Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

NHÀ MÁY NHIỆT ĐIỆN KẾT HỢP TRÍCH HƠI GIA NHIỆT TRUNG GIAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 36 trang )

1

A. LỜI NÓI ĐẦU


2

Ngày nay, điện năng đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong sự phát triển
của mỗi quốc gia. Trong đó Việt Nam là một trong những nước có nhu cầu lớn về
việc tiêu thụ điện năng, bênh cạnh đó chính sách mở cửa của Việt Nam như hiện
nay, thu hút sự đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày một gia tăng trên tất cả các
lĩnh vực, đặc biệt là ngành công nghiệp sản xuất, do đó đòi hỏi phải tăng cường sản
xuất điện năng, đó là một nhu cầu hết sức cấp bách. Vì thế bên cạnh sự phát triển
của thủy điện thì nhiệt điện củng đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển kinh tế đất
nước. Vì thế đề tài nhà máy nhiệt điện (khí- hơi) kết hợp đã được TS Lê Minh Nhựt
(phó trưởng khoa cơ khí động lực) hướng dẫn thực hiện đề tài này. Nhóm thực hiện
xin trân trọng cảm ơn thầy!


3

1. Giới thiệu chung về nhà máy nhiệt điện
1.1. Khái niệm

Nhà máy nhiệt điện là một nhà máy điện, trong đó có năng lượng nguồn bằng
hơi nước. Nước được đun nóng, chuyển thành hơi nước và quay một turbine hơi
nước và tuabin này làm chạy một máy phát điện. Sau khi đi qua tuabin, hơi nước
được ngưng tụ trong bình ngưng và tuần hoàn lại đến nơi mà nó đã được làm nóng,
quá trình này được gọi là chu trình Rankine . Khác biệt lớn nhất trong thiết kế của
nhà máy nhiệt điện là do các nguồn nhiên liệu khác nhau.
Nhà máy turbine hơi: làm sôi nước và dùng áp suất do hơi phát ra làm


quay cánh tuabin.

Nhà máy turbine khí: dùng áp suất do dòng khí di chuyển qua cánh
turbine làm quay tuabin. Do nó làm cho tuabin khởi động nhanh nên nó có
thể được dùng cho việc tạo động năng đầu cho turbine trong các nhà máy
điện mặc dù tốn kém hơn.

Nhà máy tua bin kết hợp hơi - khí: kết hợp ưu điểm của hai loại tuabin
trên.
1.2. Những tiêu đề cơ bản về nhà máy nhiệt điện
Nhiệt lượng thải ra từ quá trình cũng có nhiệt độ cao hơn môi trường xung quanh.
Cả hai quá trình trao đổi nhiệt trên vì thế đều bị tổn thất. Cách tốt nhất để tăng hiệu
suất là tìm cách giảm tổn thất, có thể thực hiện bằng cách tăng tối đa nhiệt độ của
chu trình, giảm nhiệt thải ở nhiệt độ thấp nhất có thể. Từ lý luận đó, chu trình hỗn
hợp được đặc biệt quan tâm và nghiên cứu.
Vì thực tế, không có chu trình đơn nào thực hiện cả hai việc trên được mức độ
nhhư nhau, củng như giới hạn về vật liệu và khả năng chế tạo của nó, đó là lý do
hợp lý để chọn phương pháp kết hợp 2 chu trình: một với quá trình nhiệt độ cao, và
một cho quá trình làm mát cuối cùng. Trong một chu trình mở của tuabin khí, nhiệt
độ quá trình có thể đạt được rất cao nhiệt được ccấp trực tiếp cho chu trình. Tuy
nhiên, nhiệt độ khói thải từ tuabin khí vì thế củng kha cao. Trong chu trình hơi,
nhiệt độ quá trình lớn nhất không quá cao, nhưng nhiệt độ khó thải ra môi trường
rất thấp.
Như vậy chu trình hỗn hợp chu tuabin khí và tuabin hơi được xem là cung cấp
một phương thức hợp lý nhất cho một chu trình nhiệt hiệu suất cao.Khi so sánh với
các chu trình đơn khác, ngay cả các chu trình được lắp đặt cải tiến rất công phu,
phức tạp như kiểu nhà máy nhiệt điện ngưng hơi có gia nhiệt củng có hiệu suất
Carnot lý thuyết thấp hơn 10-15 % so với chu trình hỗn hợp. Mặt khác tổn thất
execgy của chu trình hỗn hợp turbine khí – hơi củng lớn hơn do chênh lệch nhiệt độ




4

ở quá trình trao đổi nhiệt giữa nhiệt thừa từ turbine khí với chu trình của hơi/nước là
thực sự rất lớn. Vì thế có thể thấy được lý do tại sao khác biệt hiệu suất thực tế đạt
được của chu trình hỗn hợp với các chu trình khác củng không quá lớn.
* Hai lí do chính để chu trình áp dụng rộng rãi:
• Sử dụng chính các thiết bị có sẵn trong nhà máy nhiệt điện,vận hành chu trình
đơn giản,nên tiết kiệm được vốn đầu tư.
• Không khí là môi chất tương đối an toàn sạch rẽ có thể sử dụng trong các turbine
khí hiện đại có mức nhiệt độ cao hơn 1000oC.

Bảng 2.1: So sánh nhiệt động của các chu trình nhiệt nhà máy nhiệt điện.
2. Thiết bị turbine khí
2.1. Tổng quan về cấu tạo

Sau chiến tranh thế giới thứ hai công nghệ hàng không tiếp tục phát triển và hiện
đại dần động cơ phản lực. Tuy nhiên, tại thời điểm đó lại xuất hiện hướng nghiên
cứu thứ hai là chế tạo turbine khí công nghiệp để phát điện. hướng công nghệ này
phát triển rất nhanh, kể từ đó động cơ phản lực và turbine khí được nghiên cứu và
phát triển song song.
Song song với quá trình phát triển turbine khí là cải tiến máy nén đi kèm theo nó
để nén không khí cấp quá trình đốt trong buồng đốt turbine. Ngày nay máy nén có
thể nén với lưu lượng và tỉ số nén lớn hơn rất nhiều, vì thế có thể đạt đựoc công suất
điện lớn hơn, đồng thời giảm được chi phí và tăng hiệu suất chu trình.
2.2. Turbine khí
2.2.1.Khái niệm tuarbine khí

Turbine khí là động cơ nhiệt trong đó biến đổi hoá năng của nhiên liệu thành

nhiệt năng rồi thành cơ năng. Quá trình biến đổi năng lượng trong turbine khí có thể
thực hiện bằng nhưng chu trình khác nhau.


