Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực và ổ bụng điều trị ung thư thực quản ngực (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.99 KB, 25 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư thực quản (UTTQ) là một trong những bệnh ung thư khá
phổ biến trên thế giới, có khoảng 400.000 bệnh nhân ung thư thực
quản được chẩn đoán mỗi năm. Tỷ lệ mắc UTTQ khác nhau giữa các
vùng, nơi có tỷ lệ mắc cao như Trung Quốc, Iran và Nga. Tại Việt
Nam, UTTQ đứng hàng thứ 4 trong các ung thư đường tiêu hóa và
nằm trong số 10 loại ung thư thường gặp nhất ở nam giới.
Ung thư thực quản là bệnh có tiên lượng xấu, điều trị rất phức tạp
và khó khăn đòi hỏi phối hợp nhiều phương pháp (phẫu thuật, xạ trị
và hóa trị). Trong đó phẫu thuật vẫn là một phương pháp điều trị có
hiệu quả nhất. Phẫu thuật mở cắt thực quản có nhược điểm là phải
phối hợp nhiều đường mổ để cắt thực quản nên cuộc mổ rất nặng nề,
có nhiều tai biến và biến chứng.
Phẫu thuật cắt UTTQ qua nội soi ngực phải kết hợp với mở bụng
được Collard mô tả và áp dụng thành công lần đầu tiên vào năm
1991. Ở Việt Nam, PTNS điều trị UTTQ được thực hiện từ năm 2003
tại Bệnh viện Việt Đức và Bệnh viện Chợ Rẫy. Sau đó được áp dụng
ở một số trung tâm khác như Bệnh viện đa khoa Trung ương Huế;
Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, Bệnh viện
108… Cắt TQ qua nội soi ngực, tư thế nằm sấp, nghiêng trái 30 o và
nội soi ổ bụng được tác giả Phạm Đức Huấn mô tả và áp dụng lần
đầu tiên tại Bệnh viện Việt Đức. Các phẫu thuật viên khác thường
sử dụng tư thế nằm sấp, nghiêng trái 90 o. Các nghiên cứu đều cho
thấy PTNS cắt TQ có nhiều ưu điểm hơn phẫu thuật mở về kết quả
sớm: giảm đau, nhanh hồi phục, ít biến chứng hô hấp…Tuy vậy, kết
quả xa về mặt ung thư như khả năng cắt TQ rộng, vét hạch và đặc
biệt thời gian sống sau mổ còn là vấn đề được bàn luận.
Xuất phát từ những vấn đề khoa học và thực tiễn trên, chúng tôi thực
hiện đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực và ổ


bụng điều trị ung thư thực quản ngực”, nhằm hai mục tiêu:
1. Ứng dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực tư thế nằm sấp,
nghiêng trái 30o và nội soi ổ bụng điều trị ung thư thực quản ngực.
2. Đánh giá kết quả cắt thực quản qua nội soi lồng ngực tư thế nằm
sấp, nghiêng trái 30o và nội soi ổ bụng điều trị ung thư thực quản ngực.
Những đóng góp mới của luận án
- PTNS lồng ngực tư thế nằm sấp, nghiêng trái 30 o là một cải tiến
của nhóm nghiên cứu: với tư thế và cách đặt trocart đã giúp cho việc


2
trình bày trường mổ một cách rộng rãi, giải phóng thực quản và vét
hạch thuận lợi, thể hiện PTNS là một phương pháp an toàn, khả thi,
tai biến trong mổ thấp.
- Trường mổ thuận lợi nên chỉ cần các dụng cụ mổ nội soi thông
thường, không cần đến các dụng cụ nội soi chuyên dụng đắt tiền.
- Đường mở bụng nhỏ có 2 lợi điểm:
+ Bệnh thường chẩn đoán muộn, u lớn kéo qua vết mổ bụng tránh
tái phát u nếu kéo qua vết mổ cổ như các tác giả khác.
+ Sử dụng các dụng cụ tạo ống dạ dày như mổ mở, không phải sử
dụng dụng cụ nội soi tạo ống dạ dày như các tác giả khác rất đắt tiền
và vẫn đạt được các ưu điểm của phẫu thuật nội soi.
Kết quả sớm cho thấy tính khả thi, tính an toàn và hiệu quả của
phẫu thuật nội soi lồng ngực và ổ bụng điều trị ung thư thực quản.
Khả năng nạo vét hạch tương đương mổ mở, tai biến 2%, biến chứng
sau mổ 12,5% trong số đó 2 biến chứng thường gặp là hô hấp và rò
miệng nối, tử vong sau mổ 2%.
Kết quả xa cho thấy PTNS cắt TQ đã mang lại chất lượng cuộc
sống cho người bệnh và kéo dài thời gian sống sau mổ. Yếu tố ảnh
hưởng đến thời gian sống sau mổ là độ biệt hóa của mô bệnh học và

giai đoạn bệnh
Cấu trúc của luận án
Luận án dài 126 trang bao gồm: Đặt vấn đề 2 trang, Tổng quan 38
trang, Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 22 trang, Kết quả
nghiên cứu 22 trang, Bàn luận 39 trang, Kết luận 2 trang, Kiến nghị 1
trang. Trong luận án có 31 bảng, 9 biểu đồ, 21 hình minh họa. Tài
liệu tham khảo có 169 tài liệu tham khảo, trong đó 36 tài liệu Tiếng
Việt, 118 tài liệu Tiếng Anh, 15 tài liệu Tiếng Pháp. Ngoài ra bệnh án
còn có các phần: mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng,
danh mục biểu đồ, danh mục hình, mẫu bệnh án nghiên cứu, phụ lục,
phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu, danh sách bệnh nhân nghiên cứu.

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Dịch tễ ung thư thực quản
Ung thư thực quản (UTTQ) nằm trong số 10 bệnh ung thư trên
toàn cầu và đứng thứ 7 trong số các nguyên nhân tử vong thường gặp
nhất do ung thư.


3
Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng 150.000 ca mắc ung thư, 75%
trong số này ở giai đoạn tiến triển. Số trường hợp tử vong hàng năm
do ung thư ước tính khoảng 70.000 trường hợp.
1.2. Thực trạng bệnh ung thư thực quản
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong các biện pháp điều trị, UTTQ
vẫn còn là một trong số các ung thư gây tử vong cao với tỷ lệ sống
5 năm còn thấp.
1.3. Giải phẫu thực quản và liên quan
Thực quản (TQ) là ống hẹp nhất của đường tiêu hoá. TQ tận cùng

