Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TÁC ĐỘNG mức LƯƠNG cơ sở đến TIỀN LƯƠNG của CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC TRONG KHU vực CÔNG ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.72 KB, 17 trang )

MỤC MỤC


2

1. Đặt vấn đề

Tiền lương luôn là một trong những vấn đề quan trọng nhất mà người lao động
quan tâm, nó được hiểu là giá cả sức lao động của con người. Tiền lương là một vấn đề
quan trọng và khá nhạy cảm, vì nó là quyền lợi của người lao động mà không phải lúc
nào cũng được công bằng tuyệt đối.Tiền lương là biểu hiện của giá trị sức lao động, đó
là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức
lao động. Giá trị sức lao động bao hàm cả yếu tố lịch sử, vật chất và tinh thần. Trong
quá trình lao động, sức lao động bị hao mòn dần cùng với quá trình tạo ra sản phẩm,
con người cần phải bù đắp lại lượng sức lao động đã hao phí.
Nói cách khác, tiền lương chính là công cụ bù đắp lại lượng hao phí lao động mà
người lao động đã bỏ ra, hơn nữa còn để tái sản xuất sức lao động.Trong thời kỳ hội
nhập, kinh tế - xã hội phát triển không ngừng, để bắt kịp với sự phát triển và nâng cao
mức sống của người dân cần có một mức lương phù hợp. Bên cạnh chức năng đảm
bảo mức sống cho người lao động, mức lương còn được sử dụng khuyến khích tinh
thần, thúc đẩy người lao động làm việc tốt hơn. Trong thực tế, mỗi ngành nghề, lĩnh
vực đều có cơ chế sản xuất đặc thù và lao động riêng nên mức lương không hoàn toàn
giống nhau. Cùng với việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp với sự
phát triển của đất nước, Nhà nước cần có một mức lương phù hợp với từng thời kỳ,
phù hợp với các quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường. Đất nước Việt Nam
ngày càng phát triển, không ngừng vươn lên “sánh vai với các cường quốc” đòi hỏi
Nhà nước ta phải có một nền quốc phòng vững mạnh. Mặt khác, mức lương là nội
dung quan trọng hàng đầu trong các chính sách vì con người và xây dựng con người,
tác động mạnh mẽ đến tình cảm, đời sống, tư tưởng của bộ đội. Mức lương cơ sở- một
trong những yếu tố cực kỳ quan trọng góp phần quyết định đến chất lượng tổng hợp,
thu nhập tiền lương cho công chức viên chức. Vì vậy tác giả tiến hành chọn và nghiên


cứu đề tài: “Tác động mức lương cơ sở đến tiền lương công chức viên chức trong khu
vực công tại Việt Nam” với mong muốn tìm hiểu những mức lương, tiền lương mà nhà
nước dành cho công chức viên chức và làm rõ một số vấn đề trong mức lương cơ sở.
1.1 Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu áp dụng đối với công chức, viên chức trong khu vực công ở Việt Nam.
1.2
1.3

Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: mức lương cơ sở của công chức viên chức ở Việt Nam
Phạm vi thời gian: giai đoạn 2012- 2018
Mục tiêu nghiên cứu

Làm rõ tác động của mức lương cơ sở đến tiền lương công chức, viên chức
trong khu vực công ở Việt Nam.
1.4Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê số liệu
- Phương pháp phân tích số liệu
- Phương pháp thu thập và xử lí thông tin
- Phương pháp tổng hợp


3

2. Cơ sở lý luận

2.1 Sơ lược về mức lương cơ sở
2.1.1 Khái niệm
Tiền lương tối thiểu chung là tiền lương tối thiểu được quy định áp dụng chung

cho cả nước, chỉ dung để trả cho người lao động làm những công việc đơn giản nhất
trong xã hội trong điều kiện và môi trường lao động bình thường, chưa qua đào tạo
nghề.
Nhu cầu tối thiểu là nhu cầu thiết yếu, cơ bản tối thiểu của người lao động về các
mặt ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, hưởng thụ văn hóa xã hội, giao tiếp xã hội và nuôi con
nhằm duy trì cuộc sống và làm việc của họ.
Lương tối thiểu chung là mức lương cơ sở áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên
chức, tổ chức, đơn vị sự nghiệp của Đảng và Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội có tính
chất đặc thù ở Trung ương, ở các tỉnh, thành phố, ở huyện, quận, xã... và lực lượng vũ
trang nhân dân. là số lượng tiền dùng để trả cho người lao động làm công việc đơn
giản nhất trong xã hội trong điều kiện và môi trường lao động bình thường, chưa qua
đào tạo nghề.
2.1.2 Đối tượng và phạm vi áp dụng:
Theo quy định của Bộ luật lao động trước đây:
Mức lương tối thiểu chung áp dụng với cán bộ, công chức, viên chức, các đối
tượng thuộc lực lượng vũ trang và người lao động làm việc ở các cơ quan, đơn vị, tổ
chức:
- Cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội.
- Đơn vị sự nghiệp của Nhà nước; đơn vị sự nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu được
tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
Theo Bộ Luật Lao động năm 2012 (có hiệu lực từ ngày 1/5/2013) thì chỉ còn quy
định về mức lương tối thiểu vùng và ngành, không còn mức lương tối thiểu chung
(Mức lương cơ sở).
Bộ luật Lao động trước đây có quy định công ty Nhà nước áp dụng thang, bảng
lương do Nhà nước quy định thì người lao động được xếp lương theo hệ số nhân với
lương tối thiểu chung và dùng để đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp. Còn trả lương cho người lao động vẫn không được thấp hơn lương

tối thiểu vùng.
Tuy nhiên, theo Bộ Luật Lao động năm 2012 và Nghị định 49/2013/NĐ-CP thì từ ngày
1/5/2013 doanh nghiệp nhà nước cũng phải xây dựng thang bảng lương của mình
((không còn thang bảng lương Nhà nước quy định nữa), theo đó cũng không còn áp
dụng lương tối thiểu chung nhân hệ số lương nữa.


