với ngân hàng cổ phần, tỷ lệ này là 1,39%, gấp hơn
hai lần tỷ lệ của ngân hàng nước ngoài. Còn so với ngân hàng quốc doanh, nơi nợ
xấu chiếm 2,02% tổng dư nợ, thì tỷ lệ nợ xấu của nước ngoài chỉ bằng một phần

ba. Xét về mặt tích cực, các TCTD nước ngoài là kênh truyền dẫn vào Việt Nam
các công nghệ ngân hàng hiện đại và kinh nghiệm quản trị ngân hàng tiên tiến,
đồng thời bổ sung nguồn tài chính không nhỏ cho thị trường tài chính Việt Nam.
Bên cạnh đó, xu hướng mở chi nhánh ở nước ngoài cũng được nhiều ngân hàng
thương mại khác tại Việt Nam triển khai, nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các khách hàng

15
1


là những DN đang hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Từ rất sớm, Ngân hàng TMCP
Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đã mở chi nhánh tại Lào (năm 2008) và
Campuchia (từ năm 2009).
-

Năm 2010, các ngân hàng tiếp tục mở rộng ra thị trường nước ngoài, điển hình là
ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là đơn vị tiên phong mở chi
nhánh ở thị trường Myanmar.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng của NHTM cũng chịu sự ảnh hưởng của Hiệp ước
Basel. Hiệp ước Basel I ra đời từ năm 1988 nhưng phải 17 năm sau Việt Nam mới
bắt đầu thực hiện theo Basel I với sự ra đời của hai quyết định quan trọng: quyết
định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/04/2005, quyết định này sau đó đã được thay
thế bằng Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 và Thông tư 19/2010/TTNHNN ngày 27/09/2010, về đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các
TCTD. Các quy định này nhìn chung đã theo tinh thần của Basel I, tuy nhiên mức
độ vận dụng Basel I của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn chưa đầy đủ do thiếu cơ
sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở dữ liệu. Cụ thể, tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng
thương mại lớn dù đã đạt mức 8%, nhưng các tỷ lệ này được tính toán trên cở sở
các chuẩn mực kế toán Việt Nam. Nếu tính toán dựa trên các chuẩn mực kế toán
quốc tế, tỷ lệ này sẽ bị thiếu hụt. Hơn nữa, các ngân hàng Việt Nam mới chỉ đo
lường rủi ro tín dụng trong phép tính CAR mà chưa lượng hóa những rủi ro quan

trọng khác như rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, do đó chưa tính toán được tỷ lệ
CAR thực sự.

-

Bước sang năm 2011, mọi rào cản đối với ngân hàng nước ngoài theo cam kết năm
2007 khi Việt nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, được tháo
dỡ. Tại Việt nam, CAR của nhiều ngân hàng thương mại đã vượt 9% mà NHNN
đặt ra tại Thông tư 13. Ví dụ, đến thời điểm 31/12/2010 : VCB xấp xỉ 10%; ACB:
10,6%; Eximbank: 17,8%...Nhưng, nếu theo cách tính hệ số an toàn vốn tối thiểu
của Basel (có tính đến vốn dành cho rủi ro thị trường) thì số các NHTMVN đạt
chuẩn chắc chắn sẽ không nhiều. Nợ xấu có chiều hướng giảm nhưng vẫn ở mức
cao, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống các NHTM là 2,5% . Dễ dàng nhận thấy một sự
lệch pha nhau trong chiến lược kinh doanh của các ngân hàng thương mại trong
nước và nước ngoài. Trong khi các NHTM trong nước vẫn tiếp tục cuộc chiến cạnh
tranh khốc liệt nhằm phát triển tín dụng, chạy đua lãi suất để thu được lợi nhuận
cao thì các NH nước ngoài đi sâu phát triển các lĩnh vực tài chính doanh nghiệp,
kinh doanh vốn trên thị trường ngoại hối; nghiệp vụ ngân hàng toàn cầu, TTQT và
cung ứng dịch vụ lưu ký chứng khoán, vốn vẫn được coi là thế mạnh của ngân
hàng ngoại.

16
1


Hội nhập quốc tế còn là cơ hội để các ngân hàng thu hút vốn từ cổ đông chiến lược
nước ngoài, phục vụ cho hoạt động của mình. Năm 2011, hàng loạt ngân hàng đã
tăng vốn được nhờ việc bán cổ phần cho đối tác ngoại. Riêng hai ngân hàng lớn là
Vietinbank và Vietcombank đã tìm được đối tác chiến lược. Vietinbank chào bán
hơn 168,58 triệu cổ phần cho các tổ chức đầu tư thuộc Tổ chức tài chính quốc tế IFC. Đồng thời, Vietinbank bán tiếp 15% cổ phần cho Bank of Nova Scotia của

Canada. Đến tháng 9/2011, Vietinbank trở thành ngân hàng Việt đầu tiên vươn hệ
thống của mình sang Đức, khi mở chi nhánh tại TP Frankfurt (Đức) và sau đó là
thêm nhiều chi nhánh tại các TP khác trên thế giới. “Sau hơn 2 năm, đến nay chi
nhánh ở Đức đã hoạt động một cách bài bản, theo tiêu chuẩn của một ngân hàng
thương mại hiện đại cả về thể chế, nhân sự, công nghệ và cơ sở vật chất tại một thị
trường đã phát triển”, lãnh đạo Vietinbank chia sẻ.
-

Năm 2012-2013
Sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008, Thủ tướng đã ban hành quyết định
254/2012/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 phê duyệt đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức
tín dụng, trong đó đã đề cập đến định hướng và mục tiêu hoàn thành triển khai các
chuẩn mực an toàn vốn theo Basel II đến năm 2015. Cụ thể, NHNN sau đó đã ban
hành Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 để thay thế cho quyết định
493 và quyết định 780 (về việc phân loại nợ đã được điều chỉnh, gia hạn). So với
quyết đinh 493, Thông tư 02 có rất nhiều thay đổi, và có tính tuân thủ cao hơn đối
với hiệp ước Basel II. Những thay đổi bao gồm: bổ sung phân loại và trích lập dự
phòng cho một số tài sản; định giá tài sản đảm bảo; các khoản vay vi phạm phải bị
phân loại nợ nhóm 3, các ngân hàng phải lấy thông tin từ Trung tâm Thông tin Tín
dụng đề phân loại nợ; những quy định này giúp đánh giá chất lượng tài sản của các
TCTD chính xác hơn.
Việc chinh phục các thị trường khu vực, quốc tế tiếp tục được các nhà băng nội
quan tâm. Đến năm 2012, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank)
cũng được Chính phủ Myanmar cấp giấy phép thành lập văn phòng và bắt đầu hoạt
động từ năm 2013. Tại Lào, chi nhánh của Vietinbank cũng đạt kết quả khả quan.
Tính đến cuối năm 2013, vốn điều lệ của Vietinbank chi nhánh Lào đạt 22 triệu
USD (512.6 tỷ đồng), dư nợ đạt 50,4 triệu USD, tăng 104,9% so với năm trước.

Qua thực trạng trên cho thấy, bên cạnh những thách thức cũng như áp lực cạnh
tranh, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng còn tạo ra động lực thúc đẩy công


17
1


cuộc đổi mới và nâng cao tính minh bạch, tính tự chịu trách nhiệm, qua đó nâng
cao hiệu quả điều hành trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng nói chung và cải thiện chất
lượng tín dụng nói riêng.

18
1



×