bằng cách mở vào chỗ phình to nhất, đó là dạ dày. Chiều dài của TQ
được xác định về mặt giải phẫu là khoảng cách giữa sụn móng và lỗ
tâm vị. Ở người trưởng thành, chiều dài này đo được từ 22-28cm
(24±5), trong đó có đoạn nằm trong khoang bụng dài 2-6cm.
Liên quan của thực quản: Luận án mô tả liên quan phần thực quản cổ,
thực quản ngực và phần thực quản chui qua lỗ thực quản của cơ hoành.
1.4. Các phương pháp chẩn đoán giai đoạn bệnh trước mổ đối
với UTTQ
- Vai trò của chụp cắt lớp vi tính (CLVT) trong chẩn đoán giai
đoạn bệnh đối với UTTQ: Đánh giá tình trạng xâm lấn khí phế quản;
Đánh giá xâm lấn vào động mạch chủ; Đánh giá xâm lấn vào hạch
vùng; Đánh giá di căn xa.
- Vai trò của siêu âm nội soi trong chẩn đoán giai đoạn bệnh đối với UTTQ:
+ Siêu âm nội soi chẩn đoán mức độ tổn thương tại thành thực quản.
Những đặc điểm hình ảnh SANS là cơ sở để phân chia giai đoạn
bệnh UTTQ theo hệ thống phân loại TNM của AJCC (2010).
+ Siêu âm nội soi trong việc khảo sát các hạch tại chỗ và hạch vùng
- Vai trò của chụp cộng hưởng từ (MRI) trong chẩn đoán giai
đoạn bệnh đối với UTTQ: thời gian gần đây, với những tiến bộ mới
trong kỹ thuật chụp cộng hưởng từ cùng với các thuốc cản quang mới
đã mở ra những khả năng ưu việt hơn của CCHT trong việc phân loại
giai đoạn bệnh của UTTQ.
- PET/CT: là sự kết hợp PET với CT tức là ghép 2 loại đầu dò trên
một máy và dùng chung hệ thống ghi nhận lưu giữ số liệu, các kỹ
thuật của máy tính. Trong những năm gần đây với sự ra đời của PET,
PET/CT đã giúp đánh giá chính xác hơn giai đoạn của nhiều bệnh
ung thư nói chung và UTTQ nói riêng.


4

1.5. Các phương pháp điều trị ung thư thực quản
1.5.1. Các phương pháp phẫu thuật điều trị ung thư thực quản
a. Cắt thực quản qua đường ngực
+ Phẫu thuật Sweet
+ Phẫu thuật Lewis – Santy
+ Phẫu thuật Akiyama
b. Cắt thực quản không mở ngực
+ Phẫu thuật Orringer
c. Cắt thực quản qua nội soi
Với sự phát triển nhanh của phẫu thuật nội soi nói chung, trên thế
giới từ đầu thập kỷ 90, phẫu thuật nội soi đã được áp dụng trong phẫu
thuật TQ. Giống như mổ mở, PTNS cũng dần từng bước phát triển,
hoàn thiện và cho thấy những ưu điểm: ít xâm lấn, thời gian phục hồi
sức khỏe nhanh, ít các biến chứng về hô hấp. Các phẫu thuật phát
triển theo hai hướng chính là cắt TQ qua nội soi ngực - bụng và cắt
TQ qua nội soi khe hoành.
1.5.2. Vai trò của tia xạ và hóa chất trong điều trị ung thư thực quản
Việc kết hợp xạ trị và hóa trị sẽ cho kết quả tốt hơn so với chỉ
dùng xạ trị hoặc hóa trị riêng rẽ. Thời điểm kết hợp hóa - xạ trị và
phẫu thuật có thể khác nhau tùy theo từng trung tâm. Một số nghiên
cứu cho thấy hóa xạ trị trước mổ và hóa trị sau mổ cải thiện đáng kể
thời gian sống sau mổ của bệnh nhân.
1.6. Nghiên cứu áp dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị UTTQ
* Trên thế giới: Luận án trình bày nhiều nghiên cứu áp dụng phẫu
thuật nội soi điều trị ung thư thực quản. Các nghiên cứu cho thấy tỷ
lệ tai biến và biến chứng ở nhóm phẫu thuật nội soi cắt thực quản
thấp hơn đáng kể so với mổ mở.
* Tại Việt Nam: Luận án trình bày nhiều nghiên cứu áp dụng phẫu
thuật nội soi điều trị ung thư thực quản ở Việt nam. Cắt TQ qua nội
soi ngực, tư thế nằm sấp, nghiêng trái 30o và nội soi ổ bụng được tác

giả Phạm Đức Huấn mô tả và áp dụng lần đầu tiên tại Bệnh viện Việt
Đức. Các phẫu thuật viên khác thường sử dụng tư thế nằm sấp,
nghiêng trái 90o. Các nghiên cứu đều cho thấy PTNS cắt TQ có nhiều
ưu điểm: giảm đau, nhanh hồi phục, ít biến chứng hô hấp…Tuy vậy,
kết quả xa về mặt ung thư như khả năng cắt TQ rộng, vét hạch và đặc
biệt thời gian sống sau mổ còn là vấn đề được bàn luận.


5

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân được chẩn đoán ung thư thực quản ngực, được
phẫu thuật nội soi lồng ngực và ổ bụng để điều trị ung thư thực quản
ngực tại khoa Phẫu thuật tiêu hoá bệnh viện Việt Đức từ ngày
01/01/2008 đến 31/12/2014.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
- Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư thực quản ngực. Có kết quả
xét nghiệm mô bệnh học là ung thư biểu mô vẩy hoặc ung thư biểu
mô tuyến.
- U ≤ T3, chưa có xâm lấn động mạch chủ, khí phế quản, màng
tim, không có di căn xa.
- Được mổ nội soi lồng ngực và ổ bụng thành công hoặc chuyển
mổ mở.
- Toàn trạng ở mức độ (0, 1, 2) theo tiêu chuẩn WHO.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Ung thư của cơ quan khác xâm lấn, di căn thực quản.
- UTTQ ngực không được cắt thực quản bằng phẫu thuật nội soi.
- Bệnh nhân già yếu, suy kiệt mức độ 3 và 4 theo WHO.

- Bệnh nhân có bệnh toàn thân nặng: Suy tim, bệnh mạch vành
không ổn định; Suy gan Child: B, C; Suy thận từ mức độ II trở lên;
Suy hô hấp nặng; HIV; Suy dinh dưỡng nặng hoặc sút cân trên 15%
trọng lượng cơ thể.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: là nghiên cứu mô tả tiến cứu, theo dõi dọc.
2.2.2. Cỡ mẫu
Được tính theo công thức:

Trong đó:
-

= 1.96 (với α = 0.05); d = 0.06 (sai số tối thiểu cho phép).


6
- p: tỷ lệ biến chứng, theo các nghiên cứu gần đây biến chứng hô
hấp là biến chứng thường gặp nhất sau phẫu thuật nội soi lồng ngực
và ổ bụng cắt thực thực quản. tỷ lệ nay từ 9,2% đến 32,4%. Chúng tôi
chọn p = 15%.
- n: cỡ mẫu.
Thay các giá trị vào ta có n = 136 (bệnh nhân).
2.2.3. Các nội dung nghiên cứu
2.2.3.1. Các biến nghiên cứu
a. Lâm sàng và cận lâm sàng
* Đặc điểm bệnh nhân: tuổi, giới, tiền sử, thời gian mắc bệnh.
* Triệu chứng lâm sàng: nuốt nghẹn, sút cân, đau ngực, khàn tiếng.
* Chỉ số khối cơ thể: BMI = Cân nặng (kg)/[Chiều cao (m)]2
* Nội soi thực quản: nhận định kết quả: vị trí u, hình ảnh u (u sùi,
loét, thâm nhiễm; chít hẹp); kết quả sinh thiết.

