Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng 2009 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.34 KB, 17 trang )

z


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG

Đề tài:
PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG TRONG GIAI ĐOẠN
2009-2013

GVHD: ThS. Nguyễn Thị Minh Châu
Lớp: D09


Mục lục

A. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
I. Các nhân tố từ ngân hàng
1. Chính sách tín dụng của Ngân hàng
Chính sách tín dụng của là một trong những chính sách trong chiến lược kinh doanh
của doanh nghiệp. Đó là yếu tố đầu tiên tác động dến việc cung ứng vốn cho nền kinh
tế.Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh
lời từ hoạt động tín dụng trên cơ sở hạn chế rủi ro, tuân thủ phương pháp, đường lối chính
sách của Nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội. Điều đó cũng có nghĩa chất lượng tín
dụng tuỳ thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại có đúng
đắn hay không. Bất cứ Ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng tốt cũng đều phải có
chính sách tín dụng khoa học, phù hợp với thực tế của ngân hàng cũng như của thị trường.



Tốc độ tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2009-2013 đã giảm đáng kể,đạt cao nhất vào năm
2009. Thị trường đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng huy động và tín dụng thấp nhất kể từ
thập niên 90’. Tăng trưởng tín dụng năm 2012 chỉ đạt 9,14%. Năm 2013, tăng trưởng tín
dụng chỉ đạt 6,87%, thấp hơn nhiêu chỉ tiêu 12% của NHNN đặt ra, và chậm hơn nhiều so
với sự tăng trưởng huy động.
Năm 2009, tín dụng tại các ngân hàng Việt Nam tăng trưởng nóng, mức tăng trưởng tín
dụng lên tới 38% trong khi con số này năm 2008 chỉ là 25%, dù vậy tăng trưởng tín dụng
năm 2009 vẫn trong xu thế đi lên .Yếu tố chính làm nên tăng trưởng tín dụng năm 2009
chính là chính sách nới lỏng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, cùng lúc đó chính phủ đưa
ra biện pháp kích thích tài khóa khiến nhu cầu đối với các khoản vay tăng cao, tăng trưởng
GDP năm 2009 được hỗ trợ. Phần lớn tiền được cho vay với lãi suất thấp theo chương
trình hỗ trợ lãi suất của chính phủ. Tổng giá trị các khoản vay mới năm 2009 đạt 505
nghìn tỷ đồng tương đương 28 tỷ USD, 89% trong số này là khoản vay được hỗ trợ lãi
suất.
Từ năm 2010-2013 tỷ lệ tăng trưởng tín dụng giảm.nhà nước thắt chặt tỉ lệ tăng trưởng tín
dụng,chính sách tín dụng trong trường hợp cần thắt chặt thì vẫn phải bảo đảm để các DN
chủ đạo trong nền kinh tế nắm giữ đủ lượng tiền mặt để tránh các tác động tiêu cực từ thắt
chặt tín dụng. Đây là một trong quan điểm xuyên suốt của NHNN trong việc điều hành
chính sách tiền tệ. Kiểm chứng lại danh mục tín dụng đối với nền kinh tế và danh mục đầu
tư trái phiếu Chính phủ, trái phiếu DN của hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể thấy đây
là điểm nổi bật và đáng mừng nhất là tổng dư nợ cho vay và đầu tư đối với nền kinh tế
luôn duy trì được tỷ trọng cho vay kinh tế thực (sản xuất kinh doanh) chiếm trên 92,6%,
đầu tư cho sản phẩm tài chính 7,4%; trong đó dư nợ ngoại tệ giảm 1,56%, rất đúng yêu cầu
chống đô la hóa trong nền kinh tế.
Như vậy, tín dụng cho nền kinh tế tuy tăng trưởng chậm lại, song là sự điều chỉnh cần
thiết và là đáng mừng trong quá trình diễn ra của tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, một
trong ba trụ cột của tái cấu trúc nền kinh tế.