4

2.1.3 Vai trò của mức lương cơ sở
Là lưới an toàn cho những người làm công ăn lương trong toàn xã hội,
Bảo đảm sức mua của loại tiền lương khác trước sự gia tăng của lạm phát và yếu
tố kinh tế xã hội khác thông qua việc điều chỉnh mức lương cơ sở,
Loại bỏ cạnh tranh không công bằng, chống lại là xu hướng giảm chi phí các yếu
tố sản xuất tới mức không thỏa đáng trong đó có tiền lương,
Bảo đảm trả lương tương đương cho công việc tương đương,
Phòng ngừa xung đột giữa giới chủ và giới thợ làm ảnh hưởng đến phát triển kinh
tế,
Mức tiền lương tối thiểu được luật hóa có thể coi là một trong những biện pháp để
phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.4 Đặc trưng của tiền lương tối thiểu
- Tiền lương tối thiểu được tính tương ứng với trình độ lao động giản đơn nhất,
-

chưa qua đào tạo nghề
Được tính tương ứng với cường độ lao động nhẹ nhàng nhất
Được tính tương ứng với môi trường và điều kiện lao động bình thường
Tiền lương tối thiểu được tính tương ứng với nhu cầu tiêu dùng ở mức tối thiểu
Được tính tương ứng với giá cả tư liệu sinh hoạt chủ yếu ở các vùng có mức giá
trung bình của đất nước


2.1.5 Yêu cầu của tiền lương tối thiểu
- Tiền lương tối thiểu phải đảm bảo đời sống tối thiểu cho người lao động
- Phải được tính đúng, tính đủ
- Phải đảm bảo mối quan hệ thực sự giữa mức lương tối thiểu, trung bình và tối

đa
- Phải là yếu tố tác động đến mức tiền công thị trường sức lao động
- Tiền lương tối thiểu phải là sự đảm bảo xã hội có tính pháp lý của nhà nước
- Phải là công cụ điều tiết của nhà nước trên phạm vi xã hội và trong từng cơ sở
kinh tế
- Phải đáp ứng những biến đổi trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước.
2.2 Sơ lược về công chức, viên chức
Theo Nghị định 06/2010/NĐ-CP: “ Công chức được bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh trong bien chế giữ một công vụ thường xuyên, hoặc nhiệm vụ thường
xuyên trong cơ quan hành chính nhà nước ở cấp tỉnh, huyện”.
Theo dự luật viên chức: Viên chức được tuyển dụng theo hợp đồng làm việc, được
bổ nhiệm vào một chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý( trừ các chức vụ quy định
là công chức). Viên chức là người thực hiện các công việc hoặc nhiệm vụ có yêu cầu
về năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ trong các đơn vị sự nghiệp công lập
thuộc các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, khoa học, công nghệ, văn hóa, thể dục thể
thao, du lịch, lao động- thương binh và xã hội, thông tin- truyền thông, tài nguyên môi
trường, dịch vụ...


5

Cán bộ công chức, viên chức hiện nay đang được trả lương theo hình thức trả
lương thời gian đơn giản.

2.3 Chức năng của tiền lương
Thứ nhất, thước đo giá trị sức lao động: Tiền lương là giá cả của sức lao động, là
biểu hiện bằng tiền của sức lao động, được hình thành trên cơ sở giá trị lao động nên
phản ánh được giá trị sức lao động. Giá trị của hàng hóa sức lao động phải được đo
bằng lượng lao động xã hội cần thiết để tạo ra nó và qua mối quan hệ cung cầu về
hang hóa sức lao động trên thị trường lao động.
Thứ hai, tái sản xuất sức lao động: Trong quá trình lao động, sức lao động bị hao
mòn dần cùng với quá trình tạo ra sản phẩm, con người cần bù đắp lại sức lao động đã
hao phí. Hơn nữa, để duy trì và phát triển sức lao động, người lao động còn phải học
tập, rèn luyện kỹ năng và nuôi dưỡng thế hệ kế tiếp. Vì vậy, tiền lương có chức năng
duy trì và tái sản xuất sức lao động.
Thứ ba, chức năng kích thích: Tiền lương là nguồn thu nhập chính của người lao
động nhằm thỏa mãn phần lớn các nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao động.
Tiền lương phải đảm bảo khuyến khích người lao động nâng cao năng suất lao động,
chất lượng và hiệu quả lao động, tiền lương phải khuyến khích người lao động có tài
năng, khuyến khích lao động sáng tạo góp phần điều phối và ổn định hoạt động lao
động xã hội.
Thứ tư, chức năng bảo hiểm, tích lũy: Trong hoạt động lao động, người lao động
không những duy trì cuộc sống hàng ngày trong thời gian có khả năng lao động mà
còn có thể tích lũy dự phòng khi gặp rủi ro hoặc khi không còn khă năng lao động.
Cuối cùng, chức năng xã hội: Ngoài việc kích thích nâng cao năng suất lao động,
tiền lương còn là yếu tố kích thích hoàn thiện các mối quan hệ lao động, tạo tiền đề
cho sự phát triển toàn diện của con người và thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng dân
chủ văn minh. Ngoài ra, tiền lương còn điều phối thu nhập trong nền kinh tế quốc dân,
tạo nên sự công bằng xã hội trong việc trả lương cho người lao động trong cùng ngành
nghề, khu vực và giữa các ngành nghề, khu vực khác nhau.
2.4 Bảng lương trong khu vực công