5

Turbine khí là thành phần quan trọng nhất trong nhà máy nhiệt điện chu trình hỗn
hợp turbine khí/ turbine hơi. Với sự phát triển nhanh chóng của turbine khí ngày
nay, nhiệt độ đầu vào tuabin đạt được ngày càng lớn tạo điều kiện cho chu trình hỗn
hợp chiếm ưu thế và hiệu quả sẩn xuất điện so với các chu trình nhiệt khác.
Turbine khí: dùng áp suất do dòng khí di chuyển qua cánh tuabin làm quay
turbine. Do nó làm cho tuabin khởi động nhanh nên nó có thể được dùng cho việc
tạo động năng đầu cho turbine trong các nhà máy điện mặc dù tốn kém hơn.
Công suất ra (theo tiêu chuẩn ISO)

1-150 MW

Hiệu suất (theo tiêu chuẩn ISO)

28-35 %

Tỉ số nén

10-18

Nhiệt độ đầu vào tuabin

950-1150 ℃

Nhiệt độ ra khỏi tuabin


480-570 ℃

Lưu lượng ra khỏi tuabin

30-500 kg/s

Bảng 3.1 Thông số kỹ thuật tiêu biểu của các Turbine khí lắp đặt cho hệ thống chu
trình hỗn hợp trên thị trường.
Turbine khí (loại tĩnh) có thể được xếp theo các loại sau:
 Turbine khí xuất phát từ công nghệ tuabin hơi .
 Turbine khí bắt nguồn từ kỹ thuật động cơ đốt trong .
 Turbine khí từ ngành kỹ thuật hàng không, bao gồm một động cơ phản lực đi
kèm với một turbine phát điện.
2.2.2. Ưu, nhược điểm của turbine khí
 Ưu điểm
• Bố cục gọn.
• Tính cơ động vận hành cao, như mở máy nhanh, thay đổi tải lớn.
• Vận hành không cần nước, hay yêu cầu rất ít nước.
• Thời gian xây dựng nhanh.
 Nhược điểm
• Giá thành vật liệu, chi phí sản xuất cao hơn.
• Khó sữa chữa.
• Giá thành nhiên liệu cao.
2.2.3.Turbine khí công nghiệp


6

Turbine khí công nghiệp được chế tạo dựa vào kinh nghiệm của một số hãng

sản xuất turbine hơi. Các bộ phận chính gồm máy nén, buồng đốt, turbine khí.
Turbine ban đầu là những máy độc lập, có kết cấu nặng nề, rotor của máy nén và
rotor của turbine được nối cứng với nhau.
Cuối thập kỉ 50 đầu thập kỉ 60 của thế kỉ XX các nhà khoa học bắt đầu nghiên
cứu tìm cách tăng hiệu suất nhiệt và công suất của turbine khí. Song vì trình độ chế
tạo các bộ phận chịu nhiệt độ cao còn bị hạn chế dẫn đến việc phải áp dụng các chu
trình phức tạp như có quá trình nén cập nhiệt và giãn nở nhiều cấp. Sự phức tạp đo
gây ra nhiều khó khăn, trở ngại và làm mất đi những ưu điểm cơ bản vốn có của
turbine khí so với turbine hơi. Khi công nghệ vật liệu chiệu nhiệt độ cao phát triển
và kĩ thuật làm mát turbine được hoàn thiện hơn cho phếp nâng cao nhiệt độ T 3 của
khí trước turbine thì những chu trình phức tạp bị loại bỏ dần và các nhà chế tạo
quay về chu trình hở đơn giản. Người ta cũng ứng dụng những thành tựu nghiên
cứu ở động cơ máy bay phản lực vào turbine khí công nghiệp để bố trí thành một
thiết bị nhỏ gọn.
Turbine khí công nghiệp ngày nay vận hành với khí nóng vào có nhiệt độ T 3 =
950 ÷ 1100oC, ở turbine chạy tải đỉnh thì T 3 có thể lên đến 1250oC. Các thiết bị này
đạt hiệc suất cao (38%) mà giá thành vừa phải, vận hành tin cậy và có tuổi thọ cao.

Hình 3.1: Turbine khí kiểu ma sát của hãng Alsthom
Turbine khí quay máy phát điện có số vòng quay cố định thường được bố trí kiểu
một trục. những turbine khí truyền động cho máy nén, bơm….. thường có hai trục
quay với số vòng quay khác nhau như minh họa trong hình 3.2. Phần đầu của
turbine chỉ để quay máy nén, phần thứ hai được dùng để truyền động máy phát điện.


7

Hình 3.2: Turbine khí hai trục
2.2.4.Turbine khí tận dụng động cơ máy bay phản lực
Luồng sản phẩm cháy thổi ra phía sau động cơ phản lực có áp suất khoảng 2,5

bar, nhiệt độ 550 ÷ 650oC được dẫn vào turbine để sinh công. Các động cơ máy bay
phản lực được cải tạo nhằm đạt độ tin cậy.
2.2.5.Các phần tử chính của thiết bị tuabin khí
Các phần tử chính của tuabin khí gồm: máy nén, buồng đốt, tuabin khí, và bộ
trao đổi nhiệt.
Máy nén dùng để nén môi chất làm việc (thường là không khí) và nhiên liệu.
Người ta thường dùng máy nén ly tâm hoặc dọc trục để nén môi chất làm việc, để
nén nhiên liệu khí có nhiệt trị 30.106 Jm-3 trở lên phải chọn loại máy nén có thể
tích tổn thất khoảng 3% thể tích môi chất làm việc. Như vậy loại máy nén thích hợp
chỉ có thể dùng là máy nén piston hoặc ly tâm có số vòng quay rất lớn Những yêu
cầu kỹ thuật đối với máy nén dùng để nén môi chất làm việc: Hiệu suất cao (η) độ
nén từng cấp cao Có thể sử dụng tốc độ vòng quay lớn. Vận hành ổn định trong
khoảng làm việc của turbine. Dễ điều khiển về mặt khí động học và cơ học.
Bộ trao đổi nhiệt Turbine khí năng lượng nhiệt của sản phẩm cháy được biến
đổi thành cơ năng trong turbine khí. một phần lớn hơn công suất turbine được dùng
để truyền động máy nén khí, một phần nhỏ hơn còn lại của công suất là công suất
hữu ích cung cấp cho các máy móc hoạt động ( máy phát điện, bơm, quạt thổi
khí…). Công suất turbine gấp khoảng 2-3 lần công suất hữu ích. Những yêu cầu kỹ
thuật đối với turbine khí. Công suất cũng như đặc tính của turbine có ảnh hưởng
trực tiếp đến đặc tính toàn tổ máy. Để toàn bộ tổ máy turbine khí làm việc đạt hiệu
suất cao thì cần thiết đáp ứng một số yêu cầu kỹ thuật quan trọng sau đối với
turbine. Hiệu suất chuyển đổi năng lượng trong turbine phải cao. Cánh quạt của
turbine làm việc với nhiệt giáng lớn phải ở tốc độ vòng cao. Phải đảm bảo các yêu