2. Quy trình tín dụng
Quy trình tín dụng là tập hợp những nội dung, nghiệp vụ cơ bản, các bước tiến hành
trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng.Trong quy trình tín
dụng, bước chuẩn bị cho vay rất quan trọng . Bao gồm 3 giai đoạn: khai thác và tìm kiếm
khách hàng; hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và thành lập hồ sơ vay; phân tích
thẩm định khách hàng và phương án, dự án vay vốn. Chất lượng tín dụng tuỳ thuộc nhiều
vào chất lượng công tác thẩm định và quy định về điều kiện, thủ tục cho vay của từng
ngân hàng thương mại.
Kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay giúp cho ngân hàng nắm được diễn biến của khoản
tín dụng đã cung cấp cho khách hàng để có những hành động điều chỉnh can thiệp khi cần
thiết, sớm ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra. Việc lựa chọn và áp dụng có hiệu quả các hình
thức kiểm tra sẽ thiết lập được một hệ thống phòng ngừa hữu hiệu, giảm rủi ro tín dụng,
nói cách khác sẽ nâng cao chất lượng tín dụng.
Thu hồi và giải quyết nợ là khâu quyết định đến chất lượng tín dụng. Sự nhạy bén của
ngân hàng trong việc kịp thời phát hiện những biểu hiện bất lợi xảy ra đối với khách hàng
cũng như những biện pháp xử lý kịp thời, tư vấn cho khách hàng sẽ giảm thiểu được
những khoản nợ quá hạn và điều đó sẽ có tác dụng tích cực đối với hoạt động tín dụng.
Đồng thời với các bước trong quy trình tín dụng là công tác thu thập thông tin. Thông tin
tín dụng càng nhanh, càng chính xác và toàn diện thì khả năng phòng chống rủi ro tín dụng
càng tốt.
Tỉ lệ nợ xấu trong giai đoạn 2009 – 2013 có xu hướng tăng nhanh,Đến cuối năm 2009
tỷ lệ nợ xấu là 2,6% và 2010 khoảng 3% tổng dư nợ tín dụng nên vẫn nằm trong tỷ lệ an
toàn cho phép của NHNN. Năm 2011,nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng ở mức 3,6 - 3,8%
tổng dư nợ. Con số này tới cuối năm 2012, theo công bố của NHNN là 4,08 %, cho dù
theo các tổ chức đánh giá độc lập thì con số thực tế cao hơn nhiều. Bước sang năm 2013,
tỷ lệ nợ xấu vẫn tiếp tục tăng cao, chạm mức 4,67% vào giữa năm 2013,về cuối năm 2013,
tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam là 3,79% - giảm gần 1% so với hồi đầu
năm 2013. Việc tỉ lệ nợ xấu tăng cao trong giai đoạn này do những hạn chế trong công tác
quản trị, thẩm định, giám sát sử dụng vốn vay của ngân hàng. Nhìn chung, nguyên nhân sự
gia tăng tỉ lệ nợ xấu do áp lực cấp tín dụng cho doanh nghiệp nhà nước từ các ngân hàng



thương mại có vốn nhà nước chi phối cao. Cho đến nay, ngân hàng thương mại vẫn là
người cho vay lớn nhất đối với doanh nghiệp nhà nước vì các lý do khác nhau. Do vậy,
nhiều dự án kém hiệu quả cũng như một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động yếu kém
vẫn được vay vốn. Bên cạnh đó, việc sử dụng nguồn vốn không được kiểm soát một cách
chặt chẽ gây lãng phí lớn nguồn vốn vay. Trong bối cảnh chu kỳ kinh tế biến động bất
thường, hậu quả tất yếu là nhiều doanh nghiệp, dự án không đủ khả năng để trả nợ, góp
phần gia tăng nợ xấu trong khu vực này.
3. Công tác tổ chức ngân hàng
Tổ chức của ngân hàng cần cụ thể hoá và sắp xếp có khoa học, có tính linh hoạt trên cơ
sở tôn trọng các nguyên tắc đã quy định.Ngân hàng được tổ chức một cách có khoa học sẽ
đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, giữa các ngân hàng
với nhau trong toàn hệ thống cũng như với các cơ quan liên quan khác. Qua đó sẽ tạo điều
kiện đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng, quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín
dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các khoản tín dụng có vấn đề, từ đó nâng cao chất
lượng tín dụng.
Tính đến cuối năm 2013 tỉ lệ nợ xấu có dấu hiệu giảm dần về mức 3.67% . Nhìn chung
giai đoạn 2009-2013 vẫn giữ ở mức dưới 5%,chất lượng tín dụng được đánh giá là khá tốt
so với chuẩn mực kế toán chung. Nguyên nhân do hoạt động quản trị của các NHTM phát
triển tương xứng với quy mô hoạt động ngày càng mang tính chuyên nghiệp. Các NHTM
đã xây dựng quy mô tổ chức chặt chẽ để đáp ứng yêu cầu năng lực quản trị theo hướng
lành mạnh hóa và kiểm soát rủi ro.
Tuy nhên, giai đoạn này có sự tiềm tàng vì tỉ lệ rủi ro,với nhiều ngân hàng thương mại,
nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm tới 70% - 80% tổng nguồn, thậm chí đối với một số
ngân hàng, tỷ trọng này còn cao hơn, trong khi tỷ trọng cho vay trung hạn và dài hạn
không nhỏ. Với độ vênh lớn về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ, thì vấn đề thiếu thanh
khoản, tiềm ẩn rủi ro thanh toán là lớn. Mặt khác, do áp lực tăng tổng tài sản, nhiều ngân
hàng bằng mọi cách để có vốn, cách mà các ngân hàng thương mại sử dụng chủ yếu là
dùng lãi suất huy động cao, tất yếu lãi suất cho vay cũng rất cao. Lãi suất cho vay càng

cao, thì rủi ro càng cao.