Bảng lương là một bảng xác định quan hệ tỷ lệ về tiền lương giữa những người lao
động cùng nghề theo từng chức danh nghề nghiệp. Bảng lương quy định các ngạch,

bậc lương, hệ số mức lương cho từng chức danh theo ngành. Bảng lương gồm 3 yếu
tố:
-

Chức danh nghề hay tên gọi của nghề (ngạch công chức hay chức danh)
Số bậc của bảng lương
Hệ số lương của mỗi bậc theo từng chức danh
Mức lương viên chức là số lượng tiền lương để trả công lao động cho công chức,
viên chức trong một đơn vị thời gian (tháng) phù hợp ngạch, bậc lương và hệ số lương.
Thông thường, số bậc của bảng lương và hệ số lương giữa các bậc phụ thuộc vào
đặc điểm chức danh hoạt động(trình độ, mức độ phức tạp, yếu tố trách nhiệm,..)
Bội số thang lương là sự so sánh giữa bậc cao nhất và bậc thấp nhất trong một
bảng lương, hay nói cách khác mức chức danh bậc cao nhất gấp mấy lần bậc thấp nhất.


6

3. Tác động mức lương cơ sở đến tiền lương của công chức viên chức trong khu vực

công ở Việt Nam và nhận xét về mức lương cơ sở của một số quốc gia trên thế giới
3.1 Tác động mức lương cơ sở đến tiền lương của công chức viên chức trong
khu vực công ở Việt Nam
Hiện nay, để cải cách tiền lương ta cần chú trọng những nội dung về lương cơ bản
của cán bộ công nhân, viên chức của khu vực công với những nội dung như sau:
-

-

Thứ nhất, thiết kế cơ cấu tiền lương và tiền thưởng mới gồm 3 phần: Mức lương cơ
bản (chiếm khoảng 70% tổng quỹ lương); Các khoản phụ cấp (chiếm khoảng 30%

tổng quỹ lương); Tiền thưởng (quỹ tiền thưởng bằng khoảng 10% tổng quỹ tiền lương
của năm không bao gồm phụ cấp).
Thứ hai, xây dựng, ban hành hệ thống bảng tính lương mới: Thay thế hệ thống bảng
lương hiện hành bằng hệ thống bảng lương mới theo vị trí việc làm, chức danh và chức
vụ lãnh đạo; chuyển xếp lương cũ sang lương mới bảo đảm không thấp hơn tiền lương
hiện hưởng, gồm: xây dựng 1 bảng lương chức vụ áp dụng đối với cán bộ, công chức,
viên chức giữ chức vụ lãnh đạo (bầu cử và bổ nhiệm) trong hệ thống chính trị từ Trung
ương đến cấp xã theo nguyên tắc:
+ Mức lương chức vụ phải thể hiện thứ bậc trong hệ thống chính trị; giữ chức vụ
thì hưởng mức lương chức vụ cao nhất; giữ chức vụ lãnh đạo tương đương nhau thì
hưởng mức lương như nhau; tiền lương của người lãnh đạo phải cao hơn cấp dưới có
cùng trình độ và thâm niên công tác.
+ Quy định một mức lương chức vụ cho mỗi loại chức vụ tương đương; không
phân loại bộ, ban, ủy ban ở Trung ương khi xây dựng bảng lương chức vụ ở Trung
ương; không phân biệt mức lương chức vụ khác nhau đối với cùng chức danh lãnh đạo
theo phân loại đơn vị hành chính ở địa phương mà thực hiện bằng chế độ phụ cấp.
Xây dựng 1 bảng tính lương chuyên môn, nghiệp vụ theo ngạch công chức và chức
danh nghề nghiệp viên chức áp dụng chung đối với công chức, viên chức không giữ
chức danh lãnh đạo; mỗi ngạch công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức có nhiều
bậc lương như hiện nay theo nguyên tắc: Cùng mức độ phức tạp công việc thì mức
lương như nhau: điều kiện lao động cao hơn bình thường và ưu đãi nghề thực hiện
bằng chế độ phụ cấp theo nghề; sắp xếp lại nhóm ngạch và số bậc trong các ngạch
công chức, chức danh nghề nghiệp viên chức cho phù hợp, khuyến khích công chức,
viên chức phát triển chuyên môn, nghiệp vụ.

-

-

Thứ ba, xác định các yếu tố cụ thể để thiết kế bảng lương mới, bãi bỏ mức lương cơ sở

và hệ số lương như hiện nay (xây dựng mức lương cơ bản bằng tiền trong bảng lương
mới); đồng thời thực hiện thống nhất chế độ hợp đồng lao động theo quy định của Bộ
luật Lao động (hoặc hợp đồng cung cấp dịch vụ) đối với những người làm công việc
thừa hành, phục vụ (yêu cầu trình độ đào tạo dưới trung cấp), không áp dụng bảng
lương công chức, viên chức.
Thứ tư, sắp xếp lại các chế độ phụ cấp hiện hành, bảo đảm tổng quỹ phụ cấp chiếm tối
đa 30% tổng quỹ lương (trong đó có trường hợp cao hơn 30% hoặc thấp hơn 30% tổng
quỹ lương (trong đó có trường hợp cao hơn 30% hoặc thấp hơn 30% hoặc không có
phụ cấp), tiếp tục áp dụng phụ cấp kiêm nhiệm; phụ cấp thâm niên vượt khung; phụ
cấp khu vực; phụ cấp trách nhiệm công việc; phụ cấp lưu động; phụ cấp phục vụ an


