Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Luat Thanh Nien va Nghi dinh huong dan thuc hien

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.08 KB, 50 trang )

LUẬT THANH NIÊN
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng
12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10, Luật Thanh niên đã chính
thức được thông qua với các điều khoản quy định về thanh niên
Chương I
NHỮNG QUI ĐỊNH CHUNG
Thanh niên quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu
tuổi đến ba mươi tuổi.
Điều 2. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
1. Luật này quy định về quyền và nghĩa vụ của thanh niên; trách nhiệm của
Nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên; tổ chức thanh niên.
2. Luật này áp dụng đối với cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân và
công dân Việt Nam (sau đây gọi là cơ quan, tổ chức, cá nhân).
3 . Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có liên quan đến thanh niên Việt Nam cũng
áp dụng theo quy định của Luật này; trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng theo quy định
theo quy định của điều ước quốc tế đó.
Điều 3 . Quyền và nghĩa vụ của thanh niên
1. Thanh niên có các quyền, nghĩa vụ của công dân theo quy định của Hiến
pháp, pháp luật và các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật này.
2. Thanh niên không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín
ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp đều được tôn trọng và bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ.
Điều 4. Trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên
1. Thanh niên là tương lai của đất nước, là lực lượng xã hội hùng hậu, có
tiềm năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo,
bồi dưỡng và phát huy thanh niên là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội.


2. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao động,
giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức
công dân, ý chí vươn lên phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
3 . Cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có trách nhiệm góp phần tích cực
vào việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của thanh niên.
Điều 5. Quản lý nhà nước về công tác thanh niên bao gồm:
1. Nội dung quản lý nhà nước về công tác thanh niên:
a. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến
lược, chính sách, chương trình phát triển thanh niên và công tác thanh niên.
b. Đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh niên.
c. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong
việc thực hiện chính sách, pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên.
d. Quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về công tác thanh niên.
2. Trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác thanh niên được quy định
như sau:
a. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thanh niên;
b. Các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
công tác thanh niên theo sự phân công của Chính phủ.
c. ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh
niên ở địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ.
Điều 6. uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt Nam Uỷ ban quốc gia về thanh
niên Việt Nam là cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về công tác thanh niên.
Tổ chức, hoạt động của Uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt Nam do Thủ tướng
Chính phủ quy định.
Điều 7. Hợp tác quốc tế về công tác thanh niên
1. Hợp tác quốc tế về công tác thanh niên với các nước, tổ chức quốc tế
trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, phù hợp với pháp luật mỗi nước và
thông lệ quốc tế.
2. Nội dung hợp tác quốc tế về công tác thanh niên bao gồm:

a. Xây dựng và thực hiện các chương trình dự án hợp tác quốc tế về công
tác thanh niên.
b. Tham gia các tổ chức quốc tế , ký kết, gia nhập và thực hiện các điều
ước quốc tế về công tác thanh niên.
c. Giao lưu thanh niên; trao đổi thông tin, kinh nghiệm về công tác thanh
niên.
Điều 8. Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Nghiêm cấm thanh niên thực hiện các hành vi sau đây:
a. Vận chuyển, mua, bán tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý.
b. Hoạt động mại dâm, đánh bạc, tham gia các tệ nạn xã hội khác
c. Mua, bán, trao đổi, tàng trữ, sử dụng văn hoá phẩm có nội dung độc hại
d. Gây rối trật tự công cộng.
2. Nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc thanh niên
thực hiện các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này.
CHƯƠNG II
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA THANH NIÊN
Điều 9. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong học tập
1. Được học tập và bình đẳng về cơ hội học tập.
2. Tích cực học tập hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục và vươn lên
học tập ở trình độ cao hơn; thường xuyên học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên
môn, nghề nghiệp; tham gia xây dựng môi trường văn hoá học đường; trung thực
trong học tập.
3 . Xung kích tham gia các chương trình phát triển giáo dục và đào tạo, xây
dựng xã hội học tập.
Điều 10. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong lao động
1. Lao động để lập thân, lập nghiệp, làm giàu chính đáng, góp phần xây
dựng đất nước.
2. Chủ động tiếp cận thông tin thị trường lao động; lựa chọn việc làm và
nơi làm việc phù hợp với khả năng của bản thân và nhu cầu của xã hội.
3 . Rèn luyện tác phong công nghiệp, năng lực quản lý, kinh doanh, tuân

thủ kỷ luật lao động; phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật; nâng cao trình độ nghề
nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ.
4. Xung kích thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn.
Điều 11. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong bảo vệ Tổ quốc
1. Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của thanh
niên.
2. Được huấn luyện chương trình giáo dục quốc phòng; thực hiện nghĩa vụ
quân sự, tham gia các lực lượng vũ trang theo quy định của pháp luật.
3 . Tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ gìn bí mật quốc gia,
xung kích đấu tranh chống mọi hành vi xâm hại đến an ninh quốc gia và trật tự, an
toàn xã hội.
Điều 12. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong hoạt động khoa học,
công nghệ và bảo vệ tài nguyên, môi trường
1. Được nghiên cứu khoa học và công nghệ, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất và đời sống.
2. Trung thực và có tinh thần hợp tác trong nghiên cứu khoa học và công
nghệ.
3 . Tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên;
đấu tranh chống các hành vi huỷ hoại tài nguyên, môi trường.
Điều 13 . Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong hoạt động văn hoá,
nghệ thuật, vui chơi, giải trí
1. Được tham gia các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, vui chơi, giải trí lành
mạnh.
2. Thường xuyên rèn luyện đạo đức, tác phong, hành vi ứng xử văn hoá;
thực hiện nếp sống văn minh.
3 . Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ di sản văn hoá; tích
cực tham gia xây dựng đời sống văn hoá cộng đồng.
Điều 14. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong bảo vệ sức khoẻ, hoạt

động thể dục, thể thao
1. Được bảo vệ, chăm sóc, hướng dẫn nâng cao sức khoẻ, kỹ năng sống
lành mạnh, phòng ngừa bệnh tật.
2. Được chăm lo phát triển thể chất; tích cực tham gia các hoạt động thể
dục, thể thao, rèn luyện thân thể.
3 . Phòng, chống HIV/AIDS; phòng, chống ma tuý và các tệ nạn xã hội
khác.
Điều 15. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong hôn nhân và gia
đình.
1. Được giáo dục kiến thức về hôn nhân và gia đình, thực hiện hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, xây dựng gia đình hạnh
phúc.
2. Giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam; kính
trọng ông bà, cha mẹ và người lớn tuổi; chăm sóc, giáo dục con, em trong gia đình.
3 . Gương mẫu thực hiện pháp luật về hôn nhân và gia đình, về dân số và
kế hoạch hoá gia đình.
Điều 16. Quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong quản lý nhà nước và
xã hội
1. Nâng cao ý thức công dân, chấp hành pháp luật, góp phần xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
2. Được ứng cử, đề cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp theo
quy định của pháp luật; được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị với cơ quan, tổ
chức về những vấn đề mà mình quan tâm; tham gia góp ý xây dựng các chính sách,
pháp luật liên quan đến thanh niên và các chính sách, pháp luật khác.
3 . Tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
CHƯƠNG III
TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NƯỚC, GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI
ĐỐI VỚI THANH NIÊN
Điều 17. Trong học tập và hoạt động khoa học, công nghệ

1. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho thanh niên hoàn thành chương
trình phổ cập giáo dục, được học nghề, có cơ hội vươn lên học tập ở trình độ cao
hơn; miễn, giảm học phí, cấp học bổng, cho vay tín dụng để thanh niên học tập; cấp
sách giáo khoa, hỗ trợ về đời sống cho thanh niên của hộ nghèo hoàn thành chương
trình phổ cập giáo dục; tạo điều kiện cho thanh niên tham gia hoạt động khoa học và
công nghệ, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, hỗ trợ thực hiện các
ý tưởng sáng tạo trong hoạt động khoa học và công nghệ; khuyến khích sự đóng góp
của tổ chức, cá nhân giúp đỡ thanh niên trong học tập và nghiên cứu khoa học.
2. Nhà trường có trách nhiệm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện về đức,
trí, thể, mỹ; giáo dục hướng nghiệp, nâng cao năng lực tự học, kỹ năng thực hành,
phương pháp tư duy khoa học cho thanh niên.
3 . Gia đình có trách nhiệm chăm lo cho thanh niên học tập, hoàn thành
chương trình phổ cập giáo dục, phát triển tài năng; phối hợp với nhà trường giáo dục
thái độ học tập đúng đắn, rèn luyện nền nếp học tập và định hướng nghề nghiệp cho
thanh niên.
Điều 18. Trong lao động
1. Nhà nước có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân giải quyết
việc làm cho thanh niên; ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai để phát triển giáo dục nghề
nghiệp đáp ứng nhu cầu đa dạng về học nghề cho thanh niên; phát triển hệ thống các
cơ sở dịch vụ tư vấn giúp thanh niên tiếp cận thị trường lao động; ưu tiên dạy nghề
và giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn, thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa
vụ quân sự, thanh niên tình nguyện sau khi hoàn thành nhiệm vụ thực hiện chương
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội; thanh niên của hộ nghèo được vay vốn từ quỹ
Quốc gia giải quyết việc làm, quỹ xoá đói, giảm nghèo, vốn tín dụng ưu đãi để phát
triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tự tạo việc làm.
2. Nhà nước có cơ chế, chính sách giao cho tổ chức thanh niên huy động
thanh niên thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn và các chương trình, dự án khác để thanh niên có điều kiện phấn đấu, rèn luyện,
lập thân, lập nghiệp.

3 . Nhà nước có chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai để khuyến
khích các doanh nghiệp tạo chỗ ở cho lao động trẻ của doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân xây nhà cho thuê, bán cho thanh niên theo phương thức trả dần với thời hạn và
giá cả hợp lý ở những nơi tập trung đông lao động trẻ.
4. Gia đình có trách nhiệm giáo dục ý thức lao động, tôn trọng sự lựa chọn
nghề nghiệp, việc làm của thanh niên; tạo điều kiện cho thanh niên có việc làm.
Điều 19. Trong bảo vệ Tổ quốc
1. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho thanh niên được giáo dục, bồi
dưỡng kiến thức quốc phòng, truyền thống yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
2. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi chức năng của mình và gia
đình có trách nhiệm động viên, giáo dục và tạo điều kiện cho thanh niên hoàn thành
chương trình huấn luyện quân sự phổ thông, làm tròn nghĩa vụ quân sự, quân dự bị
động viên và tham gia lực lượng dân quân tự vệ theo quy định của pháp luật.
Điều 20. Trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật, vui chơi, giải trí
1. Nhà nước có chính sách phát triển và khuyến khích các tổ chức, cá nhân
đầu tư, xây dựng cơ sở hoạt động văn hoá, nghệ thuật, vui chơi, giải trí đáp ứng nhu
cầu văn hoá tinh thần của thanh niên; hỗ trợ thanh niên trong hoạt động sáng tạo văn
hoá, nghệ thuật; tạo điều kiện cho thanh niên giữ gìn, phát huy các giá trị văn hoá
dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
2. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm xây dựng cơ sở hoạt động văn
hoá, nghệ thuật, vui chơi, giải trí cho thanh niên.
Không được sử dụng các cơ sở hoạt động văn hoá, nghệ thuật, vui chơi,
giải trí dành cho thanh niên vào mục đích khác làm ảnh hưởng đến lợi ích của thanh
niên.
3 . Gia đình có trách nhiệm giáo dục nhân cách, xây dựng lối sống văn hoá,
hướng dẫn phòng, chống tệ nạn xã hội cho thanh niên.
Điều 21. Trong bảo vệ sức khoẻ và hoạt động thể dục, thể thao
1. Nhà nước có chính sách đầu tư và khuyến khích các tổ chức, cá nhân xây
dựng các cơ sở y tế, cơ sở hoạt động thể dục, thể thao; nâng cao chất lượng chăm sóc

sức khoẻ cho thanh niên, tổ chức tư vấn cho thanh niên về dinh dưỡng, sức khoẻ tinh
thần, sức khoẻ sinh sản, kỹ năng sống, phòng, chống ma tuý, HIV/AIDS, phòng ngừa
các bệnh lây truyền qua đường tình dục và các bệnh xã hội khác.
2. Gia đình có trách nhiệm chăm sóc nâng cao sức khoẻ, phát triển thể chất
cho thanh niên, khuyến khích thanh niên luyện tập thể dục, thể thao, thực hiện nếp
sống vệ sinh, lành mạnh.
3 . Các tổ chức thanh niên có trách nhiệm vận động thanh niên không
nghiện rượu, không say rượu, không hút thuốc lá.
Điều 22. Trong hôn nhân và gia đình
1. Gia đình có trách nhiệm tôn trọng quyền của thanh niên trong hôn nhân
và gia đình; giáo dục tình bạn, tình yêu và các kỹ năng cần thiết để thanh niên tổ
chức cuộc sống gia đình.
2. Nhà nước có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia
phát triển các hoạt động tư vấn về tình yêu, hôn nhân, gia đình, thực hiện kế hoạch
hoá gia đình cho thanh niên.
3 . Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức khác của thanh
niên phối hợp với nhà trường, gia đình tuyên truyền, vận động thanh niên thực hiện
hôn nhân tiến bộ, xây dựng gia đình hạnh phúc.
Điều 23 . Trong tham gia quản lý nhà nước và xã hội
1. Nhà nước có chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng thanh
niên nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo trẻ; tạo điều kiện cho thanh
niên tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
2. Các cơ quan, tổ chức trước khi quyết định những chủ trương, chính sách
liên quan đến thanh niên có trách nhiệm lấy ý kiến của thanh niên hoặc tổ chức thanh
niên.
3 . Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức khác của thanh
niên có trách nhiệm nghiên cứu nhu cầu, nguyện vọng của thanh niên để kiến nghị
với các cơ quan nhà nước giải quyết, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển.
Điều 24. Chính sách của Nhà nước đối với thanh niên dân tộc thiểu số
1. Nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường phổ thông dân tộc nội trú,

trường phổ thông dân tộc bán trú, trường dự bị đại học; thực hiện chính sách cử
tuyển bảo đảm đúng đối tượng và yêu cầu về ngành, nghề cần đào tạo; miễn, giảm
học phí, cấp sách giáo khoa và các chính sách ưu đãi khác theo quy định của pháp
luật để tạo điều kiện cho thanh niên dân tộc thiểu số ở những vùng có điều kiện kinh
tế - xã hội đặc biệt khó khăn có cơ hội học tập, tiếp cận thông tin.
2. Khuyến khích và hỗ trợ thanh niên dân tộc thiểu số giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc, xây dựng nếp sống văn minh, đấu tranh chống các hủ tục, tập
quán lạc hậu.
3 . Ưu tiên dạy nghề, giải quyết việc làm và cho vay vốn phát triển sản
xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống, phát huy tính năng động
của thanh niên dân tộc thiểu số trong lao động sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc
sống.
4. Đào tạo, bồi dưỡng thanh niên ưu tú người dân tộc thiểu số để tạo nguồn
cán bộ quản lý, lãnh đạo.
Điều 25. Chính sách của Nhà nước đối với thanh niên xung phong
1. Nhà nước có cơ chế, chính sách phát huy vai trò xung kích của lực lượng
thanh niên xung phong thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở
những vùng, lĩnh vực khó khăn, các nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước; bảo đảm các
điều kiện để lực lượng thanh niên xung phong hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
2. Nhà nước thực hiện các chính sách sau đây đối với cán bộ, đội viên
thanh niên xung phong:
a) Miễn thực hiện nghĩa vụ lao động công ích; tạm hoãn gọi nhập ngũ trong
thời bình khi đang làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
b) Được công nhận là liệt sĩ, hưởng chính sách như thương binh trong
trường hợp đang làm nhiệm vụ mà hy sinh hoặc bị thương theo quy định của pháp
luật;
c) Tạo điều kiện học tập nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoạt động
văn hoá, nghệ thuật, vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao, bảo vệ sức khoẻ; ưu tiên giải
quyết việc làm sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