4. Phẩm chất và trình độ cán bộ
Trong những năm gần đây, nguồn nhân lực được phát triển rất sôi động về cơ cấu, số
lượng, chất lượng do nhu cầu mở rộng nhanh mạng lưới kinh doanh. Sự phát triển quá
nhanh của các tổ chức tín dụng dẫn đến nguồn nhân lực có chất lượng cao, có đạo đức
nghề nghiệp thiếu, không đáp ứng được nhu cầu trong khi các công tác tuyển dụng, đào
tạo lại chưa được coi trọng nên rủi ro tác nghiệp và đạo đức gia tăng. Theo nghiên cứu của
Trường ĐH Tài chính- Marketing thực hiện vào tháng 5/2012 cho thấy, có khoảng 70%
nhân viên của ngân hàng đáp ứng được yêu cầu của công việc, 30% còn lại phải tiếp tục
đào tạo. Riêng đối với chi nhánh mới, nhất là ở tỉnh chỉ có 50% nhân viên đáp ứng được
yêu cầu công việc.
Ngoài ra khoảng 20-30% nhân viên tín dụng chưa nắm rõ các quy trình nghiệp vụ, yếu
về kiến thức pháp lý trong hồ sơ tín dụng, phân tích tài chính, quản lý và xử lý nợ; 50-60%
nhân viên yếu kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bán hàng, bán chéo sản phẩm, tổ chức công việc.
Mặt khác, đa số các quản lý trung và cao cấp tại các ngân hàng thương mại chủ yếu
được đề bạt qua hoạt động chuyên môn, thiếu kiến thức về quản lý, điều hành một chi
nhánh, một ngân hàng hiện đại, nên đôi khi chỉ một sơ suất nhỏ trong hoạt đọng quản lý
cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng.
5. Thực trạng hệ thống KSNB của ngân hàng thương mại
 Thực trạng về môi trường kiểm soát:
Các yếu tố của môi trường kiểm soát có chỉ số trung bình rất thấp cho thấy chất lượng
môi trường kiểm soát trong các NHTM hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập:
Hầu hết các NHTM chưa chú trọng đến việc quy định, truyền thông về tính chính
trực và các giá trị đạo đức;
- Ban Quản trị chưa thực sự quan tâm tới việc duy trì và phát triển KSNB trong ngân
hàng;
- Không phải lúc nào Ban Giám đốc cũng thận trọng trong việc xây dựng các ước
tính kế toán như trong việc phân loại nợ, trích lập dự phòng.

 Thực trạng về quy trình đánh giá rủi ro
-

Mặc dù NHTM đã xây dựng những văn bản trong việc đánh giá rủi ro. Tuy nhiên,
NHTM chưa thực sự chủ động vào việc nhận diện rủi ro, thường tập trung vào việc
phát hiện và giảm thiểu rủi ro.
 Thực trạng về hệ thống thông tin và trao đổi thông tin

Thực trạng về hệ thống thông tin và trao đổi thông tin: Hiện nay trong các NHTM,
với đặc điểm quy mô lớn, cơ cấu tổ chức bao gồm nhiều chi nhánh, phòng giao dịch
thì việc thiết lập các kênh thông tin hiện nay còn nhiều hạn chế. Trong một NHTM
thì thông tin chủ yếu diễn ra theo một chiều từ trên xuống dưới.