7

-

ninh, quốc phòng và phụ cấp đặc thù quân, binh chủng đối với lực lượng vũ trang
(quân đội, công an, cơ yếu.
Cuối cùng, về cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập: Người đứng đầu cơ quan, tổ
chức, đơn vị được sử dụng quỹ tiền lương và kinh phí chi thường xuyên được giao
hàng năm để thuê chuyên gia, nhà khoa học, tài năng đặc biệt thực hiện nhiệm vụ của
cơ quan, tổ chức, đơn vị và quyết định mức chi trả thu nhập tương xứng với nhiệm vụ
được giao.
Áp dụng chế độ tiền thưởng (quỹ tiền thưởng bằng khoảng 10% tổng quỹ tiền lương
của năm, không bao gồm phụ cấp) đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản
lý, dử dụng cán bộ, công chức xây dựng quy chế thưởng định kỳ gắn với kết quả đánh
giá xếp loại mức độ hoàn thành công việc.
Đối với công chức viên chức và người lao động trong các đơn vị sự nghiệp công
lập: Đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên, đơn vị tự bảo đảm chi
thường xuyên và chi đầu tư và các Quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước

được thực hiện cơ chế tự chủ tiền lương theo kết quả hoạt động như doanh nghiệp.
Nguồn nhân lực trên thị trường dồi dào nên mức lương là vấn đề được quan tâm
nhằm đảm bảo mức sống. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị định về mức
lương cơ sở qua từng thời kỳ kinh tế, được thể hiện ở:
Bảng 3.1.1 Bảng mức lương cơ sở từ năm 2012- 2018
ĐVT: Việt Nam đồng
Nghị định

Thời điểm áp dụng

Mức lương cơ sở

31/2012/NĐ-CP
12/04/2012

Ngày 01/05/2012

1.050.000

66/2013/NĐ-CP
27/06/2013

Ngày 01/07/2013

1.150.000

99/2015/QH13
11/11/2015

Ngày 01/05/2016


1.210.000

27/2016/QH14
11/11/2016

Ngày 01/07/2017

1.300.000


8

Khoản 7 Điều 3 Nghị Từ 01/7 – 31/12/2018
quyết 49/2017/QH14

1.390.000

Trích nguồn: Nghị định
Từ bảng lương trên ta thấy, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng điều chỉnh mức
lương cơ sở tăng đều qua mỗi năm, phù hợp với tình hình biến động của thị trường lao
động nước ta. Mức lương cơ sở hiện nay do Nhà nước quy định ngày càng hoàn thiện
hơn, cơ bản giúp ổn định mức sống cho công chức viên chức.
Nhà nước tăng mức lương cơ sở để bù đắp vào sự trượt giá, nhằm đảm bảo mức
sống con người theo kịp với mức tăng của giá cả hàng hóa. Tuy nhiên, mức lương điều
chỉnh nhỏ giọt và khoảng cách quá nhỏ, cải thiện một phần nhỏ mức sống, khó đáp
ứng đủ nhu cầu chi trả nhiều thứ cho cuộc sống nên hầu như không tác động đến tiền
lương công chức viên chức trong nền kinh tế.
Mức lương cơ sở còn thấp dẫn đến tiền lương thu nhập của công chức viên chức
chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động khó giữ được người tài (người có trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm công tác, khả năng công nghệ thông tin
tốt, sử dụng ngoại ngữ thành thạo..), công chức viên chức có xu hướng xin nghỉ việc
tăng lên.
Tiền lương cơ bản của công chức, viên chức được tính như sau:
Tiền lương cơ bản công chức, viên chức = hệ số lương × mức lương cơ sở
Đảng và Nhà nước đã xây dựng bảng lương tính lương cho công chức, viên chức dựa
trên hệ số lương tăng bậc theo thâm niên công tác thuận tiện cho việc minh bạch, rõ
ràng, công khai tiền lương nhận được.
Bảng 3.1.2 Bảng lương chuyên môn nghiệp vụ đối với công chức, viên chức

ST
T

Nhóm
ngạch

1

Công
chức,
viên
chức
loại A3

a

Nhóm 1
(A3.1)

Bậc 1 Bậc 2 Bậc

3

Hệ số 6.20
lương
b

Nhóm 2

6.56

Bậc
4

Bậc
5

Bậc
6

6.92 7.28 7.64

8.00

Bậc
7

Bậc 8 Bậc
9



9

(A3.2)
Hệ số 5.75
lương
2

Công
chức,
viên
chức
loại A2

a

Nhóm 1
(A2.1)
Hệ số 4.40
lương

b

6.47 6.83 7.19

7.55

4.74

5.08 5.42 5.76


6.10 6.44 6.78

4.34

4.68 5.02 5.36

5.70 6.04 6.38

2.67

3.00 3.33 3.66

3.99 4.32 4.65

Nhóm 2
(A2.2)
Hệ số 4.00
lương

3

6.11

Công
chức,
viên
chức
loại A1
Hệ số 2.34
lương


4.98

Qua bảng trên, ta thấy:
-

-

Đối với nhóm ngạch công chức viên chức loại A1 có 9 bậc lương, hệ số lương tối thiểu
là 2.34, tăng thêm 0.33 nếu công chức viên chức làm việc có thâm niên 3 năm trở lên,
hệ số lương tối đa là 4.98
Đối với nhóm ngạch công chức viên chức loại A2( nhóm 2) thì có 8 bậc lương, hệ số
lương tối thiểu là 4.00, tối đa là 6.38
Đối với nhóm ngạch công chức viên chức loại A2 ( nhóm 1) thì có 8 bậc lương, hệ số
lương tối thiểu là 4.40, tối đa là 6.78
Đối với nhóm ngạch công chức viên chức loại A3( nhóm 2) thì có 6 bậc lương, hệ số
lương tối thiểu là 5.75, tối đa là 7.55
Đối với nhóm ngạch công chức viên chức loại A3( nhóm 1) thì có 6 bậc lương, hệ số
lương tối thiểu là 6.20, tối đa là 8.00
Bội số lương là giữa bậc cao nhất và bậc thấp nhất trong một bảng lương, hay nói
cách khác mức chức danh bậc cao nhất gấp mấy lần bậc thấp nhất là công chức viên
chức là 5,925; tốc độ tăng lương 5%-15%.. Mức lương không đánh giá đúng năng lực
của cán bộ, viên chức. Không tạo được động lực. Nên các cán bộ, viên chức thường