8

cầu về khí động học và cơ học khi gia công các thiết bị hợp kim chịu nhiệt khó gia
công.
Buồng đốt trong buồng đốt năng lượng liên kết hoá học được giải phóng vào

không khí được hoà trộn đều đi vào turbine khí sinh công như dòng khí truyền
động. Quá trình cháy trong buồng đốt có hiệu suất cao nhất với hệ số không khí
khoảng từ α=1,3-2,2. Quá trình làm việc của buồng đốt Quá trình làm việc của
buồng đốt được xác định bởi cấu trúc buồng đốt và bởi những tình trạng vận hành.
Quá trình làm việc của buồng đốt bao gồm quá trình đốt cháy nhiên liệu, quá trình
hoà trộn sản phẩm cháy với không khí, các điều kiện làm mát ống lửa, các điều kiện
khi phụ tải thay đổi và khi mở máy.

Hình 3.3: Buồng đốt độc lập
2.2.6.Cấu tạo turbine khí

Nguyên lí sinh công trong tầng turbine khí không khác với tầng turbine hơi. Tuy
nhiên, tầng turbine khí làm việc với nhiệt độ cao hơn nhiều, còn áp suất khí thì lại
thấp. Do vậy lưu lương thể tích dòng khí thường khá lớn.
Nhiệt độ cao đòi hỏi các chi tiết như cánh quạt, trục… phải được chế tạo từ vật
liệu rất cao cấp. Kết cấu turbine phức tạp do phải tạo diều kiện làm mát các bộ phận
tiếp xúc với khí nóng. Do đó cần hạn chế số tần công tác tới mức ít nhất và chọn
kiểu tầng có khả năng làm việc với nhiệt giáng lớn nhất, đó là tầng xung lực.
Turbine được bố trí trực tiếp ngay sau buồng đốt, ở đây không có các van điều
chỉnh vì thế thiết bị trở nên đơn giản.
Khác với tần turbine hơi các góc biểu thị hướng vector tốc độ của dòng khí vào
hay ra khỏi tần turbine khí được tính theo hướng dọc trục. Quá trình giãn nở của khí


9

trong tầng turbine khí cũng giống như quá trình giãn nở của hơi trong tầng turbine
hơi, các kí hiệu cũng được đồng nhất. Số tầng turbine khí đến nay thường không
quá năm. Ở những tầng có cánh dài thì cánh xoắn theo đường kính c ur = const. Lúc
này độ phản lực thay đổi từ cánh ρ = 0,05 đến đỉnh cánh ρ = 0,15 ÷ 0,25


Hình 4.1: Cấu tạo turbine khí bốn tầng
Sự khác biệt điển hình của turbine khí so với turbine hơi là làm mát cánh động,
rotor và thân turbine một cách mạnh nhất. Về lý thuyết có thể dùng không khí hay
chất lỏng phù hợp để làm mát. Chất lỏng như nước chẳng hạn có nhiệt dung riêng c p
cao nên làm mát nhanh và hiệu quả nhưng ít dược sử dụng do gặp trở ngại lớn như:
hệ thống phức tạp, vấn đề làm kín, bám cáu cặn, ứng suất nhiệt…. Thực tế thường
làm mát turbine bằng không khí sau máy nén hoặc trích từ vị trí có áp suất phù hợp
của máy nén.
Không khí được dẫn tới các khe ở chân cánh và các bộ phận chịu nhiệt độ cao
của rotor và stato như minh họa trong hình 4.2. Không khí làm mát sau đó được
nhập vào dòng chính, bằng cách này ta có thể tận dụng được mật phần năng lượng
của nó để sinh công. Phần tử được quan tâm làm mát mạnh nhất là cánh động của
turbine, đặc biệt là dãy cánh động của tầng đầu tiên. Có nhiều cách làm mát cánh
khác nhau, trong đó đơn giản nhất là làm mát đối lưu như minh họa trong hình 4.2.


10

Hình 4.2: Sơ đồ làm mát turbine khí TG50 của hãng FIAT
3. Thiết bị turbine hơi
3.1. Tổng quan về cấu tạo

Turbine hơi là một động cơ nhiệt chuyển hóa thế năng của hơi nước thành cơ
năng làm quay rotor. Turbine hơi bao gồm hai phần chính đó là phần cố định stato
và phần quay rotor. Dãy các vòi phun cố định còn được gọi là dãy tĩnh, dãy cánh
được lắp trên trục rotor gọi là dãy cánh động. Mỗi cặp dãy tĩnh và dãy động liền kề
tạo thành một tầng của turbine.
Vì hơi nước đi vào ở tầng đầu tiên có áp suất cao và đi ra ở tầng cuối cùng có
áp suất thấp làm cho thể tích riêng của hơi tăng nhanh. Do đó, tiết diện rãnh các dãy

cánh tĩnh và các dãy cánh động càng về cuối càng lớn. Đồng thời, đường kính cánh,
đường kính trục rotor và đường kính của tầng càng về cuối cũng càng lớn.