Thực trạng về hệ thống công nghệ thông tin: Một số bộ phận chưa đảm bảo việc
thực hiện các thủ tục bởi cán bộ có trình độ chuyên môn.
 Thực trạng về các hoạt động kiểm soát
Về cơ bản các NHTM đã ban hành các quy định, tuy nhiên chưa thực sự mô tả đầy
đủ nhiệm vụ của các thành viên trong tổ chức của mình. Tại một số TCTD có tình
trạng: thành viên của HĐQT tham gia trực tiếp vào việc phê duyệt các giao
dịch/quyết định kinh tế cụ thể. Bên cạnh đó, các cách thức kiểm soát khác nhau tại
ngân hàng chưa được áp dụng một cách đầy đủ và thường xuyên.
 Thực trạng về giám sát các kiểm soát

Qua kết quả của bảng khảo sát về chất lượng KSNB có thể nhận thấy, về cơ bản các
NHTM hiện nay chưa thực hiện duy trì thành phần giám sát các kiểm soát với điểm
trung bình rất thấp. Các nhà quản lý cấp cao chưa thực sự quan tâm tới việc kiểm
soát thường xuyên trong quá trình hoạt động thường chỉ khi có những sự kiện bất
thường xảy ra thì mới thực hiện kiểm soát.
6. Tình hình huy động vốn của ngân hàng thương mại nước ta

Lãi suất huy động VNĐ được điều chỉnh tại tất cả các kỳ hạn, đặc biệt tại các kỳ hạn
ngắn.
Trong năm 2009, những ngân hàng đã lỡ lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn quá
nhiều hoặc vay nhiều trên thị trường liên ngân hàng để đem cho vay lại đã phải điều chỉnh
tăng liên tục lãi suất huy động để thu hút nguồn tiền từ dân cư nhằm thu hút 1 nguồn nhàn
rỗi nhằm giải quyết bài toán thanh khoản. Trong 10 tháng khi lãi suất cơ bản ở mức 7%,
lãi suất huy động tăng từ 1-2,5% cho mỗi kỳ hạn. Từ đầu tháng 12 khi lãi suất cơ bản tăng
1% lên mức 8%, các ngân hàng tiếp tục nâng lãi suất huy động, đặc biệt tại các kỳ hạn
ngắn, khoảng từ 1-1,6% cho các kỳ hạn khác nhau. Tuy nhiều ngân hàng tăng lãi suất huy
động hơn mức cho phép qua các hình thức khuyến mãi nhưng vẫn không đáp ứng được
nhu cầu của thị trường.


Nguồn: TCTK
Năm 2011, lãi suất huy động tăng mạnh, Trong 3 tháng đầu năm, lạm phát tăng cao dẫn
đến lãi suất huy động có xu hướng tăng trên thị trường (lạm phát bình quân cả năm 2011 ở
mức 18,58% so với năm 2010), hơn mức trần lãi suất (14%/năm) đã khiến lãi suất huy
động thực tế đang ở mức âm. Vì thế, trong thời gian này các ngân hàng thương mại đã “xé
rào” lãi suất huy động cả VNĐ và USD, huy động vốn với mức lãi suất bình quân khoảng
17-18%/năm, lãi suất cho vay VNĐ bình quân thực tế khoảng 18,74%/năm, trong đó lãi
suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất đã lên đến 22-25%/năm.
Năm 2013, lãi suất huy động và cho vay VNĐ duy trì xu hướng giảm nhưng tốc độ đã
chậm lại so với năm 2012. Mặt bằng lãi suất trên thị trường có mức giảm mạnh, vào
khoảng 0,8-1,5% đối với các kỳ hạn dưới 1 năm và lên tới 2,5-3,5% đối với các kỳ hạn
trên 1 năm so với cuối năm 2012. Lãi suất cho vay VND cũng được điều chỉnh giảm thêm
3-4%/năm để hỗ trợ khách hàng. Đến cuối năm 2013, lãi suất cho vay phổ biến trong
khoảng 8-11,5%/năm kỳ hạn ngắn và 11,5-13%/năm trung dài hạn.
II. Các nhân tố từ khách hàng
Khách hàng vay:



Nguồn: Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
Lĩnh vực vay:

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Có thể thấy rằng lượng khách hàng vay tín dụng nhiều nhất luôn phải kể đến là các
doanh nghiệp. Trong đó, doanh nghiệp vay thường được nhắc tới là doanh nghiệp vừa và
nhỏ, doanh nghiệp nhà nước, hộ gia đình, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những
yếu tố ảnh hưởng đến tín dụng xuất phát từ khách hàng vay :
 Năng lực chuyên môn và kinh nghiệm kinh doanh của khách hàng: Nếu người lãnh