Điều 26. Chính sách của Nhà nước đối với thanh niên có tài năng
1. Nhà nước có cơ chế, chính sách để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng những thanh niên có năng khiếu, có thành tích xuất sắc trong học tập, hoạt
động khoa học và công nghệ, lao động, sản xuất, kinh doanh, quản lý, an ninh, quốc
phòng, văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao để trở thành những người tài năng.
2. Tôn vinh và tạo điều kiện cho thanh niên tài năng phát triển và làm việc
để phát huy khả năng đóng góp cho đất nước.
Điều 27. Chính sách của Nhà nước đối với thanh niên khuyết tật, tàn
tật, thanh niên nhiễm HIV/AIDS, thanh niên sau cai nghiện ma tuý, sau cải tạo
1. Có chính sách cho thanh niên khuyết tật, thanh niên tàn tật được học văn
hoá, học nghề, giải quyết việc làm phù hợp, được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ; được miễn, giảm học phí ở các cơ sở giáo dục công lập; được miễn, giảm viện
phí khi khám, chữa bệnh tại cơ sở y tế của Nhà nước; tham gia các hoạt động xã hội,
hoạt động văn hoá, thể thao.
2. Thanh niên nhiễm HIV/AIDS, thanh niên sau cai nghiện ma tuý, sau cải
tạo được tạo điều kiện chữa bệnh, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ, học văn hoá, học
nghề, giải quyết việc làm, xoá bỏ mặc cảm vươn lên hoà nhập cộng đồng.
Thanh niên nhiễm HIV/AIDS không có nơi nương tựa hoặc gia đình không
có điều kiện chăm sóc được tổ chức chăm sóc tại các cơ sở do Nhà nước, tổ chức, cá
nhân thành lập theo quy định của pháp luật.
3 . Khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân tham gia chăm sóc,
giúp đỡ thanh niên khuyết tật, thanh niên tàn tật, thanh niên nhiễm HIV/AIDS, thanh
niên sau cai nghiện ma tuý, sau cải tạo hoà nhập cộng đồng.
CHƯƠNG IV
TRÁCH NHIỆM CỦA NHÀ NƯỚC, GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI TRONG VIỆC
BẢO VỆ, BỒI DƯỠNG THANH NIÊN TỪ ĐỦ MƯỜI SÁU TUỔI
ĐẾN DƯỚI MƯỜI TÁM TUỔI
Điều 28. Trách nhiệm của Nhà nước
1. Có chính sách bảo đảm cho thanh niên từ đủ mười sáu tuổi đến dưới
mười tám tuổi hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục; tạo điều kiện học nghề, lựa

chọn việc làm, vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao phù
hợp với khả năng và lứa tuổi; miễn, giảm phí tham quan bảo tàng, di tích lịch sử, văn
hoá, cách mạng.
2. Bảo vệ thanh niên từ đủ mười sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi không bị
xâm hại tình dục và không bị lạm dụng sức lao động.
3 . Bảo đảm việc thực hiện các chính sách về hình sự, hành chính, dân sự
đối với thanh niên từ đủ mười sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi theo quy định của
pháp luật nhằm bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho những thanh niên này phát triển
lành mạnh.
Điều 29. Trách nhiệm của gia đình
1. Chăm sóc, bảo vệ, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho thanh niên từ đủ mười
sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục, học
nghề, định hướng nghề nghiệp, vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể
dục, thể thao phù hợp với lứa tuổi.
2. Cha mẹ và các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình có trách nhiệm
xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc, bình đẳng, tiến bộ, tạo môi trường lành mạnh
cho sự phát triển toàn diện nhân cách của thanh niên từ đủ mười sáu tuổi đến dưới
mười tám tuổi.
3 . Có trách nhiệm quản lý, giáo dục thanh niên từ đủ mười sáu tuổi đến
dưới mười tám tuổi không tự ý bỏ học, bỏ nhà, sống lang thang; không hút thuốc lá,
uống rượu và đồ uống có nồng độ cồn từ 14% trở lên; phòng, chống tệ nạn xã hội và
không vi phạm pháp luật.
Điều 3 0. Trách nhiệm của nhà trường
1. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh tạo điều kiện cho thanh niên
từ đủ mười sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi say mê học tập, ham hiểu biết, tích cực
rèn luyện đạo đức, lối sống.
2. Nâng cao chất lượng thực hiện chương trình giáo dục thể chất và thẩm
mỹ; hướng dẫn chăm sóc sức khoẻ, sức khoẻ sinh sản, tình bạn, tình yêu, kỹ năng
phòng chống các bệnh học đường và tệ nạn xã hội cho thanh niên từ đủ mười sáu
tuổi đến dưới mười tám tuổi.

3 . Phối hợp với cơ quan, tổ chức, gia đình tạo điều kiện cho học sinh tham
gia hoạt động văn hoá, thể thao, vui chơi, giải trí và các hoạt động ngoại khoá khác.
Điều 3 1. Áp dụng Công ước quốc tế về quyền trẻ em đối với thanh
niên từ đủ mười sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi
Nhà nước thực hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn áp dụng đối với thanh niên từ đủ mười sáu tuổi
đến dưới mười tám tuổi phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
CHƯƠNG V
TỔ CHỨC THANH NIÊN
Điều 3 2. Tổ chức thanh niên
1. Tổ chức thanh niên là tổ chức tự nguyện của thanh niên nhằm đoàn kết,
tập hợp thanh niên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên; phát huy vai trò
của thanh niên trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Tổ chức thanh niên bao gồm Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,
Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, Hội sinh viên Việt Nam và các tổ chức khác của
thanh niên được tổ chức và hoạt động theo điều lệ của tổ chức và trong khuôn khổ
của Hiến pháp và pháp luật.
Điều 3 3 . Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của
thanh niên Việt Nam, giữ vai trò nòng cốt trong phong trào thanh niên; tổ chức,
hướng dẫn hoạt động của thiếu niên, nhi đồng, phụ trách Đội thiếu niên tiền phong
Hồ Chí Minh.
Điều 3 4. Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam
Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam là tổ chức xã hội rộng rãi của thanh
niên và các tổ chức thanh niên, nhằm đoàn kết tập hợp mọi tầng lớp thanh niên Việt
Nam phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên.
CHƯƠNG VI:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 3 5. Hiệu lực thi hành

Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006.
Điều 3 6. Hướng dẫn thi hành
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005.
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
(đã ký)
Nguyễn Văn An
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN LUẬT THANH NIÊN
I. Sự cần thiết ban hành Luật thanh niên
1.1. Tình hình thanh niên hiện nay đòi hỏi phải ban hành Luật thanh
niên.
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay thanh niên có trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn kỹ thuật, khoa học công nghệ cao hơn trước, đời sống vật chất, tinh thần
và sức khoẻ được nâng cao, có khát vọng vươn lên, không cam chịu đói nghèo, lạc
hậu, mong muốn xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. ý thức tự lập thân, lập nghiệp, lòng nhân ái, nhân văn, tính
tích cực xã hội, tinh thần xung phong tình nguyện thanh niên đang được phát huy và
thể hiện trên nhiều lĩnh vực.
Tuy nhiên, đứng trước những cầu ngày càng cao của công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, trong thanh niên cũng
còn bộc lộ những hạn chế: Trình độ học vấn chuyên môn kỹ thuật tuy có cao hơn
trước nhưng còn hạn chế về tư duy sáng tạo, về năng lực vận dụng những điều đã
học vào giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Nhìn chung thanh niên Việt
Nam còn thiếu những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho yêu cầu phát triển và hội
nhập, như trình độ tin học, ngoại ngữ, giao tiếp, hợp tác, tính chủ động sáng tạo, khả
năng tự lập, khả năng thích ứng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Công cuộc đổi mới đất nước trong những năm qua đã đạt được những
thành tựu to lớn về kinh tế- xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần của

nhân dân, tạo ra những điều kiện tốt hơn cho việc đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai
trò thanh niên. Nhưng đồng thời, thanh niên cũng đang cũng phải đối mặt với nhiều
thách thức mới, như sự phân hoá giàu nghèo, những biểu hiện xuống cấp về đạo đức
xã hội, tỷ lệ ly hôn tăng, nhất là trong các cặp vợ chồng trẻ; lối sống thực dụng, chạy
theo tiền bạc, coi thường giá trị văn hoá dân tộc...đang tác động trực tiếp đến nhận
thức và hành vi của bộ phận thanh niên. Tỷ lệ thanh niên đô thị thất nghiệp, thanh
niên khu vực nông thôn thiếu việc làm còn cao; số lao động trẻ qua đào tạo chiếm tỷ
lệ thấp (mới đạt khoảng trên 15%). Nhiều thanh niên được đào tạo cơ bản có trình
độ, năng lực nhưng chưa được sử dụng hợp lý. Tầm vóc, thể lực của thanh niên tầm
vóc cơ thể thanh niên tuy có tiến bộ nhưng còn chưa theo kịp các nước trong khu
vực.
Tình trạng vi phạm pháp luật, mắc tệ nạn xã hội trong thanh niên diễn biến
phức tạp và có xu hướng gia tăng. Theo số liệu thống kê của các cơ quan pháp luật,
năm 2002 có hơn 70% số tội phạm hình sự và gần 80% số người mắc tệ nạn ma tuý,
mại dâm là thanh niên, khoảng 70,6 % số người nhiễm HIV ở độ tuổi dưới 3 0.
Những năm gần đây, số thanh niên lao động nhập cư từ nông thôn về thành
phố, về làm việc tại các khu công nghiệp, thanh niên đi học tập, lao động ở nước
ngoài tăng nhanh (TP Hồ Chí Minh có khoảng 1,2 triệu lao động nhập cư, trong đó
có tới trên 70% là thanh niên, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai có hàng trăm nghìn
thanh niên lao động trong các khu công nghiệp, cả nước có khoảng 4 vạn thanh niên
đi xuất khẩu lao động), tỷ lệ thanh niên nghèo, thanh niên có hoàn cảnh đặc biệt…
còn cao, đang tạo nên áp lực lớn đối với công tác quản lý nhà nước và việc đảm bảo
các điều kiện để cải thiện đời sống cho người lao động, trong đó có lao động trẻ.
Những điểm mạnh, yếu, khó khăn và thách thức trên đây của thanh niên
đòi hỏi phải ban hành Luật thanh niên, nhằm điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của thanh
niên, điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến thanh niên, tạo ra môi trường pháp
lý, kinh tế, văn hoá và xã hội lành mạnh cho thanh niên học tập, rèn luyện và phát
huy đầy đủ tiềm năng của mình, góp phần hình thành và phát huy nguồn nhân lực
thanh niên phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.2. Việc ban hành Luật thanh niên là sự thể chế hoá các chủ trương,

đường lối của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định công tác thanh niên là công tác của
Đảng, một trong các vấn đề có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách mạng. Tại
án nghị quyết về Cộng sản thanh niên vận động tháng 10 năm 193 0, Đảng ta khẳng
định : "Thanh niên lao động đã thành một lực lượng cách mạng quan trọng không thể
không kể tới được". Trải qua 75 năm xây dựng và phát triển, Đảng đã ban hành
nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản quan trọng về công tác thanh niên. Trong các văn
bản này, Đảng ta không chỉ khẳng định vai trò to lớn của thanh niên trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc, mà còn khẳng định sự cần thiết phải tăng cường
quản lý nhà nước đối với thanh niên, ban hành Luật thanh niên, tạo ra môi trường
pháp lý thuận lợi để các cấp, các ngành và mỗi công dân chăm lo bồi dưỡng, giáo
dục và phát huy tiềm năng to lớn của thanh niên. Nghị quyết 4 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VII về công tác thanh niên trong thời kỳ mới khẳng định :
“Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí
xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng
thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là
vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng”.
Thực hiện các chủ trương của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên,
những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương chính sách nhằm chăm lo
cho sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò to lớn của thanh niên, nhưng
việc thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với
thanh niên còn hạn chế, chưa mang tính toàn diện và thiếu đồng bộ; việc ban hành
Luật Thanh niên theo yêu cầu tại Nghị quyết 26 của Bộ chính trị (khoá V), Nghị
quyết Trung ương 4 (khoá VII) về công tác thanh niên trong thời kỳ mới và Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII chưa được thực hiện. Một số chính sách
chưa phù hợp thực tiễn và chậm được bổ sung, sửa đổi như các chính sách liên quan
đến giáo dục và đào tạo, chính sách dạy nghề và tạo việc làm, chính sách sử dụng trí
thức trẻ, chính sách tài năng trẻ, chính sách chăm sóc sức khoẻ và phát triển nền thể
thao hiện đại, chính sách quản lý và hưởng thụ văn hoá.... Việc xác định thẩm quyền

quản lý nhà nước đối với công tác thanh niên chưa rõ ràng và thiếu tính khả thi. ở
không ít đơn vị, địa phương việc phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước, đoàn thể với
Đoàn TNCS Hồ Chi Minh và Hội LHTN Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam trong
việc thực hiện các chính sách đối với thanh niên còn thiếu chặt chẽ. Sự thực hiện
nhiệm vụ công tác thanh niên của Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý, của các
cấp, các ngành, của gia đình và các chủ thể xã hội khác còn thiếu cơ sở pháp lý và
các cơ chế phối hợp thích hợp, chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn xã
hội trong việc bảo vệ, chăm lo bồi dưỡng, phát huy thanh niên cũng như đầu tư cho
công tác thanh niên, làm cho việc giáo dục, bồi dưỡng và phát huy nguồn nhân lực
thanh niên tiếp tục khó khăn, lúng túng và hiệu quả chưa thực sự cao.
Nguyên nhân quan trọng của tình trạng trên đây là chúng ta còn thiếu cơ sở
pháp lý để thực thi công tác thanh niên. Vì vậy, việc ban hành Luật thanh niên hiện
nay là cần thiết và cấp bách, là quá trình thể chế hoá đầy đủ các chủ trương của Đảng
về công tác thanh niên, tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho việc giáo dục, bồi
dưỡng để hình thành thế hệ thanh niên kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách
mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.
1.3 . Việc ban hành Luật thanh niên là đòi hỏi của quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN.
Công tác thanh niên do Đảng lãnh đạo trực tiếp và toàn diện bằng các chỉ
thị, nghị quyết và các chủ trương công tác khác. Nhà nước, các đoàn thể, các tổ chức
căn cứ chủ trương của Đảng để tổ chức triển khai thực hiện. Trong thời kỳ mới,
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị thực hiện nhiệm vụ công tác thanh niên không chỉ
thông qua việc ban hành các chỉ thị, nghị quyết, các chủ trương, mà còn thông qua
việc lãnh đạo các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể chế các chủ trương đó bằng
các chính sách, pháp luật, đưa các chỉ thị, nghị quyết, các chủ trương của Đảng đi
vào cuộc sống. Công tác thanh niên, do đó cũng được quản lý bằng pháp luật, bằng
hệ thống tổ chức của nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp, gia đình,
nhà trừơng và các chủ thể xã hội khác. Điều 66, Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định: “Thanh niên
được gia đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát

triển thể lực, trí lực, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân và
lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ
quốc”.
Việc ban hành Luật thanh niên là quá trình cụ thể hoá Hiến pháp, là đòi
hỏi của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội có liên quan đến thanh niên, góp phần xác định và đề cao trách
nhiệm của Nhà nước, các cấp, các ngành, gia đình và xã hội đối với thanh niên và
công tác thanh niên, tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy việc thực hiện chủ trơng xã hội hoá
công tác thanh niên, huy động các nguồn lực xã hội trong việc chăm lo giải quyết các
nhu cầu chính đáng của thanh niên.
1.4. Việc ban hành Luật thanh niên đáp ứng yêu cầu mở rộng quan hệ
hợp tác quốc tế của Nhà nước ta, trong đó có lĩnh vực thanh niên.
Vấn đề thanh niên luôn là mối quan tâm của các quốc gia trên thế giới và
các tổ chức quốc tế, đặc biệt là cơ quan Liên hiệp quốc. Tại hầu hết các quốc gia, ở
các mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp, Nhà nước đều có các chủ trương đối
với thanh niên. Các chủ trương này (có thể tồn tại dưới dạng văn bản luật, chính
sách, chương trình, hay chiến lược...) đều hướng tới mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng,
giáo dục thanh niên và phát huy tốt nhất tiềm năng của thanh niên, phục vụ sự phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Quốc gia thịnh hay suy, phát triển hay không phát
triển và phát triển theo chiều hướng nào, một phần rất quan trọng phụ thuộc vào việc
bồi dưỡng, phát huy cũng như định hướng cho thanh niên. Để làm được việc đó, các
quốc gia đều ban hành các chính sách/ luật pháp ở các mức độ và hình thức khác
nhau với đối tượng tác động chính là thanh niên và các chủ thể xã hội liên quan đến
thanh niên, bao gồm cả hệ thống bộ máy các cơ quan nhà nước.
Trong bối cảnh đó, việc ban hành Luật thanh niên của Việt Nam không chỉ
khẳng định tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước ta đối với thanh niên, mà còn tạo thêm những điều kiện pháp lý cần thiết và
tương thích, giúp cho việc đào tạo, bồi dưỡng thanh niên phù hợp với yêu cầu của
các chuẩn mực quốc tế về thanh niên và công tác thanh niên.
Tóm lại: Việc ban hành Luật thanh niên là cần thiết và cấp bách, nhằm điều

chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến thanh niên, tạo cơ sở pháp lý quan trọng
cho việc ban hành các chính sách, cơ chế bảo đảm việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của thanh niên, phát huy vai trò xung kích, sáng tạo, tiềm năng to lớn của thanh
niên trong phát triển kinh tế - xã hội và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các
nước, các tổ chức trên thế giới, góp phần tăng cường giáo dục, bồi dưỡng thanh niên,
bảo vệ thanh niên trước tác động của những tiêu cực và tệ nạn xã hội, sự tấn công
của các thế lực thù địch, đề cao trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
II. Quan điểm chỉ đạo việc xây dựng Luật thanh niên
2.1. Quán triệt và thể chế hoá quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí
Minh, cụ thể hoá Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về thanh niên và công
tác thanh niên.
2.2. Tư tưởng xuyên suốt của dự án Luật thanh niên là nhằm chăm lo giáo
dục, bồi dưỡng và phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của thanh niên trong thời kỳ
mới - thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự án Luật Thanh niên cần làm rõ quyền và nghĩa vụ của thanh niên; làm
rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội trong việc đảm bảo cho
thanh niên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Dự án Luật thanh niên được xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lý thực hiện
chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và phát huy thanh niên, quan tâm, đáp ứng nhu cầu, lợi
ích chính đáng của thanh niên để họ trở thành nguồn nhân lực có chất lượng cao đi
đầu trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tăng cường quản lý
Nhà nước về công tác thanh niên.
2.3 . Dự án Luật thanh niên phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, bảo đảm tính khả thi và bảo đảm sự phù hợp, thống nhất với các
luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
III. Quá trình xây dựng dự án Luật thanh niên
Quá trình xây dựng dự án Luật Thanh niên có thể chia làm hai giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất từ năm 1983 đến năm 1989, giai đoạn thứ hai từ năm 1995 đến

năm 2005.
Dự án Luật thanh niên đã được Hội đồng Nhà nước đưa vào kế hoạch xây
dựng pháp luật 5 năm (1981 - 1985) và Trung ương Đoàn đã được giao chủ trì biên
soạn. Từ đầu năm 1982, Trung ương Đoàn đã chủ trì và phối hợp với các cơ quan có
liên quan tiến hành soạn thảo Luật Thanh niên. Các cuộc khảo sát về tình hình thanh
niên và công tác thanh niên đã được triển khai tại gần 3 0 tỉnh, thành trong cả nước
và vài chục cuộc hội thảo khoa học đã được tổ chức để thu thập ý kiến xây dựng
Luật Thanh niên. Đến năm 1989, dự án Luật thanh niên đã được dự thảo tới lần thứ
12 và đã được trình lên Hội đồng Nhà nước. Tuy nhiên, vào thời điểm này, tình hình
quốc tế có nhiều biến động lớn. Đất nước đã bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện từ năm 1986, đặc biệt là tiến hành nhiều đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế.
Nhiều vấn đề được đề cập trong dự thảo lần thứ 12 Luật thanh niên trên cơ sở nghiên
cứu tình hình kinh tế – xã hội của giai đoạn trước đã tỏ ra không còn phù hợp và việc
triển khai soạn thảo Luật thanh niên đã tạm dừng.
Năm 1993 , Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khoá
VII) đã ban hành Nghị quyết về công tác thanh niên trong thời kỳ mới. Việc triển
khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã mang lại sức sống mới cho phong trào
thanh niên và hoạt động Đoàn. Hai phong trào lớn “Thanh niên lập nghiệp” và “Tuổi
trẻ giữ nước” do Đoàn phát động từ giữa năm 1993 đã nhanh chóng đi vào cuộc
sống, được đông đảo đoàn viên, thanh niên sôi nổi hưởng ứng. Cùng với những
thắng lợi to lớn của gần mười năm đổi mới, tình hình thanh niên và phong trào thanh
niên nước ta có nhiều chuyển động tích cực. Trong bối cảnh đó, vào cuối năm 1994,
Ban Bí thư Trung ương Đoàn đã kiến nghị với Quốc hội để tiếp tục nghiên cứu, xây
dựng Luật Thanh niên. Năm 1995, dự án Luật thanh niên được bổ sung vào Chương
trình xây dựng pháp luật của Quốc hội khoá IX và sau đó tiếp tục được đưa vào
Chương trình xây dựng luật và pháp lệnh của Quốc hội khoá X. Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội tiếp tục giao cho Trung ương Đoàn chủ trì, phối hợp với các bô, ngành,
đoàn thể có liên quan xây dựng dự án Luật Thanh niên và thành lập Ban Soạn thảo
Luật Thanh niên do đồng chí Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đoàn làm
Trưởng ban soạn thảo. Để giúp việc cho Ban Soạn thảo Luật Thanh niên, Trung