* Chụp cắt lớp vi tính: nhận định kết quả: vị trí, hình ảnh u, đánh giá
xâm lấn động mạch chủ theo Picus, đánh giá xâm lấn khí phế quản
(KPQ), di căn hạch.
* Siêu âm nội soi: nhận định kết quả: mức độ xâm lấn thành, hạch di căn.
* Đo chức năng hô hấp: đánh giá chức năng hô hấp.
b. Các nội dung nghiên cứu được thu thập trong lúc mổ:
* Thì nội soi ngực: số lượng trocart, vị trí u, mức độ xâm lấn của
khối u, vị trí hạch, khoảng cách cắt trên u (cm), tính chất cắt u, mức độ
mất máu, tai biến trong mổ, khó khăn trong mổ, chuyển mổ mở, thời
gian phẫu thuật.
* Thì nội soi bụng: vị trí và số lượng trocart, tình trạng dạ dày và các
tạng trong ổ bụng, tình trạng di căn trong ổ bụng, mức độ mất máu, tai
biến trong mổ, khó khăn trong mổ, chuyển mổ mở, thời gian phẫu thuật.
* Thì cổ và mở nhỏ bụng: mở bụng, kỹ thuật tạo ống dạ dày, kỹ thuật
làm miệng nối thực quản - dạ dày.
c. Giải phẫu bệnh:
Đại thể: hình ảnh đại thể, chiều dài u (cm), khoảng cách cắt trên u (cm).
Vi thể: loại ung thư: biểu mô vẩy, biểu mô tuyến; mức độ biệt hoá,
mức độ xâm lấn thành, di căn hạch, di căn xa, xét nghiệm tìm tế bào
ung thư tại diện cắt trên thực quản.
* Phân loại TNM trong ung thư thực quản theo AJCC 7th 2010.
d. Các nội dung nghiên cứu sau mổ: thời gian thở máy, tử vong sau
mổ, rò miệng nối, biến chứng hô hấp, các biến chứng khác.


7
e. Đánh giá kết quả xa sau mổ:
* Chất lượng cuộc sống sau mổ:
+ Tốt: không có triệu chứng, hoặc các triệu chứng nhẹ, lên cân,
hoạt động bình thường hoặc gần bình thường.

+ Trung bình: các triệu chứng ở mức độ vừa, tăng hoặc không
tăng cân, có thể làm được các công việc nhẹ.
+ Xấu: không hoạt động trở lại được hoặc các triệu chứng nặng
phải vào viện điều trị.
* Thời gian sống thêm sau mổ:
* Đánh giá yếu tố ảnh hưởng tới thời gian sống thêm sau mổ: bao
gồm tuổi, kích thước u, vị trí u, đặc điểm mô học, độ biệt hóa của mô
học, giai đoạn bệnh.
2.2.3.2. Quy trình kỹ thuật cắt thực quản qua nội soi lồng ngực và ổ bụng
a. Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ:
- Thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng để lựa chọn bệnh nhân
cho phẫu thuật. Ngoài ra mỗi bệnh nhân trước mổ còn được yêu cầu
làm một số việc sau đây nhằm cải thiện chức năng hô hấp, tình trạng
suy dinh dưỡng trước mổ :
- Bắt buộc bệnh nhân ngừng hút thuốc ít nhất 10 ngày trước mổ.
- Thực hiện một số động tác lý liệu pháp về hô hấp (tập thở hít sau
sâu, thổi bóng cao su, tập ho…) kết hợp dùng thuốc làm loãng, long
đờm qua khí dung và sử dụng một số thuốc có tác dụng dãn phế quản.
- Vệ sinh răng miệng.
- Tăng cường nuôi dưỡng tĩnh mạch đảm bảo > 2000 calo/ngày
cho những bệnh nhân có suy dinh dưỡng.
b. Kỹ thuật mổ:
* Thì nội soi ngực: Giải phóng thực quản và vét hạch trung thất
- Gây mê: Mê nội khí quản, ống Carlen 2 nòng, xẹp hoàn toàn
phổi phải khi mổ.
- Tư thế bệnh nhân: nằm sấp, nghiêng trái khoảng 30o.
- Các bước kỹ thuật:
Bước 1: Đặt Trocart
Bước 2: Đặt ống soi quan sát và đánh giá mức độ xâm lấn của
khối u, hạch và các tạng trong ngực.

Bước 3: Phẫu tích, buộc, Clip cắt đôi quai tĩnh mạch đơn (bằng
buộc chỉ hoặc bằng clip Hemolock. Phẫu tích, Clip và cắt đôi động
mạch phế quản phải.


8
Bước 4: Bóc tách thực quản và hạch quanh thực quản
Bước 5: Vét hạch ngã 3 khí phế quản.
Bước 6: Hút rửa ngực, đặt dẫn lưu, nở phổi và khâu lại các lỗ trocart.
* Thì nội soi bụng: giải phóng dạ dày
- Tư thế bệnh nhân: bệnh nhân nằm ngửa, cổ nghiêng trái, chân
dạng, tay phải dạng ngang, tay trái đặt dọc theo thân mình.
- Các bước kỹ thuật:
Bước 1: Đặt Trocart
Bước 2: Giải phóng bờ cong lớn
Bước 3: Giải phóng bờ cong nhỏ.
Bước 4: Cắt cuống mạch vị trái và vét hạch 7, 8, 9, 11
Bước 5: Bóc tách thực quản bụng và mở rộng lỗ hoành.
* Thì cổ và mở bụng nhỏ: Cắt thực quản cổ và tạo hình thực quản
+ Mở cổ trái dọc bờ trước cơ ức đòn chũm trái.
+ Bóc tách thực quản cổ xuống ngực cắt đôi thực quản cổ trên
khớp ức đòn khoảng 1 cm.
+ Mở bụng 5 cm đường giữa, dưới mũi ức.
+ Tạo ống dạ dày.
+ Kéo ống dạ dày lên cổ qua đường trung thất sau.
+ Làm miệng nối thực quản - dạ dày (tận – bên), khâu vắt, 1 lớp
toàn thể.
+ Đặt dẫn lưu cạnh miệng nối và khâu vết mổ cổ.
+ Mở thông hỗng tràng kiểu Witzel, khâu đính thành bụng.
+ Đặt dẫn lưu hố lách.

+ Đóng bụng và các lỗ trocart.
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu
- Tạo tệp file nhập số liệu trên máy tính bằng phần mềm Efidata,
vào số liệu, làm sạch số liệu.
- Sử dụng phần mềm SPSS để thực hiện các phân tích thống kê.
- Các biến rời rạc được trình bày dưới dạng tỷ lệ phần trăm, so
sánh kết quả các nhóm bằng thuật toán χ2.
- Các biến liên tục được trình bày dưới dạng kết quả trung bình, so
sánh kết quả giữa các nhóm bằng thuật toán test t - Student.
- Thời gian sống sau mổ được tính bằng phương Kaplan-Meier.
- So sánh thời gian sống sau mổ bằng test Log rank.
- Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm khi p < 0,05.


9

Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Một số đặc điểm về dịch tễ học
* Tuổi: Tuổi trung bình: 53,05 ± 8,21; Thấp nhất 34, cao nhất 77;
bệnh gặp nhiều ở nhóm tuổi 40-59, chiếm tỷ lệ 69,8%.
* Giới: Tỷ lệ Nam/Nữ: 49,67/1. Tỷ lệ bệnh nhân nam chiếm 98%; Tỷ
lệ bệnh nhân nữ chiếm 2%.
* Các yếu tố nguy cơ: 61,8% bệnh nhân liên quan đến uống rượu và
hút thuốc, trong đó tỷ lệ bệnh nhân liên quan cả hai yếu tố uống rượu và
hút thuốc là 42,1%.
* Thời gian mắc bệnh: Thời gian từ khi có triệu chứng đầu tiên đến
khi được xác định UTTQ trung bình là 2,20 ± 2,55 tháng (0,5-20
tháng).
3.2. Lâm sàng