đạo chưa có uy tín và nhân cách, năng lực quản lý yếu kém, trình độ học vấn chưa
cao và không có nhiều kinh nghiệm quản lí thì dễ dẫn đến tình trạng công ty bị thua
lỗ, không có khả năng trả nợ cho ngân hàng. Điều này làm ảnh hưởng đến việc thu
lãi và nợ của ngân hàng, cũng như gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Chính vì
thế việc khi thẩm định cho vay, ngân hàng nào cũng sẽ có sự ưu tiên doanh nghiệp,
cá nhân có kinh nghiệm, thâm niên và đạt những thành công trong ngành hơn là
những doanh nghiệp mới gia nhập thị trường.
 Khách hàng cung cấp số liệu không trung thực: Để qua mắt hay đối phó với ngân
hàng trong việc vay vốn thông qua việc cung cấp số liệu không trung thực, cố ý
gian lận. Bằng nhiều thủ đoạn tinh vi hoặc lợi dụng sự tín nhiệm ngân hàng gây khó
khăn cho ngân hàng trong việc kiểm soát tình hình hoạt động kinh doanh, quản lí
vốn vay khách hàng. Đặc biệt là những ngân hàng nhỏ, có quy trình tín dụng chưa
chặt chẽ, trình độ cán bộ thẩm định chưa cao.
 Ngành nghề sản xuất kinh doanh của khách hàng: Một số ngành kinh doanh có thể
ổn định trong một khoảng thời gian trong quá khứ, nhưng trong tường lai, do ảnh
hưởng của các yếu tố khác như nhu cầu thị trường thay đổi, các quy định của nhà
nước… doanh thu của ngành đó sẽ có xu hướng giảm đi đáng kể.
 Doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ:
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn đều có phương án sản xuất kinh doanh hiệu



quả, khả thi. Tuy nhiên vẫn có những doanh nghiệp làm đẹp báo cáo tài chính, các
phương án, số liệu của công ty để cố ý chiếm dụng vốn của ngân hàng dùng váo
những việc khác nhau. Nếu cán bộ ngân hàng không có đủ trình độ chuyên môn để
thẩm định thì khả năng gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng là rất cao, làm ảnh
hưởng đến uy tín ngân hàng .
 Tiềm lực tài chính khách hàng vay: năng lực tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến rủi
ro tổng thể của khách hàng trong vấn đề trả nợ của khách hàng.
 Sử dụng vốn vay: mục đích sử dụng vốn là căn cứ quan trọng để ngân hàng xem xét
cấp tín dụng cho khách hàng. Mục đích vay vốn phải rõ ràng, đảm bảo khả năng trả
nợ cho ngân hàng. Điều này liên quan tới việc ngân hàng đã xem xét các rủi ro có
thể gặp phải và dự phòng phương án khắc phục.
 Uy tín, lịch sử trả nợ: Bằng cách xem xét lịch sử trả nợ của khách hàng trong quá
khứ là quan trọng bởi đây tín hiệu cho biết khách hàng có đang gặp khó khăn về tài
chính không và có ý định, thiện chí trả nợ không. Nếu khách hàng có lịch sử trả nợ
không tốt thì có khả năng sẽ tiếp diễn hiện tượng đó trong tương lại.
III. Các nhân tố khác
1. Môi trường kinh tế
Năm 2009 nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng lớn bởi khủng hoảng kinh tế, sau đó
phục hồi vào băm 2010, nhưng từ 2011 đến 2013 tình hình kinh tế vẫn khó khăn và chưa
có dấu hiệu phục hồi rõ ràng. Sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, đầu tư, tiêu dùng giảm sút,
lạm phát cao, nhu cầu tín dụng giảm,vốn tín dụng đã thực hiện cũng khó có thể sử dụng có
hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng ngân hàng giảm sút về
quy mô và chất lượng.Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với mức lợi nhuận của
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng ảnh hưởng
đến chất lượng tín dụng, lợi tức của ngân hàng thu được bị giới hạn bởi lợi nhuận của
doanh nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng, nên với mức lãi suất cao các doanh nghiệp vay
vốn ngân hàng không có khả năng trả nợ ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nói riêng và tới toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hoạt động tín dụng ngân hàng lúc

này không còn là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và chất lượng tín
dụng cũng giảm sút. Ngoài ra những sự biến động về lãi suất thị trường, tỷ giá thị trường
cũng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất của ngân hàng.
2. Những nhân tố thuộc về quản lý vĩ mô của nhà nước
Những chủ trương chính sách của NHNN –Cơ quan quản lý vĩ mô trực tiếp của các
ngân hàng thương mai có tác động hết sức lớn tới hoạt động tín dụng của các ngân hàng
thương mại. NHNN đưa ra những định hướng lớn và đôi khi cả những hướng dẫn chi tiết
cho hoạt động của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là hoạt động tín dụng nhằm thực
hiện mục tiêu điều tiết vĩ mô và quản lý. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
cũng chịu ảnh hưởng của những chủ trương đó khi mà một ngân hàng thương mại không