10

rất ỷ lại về năng suất chất lượng của bản thân, lơ là công việc, lơ là trách nhiệm của
mình.
Tiền lương cơ bản của công chức viên chức phụ thuộc vào hai yếu tố là hệ số lương

và mức lương cơ bản. Hệ số lương được Nhà nước cố định, mức lương cơ sở thấp dẫn
đến mức lương trong ngạch, bậc lương thấp theo, tiền lương công chức viên chức
thấp hơn nhiều so với khu vực ngoài thị trường nên khó giữ và thu hút người tài. Hơn
nữa, khi mức lương cơ sở tăng ngân sách nhà nước không đủ để chi trả cho công chức
viên chức, đẫn đến việc cắt giảm biên chế, số việc làm giảm xuống, tiền lương thu
nhập công chức viên chức đảm bảo mức sống.
Nhà nước trả lương theo hệ số lương, thâm niên công tác 3 năm mới tăng lương 1
bậc trong nhóm ngạch công chức viên chức mà không để ý đến năng lực thực sự của
nhân viên, nhất là những nhân viên trẻ, có tài năng. Nhiều người có tuổi nhưng thiếu
năng lực vẫn nghiễm nhiên được hưởng mức lương cao gấp hai, gấp ba những công
chức viên chức trẻ có năng lực thật sự.
Không có sự khác nhau rõ ràng trong cơ chế trả lương cho những công chức viên
chức làm việc có hiệu quả và chất lượng khác nhau. Dù làm nhiều hay ít, hiệu quả hay
không, miễn là không bị kỷ luật, công chức vẫn sẽ được trả lương theo ngạch, bậc ha
bằng cấp và thâm niên. Thực tế đầy mâu thuẫn này vô hình chung làm triệt tiêu động
lực phát triển công chức. Dù mức lương cơ sở tăng nhưng tăng nhỏ giọt, việc trả lương
theo ngạch, bậc đơn thuần chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động, tiền lương chưa
tương ứng chỉ số giá sinh hoạt từng thời kỳ và công chức vẫn chưa thực sự đảm bảo
mức sống.
Giả sử cùng mức lương cơ sở ở mỗi giai đoạn, cùng bậc lương, nhưng nhóm ngạch
khác nhau, hệ số lương khác nhau, tiền lương cho các công chức viên chức sẽ được
tính như sau:
Bảng 3.1.3 Bảng tiền lương cấp bậc công chức, viên chức theo ngạch, bậc
Đơn vị tính: đồng

STT

1

Nhóm

ngạch

Bậc

Công
chức viên
chức loại
1
A3
Nhóm
(A3.1)

1

Hệ
lương

6.20

Tiền lương cơ bản
số tính được khi áp
dụng từ ngày 1/1
đến 30/6/2017

7.502.000

Tiền lương cơ bản
tính được khi áp
dụng
từ

ngày
01/07/2017

8.618.000


11

2

Công
chức viên
chức loại
1
A3

5.75

6.957.600

7.992.500

4.40

5.324.000

6.116.000

4.00


4.840.000

5.560.000

5

Công
chức viên 1
chức loại
A1

2.34

2.831.400

3.252.600

6

Công
chức viên 1
chức loại
A0

2.10

2.541.000

2.919.000


Nhóm
(A3.2)

3

Công
chức viên
chức loại
1
A2
Nhóm
(A2.1)

4

2

1

Công
chức viên
chức loại
1
A2
Nhóm
(A2.2)

2

Với cùng một bậc lương, mức lương cơ sở bằng nhau, nhóm ngạch công chức viên

chức có hệ số lương càng cao thì tiền lương cơ bản tính được khi áp dụng càng cao. Ta
thấy:
-

-

Trong ngắn hạn, mức lương cơ sở tăng, dẫn đến tiền lương thu nhập bình quân công
chức viên chức tăng thêm, điều này có tác động tốt đến công chức viên chức với ý
nghĩa là một khoản thu nhập chính, từ đó kích thích công chức viên chức làm việc, bảo
đảm được năng suất lao động ổn định và tăng lên.
Khi mức lương cơ sở tăng, hệ số lương cao, trong khi chỉ số giá cả sinh hoạt đang mức
leo thang, việc điều chỉnh mức lương cơ sở lúc này làm giãn khoảng cách tiền lương
thu nhập giữa các nhóm công chức viên chức. Nhóm công chức viên chức có hệ số
lương cao thì tiền lương càng cao, điều này giúp họ đảm bảo mức sống ổn định.
Ngược lại mức lương cơ sở tăng, người có hệ số lương thấp thì hầu như tiền lương


12

-

-

không hoặc tăng ít. Điều này tạo ra khoảng cách tiền lương thu nhập của từng công
chức viên chức.
Nếu trong thời gian làm việc đạt năng suất tốt, công chức viên chức có thể được thi
nâng bậc, nâng lương sau 3 năm làm việc, hệ số lương tối thiểu là 2.34. Mức lương
không đánh giá đúng năng lực của công chức, viên chức. Không tạo được động lực.
Nên các công chức, viên chức thường rất ỷ lại về năng suất chất lượng của bản thân, lơ
là công việc, lơ là trách nhiệm của mình.