* Dấu hiệu thường gặp nhất là nuốt nghẹn, chiếm 70,3%.
* Số bệnh nhân không sút cân chiếm tỷ lệ 87,5%. Chỉ có 2% số
bệnh sút cân trên 10% trọng lượng cơ thể.
* Bệnh nhân có chỉ số BMI >18,5 chiếm 84,9%.
* Trong nghiên cứu có 17/152 bệnh nhân hóa xạ trị trước mổ, chiếm 11,2%.
3.3. Cận lâm sàng
* Hình ảnh u sùi chiếm tỷ lệ cao nhất: 71,0%.
* Qua nội soi dạ dày chúng tôi thấy u ở vị trí 1/3 giữa 56,6%, u ở vị
trí 1/3 dưới 37,5%, u ở hai vị trí 1/3 giữa + 1/3 dưới chiếm 5,9%.
* 151 bệnh nhân chiếm 99,3% không có rối loạn hô hấp trước mổ.
Một bệnh nhân có rối loạn nhẹ, chiếm 0,7%.
* Có 94,1% bệnh nhân không có xâm lấn động mạch chủ của UTTQ
trên phim chụp CLVT. Không có bệnh nhân nào có xâm lấn động
mạch chủ của UTTQ trên phim chụp CLVT mà góc Picus > 90°
* Qua siêu âm nội soi chúng tôi cũng thấy số bệnh nhân có xếp loại
T0 chiếm 1,3%; T1 7,9%; T2 26,3%; T3 64,5%.
3.4. Ứng dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực và ổ bụng điều trị UTTQ
3.4.1. Số lượng Trocart
Bảng 3.1. Số Trocart
Số bệnh nhân
Số lượng Trocart
Tỷ lệ %
(n = 152)
3 Trocart
141
92,7
Số lượng Trocart thì
4
Trocart
9

6,0
ngực
5 Trocart
2
1,3
Số lượng Trocart thì
5 Trocart
150
98,7


10
bụng
6 Trocart
2
1,3
Nhận xét: Trong thì ngực chúng tôi chủ yếu xử dụng 3 trocart,
chiếm 92,7%. Trong thì bụng chúng tôi sử dụng chủ yếu 5 trocart
chiếm 98,7%.
3.1.2. Kỹ thuật tạo ống dạ dày
Bảng 3.2. Kỹ thuật tạo ống dạ dày
Số Stapler
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
2
3
2,0
3
138
90,8

4
11
7,2
Tổng
152
100,0
Nhận xét: 90,8% số bệnh nhân được tạo ống dạ dày bằng 3
Stapler thẳng 75mm của hãng Johnson & Johnson.
3.1.3. Thời gian phẫu thuật
Bảng 3.3. Thời gian phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật
Số bệnh
X ± SD
Min - max
(phút)
nhân
Thì ngực
54,84 ± 24,12
30 - 150
Thì bụng
75,20
±
14,08
30 - 170
152
Toàn bộ
338,22 ± 94,54
180 - 720
Nhận xét: Thời gian phẫu thuật trung bình thì ngực là 54,84 ±
24,12 phút; thời gian phẫu thuật trung bình thì bụng là 75,20 ± 14,08

phút; thời gian phẫu thuật trung bình toàn bộ là 338,22 ± 94,54 phút
3.1.4. Tai biến trong mổ
Chúng tôi có 3 trường hợp tai biến trong mổ chiếm tỷ lệ
2,0%: 1 trường hợp chảy máu diện cắt/bệnh nhân xơ gan đầu
đinh, 2 trường hợp rách phế quản trái (1 trường hợp do bóng
NKQ quá căng, 1 trường hợp do dao SA cắt phải khi phẫu tích
hạch ngã 3 KPQ). 2 trường hợp rách phế quản trái đều được khâu
qua nội soi thành công. Không có trường hợp nào tổn thương
thần kinh quặt ngược thanh quản.
3.3.6. Tỷ lệ chuyển mổ mở
Trong nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp nào phải
chuyển mổ mở: cả ở thì ngực và thì bụng. Như vậy tỷ lệ mổ thành
công là 100% và tỷ lệ chuyển mổ mở là 0%.
3.1.3. Lượng máu mất


11
Lượng máu mất trung bình trong cuộc mổ là không đáng kể,
không có bệnh nhân nào phải truyền máu trong mổ. Có một trường
hợp phải truyền 3 đơn vị máu sau mổ đó là trường hợp chảy máu diện
cắt/bệnh nhân sơ gan đầu đinh được phát hiện lúc mổ.
3.1.4. Số hạch vét được
Bảng 3.4. Số hạch vét được
Số hạch vét được
Hạch ngực
Hạch bụng
Toàn bộ

Số bệnh nhân


X ± SD

Min - max

152

12,99 ± 5,47
8,02 ± 1,59
21,01 ± 3,33

5 - 28
3 - 18
8 - 42

Nhận xét: Số hạch vét toàn bộ trung bình là 21,01 ± 3,33 hạch; ít nhất
là 8 hạch, nhiều nhất là 42 hạch. Trong đó, số hạch ngực trung bình là
12,99 ± 5,47 hạch, số hạch bụng thu được trung bình là 8,02 ± 1,59.
3.2. Kết quả sau mổ
3.2.1. Kết quả sớm
3.2.1.1. Biến chứng
Bảng 3.5. Các loại biến chứng sau phẫu thuật
Biến chứng
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
Hô hấp
11
7,2
Rò miệng nối
5
3,3

Rò dưỡng chấp
2
1,3
12,5
Nhiễm khuẩn vết mổ
1
0,7
Không có biến chứng
133
87,5
Tổng
152
100,0
Nhận xét: Tỷ lệ biến chứng sớm sau phẫu thuật chiếm 12,5%.
Trong đó biến chứng hô hấp gặp nhiều nhất chiếm 7,2%, 3,3% rò
miệng nối, 1,3% bệnh nhân rò dưỡng chấp, 0,7% bệnh nhân nhiễm
khuẩn vết mổ.
3.2.1.2. Tử vong
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 3 bệnh nhân tử vong sau
mổ: một bệnh nhân chảy máu diện cắt thực quản/xơ gan đầu đinh; 2
bệnh nhân suy hô hấp sau mổ.


12
3.2.1.3. Hẹp miệng nối
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 5 bệnh nhân hẹp miệng nối
sau mổ chiếm 3,3%. Cả 5 bệnh nhân này chúng tôi đều điều trị
bằng cách nong thực quản qua nội soi và cho kết quả tốt.
3.2.2. Kết quả xa
Trong 152 bệnh nhân nghiên cứu, trừ 3 bệnh nhân tử vong sau

mổ, 2 bệnh nhân mất tin. Còn lại 122 bệnh nhân có tin tức đầy đủ
trong đó bệnh nhân có thời gian theo dõi dài nhất là 69 tháng, ngắn
nhất là 5 tháng. Có 66 bệnh nhân đã chết, 56 bệnh nhân còn sống.
3.2.2.1. Chất lượng cuộc sống
Bảng 3.6. Xếp loại chất lượng cuộc sống sau mổ
Xếp loại
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
Tốt
39
32,0
Trung bình
62
50,8
Xấu
21
17,2
Tổng
122
100,0
Nhận xét: Có 32,0% bệnh nhân có chất lượng cuộc sống sau mổ
tốt; 50,8% chất lượng cuộc sống sau mổ trung bình; 17,2% chất
lượng cuộc sống sau mổ xấu.
3.2.2.2. Thời gian sống thêm toàn bộ