11

Hình 6.1: Cấu tạo turbine hơi
Phía hơi vào (hình 6.1) bao giờ cũng có thêm bộ phận an toàn ghép nối trên trục
của rotor nhằm mục đích cắt hơi đi vào turbine khi số vòng quay thực tế vượt quá số
vòng quay định mức 10 ÷ 12%. Các đoạn trục ghép được làm mát và bôi trơn bằng
bơm dầu. Rotor của turbine được nối với rotor của máy phát bằng khớp nối trục nữa
mềm.
Stato bao gồn có thân turbine, các hộp ống phun, hộp supap, vành chèn đầu
cuối, vành bánh tĩnh, bánh tĩnh và các bộ chèn bánh tĩnh. Thân turbine có hai mặt
bích ngang và hai mặt bích đứng nhằm chia turbine thành hai phần, phần trước,
phần giữa và ống thoát. Ngoài ra còn có ổ đỡ trước, sau dùng cho rotor và máy phát.
3.1.1.Thân tuarbine
Thân (đôi khi còn gọi là xilanh) của tuabin hơi thường có hình dáng phức tạp,
kích thước lớn dần theo hướng chuyển động của dòng hơi và có các chỗ lồi lên, các
buồng để đưa hơi vào, trích hơi ra, ống thoát cũng có hình dáng đặc biệt.
Thân của tuabin dọc trục thường có mặt bích ngang (ở chỗ cắt rời) và 1 hoặc 2 mặt
bích đứng để khi đúc, khi gia công cơ khí và khi lắp rắp được dễ dàng. Tuabin
hướng trục thường chỉ có mặt bích đứng.


12

Hình 2.2 - Thân (xilanh) tuabin trung áp (NMNĐ Hải Phòng I)
Thân tuabin được chế tạo bằng thép đúc, gang đúc hoặc thép hàn.
Gang đúc dùng cho những thân và những chi tiết làm việc ở áp lực 12 - 16 bar và

nhiệt độ tới 250 °C. Khi dùng loại gang pectit thì có thể làm việc ở nhiệt độ tới 350
°C. Thân làm bằng thép cácbon dùng cho những thông số hơi 35 - 40 bar, 400 - 425
°C.
Đối với áp lực và nhiệt độ hơi rất cao thì thân được chế tạo bằng các loại thép hợp
kim đặt biệt có cấu trúc ôtstenit pha thêm crôm, niken, môlipden, vanađi và
vonfram.
Để giảm nhẹ điều kiện làm việc cho vật liệu của thân, người ta cố gắng hạn chế kích
thước bề mặt của thân khi chịu tác dụng của nhiệt độ cao (cao hơn 425 - 450 °C).
Khi nhiệt độ hơi lớn hơn 550 - 575 °C người ta làm thành hai lớp hoặc gọi là thân
kép, ở giữa thân trong và thân ngoài có chứa hơi với thông số trung bình được lấy
từ 1 tầng trung gian nào đó đưa vào. Vì vậy, các bề dầy của tường thân và các mặt
bích nối của thân trong cũng ngư thân ngoài có kích thước nhỏ hơn nhiều so với
thân đơn (1 lớp). Do những điều kiện làm việc nhẹ nhàng của ngoài cho nên có thể
cho phép chế tạo bằng thép cacbon.
Thân turbine là một trong nhừng bộ phận chính có hình dạng rất phírc tạp.
Trong thân có lắp ống phun, cánh hướng, bánh tĩnh, vành bánh tĩnh... Thân


13

turbine có thổ là một hoặc nhiều tuỳ theo công suất của turbine. Ngày nay
hầu hết các turbine có công suất lớn tiều có bốn thân máy hoặc năm thân
máy

Hình : Sơ đồ dòng hơi trong tuabin hơi
Trong turbine một thân máy thì rotor của turbine thường được
nối với rotor của máy phát đặt ở phía hơi thoát. Trong turbine một trục và
có nhiều thân máy thì thân máy được bố trí theo chiều dòng hơi lần lượt là
turbine cao áp HP, rồi đến turbine trung áp IP, rồi đến một vài turbinc thấp
áp LP và cuối cùng là máy phát điện. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp

turbine cao áp HP được đặt ở vị trí chính giữa còn các cặp turbine thấp áp
LP được đặt đối xứng ở hai phía của turbine cao áp.


14

Hướng di chuyến của dòng hơi trong turbine nhiều thân máy có
thể rất khác nhau và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giảm lực dọc trục tác
dụng lên ố đỡ, giám khe hở dọc trục, giảm độ dịch chuyên tương đối giữa
trục và thân máy, sự phân bố của các đường ống dẫn hơi vào và ra khỏi thân
máy, giảm độ biến dạng nhiệt của thân máy, bố trí của các bộ phận phân
phối hơi...
Thân máy của turbine cao áp có thế được chế tạo theo một dòng,
trong đó hơi được dẫn vào từ đầu thân máy (sơ đồ thuận dòng) hoặc vào
giữa thân máy (sơ đồ vòng) như minh hoạ trong hình 4.2. Trong sơ đồ vòng
của turbine cao áp HP, dòng hơi sau tầng đầu tiên sẽ đôi hướng chuyến
động 180° để làm mát phía ngoài của vỏ trong thân máy rồi đi tiếp vào tầng
thứ hai... Với sơ đồ vòng của turbine cao áp HP thì tổn thất áp suất do trở
lực trong khoảng trống giữa hai vỏ thân máy tăng lên, nhưng đồng thời
cũng giảm được nhiều tốn thất trong các bộ chèn. Loại cấu trúc này có ưu
điểm là làm giảm bớt độ chênh lệch nhiệt độ và ứng suất bên trong thân
máy, nhất là khi thay đổi chế độ làm việc.
Trong turbine có lưu lượng thể tích hơi lớn người ta thường dùng
cấu trúc hai dòng hơi với lưu lượng hơi và kích thước hình học của bộ phận
dẫn hơi là như nhau, cấu trúc này cho phép giảm chiều dài cánh động của
tầng cuối LSB và tự khử được lực dọc trục trong thân máy một cách triệt
đề.
Trong turbine có nhiều thân máy người ta có thể hướng dòng hơi
di chuyên trong các thân máy sao cho ngược chiều nhau đô tự cân băng lực
dọc trục.