ương Đoàn đã thành lập Tổ Biên tập Luật Thanh niên bao gồm các chuyên gia có
hiểu biết sâu sắc về pháp luật về thanh niên của một số bộ, ngành, đoàn thể và các
cán bộ nghiên cứu của Trung ương Đoàn. Nhiệm vụ thường trực giúp việc cho Ban
soạn thảo Luật Thanh niên được giao cho Viện nghiên cứu thanh niên thuộc Trung
ương Đoàn. Năm 1998, Uỷ ban quốc gia về thanh niên được thành lập, Bí thư thứ
nhất Trung ương Đoàn kiêm nhiệm Chủ nhiệm Uỷ ban, bộ máy chuyên trách giúp
việc cho Uỷ ban được bố trí từ biên chế của Trung ương Đoàn. Để phù hợp với một
nhiệm vụ của Uỷ ban là phối hợp nghiên cứu, xây dựng, đề xuất về chính sách đối
với thanh niên và tăng cường hiệu quả phối hợp với các bộ, ngành, đoàn thể trong
việc soạn thảo Luật Thanh niên, nhiệm vụ thường trực giúp việc cho Ban soạn thảo
Luật Thanh niên được giao cho Văn phòng Uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt Nam.
Từ năm 1995, Trung ương Đoàn đã tiếp tục triển khai tích cực việc xây
dựng dự án Luật Thanh niên. Các cuộc khảo sát về tình hình thanh niên và việc thực
hiện chính sách thanh niên đã được tiến hành ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Hàng trăm cuộc hội thảo khoa học lấy ý kiến của các chuyên gia luật
pháp, cán bộ nghiên cứu, cán bộ quản lý, cán bộ Đoàn, Hội và các cuộc họp lấy ý
kiến đóng góp của cán bộ, đoàn viên, thanh niên ở địa phương, cơ sở đã được tổ
chức. Một số cuộc hội thảo khoa học còn thu hút được sự tham gia thảo luận của một
số tổ chức quốc tế tại Việt Nam. Ban Thường vụ, Ban Bí thư Trung ương Đoàn các
khoá đã có nhiều phiên họp thảo luận và cho ý kiến chỉ đạo việc xây dựng dự án
Luật Thanh niên. Ban soạn thảo Luật thanh niên đã tổ chức nghiên cứu chủ trương,
đường lối của Đảng, các quy định của pháp luật, tham khảo các kết quả nghiên cứu
và nội dung của Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam đến năm 2010. Đồng
thời, Ban soạn thảo cũng đã tiến hành tham khảo các công ước quốc tế liên quan đến
thanh niên và kinh nghiệm xây dựng pháp luật về thanh niên của một số nước trên
thế giới để soạn thảo dự án Luật thanh niên. Quá trình soạn thảo dự án Luật có sự
phối hợp chặt chẽ của Uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt Nam, các bộ, ngành, đoàn
thể, các cơ quan có liên quan và có sự đóng góp ý kiến của các chuyên gia luật pháp,
các nhà nghiên cứu, hoạt động xã hội, cán bộ làm công tác thanh niên.
Tuy vậy, Luật Thanh niên là một luật đối tượng, nhiều vấn đề về nội dung

của luật rất khó thể hiện. Thanh niên cũng là công dân, có đầy đủ những quyền và
nghĩa vụ của công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Thiết kế những nội
dung về quyền, nghĩa vụ của thanh niên phải làm sao không phải là việc nhắc lại các
quyền, nghĩa vụ của công dân đã được quy định tại các văn bản pháp luật khác,
nhưng phải thể hiện được trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước, gia đình, xã
hội, làm rõ những quyền, nghĩa vụ mang tính đặc thù của thanh niên và trách nhiệm
của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
thanh niên.
Bước vào những năm đầu tiên của thế kỷ 21, trên cơ sở các kết quả đã đạt
được, việc xây dựng dự án Luật Thanh niên càng được đẩy mạnh về tiến độ và chú
trọng nâng cao chất lượng soạn thảo. Cuối năm 2002, tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội
khoá XI đã ban hành Nghị quyết số 12/2002/QH11 ngày 16/12/2002 về Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XI (2002-2007) trong đó
có dự án Luật thanh niên. Năm 2004, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 3
5/2004/QH11 ngày 25/11/2004 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005,
theo đó, dự án Luật thanh niên sẽ được Quốc hội xem xét, thông qua trong năm
2005. Tháng 1 và 2/2005, Ban Bí thư Trung ương Đoàn đã tổ chức hai phiên làm
việc tập thể xem xét, góp ý việc xây dựng dự án Luật Thanh niên và giao cho Ban
soạn thảo luật tập trung nỗ lực nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý, bổ sung và hoàn thiện
dự thảo Luật thanh niên. Cuối tháng 2/2005, sau khi xin ý kiến góp ý của Chính phủ,
Ban Bí thư Trung ương Đoàn đã thông qua dự án Luật Thanh niên (dự thảo thứ 18)
và chính thức trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến.
Ngày 3 1/3 /2005, tại phiên họp thứ 27, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã
cho ý kiến về dự án Luật Thanh niên và đồng ý giao cho Trung ương Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh phối hợp với các bộ, ngành, các cơ quan, tổ chức có liên quan khẩn
trương sửa chữa, bổ sung, hoàn chỉnh dự án Luật Thanh niên để trình Quốc hội xem
xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7. Ngày 24/5/2005, đồng chí Đào Ngọc Dung, quyền
Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đoàn (khoá 8) đã trình bày dự án Luật
Thanh niên tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khoá XI và đồng chí Trần Thị Tâm Đan, Uỷ
viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban Văn hoá, Giáo dục, Thanh

niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đã trình bày báo cáo thẩm tra dự án Luật
Thanh niên. Ngày 6/6/2005, tại kỳ họp này, các đại biểu Quốc hội đã phát biểu ý
kiến đóng góp dự án Luật Thanh niên. Các ý kiến của đại biểu Quốc hội đã bày tỏ sự
tán thành việc ban hành Luật Thanh niên, tán thành cơ bản dự án Luật Thanh niên và
góp ý một số nội dung đề cần được bổ sung, sửa chữa, hoàn thiện.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ
đạo các cơ quan có liên quan nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện dự án Luật Thanh niên
để trình Quốc hội xem xét thông qua. Ngày 26/10/2005, tại kỳ họp thứ 8, đại biểu
Quốc hội đã nghe báo cáo tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 do Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội trình bày và thảo luận tại hội trường về một số nội dung
còn ý kiến khác nhau của dự án Luật Thanh niên. Các ý kiến phát biểu đều đồng ý
cần thiết ban hành Luật Thanh niên và góp ý một số vấn đề như làm sao thể hiện
được rõ hơn trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước, xã hội, gia đình và bản
thân, bổ sung một số nội dung về chính sách của nhà nước đối với thanh niên…
Ngày 29/11/2005, Quốc hội đã bỏ phiếu thông qua đối với 9 vấn đề còn hai loại ý
kiến khác nhau và bỏ phiếu thông qua Luật Thanh niên với 75% tán thành. Ngày
9/12/2005, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký Lệnh số 24/2005/L/CTN công bố
Luật Thanh niên. Luật Thanh niên chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2006.
III. Nội dung chủ yếu của Luật
3 .1. Đối tượng, phạm vi điều chỉnh của Luật thanh niên
+ Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, với tư cách là công dân, thanh niên
có quyền và nghĩa vụ như mọi công dân đã được quy định trong Hiến pháp. Vì vậy
Luật thanh niên không đưa ra quyền, nghĩa vụ mới ngoài những quyền và nghĩa vụ
mà Hiến pháp, pháp luật đã quy định và để tránh trùng lắp nên chỉ đề cập những
quyền và nghĩa vụ cơ bản và nhấn mạnh yếu tố đặc thù của thanh niên với định
hướng đặt ra là: thanh niên là lớp người cần được bồi dưỡng, đào tạo. Việc phát huy
vai trò thanh niên thông qua việc thanh niên thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân;
thể hiện thái độ, trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ thanh niên như thế nào nhằm phát huy cao vai trò của thanh niên.
Đồng thời thanh niên là một chủ thể, một lớp người, mà quá trình trưởng