Tiền lương công chức viên chức thường là mức lương cố định và chỉ tăng khi hệ số
lương tăng, nhiều công chức viên chức có thâm niên công tác nhưng thu nhập lại
không bằng nhiều người làm việc ngoài Nhà nước.
Theo một bài báo từ vietnamnet.vn : “ Nước ta 40 người dân Việt Nam phải nuôi
một công chức viên chức. Khi còn ở cương vị Phó thủ tướng ông Nguyễn Xuân Phúc
nói: “Đội ngũ công chức của chúng ta hiện nay chỉ có khoảng 30% là đáp ứng được
nhu cầu công việc”.
Ngoài ra, do khu vực công trả lương theo thời gian nên có nhiều người lợi dụng
việc này để chạy chọt xin vào Nhà nước làm, mức lương và hệ số lương có sẵn cuối
tháng chỉ cần lĩnh tiền lương. Nhóm vẫn còn tồn tại 1/3 số công chức viên chức còn là
thuộc vào diện “cấp sách đi, cấp vali về”. Họ làm theo giờ, cứ đúng giờ đi đến công sở
và đúng giờ là họ về, họ không chú trọng đến công suất ngày hôm đó họ làm, có khi
công chức đó đến công sở làm vài việc rồi làm chuyện riêng chờ đến giờ rồi về. Công
việc đối với những người này chưa gọi là hoàn thành công việc, nhưng chúng ta cũng
phải trả lương theo đúng cấp bật. Làm ảnh hưởng đến lương của những công chức viên
chức làm việc chuyên tâm. Vì nếu 1/3 số công chức này được lượt bỏ thì sẽ dư ra một
khoản tiền lớn, sẽ chi trả thêm cho lương của các công chức khác. Khi đó, mức lương
công chức sẽ cao hơn và tiền lương thu nhập có thể sẽ dư thêm phần để đầu tư cho các
hạng mục khác.
Để cái cách chính sách tiền lương theo Đảng và Nhà nước ta có thể cụ thể hóa mục
tiêu tổng quát trên bằng các mục tiêu, lộ trình cụ thể như sau:
Đối với khu vực công: Từ năm 2018 đến năm 2020, tiếp tục điều chỉnh tăng mức
lương cơ sở theo Nghị quyết của Quốc hội, bảo đảm không thấp hơn chỉ số giá tiêu
dùng và phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế; không bổ sung các loại phụ cấp mới
theo nghề. Hoàn thành việc xây dựng và ban hành chế độ tiền lương mới theo nội dung
cải cách chính sách tiền lương, gắn với lộ trình cải cách hành chính, tinh giản biên chế;
đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; đổi mới đơn vị sự nghiệp công
lập.
Từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, áp dụng chế độ tiền lương
mới thống nhất đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang trong toàn bộ

hệ thống chính trị từ năm 2021; năm 2021, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức,
viên chức bằng mức lương thấp nhất bình quân của khu vực doanh nghiệp. Định kỳ (2
đến 3 năm) thực hiện nâng mức tiền lương phù hợp với chỉ số giá tiêu dùng CPI, mức
tăng trưởng kinh tế và khả năng của NSNN. Đến năm 2025, tiền lương thấp nhất của
cán bộ, công chức, viên chức cao hơn mức lương thấp nhất bình quân của khu vực
doanh nghiệp. Đến năm 2030, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức
bằng hoặc cao hơn mức lương thấp nhất của vùng cao nhất của khu vực doanh nghiệp.


13

3.2 Nhận xét về tiền lương tối thiểu của một số quốc gia trên thế giới:
- Trung Quốc:

Lương tối thiểu phải cao hơn tiêu chuẩn tiền cứu tế xã hội và bảo hiểm thất
nghiệp, phải thấp hơn lương bình quân. Trong đó, công thức tính tiền lương tối thiểu
như sau:
TLTT = Chi phí đời sống tối thiểu x 1,75 (hệ số nhân khẩu ăn theo).
Nhà nước Trung Quốc tập trung một số biện pháp nhằm đảm bảo hiệu quả các quy
định về mức lương tối thiểu như sau: hoạch định chính sách tiền lương tối thiểu kết
hợp chặt chẽ với chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất
và mục tiêu xã hội; chính sách về mức lương cơ sở phải không mâu thuẫn với hệ thống
phân phối tiền lương có sự “ điều chỉnh của thị trường, tự quyết định của doanh nghiệp
và kiểm tra, kiểm soát của Chính phủ”; xây dựng kế hoạch và cơ chế tăng tiền lương
tối thiểu; khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng tiền lương tối thiểu trong ký kết
thỏa ước tập thể.
- Thái Lan:

Từ năm 1973, Thái Lan ban hành nguyên tắc tiền lương tối thiểu, áp dụng cho
người sử dụng lao động trong khu vực dịch vụ, thương mại và công nghiệp. Hiện nay,

Thái Lan có tất cả 16 mức tiền lương tối thiểu áp dụng cho các khu vực và vùng khác
nhau.
Căn cứ để xác định tiền lương tối thiểu giữa các vùng ở Thái Lan là dựa trên cơ sở
tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự chênh lệch về mức sống của các vùng.
- Nhật Bản:

Tại Nhật Bản, tiền lương tối thiểu được áp dụng từ năm 1959 ở nhiều vùng và khu
vực khác nhau. Đến năm 1969, tiền lương tối thiểu được phân biệt cho 4 vùng với 4
mức lương tối thiểu khác nhau. Kinh nghiệm của Nhật Bản (Tadaski Nakamura - Văn
phòng ILO khu vực châu á - Thái Bình Dương) trong quyết định mức tiền lương tối
thiểu đó là sự cân nhắc thận trọng về mức sống của người lao động với sự tồn tại lâu
dài của các Công ty
- Singapo:

Tại Singapo không có luật về tiền lương tối thiểu do cầu về lao động luôn lớn hơn
cung. Việc bảo vệ người lao động thông qua các quy định chặt chẽ về điều kiện lao
động, các chính sách khác kèm theo và áp dụng hệ thống tiền lương linh hoạt. Hội
đồng lương Quốc gia ban hành các khuyến nghị, hướng dẫn về trả lương.
- Philippin:

Pháp luật Philippin qui định một mức sống tối thiểu dựa trên chi phí của giỏ hàng
hoá và đồ dùng cơ bản trong số những nhu cầu thiết yếu khác. Luật lao động qui định
về sự đại diện của ba bên trong xác định và điều chỉnh tiền lương tối thiểu. Tiền lương
tối thiểu của Philippin được điều chỉnh trên cơ sở trao đổi, tranh luận của ba bên tham
gia quan hệ lao động về chỉ số lạm phát và phục hồi sự mất mát về khả năng trao đổi
(mua bán) của tiền lương tối thiểu.


14


Tại Philippin, tiền lương tối thiểu theo vùng chỉ phân biệt theo 2 vùng cơ bản: Thủ
đô Manila và các khu vực ngoài Manila.
4. Nhận xét mức lương cơ sở đến tiền lương của công chức viên chức trong khu vực

công ở Việt Nam
4.1 Những ưu điểm
-

-

-

-

Mức lương cơ sở hiện nay do Nhà nước quy định ngày càng hoàn thiện hơn, cơ bản
giúp ổn định mức sống cho công chức viên chức. Tiền lương phù hợp với nền kinh tế
thị trường và đảm bảo công bằng xã hội bằng những Nghị định được quy định trong
Bộ luật Lao động.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm của đến việc bảo đảm mức
sống bình quân cho công chức viên chức phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh
tế thông qua việc điều chỉnh mức lương cơ sở ở nước ta thường xuyên (gần như mỗi
năm một lần).
Trong ngắn hạn, mức lương cơ sở tăng, dẫn đến tiền lương thu nhập bình quân công
chức viên chức tăng thêm, điều này có tác động tốt đến công chức viên chức với ý
nghĩa là một khoản thu nhập chính, từ đó kích thích công chức viên chức làm việc, bảo
đảm được năng suất lao động ổn định và tăng lên.
Mức lương cơ sở ngày càng được cải tiến và hoàn thiện, từ đó cho ta thấy được sự
quan tâm của Nhà nước đối với công chức viên chức nhà nước và nâng cao mức sống
của mọi người, đảm bảo một phần cho họ đáp ứng cho cuộc sống hiện nay.
4.2 Những hạn chế còn tồn tại


-

-

-

-

Mức lương cơ sở 1.210.000 đồng/tháng năm 2016 còn thấp dẫn đến tiền lương thu
nhập của công chức viên chức chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động khó giữ được
người tài (người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm công tác, khả
năng công nghệ thông tin tốt, sử dụng ngoại ngữ thành thạo..), công chức viên chức có
xu hướng xin nghỉ việc tăng lên. Tuy số lượng chưa nhiều so với tổng biên chế nhà
nước, nhưng điều đáng ngại là đa phần đối tượng chuyển ra ngoài khu vực công lại
không nằm trong diện tinh giảm.
Tính đến năm nay 2018, mức lương sẽ được nâng lên thành 1.390.000 đồng/tháng
nhưng với nền kinh tế hiện nay nền kinh tế ngày một phát triển và đang chạy theo nền
công nghệ 4.0 thì với mức lương này các công chức, viên chức và người lao động
trong khu vực công có thể sẽ chưa đáp ứng được nhu cầu sống của bản thân và chăm
lo cho cuộc sống của gia đình.
Bên cạnh đó, tiền lương công chức viên chức thường là mức lương cố định và chỉ tăng
khi hệ số lương tăng, nhiều công chức viên chức có thâm niên công tác nhưng thu
nhập lại không bằng nhiều người làm việc ngoài Nhà nước. Khi này công chức viên
chức có xu hướng tìm kiếm thêm nguồn thu nhập khác như: là làm thêm những công
việc khác, tham ô, tham những dẫn tới lơ là trách nhiệm, hiệu quả công việc giảm.
Mức lương cơ sở thấp, tiền lương công chức viên chức thấp nên họ sẽ không chỉ sống
bằng lương mà chủ yếu từ thu nhập ngoài lương (vậy khi đó tiền lương không phải là
thu nhập chính, không tính được thuế thu nhập chính xác). Điều này dẫn đến hiện
tượng không công bằng trong chính sách tiền lương và thu nhập của công chức, đồng

thời nảy sinh tâm lý sẵn sàng “chạy chọt” để vào được những cơ quan hay những vị trí
chức danh cao hơn để có thể mang lại càng nhiều thu nhập ngoài lương càng tốt.
Nhược điểm này không những là nguyên nhân làm giảm hiệu quả hoạt động của các


15

-

cơ quan nhà nước mà còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến tiêu cực, tham
nhũng ( cả về vật chất và thời gian), hối lộ, biến chất của một bộ phận công chức viên
chức.
Chính sách tiền lương trong khu vực công còn phức tạp, thiết kế hệ thống bảng lương
chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo; còn mang nặng tính
bình quân, cào bằng, chưa tạo được động lực để nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả làm việc của người lao động. Mức lương không đánh giá đúng năng lực của
cán bộ, viên chức. Chờ tăng hệ số lương cũng lâu, còn tồn tại 1/3 số công chức viên
chức còn là thuộc vào diện “cấp sách đi, cấp vali về”. Họ làm theo giờ, cứ đúng giờ đi
đến công sở và đúng giờ là họ về, họ không chú trọng đến công suất ngày hôm đó họ
làm, có khi công chức đó đến công sở làm vài việc rồi làm chuyện riêng chờ đến giờ
rồi về.
4.3 Một số khuyến nghị