Để thuận tiện trong việc iháo lắp turbine nôn thân máy thường
được chế tạo thành hai nửa có mặt tháo ngang ghép bằng mặt bích. Vì các
mặt bích khá dày nên dể giảm bớt thời gian sấy, giảm bớt ứng suất phát sinh
cũng như giãn nở dọc trục tương đối giữa rotor và thân máy người ta đã
thiết kế thêm đường hơi dùng dể sấy mặt bích. Phần lớn Ihân turbine cao áp
HP có mặt lắp ghép nằm ngang, không có mặt lắp ghép đứng, vì với thông
số áp suất cao sẽ rất khó đảm bảo độ kín ở vùng giao nhau giữa mặt lắp
ghép nằm ngang và mặt lắp ghép đứng. Mặt lắp ghép giúp cho công nghệ
chế tạo được đơn giản hơn, giảm bớt kích thước các bộ phận riêng biệt của
tưrbine cũng như giảm bớt khó khăn trong công tác vận chuyên turbine đến
nơi lắp đặt
Thân máy của turbine cao áp I IP và trung áp IP được chế tạo
bàng thép hợp kim. Thân máy của lurbine thấp áp LH được chế tạo bằng
thép carbon dạng tấm. vấn đề giãn nở của thân máy cũng cần được quan tâm
khi chế tạo và lắp đặt turbine sao cho thân máy có thê giãn nở theo nhiều
phương mà vẫn đảm bảo khe hở trong bộ phận cấp hơi.


15

Hình : Mặt cắt tuabin một thân máy công suất 100 MW

Cánh tuabin:
Các cánh phản lực được lắp trực tiếp trên trục, chiều cao của cánh tăng dần từ “đầu”
đến “cuối” tuabin. Cánh ở những tầng đầu được lắp trên trục bằng mộng chữ T.
Trên mỗi cánh này có các vấu để lắp đai. 3 tầng cánh cuối của hạ áp không được lắp
đai.
Các tầng cánh cuối tuabin dạng cánh "xoắn", chân cánh được lắp mộng “cây thông
ngược”. Trên mép vào của các cánh được tôi cứng giúp cho cánh chịu được sự va
đập của những hạt hơi ẩm. Lớp tôi cứng này có chiều dài xấp xỉ 1/3 chiều cao cánh

và chiều rộng xấp xỉ 25mm. Những hạt ẩm nếu không được tách ra nó sẽ mài mòn
cánh động và làm giảm hiệu suất tuabin do đó làm giảm hiệu suất của Nhà máy. Để
tách những hạt ẩm, trên cánh tĩnh có xẻ những rãnh so le nhau dọc theo chiều cao
cánh, và làm những vấu trên vỏ trong của xi lanh. Màng ẩm dần dần dịch chuyển ra
xa tâm rôto và gom lại trên các rãnh sau đó chảy về các cửa trích hoặc bình ngưng.
Do khe hướng trục giữa các cánh động và cánh tĩnh lớn, nên quá trình vận hành sẽ
không bị ảnh hưởng bởi độ chênh giãn nở kể cả khi khởi động và ngừng tuabin.


16

Các cánh tĩnh có chân dạng chữ T ngược hoặc chữ L và lớp bao ngoài được chế tạo
cùng loại vật liệu với các cánh động.
Các cánh động cuối cùng đứng tự do hoàn toàn, không có dây đai hay vành bao. Vì
không có cụm cánh liên kết bằng dây đai, nên sẽ không tạo ra độ rung do kết nối
cụm, mà chỉ tạo thành độ rung đơn và nhỏ. Các hàng cánh tĩnh của tầng cuối cùng
vỏ hạ áp được chế tạo bằng thép tấm

a) Cánh động tuabin hạ áp đã lắp trên rôto (NMNĐ Hải Phòng I)

b) Cánh tĩnh lắp vào vỏ tuabi


17

Hình 2.4 - a) Cánh tĩnh, b) cánh động tuabin hơi

Vỏ tuabin:
Tuabin cao áp
Tuabin cao áp gồm vỏ ngoài loại thùng, vỏ trong có bích đứng và cụm răng

chèn. Vỏ ngoài phân bố dòng hơi chính đối xứng ở hai bên. Đặc biệt vỏ ngoài có
khả năng đỡ cho vỏ trong dịch chuyển và quay tự do khi ứng suất nhiệt vượt quá
giá trị cho phép, do đó có thể linh hoạt trong vận hành, cho phép khởi động nhanh
và thay đổi tải nhanh.
Vỏ trong, nằm trong vùng áp suất cao, có rãnh trượt theo chiều thẳng đứng và có
thể xoay đối xứng.
Trên vỏ của tuabin cao áp có lắp 4 van điều chỉnh để đưa hơi từ hai van Stop vào
tuabin.
Tuabin trung áp
Tuabin trung áp có kết cấu vỏ kép và dòng đơn. Tuabin trung áp có lắp 2 tổ hợp
van điều chỉnh, mỗi tổ hợp gồm: 1 van chặn và 1 van điều chỉnh để điều khiển dòng
hơi từ bộ quá nhiệt trung gian vào tuabin trung áp.
Vỏ trung áp có kết cấu 2 nửa nằm ngang bao gồm vỏ ngoài và vỏ trong. Vỏ trong
và vỏ ngoài được lắp với nhau bằng động lực.
Tuabin hạ áp
Tuabin hạ áp có kết cấu 3 vỏ. Cụ thể tuabin hạ áp gồm vỏ ngoài, vỏ trong 1 và vỏ
trong Kết cấu 3 vỏ này để tránh biến dạng nhiệt do độ chênh nhiệt độ lớn.
Gối đỡ:
Ví dụ với tuabin của Nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng (300 MW) có 4 gối trục, gối
số 1, 3 và 4 là gối đỡ đơn; gối số 2 là gối đỡ chặn. Gối đỡ chặn có tác dụng đỡ và
chặn rôto không dịch chuyển do lực phản lực của dòng hơi. Khi tuabin khởi động và
ngừng, dầu từ bể dầu bôi trơn được bơm để nâng trục tuabin nhờ bơm nâng trục
(JOP). Trong quá trình vận hành bình thường, dầu bôi trơn được cấp vào gối trục


18

nhờ bơm dầu chính (MOP) hoặc bơm dầu khẩn cấp (EOP) trong trường hợp hai
bơm dầu chính không làm việc được.
Tuabin sử dụng ổ trượt, bề mặt trong của ổ có một lớp ba-bít. Trên ổ trục có các

đường dầu cấp của JOP (từ phía dưới ổ trục) và đường dầu bôi trơn lúc vận hành
bình thường.