thành, cống hiến của họ có quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với gia đình, Nhà nước, xã hội
và các tổ chức thanh niên. Do đó, Luật thanh niên vừa điều chỉnh các quyền, nghĩa
vụ của thanh niên, vừa điều chỉnh trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối
với thanh niên.
Vì vậy, Luật thanh niên qui định quyền và nghĩa vụ thanh niên; trách
nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên; tổ chức thanh niên. Đồng
thời được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân.
3 .2. Nội dung cơ bản của Dự án Luật Thanh niên.
Luật Thanh niên gồm có 6 chương với 3 6 điều.
Chương I: Những quy định chung
Chương I gồm có 8 điều, từ điều 1 đến điều 8, là những quy định những
vấn đề chung nhất, mang tính nguyên tắc như: khái niệm thanh niên (quy định tại
Điều 1); phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (quy định tại điều 2); về quyền và
nghĩa vụ của thanh niên (quy định tại Điều 3 )... đặc biệt Luật nêu lên vấn đề mang
tính nguyên tắc về sự bình đẳng giữa quyền và nghĩa vụ đối với các đối tượng thanh
niên “ thanh niên không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp đều được tôn trọng về quyền và nghĩa vụ”
(quy định tại khoản 2, Điều 3 ); về vị trí, vai trò của thanh niên, trách nhiệm của Nhà
nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên, xã hội hoá công tác thanh niên (quy định
tại Điều 4); về Quản lý nhà nước về công tác thanh niên, Uỷ ban quốc gia về thanh
niên Việt Nam, Hợp tác quốc tế về thanh niên (quy định từ Điều 5 đến Điều 7) và
các hành vi bị nghiêm cấm đối với thanh niên (quy định tại điều 8).
Về độ tuổi thanh niên: căn cứ từ sự phân tích về phát triển thể chất, tâm lý,
sinh lý, sự phát triển về mặt xã hội, ý thức tự lập, tự chủ của thanh niên; vừa đảm bảo
sự kế tiếp với tuổi trẻ em đã được quy định trong Luật Bảo vệ, Chăm sóc và giáo dục
trẻ em, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam và có tham khảo về quy
định độ tuổi thanh niên của các nước trong khu vực và trên thế giới, Điều 1, Luật
thanh niên qui định độ tuổi của thanh niên là từ đủ 16 tuổi đến 3 0 tuổi.
Về cơ quan quản lý nhà nước về công tác thanh niên: để phù hợp với chủ
trương cải cách hành chính nên trong Luật không quy định về tổ chức bộ máy làm

nhiệm vụ quản lý công tác thanh niên. Việc quản lý nhà nước về công tác thanh niên
thuộc trách nhiệm của Thủ trưởng các bộ ngành và Chủ tịch uỷ ban nhân dân các
cấp. Do đó, nếu thành lập một cơ quan ngang bộ để thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về công tác thanh niên sẽ dẫn đến chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ.
Hơn nữa, ở nước ta, bên cạnh các cơ quan Nhà nước còn có tổ chức Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh là nơi tập hợp, đoàn kết, giáo dục thanh niên, đại diện chăm lo và bảo vệ
lợi ích của thanh niên có trách nhiệm phát triển công tác thanh niên, làm lực lượng
nòng cốt chính trị trong phong trào thanh niên và được quyền tham gia hoạt động
quản lý Nhà nước và xã hội. Vì vậy, hiện nay Điều 6, Luật thanh niên quy định về
Uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt Nam là cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ
về công tác thanh niên nhằm tạo điều kiện cho Uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt
Nam làm tốt chức năng tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về công tác thanh niên.
Về các hành vi bị nghiêm cấm: Với tư cách là công dân, thanh niên không
được thực hiện những hành vi đã bị nghiêm cấm đã được quy định trong các văn bản
quy phạm pháp luật như mọi công dân khác. Tuy nhiên, theo báo cáo của các cơ
quan pháp luật, tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên có xu
hướng gia tăng, nhất là những tội phạm về ma tuý, mại dâm, gây rối trật tự công
cộng… đặc biệt là tội đua xe trái phép, sử dụng thuốc lắc…, thực sự là vấn đề đáng
lo ngại của toàn xã hội. Vì vậy, Điều 8, Luật thanh niên quy định về các hành vi bị
nghiêm cấm mang tính đặc thù thường xảy ra đối với lứa tuổi thanh niên và nghiêm
cấm các tổ chức, cá nhân dụ dỗ , lôi kéo, ép buộc thanh niên thực hiện các hành vi
này.
Chương II: Quyền và nghĩa vụ của thanh niên.
Luật thanh niên nhằm tạo hành lang pháp lý thúc đẩy sự nghiệp đào tạo,
bồi dưỡng và phát huy thanh niên. ở chương này, căn cứ vào quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân để xác định quyền và nghĩa vụ thanh niên, đồng thời làm cơ sở
pháp lý để định hướng cho thanh niên rèn luyện phấn đấu nâng cao trách nhiệm đối
với bản thân mình, đối với dân tộc, đất nước thông qua việc tích cực thực hiện quyền
và nghĩa vụ của thanh niên để vươn lên tự hoàn thiện mình, tích cực học tập, lao
động lập thân, lập nghiệp. Quyền và nghĩa vụ thanh niên quy định tại chương này

cũng là cơ sở để Nhà nước ban hành các chính sách, xác định trách nhiệm của Nhà
nước, gia đình và xã hội nhằm tạo điều kiện cho việc đào tạo, phát huy thanh niên.
Chương này gồm có 8 điều, từ điều 9 đến điều 16 quy định về quyền, nghĩa
vụ, trách nhiệm của thanh niên trong học tập; lao động; bảo vệ Tổ quốc; hoạt động
khoa học, công nghệ và bảo vệ tài nguyên môi trường; hoạt động văn hoá, nghệ
thuật, du lịch, vui chơi, giải trí; bảo vệ sức khoẻ, thể dục, thể thao; hôn nhân và gia
đình; trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
Chương III. Trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh
niên
Những quy định ở chương này thể hiện những chính sách cơ bản của Nhà
nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân nhằm huy động sức
mạnh của các chủ thể cùng chăm lo giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thanh niên, tạo
những điều kiện thuận lợi để thanh niên có thể phát huy hết khả năng của mình rèn
luyện, phấn đấu, lập thân, lập nghiệp, góp phần phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước. Các chính sách hướng đến việc tăng cường khả năng lập thân, lập nghiệp, khả
năng tự giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc của thanh niên trong nền kinh tế thị
trường- định hướng XHCN.
Chương này gồm có 11 điều, từ Điều 17 đến Điều 27.
Từ Điều 17 đến Điều 23 , là những quy định về trách nhiệm của Nhà nước,
các chính sách của Nhà nước đối với thanh niên nói chung trong các lĩnh vực học tập
và hoạt động khoa học, công nghệ, lao động, bảo vệ tổ quốc, hoạt động văn hoá nghệ
thuật, vui chơi, giải trí, bảo vệ sức khoẻ và hoạt động thể dục, thể thao, hôn nhân và
gia đình, tham gia quản lý nhà nước và xã hội;
Đối với một số đối tượng thanh niên có tính đặc thù như những đối tượng
thanh niên có yếu thế trong cơ hội phát triển (thanh niên khuyết tật, tàn tật, thanh
niên nhiễm HIV/AIDS, thanh niên sau cai nghiện ma tuý, sau cải tạo) hoặc là có tính
tiên tiến, tích cực, có khả năng cống hiến (thanh niên xung phong, thanh niên có tài
năng), Luật đã có quy định thêm một số chính sách nhằm để hỗ trợ cho nhóm yếu thế
và phát huy nhóm thanh niên tích cực, tạo cơ hội bình đẳng về phát triển cho mọi đối
tượng thanh niên: Từ Điều 24 đến Điều 27, quy định chính sách cho một số đối