Biểu đồ 3.1. Thời gian sống thêm toàn bộ


13
Nhận xét: Tỷ lệ sống thêm toàn bộ 1 năm là 87,0%; 2 năm là

65,0%; 3 năm là 53,0%; 4 năm là 47,0%; và 5 năm là 35,0%;.
Đường cong sống thêm đi xuống nhanh vào năm thứ 2. Thời gian
sống thêm trung bình của bệnh nhân là 42,73 ± 3,09 (tháng).
3.2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống thêm sau mổ
- Thời gian sống thêm theo nhóm tuổi

Biểu đồ 3.2. Thời gian sống thêm toàn bộ theo tuổi
Nhận xét: Tỷ lệ sống thêm của bệnh nhân nhóm tuổi từ 50 - 59 là
cao hơn các nhóm tuổi còn lại. Tuy nhiên, sự khác biệt này không có
ý nghĩa thống kê với p> 0,05.
- Thời gian sống thêm theo kích thước u


14

Biểu đồ 3.3. Thời gian sống thêm toàn bộ theo kích thước u
Nhận xét: Tỷ lệ sống thêm của bệnh nhân có kích thước u
từ 3 - 5 cm là 40,0% cao hơn kích thước u < 3 cm là 38,0%.
Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
- Thời gian thêm theo vị trí u

Biểu đồ 3.4. Thời gian sống thêm toàn bộ theo vị trí u
Nhận xét: Tỷ lệ sống thêm của bệnh nhân ở vị trí u 1/3 giữa là
26,0% thấp hơn vịtrí u 1/3 dưới và 1/3 giữa kết hợp 1/3 dưới lần lượt là
45,0% và 67,0%. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p>
0,05.
- Thời gian sống thêm theo đặc điểm mô học


15


Biểu đồ 3.5. Thời gian sống thêm toàn bộ theo mô bệnh học
Nhận xét: Tỷ lệ sống thêm của bệnh nhân ở tế bào tuyến là
100,0% cao hơn hẳn tế bào biểu mô vảy. Tuy nhiên, sự khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
- Thời gian sống thêm theo độ biệt hóa của mô bệnh học

Biểu đồ 3.6. Thời gian sống thêm toàn bộ theo độ biệt hóa
Nhận xét: Độ biệt hóa của mô bệnh học ảnh hưởng tới thời
gian sống thêm sau mổ. Tỷ lệ sống thêm của bệnh nhân có độ biệt
hóa cao là 52,0%, cao hơn độ biệt hóa vừa và không biệt hóa tỷ lệ
tương đương là 25,0% và 14,0%. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê với p< 0,01.


16
- Thời gian sống thêm theo giai đoạn bệnh

Biểu đồ 3.7. Thời gian sống thêm toàn bộ theo giai đoạn bệnh
Nhận xét: Giai đoạn bệnh ảnh hưởng tới thời gian sống thêm sau
mổ. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.

Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của nhóm bệnh nhân
nghiên cứu
4.1.1. Tuổi, giới, tiền sử liên quan
Tuổi mắc bệnh trong nghiên cứu của chúng tôi nằm trong khoảng từ
34 -77 tuổi. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 53,05 ± 8,21. Tuổi mắc
bệnh hay gặp nhất từ 40-59 tuổi chiếm tỷ lệ 69,8%, với hai nhóm tuổi

đỉnh cao của bệnh từ 40-49 tuổi (23,7%) và 50-59 tuổi (46,1%). Kết quả
nghiên cứu này cũng phù hợp với kết quả của các tác giả khác ở Việt
Nam như: tuổi trung bình trong nghiên cứu của tác giả Triệu Triều Dương
là 54,04 ± 8,12, Nguyễn Hoàng Bắc là 56,7 ± 8,3. Tuy nhiên, theo nghiên
cứu của một số tác giả nước ngoài, tuổi trung bình của bệnh nhân của các
tác giả cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi: trong nghiên cứu của
Luketich, tuổi trung bình của bệnh nhân là 65; Theo nghiên cứu của Kinjo
là 62,7 ± 7,4; Theo nghiên cứu của Miyasaka là 64.
Tỷ lệ nam/nữ trong nghiên cứu của chúng tôi = 49,67/1 (98%).
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hoàng Bắc tỷ lệ này là 100%;
Nhưng theo nghiên cứu của Luketich, tỷ lệ nam/nữ chỉ có 4,4/1;


17
Theo nghiên cứu của Kinjo tỷ lệ này là 4,1/1; Theo nghiên cứu của
Miyasaka là 5,8/1.
Rượu và thuốc lá là hai yếu tố nguy cơ chính của các loại ung
thư đường tiêu hóa, hô hấp trên bao gồm cả ung thư thực quản. Qua
nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nghiện rượu là
17,1%, nghiện thuốc lá là 2,6%. Tỷ lệ bệnh nhân nghiện cả rượu và
thuốc lá là 42,1%.
4.1.2. Thời gian mắc bệnh
Thời gian mắc bệnh hay gặp nhất là 3 tháng chiếm 79,6%, trung
bình 2,2 ± 2,55 tháng. Bệnh nhân đến bệnh viện sớm nhất là 0,5
tháng và muộn nhất là 20 tháng, nhưng tập trung cao là trong vòng 3
tháng, có rất ít bệnh nhân đến muộn sau 6 kể từ khi có triệu chứng
đầu tiên.
4.1.3. Triệu chứng lâm sàng
Tỷ lệ bệnh nhân nuốt nghẹn là 70,3%, kết quả này thấp hơn kết quả
nghiên cứu của tác giả Đỗ Mai Lâm, có tỷ lệ nuốt nghẹn là 98,8%. Có

thể giải thích rằng bệnh nhân của chúng tôi được chọn ở giai đoạn sớm
hơn. Đa số các bệnh nhân ở tình trạng không nghẹn (29,6%) hoặc nuốt
nghẹn độ I (66,4%) và nuốt nghẹn độ II (4,0%). Không có bệnh nhân
đến trong tình trạng nuốt nghẹn hoàn toàn hay độ III.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân gầy sút cân
chiếm tỷ lệ ít là 12,5% vì bệnh nhân không nuốt nghẹn hoặc không
nghẹn đặc nên bệnh nhân vẫn ăn uống được.
4.1.4. Đặc điểm cận lâm sàng
Qua nội soi ống mềm chúng tôi thấy vị trí u hay gặp ung thư nhất
là đoạn thực quản 1/3 giữa chiếm tỷ lệ 56,6% và 1/3 dưới chiếm
37,5%. Tuy nhiên ung thư thực quản có đặc tính lan tràn dưới niêm
mạc do đó có thể gặp ung thư ở nhiều vị trí, trong nghiên cứu của
chúng tôi có 5,9% bệnh nhân có u ở hai vị trí 1/3 giữa và 1/3 dưới.
Trên hình ảnh cắt lớp vi tính vị trí u hay gặp nhất là đoạn thực quản
1/3 giữa chiếm 51,9%, tiếp đến là 1/3 dưới chiếm 45,0%, có 3,1% khối
u xuất hiện ở cả hai vị trí 1/3 gữa và 1/3 dưới. Theo nghiên cứu của tác
giả Nguyễn Minh Hải, trong 25 trường hợp ung thư thực quản được
phẫu thuật có: ung thư thực quản đoạn 1/3 giữa chiếm 50%, đoạn 1/3
dưới chiếm 16,7%, khối u xuất hiện ở cả 2 vị trí 1/3 giữa và 1/3 dưới
chiếm 33,3%. Trong nghiên cứu của chúng tôi không có bệnh nhân
nào có xâm lấn động mạch chủ mà góc Picus > 90o, chỉ có 1,3%
trường hợp bệnh nhân có góc Góc Picus từ 45o - 90o.