Hình 2.5 - Gối đỡ sau tuabin trung áp và vành chèn
Bộ quay trục tuabin:
Bộ quay trục tuabin - máy phát có tác dụng quay rôto tuabin với tốc độ từ 50 đến
100 vòng/phút khi tuabin khởi động và ngừng tránh cho rôto bị cong do giãn nở
nhiệt không đều. Bộ quay trục được đặt ở phần đầu tuabin, nó gồm một động cơ
quay trục và bộ ly hợp kiểu thuỷ lực.
Khi tuabin ngừng, tốc độ giảm xuống 400 v/ph quay trục tự động vào làm việc; khi
tuabin khởi động bộ quay trục tự động tách ra khi tốc độ tuabin đạt 500 v/ph.
Bộ quay trục được làm bằng vật liệu 42CrMo4, nó có độ cứng ≥ 650 N/mm 2, ứng
suất uốn 900 ÷ 1100 N/mm2.
Bộ chèn hơi tuabin:
Các bộ chèn được bố trí ở đầu trục các phần của tuabin, đỉnh ống phun và đỉnh cánh
động. Nhiệm vụ của bộ chèn phần cao áp và trung áp là ngăn chặn hơi rò ra ngoài
và bộ chèn phần hạ áp ngăn chặn không khí từ môi trường lọt vào tuabin hạ áp. Các


19

bộ chèn phần trung gian cũng có nhiệm vụ ngăn hơi lọt qua đỉnh cánh động hoặc
đỉnh ống phun.
Lượng hơi sau khi chèn được đưa về bình ngưng hơi chèn nhờ quạt hút hơi chèn.
Khi tuabin mới khởi động dùng nguồn hơi tự dùng để chèn trục tuabin, sau khi
tuabin hoạt động ổn định nguồn hơi tự dùng làm việc ở chế độ dự phòng, nguồn hơi
chính để chèn là hơi rò từ các bộ chèn phần cao áp, trung áp. Các bộ chèn ở đỉnh
cánh của các phần cao và hạ áp có cấu tạo khác nhau.
3.2. Phân loại:


Tuỳ thuộc vào tính chất của quá trình nhiệt có thể phân biệt các loại tua bin hơi
nước chủ yếu như sau:
- Theo tầng số công tác:
Tuabin một tầng ( Single- stage turbines) .Công suất đạt nhỏ .Thường dùng để cho
máy nén ly tâm, bơm , quạt…… b) .Tuabin nhiều tầng ( Multistage turbines ) .Có
nhiều tầng công tác ( xung lực hay phản lực ) nối tiếp nhau , công suất lớn .
- Theo hướng chuyển động của dòng hơi
+ Tuabin dọc trục (Axial turbines ) .Dòng hơi chuyển gần như
song song với trục.
+ Tuabin hướng kính (Radial turbines) . Dòng có hướng vuông góc với trục , có thể
là ly tâm hay hướng tâm .
- Theo nguyên lý tác dụng của dòng hơi
+ Tuabin xung lực ( Impulse turbines ). Hơi nước chỉ giản nở để tăng tốc trong ống
phun hay trong rãnh cánh tĩnh , nhiệt năng của hơi chuyển thành động năng của
dòng .trong dãy cánh tĩnh chỉ xảy ra sự biến đổi động năng thành cơ năng. Ngày
nay người ta chế tạo tầng xing lực có độ phản lực nhất định để tăng hiệu suất của
nó.
+ Tuabin phản lực ( Reaction turbines ) .Sự giản nở của hơi nước xảy ra trong rảnh
cánh tĩnh và rãnh cánh động với mức gần như nhau
- Theo đặc điểm của quá trình nhiệt
+ Tuabin ngưng hơi: Trong đó toàn bộ lưu lượng hơi mới, lưu lượng hơi trích gia
nhiệt, đều đi qua phần chuyền hơi, bành trướng đến áp suất bé hơn áp suất khí
quyển, rồi vào bình ngưng.Trong đố nhiệt của hơi thoát ra truyền cho nước làm mát
và mất đi một cách vô ích. Dùng để kéo máy phát điện và sản xuất điện năng. Hiệu
suất nhiệt tương đối thấp.
+ Tuabin đối áp: Trong loại tua bin này hơi bành trướng tới áp suất dưới áp suất khí
quyển, còn nhiệt của nước làm mát bình ngưng thì được dùng cho các nhu cầu sinh
hoạt, cho ngành nông nghiệp,…
Trong loại tuabin này, áp suất hơi sau tấng cuối
cũng thường lớn hơn áp suất khí quyển.

+ Tuabin ngưng hơi có trích hơi điều chỉnh:


20

Loại tuabin này ngoài việc trích hơi gia nhiệt hồi nhiệt (không điều chỉnh) còn bố trí
một hoặc hai cửa trích hơi có điều chỉnh áp suất theo nhu cầu để dùng cho mục đích
công nghệ và sưởi ấm. Hơi trích được điều chỉnh có lưu lượng lớn hơn so với loại
chỉ có trích hơi gia nhiệt và không phụ thuộc vào phụ tải của tuabin, còn áp suất
trong cửa trích hơi thì giữ không đổi.Lưu lượng hơi còn lại sẽ đi vào phần hạ áp rồi
thoát về bình ngưng hơi. Hiệu suất tại gian máy có thể đạt tới 42 – 45 %.Tuabin hơi
có trích hơi điều chỉnh rất phù hợp với việc phối hợp sản suất điện năng và nhiệt
năng.
+ Tuabin ngưng hơi có cữa trích điều chỉnh trung gian: Trong tuabin này hơi trích từ
tầng trung gian được dẫn về hộp tiêu thụ nhiệt, lượng hơi còn lại tiếp tục làm việc
trong các tầng khác và đi vào bình ngưng. Áp suất hơi trích được tự động duy trí ở
mức không đổi
+ Tuabin có cửa trích hơi điều chỉnh và đối áp: Để phục vụ các hộ tiêu thụ nhiệt có
nhu cầu với áp suất khác nhau, có thể dùng tuabin có cửa trích hơi điều chỉnh và
đối áp, trong đó một phần hơi với áp suất không đổi được trích từ tầng trung gian.
Phần hơi còn lại, sau khi đi qua các tầng tiếp theo sẽ dẫn về hộ tiêu thụ nhiệt với áp
suất thấp hơn. Tùy thuộc vào áp suất của hơi dẫn vào tuabin mà chia ra:
• tuabin thấp áp, với áp suất hơi mới từ 1,2 đến 2 bar .
• tuabin trung áp, với ap suất hơi mới không quá 40 bar
• tuabin cao áp với áp suất hơi mới từ 60 đến 140 bar.
• Tuabin trên cao áp, vói áp suất trên 140 bar.
4. Lựa chọn số cấp quá nhiệt trung gian