tượng thanh niên, gồm thanh niên dân tộc thiểu số, thanh niên xung phong, thanh
niên có tài năng, thanh niên khuyết tật, tàn tật, thanh niên nhiễm HIV/AIDS, thanh
niên sau cai nghiện ma tuý, sau cải tạo.
Chương IV. Trách nhiệm của nhà nước, gia đình và xã hội trong việc bảo
vệ, bồi dưỡng thanh niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi
Thanh niên từ đủ 16 đến 18 tuổi đã là thanh niên nhưng cũng là người chưa
thành niên, là lớp người cần được chăm lo giáo dục, bồi dưỡng để phát triển hoàn
thiện bản thân, trở thành người có ích cho xã hội. Đồng thời, theo công ước quốc tế
về quyền trẻ em của Liên hiệp quốc mà nước ta đã ký kết và gia nhập năm 1990,
thanh niên trong độ tuổi này vẫn là trẻ em. Vì vậy Luật thanh niên dành riêng một
chương quy định trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với lớp thanh
niên này, đây là sự tiếp nối với Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được Quốc
hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 5 năm 2004, tạo nên một hệ thống các chế định
pháp lý để bảo vệ, chăm sóc và giáo dục tốt hơn cho trẻ em theo quy định của công
ước quốc tế về quyền trẻ em và cũng là thể hiện sự nhất quán về thái độ tích cực của
Nhà nước ta nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn những điều mà chúng ta đã cam kết
với cộng đồng quốc tế. Các quy định trong chương này thể hiện sự ưu tiên trong việc
chăm sóc, bảo vệ, bồi dưỡng, tạo những điều kiện thuận lợi cho thanh niên lứa tuổi
này phát triển toàn diện trong quá trình hình thành nhân cách.
Chương này gồm có 4 điều, từ Điều 28 đến Điều 3 1, quy định về trách
nhiệm của nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên từ đủ 16 đến đủ 18 tuổi;
việc áp dụng Công ước quốc tế về quyền trẻ em đối với thanh niên từ đủ 16 đến đủ
18 tuổi.
Chương V. Tổ chức thanh niên
Thanh niên là một lực lượng xã hội, nhưng là lực lượng có tổ chức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Trong thực tiễn, các tổ chức thanh niên có vai trò quan trọng
trong việc giáo dục, bồi dưỡng và phát huy tiềm năng của thanh niên. Vì vậy Luật
thanh niên đã có những quy định về tổ chức thanh niên; vị trí, vai trò của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh - tổ chức chính trị xã hội của thanh niên và của Hội Liên hiệp
thanh niên Việt Nam - tổ chức xã hội rộng rãi của thanh niên. Còn vấn đề cụ thể về

tổ chức và hoạt động của tổ chức thanh niên thì được thể hiện trong điều lệ của các
tổ chức thanh niên chứ không đưa vào Luật này.
Chương này gồm có 3 điều, từ Điều 3 2 đến Điều 3 4, quy định về khái
niệm tổ chức thanh niên; vị trí, vai trò của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
và Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam.
Chương VI. Điều khoản thi hành
Chương này gồm có 2 điều là Điều 3 5 và Điều 3 6, quy định về hiệu lực
thi hành của Luật thanh niên và hướng dẫn thi hành Luật thanh niên.
Điều 3 6 Luật thanh niên quy định: “Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật này”.
Luật thanh niên sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2006. Hiện nay, việc xây dựng
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật thanh niên đang được tiến hành khẩn trương để
kịp thời ban hành khi Luật có hiệu lực. Công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về
Luật thanh niên tới đoàn viên, hội viên, thanh niên và trong toàn xã hội là việc rất
cần thiết, cần được tiến hành kịp thời. Đoàn thanh niên cấp tỉnh, thành chủ động phối
hợp với Sở Tư pháp và các báo, đài địa phương tổ chức phổ biến, giới thiệu Luật
thanh niên dựa trên đề cương này, trong đó cần lưu ý trách nhiệm thực hiện quyền,
nghĩa vụ thanh niên và trách nhiệm của Nhà nước xã hội trong việc chăm lo bồi
dưỡng cho thanh niên để nâng cao hiểu biết của đoàn viên, hội viên, thanh niên và
tạo khí thế thi đua sôi nổi, phấn khởi trong tháng thanh niên 2006 và kỷ niệm 75 năm
ngày thành lập Đoàn.
HỎI VÀ ĐÁP VỀ LUẬT THANH NIÊN
Luật Thanh niên được Quốc hội Khoá XI kỳ họp thứ tám ngày 29/11/2005
thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2006. Luật Thanh niên ban hành thể hiện sự
quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với thanh niên và công tác thanh
niên. Luật Thanh niên là văn bản pháp lý quan trọng thể chế hoá các quan điểm của
Đảng về thanh niên và công tác thanh niên; quy định quyền và nghĩa vụ của thanh
niên, vai trò, trách nhiệm của thanh niên đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, gia
đình và xã hội đối với sự nghiệp chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và phát huy thanh

niên.
Để tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong xã hội và đông đảo đoàn viên, hội
viên và thanh niên về nội dung của Luật Thanh niên, Trung ương Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh xuất bản cuốn “Hỏi - đáp về Luật Thanh niên”. Tài liệu này
giúp bạn đọc nắm vững những nội dung cơ bản của Luật Thanh niên được trình bày
dưới dạng hỏi - đáp về các điều luật và một vài tình huống cụ thể; đồng thời đăng lại
toàn văn Luật Thanh niên để nghiên cứu. Tài liệu này được biên soạn lần đầu tiên,
không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Mong được sự góp ý của các bạn đọc.
Hỏi: Từ năm 1985 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những văn bản
nào thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng Luật Thanh niên?
Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò thanh niên công tác thanh niên. Văn kiện
các kỳ Đại hội Đảng đều xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác thanh niên mỗi
giai đoạn. Bên cạnh đó, Đảng còn ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết chuyên đề về
thanh niên và công tác thanh niên. Đặc biệt, từ năm 1985 đến nay Đảng ta đã ban
hành những văn bản thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng Luật
Thanh niên, đó là:
+ Nghị quyết số 26- NQ/TW ngày 1/7/1985 của Bộ Chính trị về “Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên” nêu rõ: “…Ban hành Luật Thanh
niên để bảo đảm phát huy quyền làm chủ tập thể của tuổi trẻ”.
+ Nghị quyết số 25- NQ/TW ngày16/4/1991 của Bộ Chính trị về “ Đổi mới và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên” xác định: “Xúc tiến
nghiên cứu để ban hành những bộ luật bảo đảm cho thế hệ trẻ phát triển lành mạnh:
Luật lao động, Luật Thanh niên, Luật cải cách giáo dục, Luật về trẻ em…”.
+ Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VII, ngày 14/1/1993 về công tác thanh niên trong thời kỳ mới nhấn mạnh việc ban
hành các chính sách, văn bản pháp quy về công tác thanh niên: “ Nhà nước ban hành
và hoàn thiện các chính sách về việc làm, thu nhập, giáo dục, văn hoá, chăm sóc sức
khoẻ và các chính sách kinh tế- xã hội khác, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
lành mạnh của thế hệ trẻ và phong trào thanh niên. Xây dựng và ban hành các văn
bản pháp quy liên quan đến công tác thanh niên.”

+ Văn kiện Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) và lần thứ VIII (1996)
cũng xác định việc xây dựng, ban hành Luật Thanh niên:
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nêu: “Xúc tiến nghiên cứu ban
hành bộ luật bảo đảm cho thế hệ trẻ phát triển lành mạnh, cống hiến cho xã hội: Luật

×