-

-

-

-


Nên cắt giảm biên chế đối với một số công chức viên chức không chú trọng đến công
suất chất lượng, với những công chức viên chức đến công sở làm vài việc rồi làm
chuyện riêng chờ đến giờ rồi về, nên cho nghỉ.
Xây dưng một bộ máy hoạt động hiệu quả, tuyển chọn công chức viên chức có năng
lực, trách nhiệm, chế độ trả lương công bằng, nếu 1/3 số công chức viên chức này
được lượt bỏ thì sẽ dư ra một khoản tiền lớn, sẽ chi trả thêm cho lương của các công
chức khác.. Khi đó lương công chức sẽ cao hơn và có thể sẽ dư thêm phần để đầu tư
cho các hạng mục khác. Từ đó, những người công chức viên chức giỏi, có năng lực sẽ
ở lại làm việc cho cơ quan nhà nước chứ không tìm đến các doanh nghiệp tư nhân
hoặc doanh nghiệp có vốn đâu tư nước ngoài, hoặc có thể đi ra nước ngoài làm việc…
không còn tình trạng chảy máu chất xám. Người công chức viên chức cũng sẽ cống
hiến hết mình cho Nhà nước.
Do mức lương cơ sở vẫn thấp nên Nhà nước ngoài trả lương theo hệ số lương và các
khoản phụ cấp, thâm niên công tác cũng nên để ý đến năng lực thực sự của nhân viên,
nhất là những nhân viên trẻ, có tài năng. Nhiều người có tuổi nhưng thiếu năng lực vẫn
nghiễm nhiên được hưởng mức lương cao gấp hai, gấp ba những công chức trẻ có
năng lực thật sự. Vì vậy cũng cần bổ sung vào cơ chế trả lương theo năng lực cho
những công chức viên chức làm việc có hiệu quả và chất lượng khác nhau. Như vậy sẽ
kích thích động lực phát triển công chức viên chức. Việc trả lương theo ngạch, bậc đơn
thuần, theo năng lực sẽ giữ chân được người tài và thu hút họ nhiều hơn trong công tác
tuyển dụng.
Về mức lương cơ sở nên được tính bằng sức lao động và hiệu quả công việc của lao
động.
Ngoài ra, Nhà nước cần chú trọng đến cuộc sống của công nhân viên chức hơn, vì với
nền kinh tế hiện nay có thể mức lương đó chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống của
họ.


16


5. Kết luận

Những năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội và nâng cao mức
lương cơ sở của Nhà nước, tiền lương công chưc viên chức cơ bản thể hiện phù hợp
với yêu cầu về tổ chức biên chế, hoạt động tổ chức; mức tiền lương cơ bản đã phản
ánh được trình độ, mức độ phức tạp, tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ và trách nhiệm của
xã hội đối vớitừng chức danh ngạch bậc công chức viên chức;mức lương cơ sở cũng
đã có tác động tích cực, góp phần cải thiện một phần đời sống công chức viên chức.
Bên cạnh đó còn một số hạn chế nhất định ảnh hưởng không nhỏ đến sự yên
tâm phấn đấu của công chức viên chức. Nhìn chung, đời sống của đại bộ phận người
hưởng lương trong khu vực công còn khó khăn, nhất là công chức viên chức có hệ số
lương và bậc thấp, dẫn đến thu nhập tiền lương chưa cao; tiền lương chưa thực sự
khuyến khích, khó giữ gìn và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho khu
vực Nhà nước. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng trên do mức lương cơ sở còn thấp,
tiềm lực còn hạn chế; tiền lương công chức viên chức thấp nên họ sẽ không chỉ sống
bằng lương mà chủ yếu từ thu nhập ngoài lương. Điều này dẫn đến hiện tượng không
công bằng trong chính sách tiền lương và thu nhập của công chức viên chức, đồng thời
nảy sinh tâm lý sẵn sàng “chạy chọt” để vào được những cơ quan hay những vị trí có
thể mang lại càng nhiều thu nhập ngoài lương càng tốt.
Nhà nước cần bảo đảm mức lương cơ sở, tiền lương công chức viên chức có
mức sống ổn định, chính sách hỗ trợ, khuyến khích những người công tác lâu năm...
Chủ động nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách đãi ngộ phù hợp với những người có
trình độ cao, chuyên gia đầu ngành... gắn với hiệu quả công tác, giải quyết hài hoà
giữa cống hiến và hưởng thụ, thực sự khuyến khích, góp phần giữ gìn, thu hút nguồn
nhân lực công chức viên chức chất lượng cao, người tài, người làm việc giỏi phục vụ
Nhà nước lâu dài.


6. Danh mục tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Tiệp và lê Thanh Hà, 2010. Giáo trình tiền lương – tiền công. Hà Nội:

NXB. Lao động – Xã hội.
2. TS. Lê Thanh Hà, 2009. Giáo trình Quản trị nhân lực (Tập II). Nhà xuất bản
3.

4.
5.

6.

Lao động – Xã hội, Hà Nội.
TS. Lê Thanh Hà, 2012. Quan hệ lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam và vai trò của Công đoàn. Nhà xuất bản Lao động, Hà
Nội.
Bộ Luật Lao động 2012.
Báo điện tử của đài tiếng nói Việt Nam, cải cách tiên lương: 4 lần cải cách, sửa
đổi, vẫn còn nhiều bất cập. Khai thác từ />Báo điện tử Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cải cách
chính sách tiền lương để nâng cao đời sống cho CBCCVC, LLVT và người lao
động trong doanh nghiệp. Khai thác từ />


×