Một nội dung khá quan trọng trong việc lựa chọn tuabin là số cấp quá nhiệt trung
gian. Việc quá nhiệt trung gian thực chất là làm tăng thêm nhiệt độ cho hơi để tăng

khả năng sinh công của nó. Sự hạn chế của việc nâng cao nhiệt độ đầu (bởi nhiều lý
do), được bù lại một phần là nhờ việc quá nhiệt trung gian. Quá nhiệt trung gian đối
với các tuabin ngưng hơi còn làm giảm được độ ẩm của hơi ở các tầng cuối của
tuabin (nhất là các tuabin có áp suất ban đầu cao), làm tăng độ tin cậy và độ kinh tế
của tuabin. Thông thường người ta thực hiện quá nhiệt trung gian một lần nhưng
riêng những khối lớn và sử dụng loại nhiên liệu đắt tiền thì có thể thực hiện quá
nhiệt trung gian hai lần. Khi thực hiện quá nhiệt trung gian có thể giảm tiêu hao
nhiên liệu 4-6%.
Cấp quá nhiệt trung gian thứ hai làm tăng thêm hiệu suất do đó cũng tiết kiệm thêm
được một lượng nhiệt vào khoảng 1,5-2,5%. Đương nhiên, khi có quá nhiệt trung
gian sẽ làm tăng thêm tiêu hao kim loại của thép hợp kim cao cấp và tương ứng là
tuabin sẽ đắt thêm 10-12%. Cho nên đối với các khối công suất lớn, sử dụng loại
nhiên liệu đắt tiền thì có thể bù lại phần giá thành thiết bị phải tăng thêm do có bộ
quá nhiệt trung gian cấp II. Thông thường chỉ áp dụng tuabin có hai cấp quá nhiệt


21

trung đối với thông số hơi ban đầu cao (có áp suất hơi mới trên tới hạn, đạt cỡ ≥
250bar và nhiệt độ hơi mới đạt cỡ ~ 568oC), và giá nhiên liệu than đắt, yêu cầu phát
thải ngặt nghèo, v.v và thường áp dụng cho những nước có khả năng chế tạo vật liệu
đồng thời phải nhập nhiên liệu từ nước khác.


Đối với thiết bị nhỏ không có thiết bị thu hồi nhiệt, tuabin hơi có thể là sự kết
hợp nhiều tuabin đơn. Khi hơi giãn nở qua tuabin được thải cho giàn ngưng
hay tiếp tục cho quá trình khác




Đối với thiết bị lớn không có bộ phận hồi nhiệt thì hơi có thể được giãn nở
xuyên qua tuabin đầu tiên sau đó thải qua một tuabin khác. Những tuabin sau
có thể thải ra bình ngưng hay cho quá trình khác


22

Đối với chu trình có thiết bị hồi nhiệt , hơi từ lò hơi dẫn tới tuabin và tại đó hơi giãn
nở và thải trở về lò hơi để tiếp tục quá trình đun. Hơi nước hồi nhiệt từ lò hơi chảy
đến tầng trung áp hoặc tầng tua bin hồi nhiệt. Ở đó nó được giãn nở và thải vào ống
phân phối hơi cung cấp hơi cho tua bin thấp áp dòng kép. Hơi giãn nở qua tuabin
thấp áp và thải cho thiết bị ngưng tụ


23



Chu trình hai lần hồi nhiệt, hơi được hồi nhiệt hai lần và cung cấp cho 4 tua
bin đó là HP, IP, tuabin thấp áp và tuabin hồi nhiệt dòng kép

5. Thiết bị thu hồi nhiệt sinh hơi

Hệ thống các thiết bị thu hồi nhiệt đã được áp dụng từ những năm giữa thế kỷ
20. Tuy nhiên, lúc đầu hiệu quả thu hồi nhiệt còn rất thấp, giá nhiên liệu cũng còn
thấp và giá thành thiết bị rất cao nên ít được áp dụng. Trong những năm gần đây,
ngành sản xuất vật liệu và thiết bị thu hồi nhiệt đã đạt được những tiến bộ đáng kể,
đồng thời tương quan giữa giá nhiên liệu và giá thiết bị đã thay đổi rất nhiều nên
các thiết bị thu hồi nhiệt được rất nhiều nhà công nghệ sử dụng.
5.1: Khái niệm

Thiết bị thu hồi nhiêt sinh hơi trong hệ thống nhà máy điện chu trình hỗn hợp là
thiết bị sinh hơi (lò hơi) sử dụng nhiệt của khói ở đuôi tuabin khí để cấp hơi cho các
tuabin hơi. Nó là thiết bị liên kết quá trình khí với chu trình hơi của chu trình hỗn
hợp. Thiết bị thu hồi nhiệt sinh hơi có 3 loại chính:
• Loại không cần cấp nhiệt bổ sung.
• Loại có cấp nhiệt bổ sung giới hạn.
• Loại được cấp nhiệt bổ sung lớn nhất.
Nồi hơi thu nhiệt (Lò hơi thu nhiệt) được sử dụng nhiều bởi có nhiều ưu điểm
là: đây là loại lò hơi công suất vừa hoặc lớn, được dùng phổ biến trong các ngành
công nghiệp hiện nay vì: hoạt động theo cơ chế thu hồi nhiệt để đảm bảo nhiệt độ
sản phẩm cháy đầu ra trong các dây chuyền sản xuất, tận dụng nhiệt thải từ các dây
chuyền công nghệ để sinh hơi.; hoạt động với nhiệt độ và áp suất ổn định; không
cần nhiên liệu đốt; vận hành đơn giản, bền bỉ; bảo trì đơn giản; có thể đáp ứng theo
nhiều chế độ tiêu thụ hơi; tiết kiệm năng lượng; sản lượng hơi ổn định, chất lượng
tốt; an toàn khi vận hành…