thể đi ngược lại chúng. Ngoài ra, cơ chế, chính sách của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác có tác động đến mọi hoạt động của nền kinh tế nên cũng tác động trực tiếp đến
khách hàng vay vốn của ngân hàng
3. Môi trường xã hội
Các yếu tố xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng là các nhân tố trực tiếp
tham gia quan hệ tín dụng. Đó là người gửi tiền, người vay tiền, Ngân hàng thương
mại.Tín dụng có nghĩa là sự vay mượn dựa trên cơ sở lòng tin, sự tín nhiệm. Điều đó có
nghĩa là quan hệ tín dụng là sự kết hợp giữa 3 yếu tố: nhu cầu của khách hàng, khả năng
của ngân hàng và sự tin tưởng lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, chất lượng
tín dụng phụ thuộc vào cả 3 yếu tố: khách hàng, ngân hàng, sự tín nhiệm. Trong đó sự tín
nhiệm là chiếc cầu nối mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng: sự tín nhiệm của ngân
hàng càng cao thì thu hút khách hàng càng lớn và cũng như vậy với một khách hàng có sự
tín nhiệm của ngân hàng sẽ dễ dàng được vay vốn của ngân hàng thường xuyên, có thể còn
được hưởng một mức lãi suất ưu đãi hơn các đối tượng khác. Như vậy, tín dụng là tiền đề
để không ngừng cải tiến chất lượng tín dụng . Khách hàng: là chủ thể đại diện cho bên
cung về nguồn vốn tín dụng , đồng thời cũng là đại diện cho bên có nhu cầu vay vốn. Với
tư cách là người cung cấp nguồn vốn tín dụng , họ mong muốn nhận được từ ngân hàng
một khoản lãi tiền gửi hay những dịch vụ thanh toán thuận tiện. Sự tín nhiệm của khách

hàng đối với ngân hàng sẽ làm tăng thêm tính ổn định của nguồn vốn huy động để đáp ứng
nhu cầu của người vay. Đối với người vay, họ đến với ngân hàng với mong muốn nhu cầu
vay của mình được đáp ứng để có được một khoản tín dụng sử dụng trong mục đích sản
xuất kinh doanh của mình với sự xác định rõ ràng khối lượng tiền vay, thời hạn vay và lãi
suất. Nếu nhu cầu của khách hàng được chấp nhận trong một thái độ niềm nở và thủ tục
đơn giản thì chắc chắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, tạo điều kiện cho hoạt động tín
dụng được thuận lợi, chất lượng tín dụng được bảo đảm. Ngân hàng:là chủ thể đại diện
cho bên cầu về huy động vốn đồng thời cũng là người cung cấp tín dụng . Quy mô và
phạm vi hoạt động phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn tự có của ngân hàng thương mại, khả
năng huy động vốn cũng như uy tín và trình độ quản lý của ngân hàng, ngoài ra còn phụ
thuộc vào trình độ kỹ thuật nghiệp vụ, mạng lưới hoạt động... khả năng tạo tiền của các
ngân hàng thương mại và việc sử dụng các công cụ tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
4. Các yếu tố khác
Ngoài những yếu tố nêu trên,còn phải kể đến một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
tín dụng như: đạo dức xã hội có liên quan đến rủi ro tín dụng trong trường hợp lợi dụng
lòng tin để lừa đảo, hoặc do điều kiện sống còn khó khăn hay trình độ dân trí chưa cao,
kém hiểu biết dẫn đến chưa hiểu đúng bản chất hoạt động của ngân hàng nói chung cũng
như hoạt động tín dụng nói riêng, làm ăn kém hiệu quả, nhiều khi không phát huy tốt chức
năng của các phương tiện tín dụng ngắn hạn. Bên cạnh đó là các biến động kinh tế, chính
trị, xã hội ở các nước trong khu vực cũng như trên thế giới cũng ảnh hưởng đến chất lượng
tín dụng ngắn hạn. Trong tình hình hiện tại bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng đều
đặt mình trong hợp tác toàn diện với các nước khác nhau trên thế giới, các quan hệ kinh tế,
xã hội được mở rộng, theo đó là loại hình doanh nghiệp đa quốc gia cũng ngày càng tăng
về số lượng và quy mô hoạt động. Vì vậy, mọi sự biến động về kinh tế, văn hoá, xã hội ở


nước ngoài cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong
nước và cũng ảnh hưởng đến chất lương tín dụng ngắn hạn. Có thể dễ dàng nhận ra rằng,
do cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực mà các mặt hàng xuất khẩu của ta đi các nước
liên tiếp bị hạ giá để cạnh tranh, điều này có nghĩa là các doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn

làm hàng xuất khẩu đã bị động trong kế hoạch trả nợ vốn các ngân hàng thương mại dẫn
đến chất lượng tín dụng bị suy giảm... Ngoài ra, chất lượng tín dụng còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố môi trường như thời tiết, dịch bệnh... cũng như các biện pháp tích cực bảo vệ
và cải thiện môi trường sinh thái