18
Siêu âm nội soi có vai trò rất quan trọng trong ung thư thực quản.
Nó không chỉ giúp chẩn đoán bệnh mà còn có vai trò quan trọng
trong việc đánh giả khả năng phẫu thuật cho phẫu thuật viên. Siêu âm
nội soi đánh giá mức độ xâm lấn của khối u và tình trạng di căn hạch.
Điều đó giúp chẩn đoán giai đoạn được chính xác, từ đó có chỉ định

điều trị phù hợp. Trong nghiên cứu của chúng tôi, qua siêu âm nội soi
đã đánh giá xâm lấn thành của các bệnh nhân tham gia nghiên cứu,
kết quả có 1,3% ở T0; 7,9% T1; 26,3% T2; 64,5% T3.
Tỷ lệ bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi nằm chủ yếu ở giai
đoạn I và II chiếm 63,8%, không có bệnh nhân nào vào viện ở giai đoạn
IV. Trong đó có 36.2% bệnh nhân ở giai đoạn III. Theo nghiên cứu của
Nguyễn Minh Hải và cộng sự bệnh nhân ung thư thực quản ở giai đoạn I
và II chiếm 25%, không có bệnh nhân nào vào viện ở giai đoạn IV.
Trong đó có 75% bệnh nhân ở giai đoạn III.
4.2. Quy trình phẫu thuật
4.2.1. Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ
Việc lựa chọn bệnh nhân và chuẩn bị bệnh nhân trước mổ tốt có
tác dụng trong việc phòng ngừa các biến chứng trong và sau mổ. Việc
đánh giá tình trạng toàn thân, tình trạng hô hấp, tim mạch, chức năng
gan thận là rất quan trọng để lựa chọn bệnh nhân cho phẫu thuật cắt thực
quản. Các tác giả cho rằng tuổi không phải là trở ngại chính nhưng tuổi
trên 70 thì nguy cơ phẫu thuật tăng cao. Tuy nhiên, có hay không các
bệnh phối hợp mới quan trọng. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 3
bệnh nhân trên 70 tuổi, chiếm 2,0%. Cả 3 BN đều phục hồi tốt sau khi
mổ, không gặp biến chứng gì.
4.2.2. Kỹ thuật mổ
Thì ngực: Tư thế bệnh nhân, số lượng và vị trí trocart
Do đặc điểm giải phẫu, tư thế nằm sấp nghiêng trái 30 o có các
lợi điểm là góc mở của khoang ngực và vòm hoành lớn, trung thất
và toàn bộ chiều dài thực quản không biến dạng và bộc lộ hầu như
thẳng, rất thuận lợi trong quá trình phẫu tích. Toàn bộ phổi khi xẹp
xuống có trọng lượng và tư thế rơi xuống phía trước nên không
cản trở tầm nhìn, máu và dịch trong khi mổ nếu chảy ra sẽ chảy
xuống phần thấp không đọng lại vị trí chảy máu nên thuận lợi cho
việc cầm máu. Mặt khác, khi thao tác các cán dụng cụ cũng góp

phần giữ cho phổi không căng lên. Đặc biệt, với tư thế này, cột
sống của bệnh nhân ưỡn ra trước làm cho trường mổ và đường vào
thực quản được trình bày rộng rãi, rõ ràng và vét hạch trung thất


19
dễ dàng hơn. Tư thế này khác tư thế nằm nghiêng trái 90 o hay tư
thế nằm sấp vì nó cho tiếp cận thực quản ngực trong góc rộng nhất
như trên đã nói, trong khi tư thế sấp thực quản bị cột sống che lấp
bờ sau. Với tư thế nằm sấp các phẫu thuật viên phải chọc trocart
lui sát bờ ngoài khối cơ cột sống, trong khi tư thế nằm sấp
nghiêng trái 30 o cho phép chọc qua thành ngực các khoang liên
sườn tương đối mỏng. Tư thế nằm sấp nghiêng trái 30 o cũng cho
phép phẫu thuật viên và kíp mổ điều khiển dụng cụ thoải mái nhất
mà không phải vươn nhiều trong lúc phẫu thuật.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi sử dụng 3 trocart
trên phần lớn bệnh nhân (141 bệnh nhân) chiếm (92,7%), 9 bệnh
nhân (6,0%) phải đặt 4 trocart, 2 bệnh nhân đặt 5 trocart. Việc
phải đặt thêm trocart trong các trường hợp khó, u lớn hoặc phổi
dính. Chúng tôi nhận thấy rằng khi đặt thêm trocart thì việc trình
bày để phẫu tích thực quản và vét hạch sẽ dễ dàng hơn và sau này
chúng tôi đặt 4 trocart một cách hệ thống.
Thì bụng:
Chúng tôi sử dụng 5 trocart cho 98,7% các trường hợp, kết hợp
với mở bụng nhỏ để kéo dạ dày và khối u thực quản ra ngoài. Tạo
ống dạ dày có sử dụng stapler thẳng. Đường mở bụng nhỏ có 2 lợi
điểm: Bệnh thường chẩn đoán muộn, u lớn kéo qua vết mổ bụng
tránh tái phát u nếu kéo qua vết mổ cổ như các tác giả khác. Sử dụng
các dụng cụ tạo ống dạ dày như mổ mở, không phải sử dụng dụng cụ
nội soi tạo ống dạ dày như các tác giả khác rất đắt tiền và vẫn đạt

được các ưu điểm của phẫu thuật nội soi.
So sánh thời gian mổ với những tác giả cùng áp dụng phẫu
thuật nội soi ngực và bụng trong điều trị ung thư thực quản.
Nghiên cứu chúng tôi thấy: thời gian mổ toàn bộ trung bình là
338,22 ± 94,54 phút tương đương với thời gian mổ của Nguyen,
cao hơn thời gian mổ trong báo cáo của Palanivelu (220 phút) và
Chen B (270,5 phút), và thấp hơn so với thời gian mổ của
Luketich và Miyasaka (482 phút). Sở dĩ thời gian mổ của Luketich
và Miyasaka dài có lẽ do tác giả thực hiện quá trình tạo ống dạ
dày hoàn toàn qua nội soi.
4.2.3. Nạo vét hạch


20
Chúng tôi tiến hành nạo vét hạch 2 vùng: ngực và bụng. Số
hạch lấy được toàn bộ trung bình là 21,01 ± 3,33 hạch, nhiều nhất
là 42 hạch. Trong đó số hạch ngực là 12,99 ± 5,47, hạch bụng là
8,02 ± 1,59 hạch. Nghiên cứu của Smithers BM, số hạch lấy được
là 11. Trong nghiên cứu của Osugi, số lượng hạch lấy được là 34.1
± 13.0. Iwahashi và công sự đã so sánh 46 bệnh nhân mổ mở cắt
thực quản và 46 bệnh nhân phẫu thuật nội soi cắt thực quản kết
quả số hạch nạo vét được ở hai nhóm khác nhau không có ý nghĩa.
4.2.4. Chuyển mổ mở
Tỷ lệ chuyển mổ mở theo nghiên cứu của Luketich là 5,3%,
theo Hoàng Trọng Nhật Phương là 2%, Triệu Triều Dương là
2,9%. Trong nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp nào
phải chuyển mổ mở. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến bilan trước
mổ, đánh giá kỹ bệnh nhân và khả năng cắt bỏ khối u. Quá trình
phẫu thuật luôn được thực hiện một cách thận trọng và đặc biệt
phải nắm vững giải phẫu của thực quản, các thành phần liên quan:

khí phế quản, các mạch máu lớn trong lồng ngực…
4.3. Tai biến và biến chứng
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 3 bệnh nhân có tai biến trong mổ
chiếm 2,0% trong đó có 1 trường hợp chảy máu diện cắt, 2 trường hợp
rách phế quản (trong 2 trường hợp rách phế quản có 1 trường hợp kèm
theo tổn thương ống ngực). Có 19 bệnh nhân có biến chứng sau mổ
chiếm 12,5% (trong đó 11 trường hợp có biến chứng hô hấp chiếm tỷ lệ
7,2%, 5 trường hợp rò miệng nối chiếm 3,3%, 2 trường hợp rò dưỡng
chấp chiếm 1,3%, 1 trường hợp nhiễm khuẩn vết mổ chiếm 0,7%).
4.3.1. Chảy máu
Trong các nghiên cứu của nhiều tác giá đều đã cho thấy phẫu thuật
nội soi cắt thực quản có lượng máu mất ít hơn so với mổ mở. Lượng
máu mất nhiều hay ít còn phụ thuộc vào xu hướng nạo vét hạch.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phần lớn các bệnh nhân có
lượng máu mất trong mổ gần như không đáng kể, có một bệnh
nhân (0,66%) chảy máu diện cắt thực quản/xơ gan đầu đinh.
Trường hợp này, trước mổ các xét nghiệm hoàn toàn bình thường.
Chúng tôi chỉ phát hiện được xơ gan khi tiến hành nội soi thì
bụng. Sau mổ bệnh nhân có rối loạn đông máu đã được điều trị
hồi sức tích cực nhưng không có kết quả, trường hợp này được coi
là tử vong sau mổ. Qua trường hợp này chúng tôi thấy rằng việc
đánh giá Bilan trước mổ một cách chính xác là rất cần thiết.


21
4.3.2. Rách khí phế quản
Trong phẫu thuật nội soi ngực bụng cắt thực quản, tổn thương khí
phế quản có thể do tác động trực tiếp từ sự truyền nhiệt của đốt điện
đơn cực, do nạo vét hạch trung thất hoặc do u xâm lấn…Chúng tôi có
2 trường hợp tổn thương phế quản: trường hợp thứ nhất tổn thương

phế quản gốc (T) phần màng, ngang dưới chỗ chia 1cm kèm theo tổn
thương bên ống ngực. Trường hợp này chúng tôi xử trí bằng cách
khâu lại chỗ tổn thương bên ống ngực và tổn thương phế quản gốc
(T) bằng chỉ Prolen 4.0, đặt dẫn lưu và nở phổi. Sau 7 ngày điều trị
tại khoa hồi sức bệnh nhân diễn biến nặng hơn, điều trị không có kết
quả, gia đình xin về. Trường hợp thứ hai, bệnh nhân rách dọc phế
quản (T) 1 cm. chúng tôi tiến hành khâu vết rách bằng chỉ Prolen 4.0,
đặt dẫn lưu và nở phổi. Trường hợp này sau điều trị, chụp phổi xuất
hiện hình ảnh xẹp phổi trái do tắc nhánh thùy trên, đã tiến hành soi
hút làm sạch phế quản. Kết quả bệnh nhân khỏi, ra viện.
4.3.3. Biến chứng sớm sau mổ
- Biến chứng hô hấp: Có 11 trường hợp có biến chứng hô hấp
chiếm 7,2% trong đó 9 trường hợp tràn dịch màng phổi phải đặt
lại dẫn lưu màng phổi kết hợp điều trị nội cho kết quả tốt, 2
trường hợp xuất hiện khó thở ngày thứ 3 sau mổ, chụp phim phổi
thấy xẹp phổi, điều trị hồi sức tích cực, thở máy, nhưng không có
kết quả, gia đình xin về vào ngày thứ 7 sau mổ. Cả 2 trường hơp
này được coi là tử vong sau mổ. Tỷ lệ biến chứng hô hấp của
chúng tôi cũng tương tự như nghiên cứu của Chen B là 9,2%; thấp
hơn của Miyasaka 32,4%, và cao hơn của Palanivelu 1,54%.
- Rò miệng nối
Theo Raymond D có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến rò miệng nối: kỹ
thuật nối, vị trí miệng nối, vị trí ống thay thế thực quản và lựa chọn
ống thay thế thực quản. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 5 trường
hợp (3,3%) rò miệng nối cổ xuất hiện sau mổ và được điều trị bảo
tồn thành công bằng cách mở rộng vết mổ, thay băng vết mổ hàng
ngày, dẫn lưu hiệu quả, ngừng ăn đường miệng và nuôi dưỡng qua
ống mở thông hỗng tràng. Tỷ lệ này cũng tương tự như nghiên cứu
của Nguyễn Hoàng Bắc là 3,8%.
- Rò dưỡng chấp

Chúng tôi gặp 2 trường hợp rò dưỡng chấp chiếm 1,3% (một
trường hợp điều trị bảo tồn thành công, một trường hợp dẫn lưu
màng phổi, hút liên tục nhưng không có kết quả, số lượng dịch


22
dưỡng chấp qua dẫn lưu màng phổi không giảm, ngày thứ 36
phải mở ngực khâu lại chỗ rách ống ngực, bệnh nhân được đặt lại
dẫn lưu màng phổi, hút liên tục, sau 1 tháng bệnh nhân ổn định,
ra viện). Tỷ lệ rò dưỡng chấp của chúng tôi cũng tương tự như
nghiên cứu của Biere là 1,7%.
4.3.4. Tử vong trong hoặc sau mổ
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 3 bệnh nhân tử vong sau mổ
chiếm 2,0%. Tỷ lệ này tương tự như tỷ lệ tử vong trong vòng 30 ngày
phẫu thuật của các tác giả trong và ngoài nước như: Triệu Triều
Dương là 1,45%, Luketich là 1,68%. Đã có nhiều công trình nghiên
cứu so sánh tỷ lệ tử vong sau mổ giữa phẫu thuật nội soi và mổ mở
trong điều trị ung thu thực quản, đa số nghiên cứu đều cho rằng tỷ lệ
tử vong sau mổ của phẫu thuật nội soi cắt thực quản thấp hơn lệ tử
vong của phẫu thuật mổ mở cắt thực quản. Theo nghiên cứu của Gao
thì tỷ lệ tử vong trong phẫu thuật nội soi là 2,1%, trong khi đó tỷ lệ tử
vong trong mổ mở cắt ung thư thực quản là 3,8%.
4.4. Chất lượng cuộc sống sau mổ
Chúng tôi xếp loại chất lượng cuộc sống sau phẫu thuật cắt thực
quản dựa theo chỉ số Karnofsky có thay đổi một số điểm cho đơn
giản và thuận tiện trong áp dụng. Theo cách xếp loại này, số bệnh
nhân được đánh giá tốt là 32%, trung bình là 50,8%, và 17,2% có kết
quả xấu, Để đạt được kết quả tốt hơn việc phát hiện bệnh sớm là rất
quan trọng, áp dụng các phương pháp chẩn đoán hình ảnh hiện đại để
đánh giá chính xác giai đoạn bệnh, tiếp tục cải tiến kỹ thuật mổ để rút

ngắn thời gian phẫu thuật, giảm thời gian hậu phẫu.
4.5. Thời gian sống thêm toàn bộ
Tỷ lệ sống toàn bộ 1 năm là 87,0%; 2 năm là 65,0%; 3 năm là
53,0%; 4 năm là 47,0%; và 5 năm là 35,0%; Thời gian sống thêm
trung bình của bệnh nhân là 42,73 ± 3,09 tháng. Theo nghiên cứu của
Smithers và công sự ghi nhận tỷ lệ sống 5 năm 85% đối với giai đoạn
I, 33% đối với giai đoạn IIA, 37% đối với giai đoạn IIB và 16% đối
với giai đoạn III. Tỷ lệ sống toàn bộ trong nghiên cứu của chúng tôi
tương tự như nghiên cứu của Chen B trong đó tỷ lệ sống toàn bộ 1
năm là 89,0%; 2 năm là 67,0%. Tuy nhiên khi đánh giá tỷ lệ sống
toàn bộ ở 3 năm, 5 năm thì kết quả của chúng tôi thấp hơn so với
nghiên cứu của Miyasaka: tỷ lệ sống toàn bộ 3 năm là 71,5%; 5 năm
là 61,5%. Theo nghiên cứu của Luketich tỷ lệ sống toàn bộ sau 40
tháng là gần 40%.