24

Phần đuôi lò Đoạn trên phần đuôi lò được tạo thành từ bốn dàn ống có màng
của bộ quá nhiệt lồng ở bốn mặt và bộ quá nhiệt trần ở phía trên. Bên trong đoạn
này chia làm hai nửa, một nửa đặt bộ quá nhiệt cấp 1, nửa kia đặt bộ tái nhiệt cấp 1.
Đoạn dưới phần đuôi lò đặt bộ hâm nước.
Bộ hâm nước Bộ hâm nước sử dụng ống trơn, bố trí bên dưới bộ quá nhiệt cấp 1
và bộ tái nhiệt cấp 1. Các hàng ống đầu tiên được bảo vệ chống mài mòn do tro bay
bằng tấm thép chịu mòn. Để bảo vệ bộ hâm trong khi khởi động, bố trí đường tái
tuần hoàn từ bao hơi đến ống góp vào bộ hâm.
5.2. Hệ thống hơi nước ngoài lò
Đường ống nước cấp bắt đầu của lò hơi từ đầu ra bộ gia nhiệt nước cấp cao áp
đến đầu vào của bộ hâm nước. Các ống phun đo lưư lượng nước cấp chính, điểm

đấu nối đường vệ sinh bằng hoá chất và điểm đấu nối để lấy mẫu được bố trí trên
đường ống này.
Đường hơi chính lò hơi bắt đầu từ ống góp ra bộ quá nhiệt cuối cùng đến đầu
vào của van stop chính (stop valve) của tuabin cao áp. Các van an toàn, các van an
toàn kiểu lò xo và các van xả áp suất được lắp đặt trên hệ thống đường ống này.
Đường ống rẽ nhánh tuabin cao áp (HP bypass) được rẽ nhánh từ đường ống này
đến đường ống quá nhiệt trung gian lạnh, sử dụng khi khởi động và ngừng máy.
Đường ống hơi tái nhiệt Đường ống hơi tái nhiệt lạnh bắt đầu từ đầu ra tuabin
cao áp đến đầu vào của bộ tái nhiệt. Đường ống rẽ nhánh tuabin cao áp (HP bypass)
được đấu nối đến đường ống này. Đường ống hơi tự dùng được trích từ đường ống
này để phục vụ các mục đích sử dụng khác nhau trong nhà máy.
Đường ống hơi tái nhiệt nóng Đường ống hơi tái nhiệt nóng bắt đầu từ đầu ra
bộ tái nhiệt tới đầu vào van stop đầu vào của tuabin trung áp. Các van an toàn ở đầu
ra bộ tái nhiệt được lắp đặt trên đường ống này. Đường ống rẽ nhánh tuabin hạ áp
(LP bypass) được bắt đầu từ đường ống này.
Đường ống nước phun giảm ôn hơi quá nhiệt Đường ống nước phun cao áp từ
đường ống chung đầu đẩy của bơm nước cấp lò hơi đến các bộ giảm ôn của các bộ
quá nhiệt.
Đường ống nước phun giảm ôn bộ tái nhiệt, đường ống nước phun hạ áp được
trích cấp trung gian của bơm cấp. Nước phun giảm ôn hơi tái nhiệt chỉ được sử
dụng trong trường hợp khẩn cấp hoặc trong các giai đoạn quá độ.


25

Đường ống hơi tự dùng cấp hơi phục vụ cho các bộ gia nhiệt dầu, các bộ sấy
không khí bằng hơi (khi khởi động), để phun mù dầu từ các vòi đốt, cho các máy
nghiền than,v.v, được nối từ đường ống tái nhiệt lạnh. Để khởi động, hơi tự dùng sẽ
được cấp từ lò phụ.
Hơi thổi bụi được trích từ đường ống nối tới đầu vào của bộ quá nhiệt cuối cùng

để cấp cho các bộ thổi bụi của lò hơi và các bộ sấy không khí. Hơi cấp cho các bộ
thổi bụi của bộ sấy không khí được lấy từ đường ống hơi tự dùng. Nước đọng trong
quá trình sấy nóng đường ống hơi sẽ được xả về bể chứa nước đọng lò hơi được lắp
đặt trong khu vực lò hơi.
5.3: Bộ sấy không khí
Bộ sấy không khí là một dạng thiết bị truyền nhiệt nằm ở phia sau lò hơi để tận
dụng nhiệt của khói sau khi đi ra khỏi lò hơi, bộ sấy không khí có tác dụng nâng cao
hiệu suất hoạt động của lò hơi. Chính vì vậy mà bộ sấy không khí còn được gọi là
“bộ tiết kiệm than” trong các nhà máy nhiệt điện đốt than
Với lò hơi công suất 600MW, nếu dùng bộ sấy không khí ống sẽ rất cồng kềnh
và đắt tiền. Vì thế bộ sấy không khí sẽ là kiểu hồi nhiệt. Đây là kiểu bộ sấy không
khí được sử dụng rộng rãi trong các nhà máy nhiệt điện do kích thước nhỏ gọn và
giá thành thấp hơn mặc dù độ lọt gió lớn hơn. Vì đường khói được chia làm hai
nhánh nên sẽ sử dụng hai bộ sấy không khí công suất 50% mỗi bộ.
Do có hai hệ thống gió có yêu cầu về áp suất khác nhau (gió cấp 1 yêu cầu áp
suất cao hơn để thắng trở lực của máy nghiền, phân ly than và đường ống than bột),
nên sẽ sử dụng bộ sấy hồi nhiệt kiểu ba vùng (một vùng cho khói, một vùng cho gió
cấp 1 và một vùng cho gió cấp 2). Gió nóng sau bộ sấy đạt nhiệt độ 400 oC. Để bảo
vệ đầu lạnh bộ sấy không khí tránh ăn mòn do đọng sương từ sản phẩm cháy, một
lượng không khí nóng từ đầu ra bộ sấy không khí sẽ được tái tuần hoàn trở lại đầu
hút các quạt gió để tăng nhiệt độ không khí vào các quạt này.
 Kết luận

Như đã nói ở trên thiết bị hồi nhiệt loại không có cần cấp nhiệt bổ sung được
quan tâm sử dụng nhiều nhất trong chu trình hỗn hợp, và những đặc điểm của nó vì
thế được chú ý nghiên cứu nhiều. Trong đồ án này củng chỉ giới thiệu về loại này vì
nó được thiết kế và lắp đặt ở hầu hết các nhà máy nhiệt điện chu trình hỗn hợp nước
ta.
Thiết bị sinh hơi có thể thiết kế lắp đặt theo 2 nguyên lý: Chu trình nước/hơi
tuần hoàn cưỡng bức Chu trình nước/hơi tuàn hoàn tự nhiên Ngoài ra nhiên liệu và

nhiệt độ sản phẩm cháy củng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sôi và bay hơi trong


×