B. NHỮNG CHỈ TIÊU ĐỂ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
I. Tỷ lệ nợ xấu
Nợ xấu là sự tồn tại tất yếu trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Sự tồn tại của nợ
xấu chỉ thực sự nguy hiểm khi nó vọt lên ngưỡng cao, tình hình tài chính hiện tại của các
chủ thể trong nền kinh tế có thể đẩy nợ xấu lên mức nguy hiểm trong tương lai.
Giai đoạn, 2008 – 2011, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân là 26,56%, nhưng tốc
độ tăng trưởng nợ xấu lại ở mức 51%
Nợ xấu tại các NHTM Việt Nam không phải mới phát sinh trong những năm gần đây,
mà thực chất đã tích tụ từ nhiều năm trước. Khi tình hình kinh tế vĩ mô xấu đi, hoạt động
sản xuất kinh doanh trì trệ, thì cũng là lúc nợ xấu nảy nở như nấm sau mưa. Dựa vào số
liệu tổng hợp, thì nợ xấu có xu hướng gia tăng từ năm 2007 và được quan tâm đặc biệt từ
cuối năm 2011.
Năm 2010, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM chưa tính nợ của Vinashin thì chỉ 2,52%,
tương đương khoảng 58.000 tỉ đồng. Con số khá nhỏ và trong tầm kiểm soát, mặc dù gia
tăng khá nhiều so với năm 2009 là 2,05%. Trong thời gian này, nợ xấu vẫn chưa được
đánh giá là vấn đề đặc biệt nghiêm trọng gây ra bất ổn tài chính quốc gia. Do đó, tỷ lệ tăng
trưởng tín dụng năm 2010 tiếp tục duy trì ở mức tăng 27,65%, tổng phương tiện thanh
toán tăng 23%...Và các NHTM phải tự xử lý nợ xấu thông qua trích lập dự phòng rủi ro tín
dụng theo quy định hoặc phát mãi tài sản bảo đảm hoặc tái cơ cấu lại nợ vay.
Năm 2011, nợ xấu bắt đầu gia tăng về giá trị lên 85.000 tỉ đồng, chiếm 3,3% tổng dư
nợ. Đồng thời, các NHTM bắt đầu gặp khá nhiều trục trặc về thanh khoản và kết quả hoạt
động kinh doanh chững lại. Đây là hậu quả tất yếu của: (i) chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận
trọng và có phần thắt chặt; (ii) nợ xấu tích tụ từ nhiều năm trước được bùng phát; (iii) và
tình trạng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trở nên phổ biến.
Điều này ảnh hưởng rất lớn tới hệ thống ngân hàng thương mại ở 3 phương diện: Một

là, gia tăng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng; hai là, giảm tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu; ba là,
rủi ro thanh khoản, kỳ hạn, rủi ro đổ vỡ hệ thống ngân hàng. Và các giải pháp được sử
dụng để xử lý nợ xấu năm 2011 phân tán ở từng ngân hàng thông qua siết chặt thẩm định
khách hàng vay vốn; hay đảo nợ, giãn/ hoãn/ giảm nợ; và tuân thủ quy định, điều kiện cho
vay với doanh nghiệp nhà nước.