23
4.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống thêm sau mổ
* Thời gian sống thêm theo nhóm tuổi
Thời gian sống thêm trung bình sau mổ của bệnh nhân ở nhóm
tuổi < 40 tuổi, 40-49 tuổi, 50-59 tuổi và ≥ 60 tuổi lần lượt là 45,19 ±
8,75 tháng; 35,50 ± 4,53 tháng; 47,65 ± 4,55 tháng và 33,53 ± 5,79
tháng. Nhóm tuổi từ 50 - 59 có thời gian sống thêm trung bình sau
mổ cao hơn các nhóm tuổi còn lại. Tuy nhiên, sự khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê với p = 0,336.
* Thời gian sống thêm theo kích thước u
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ sống 5 năm sau mổ của
bệnh nhân nhóm kích thước u từ 3-5cm là 40% cao hơn kích thước
u ≤ 3cm là 38%. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p
> 0,05. Kết quả này cũng tương tự như trong mổ mở. Theo nghiên cứu

của Tabech và cộng sự cũng thấy rằng thời gian sống của các khối u ≤
4cm và các khối u > 4cm khác nhau không có ý nghĩa khống kê.
* Thời gian sống thêm theo vị trí u
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ sống thêm của bệnh nhân ở
vị trí u 1/3 giữa là 26,0%; 1/3 dưới là 45% và 1/3 giữa kết hợp với
1/3 dưới là 67,0%. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p
> 0,05. Yếu tố tiên lượng của vị trí u chưa được khẳng định là có liên
quan đến thời gian sống thêm sau mổ.
* Thời gian sống thêm theo mô bệnh học
Tỷ lệ sống thêm của bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến là 100,0%
cao hơn hẳn ung thư biểu mô vảy. Tuy nhiên, sự khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Có thể do trong nghiên cứu của
chúng tôi số bệnh nhân có tế bào biểu mô tuyến chỉ có 1 bệnh nhân.
* Thời gian sống thêm theo độ biệt hóa của mô bệnh học
Tỷ lệ sống thêm của bệnh nhân có độ biệt hóa cao là 52,0%, cao
hơn độ biệt hóa vừa và không biệt hóa tỷ lệ tương đương là 25,0%và
14,0%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Mức độ
biệt hóa của ung thư lại ảnh hưởng rõ rệt tới thời gian sống sau mổ.
Theo nghiên cứu của tác giả Đỗ Mai Lâm thời gian sống thêm trung
bình của nhóm biệt hóa cao là 36,208 ± 4,262 tháng, cao hơn hẳn
thời gian sống thêm của nhóm biệt hóa vừa và nhóm không biệt hóa
với p < 0,01. Cho thấy có sự liên quan giữa độ biệt hóa và thời gian
sống thêm sau mổ.
* Thời gian sống thêm theo giai đoạn bệnh
Tỷ lệ sống thêm của bệnh nhân ở giai đoạn III là 20,0%, trong khi đó


24
tỷ lệ sống thêm của bệnh nhân ở giai đoạn I là 50%; giai đoạn II là 37%.
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Theo nghiên cứu

của Lozach’ tỷ lệ sống 5 năm là 53% đối với giai đoạn I, 38,8% đối
với giai đoạn IIA, 38,5% đối với giai đoạn IIB và 13,4% đối với giai
đoạn III. Theo nghiên cứu của Smithers và công sự ghi nhận tỷ lệ
sống 5 năm theo giai đoạn ung thư thực quản sau phẫu thuật nội soi
cắt thực quản. Kết quả: tỷ lệ sống 5 năm là 85% đối với giai đoạn I,
33% đối với giai đoạn IIA, 37% đối với giai đoạn IIB và 16% đối với
giai đoạn III.

KẾT LUẬN
1. Ứng dụng phẫu thuật nội soi lồng ngực tư thế nằm sấp, nghiêng
trái 30o và nội soi ổ bụng điều trị ung thư thực quản ngực
PTNS lồng ngực tư thế nằm sấp, nghiêng trái 30 o là một cải tiến
của nhóm nghiên cứu: với tư thế và cách đặt trocart như vậy đã giúp
cho việc trình bày trường mổ một cách rộng rãi, giải phóng thực quản
và vét hạch thuận lợi, thể hiện PTNS là một phương pháp an toàn,
khả thi, tai biến trong mổ thấp:
- Thời gian mổ trung bình là 338,22 ± 94,54 phút.
- Tai biến trong mổ chiếm 2,0%.
- Lượng máu mất không đáng kể.
- Không có bệnh nhân phải chuyển mổ mở.
- Không có bệnh nhân tử vong trong mổ.
- Số hạch nạo vét được trung bình là 21,01 ± 3,33 hạch.
2. Kết quả cắt thực quản qua nội soi lồng ngực tư thế nằm sấp,
nghiêng trái 30o và nội soi ổ bụng điều trị ung thư thực quản ngực
* Kết quả sớm: PTNS cắt TQ có tỷ lệ tử vong, tai biến và biến
chứng thấp
- Biến chứng sau mổ thấp: 12,5%; biến chứng hô hấp và rò miệng nối
là hai biến chứng thường gặp chiếm tỷ lệ lần lượt là 7,2% và 3,3%.
- Tỷ lệ tử vong sau mổ: 2,0%.
* Kết quả xa: PTNS cắt TQ đã giúp mang lại chất lượng cuộc

sống cho người bệnh và kéo dài thời gian sống sau mổ
- Chất lượng cuộc sống sau mổ: 82,8% bệnh nhân có chất lượng
cuộc sống được xếp vào loại tốt và trung bình.
- Thời gian sống sau mổ đã được cải thiện đáng kể. Trong đó sống


25
toàn bộ 1 năm là 87,0%; 3 năm là 53,0%; và 5 năm là 35,0%. Thời
gian sống thêm trung bình là 42,73 ± 3,09 (tháng)
* Các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống thêm sau mổ:
Yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống sau mổ là độ biệt hóa của
mô bệnh học và giai đoạn bệnh.

KIẾN NGHỊ
Phẫu thuật nội soi lồng ngực và ổ bụng điều trị ung thư thực quản
ngực là phẫu thuật có tính khả thi, an toàn và hiệu quả. Cần tiếp tục
tiến hành nhiều hơn và theo dõi trong thời gian dài cũng như số
lượng bệnh nhân lớn để có những kết luận chính xác về phương pháp
này trong cắt thực quản điều trị ung thư thực quản.


×