Năm 2012, kết quả tất yếu là bùng nổ tỷ lệ nợ xấu, đồng thời xuất hiện “hỏa mù” về số
liệu nợ xấu. Trong giai đoạn, 2008 – 2011, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân là
26,56%, nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu lại ở mức 51%. Do đó, nợ xấu được quan tâm
không chỉ ở cấp độ NHTM, hay NHNN mà còn lên ở nghị trường Quốc hội lẫn Chính phủ.
Lúc này đây, số liệu nợ xấu và tình trạng nợ xấu – xấu đến đâu, không có gì là rõ ràng.
Chẳng hạn, theo báo cáo của các tổ chức tín dụng, đến 31/5/2012, nợ xấu của hệ thống
là 117.723 tỷ đồng, chiếm 4,47%. Còn số liệu của Cơ quan giám sát ngân hàng thì tỷ lệ nợ
xấu có khi lên đến 8,6%. Và bất ngờ hơn cả là số liệu của Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu Việt
Nam là 13% trên tổng dư nợ. Chính vì vậy, ngày 03/01/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết 01/NQ – CP, về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012.
Năm 2013, có thời điểm nợ xấu tại các tổ chức tín dụng của Việt Nam tăng mạnh tới
23,73% so với năm 2012. Lúc này, nợ xấu thật sự là mối đe dọa đến an ninh hệ thống ngân
hàng và ổn định tài chính quốc gia. Nợ xấu đã ngày càng xấu lẫn vượt tầm kiểm soát của
từng ngân hàng. Do đó, trong năm 2013, Chính phủ và NHNN phải tất bật thông qua nhiều
giải pháp, sáng kiến nhằm xử lý triệt để nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. Và nhiệm vụ
của NHNN trong đề án 254 được thực thi sang giai đoạn hai, là lành mạnh hóa tài chính hệ
thống ngân hàng với việc tăng cường xây dựng các quy định về an toàn vốn, xử lý nợ xấu
hệ thống qua việc thành lậpVAMC và nâng cao quản trị rủi ro, hướng đến hoàn thiện
chuẩn mực Basel II.


Nguồn: www.cafef.vn

II. Hiệu suất sử dụng vốn
Từ năm 2008 đến năm 2011, phần lớn các NHTMCP đều có tỷ lệ ROA và ROE cao hơn.
Tuy nhiên, các ngân hàng này ngoại trừ MBB đều gặp khó khăn trong năm 2012 và nửa
đầu năm 2013. Bên dưới là tỷ lệ ROA và ROE đối với một số NHTMNN (CTG, BIDV,
VCB) và một số NHTMCP (sáu ngân hàng lớn nhất).

Nguồn: Báo cáo tài chính các ngân hàng giai đoạn 2008-2012


Nguồn: Ngân hàng nhà nước
Tỷ lệ ROA và ROE trung bình của tất cả các tổ chức tín dụng đã giảm trong năm 2013. Xu
hướng đi xuống này bắt đầu từ năm 2011 ở phần lớn các ngân hàng. Về tổng thể, ngân
hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh có tỷ lệ ROA cao nhất nhưng ROE lại thấp nhất,
cho thấy ngân hàng nước ngoài và ngân liên doanh sử dụng ít đòn bẩy tài chính hơn các
ngân hàng trong nước. Giữa khu vực NHTMNN và NHTMCP, NHTMNN có tỷ lệ ROA
và ROE cao hơn.
Với biến động cao hơn ở tỷ lệ ROA và ROE, các NHTMCP rõ ràng tiềm ẩn nhiều rủi ro
hơn NHTMNN.
III. Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng
Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền được trích lập để dự phòng tổn thất có thể
xảy ra khi khách hàng của ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Tỷ lệ dự
phòng rủi ro tín dụng phản ánh tỷ lệ khoản tiền được trích lập. Nhìn chung qua 3 năm ta
thấy tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng biến động không ổn định. Ví dụ: Năm 2007 tỷ lệ dự
phòng rủi ro tín dụng của NHTM Đông Á chiếm tỷ lệ 0,36% nhưng đến năm 2008 tỷ lệ
này đã tăng lên đến 1,04%. Tỷ lệ này tăng lên đồng nghĩa với tình hình nợ xấu ngày càng
gia tăng nên số tiền phải trích lập ngày càng lớn. Nguyên nhân là do năm 2008 tình trạng
khủng hoảng kinh tế rộng khắp khiến cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng dẫn đến không
trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Các nhóm nợ này sẽ chuyển xuống nhóm nợ tiếp theo nên
việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng sẽ tăng lên. Năm 2009 tỷ lệ dự phòng giảm, thể



hiện xu hướng tốt cho ngân hàng giúp ngân hàng tăng lợi nhuận khi số tiền trích lập trên
tổng dư nợ giảm xuống.
IV. Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng
Không thể nói một khoản tín dụng có chất lượng cao khi nó không đem lại một khoản
thu nhập cho ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu để ngân
hàng tồn tại và phát triển, tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng luôn chiếm trên 50%
trong tổng thu nhập của ngân hàng. Nếu ngân hàng chỉ chú trọng duy trì một tỷ lệ nợ xấu
thấp mà không sinh lợi thì hoạt động tín dụng cũng không còn ý nghĩa. Do đó, để hoạt
động tín dụng có chất lượng thì ngân hàng có kế hoạch cân đối giữa rủi ro và lợi nhuận.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> />
/>


×