Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tài liệu ôn thi THPT quốc gia môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.14 KB, 16 trang )

Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

BÀI 3: VIỆT BẮC
Phần 1: Tác giả Tố Hữu
1. Giới thiệu chung
Nhà thơ Tố Hữu được đánh giá là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam, được ngợi
ca là “con chim sơn ca” của cách mạng.
2. Vài nét về tiểu sử
 Tên khai sinh: Nguyễn Kim Thành (1920 – 2002)
 Quê quán: làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên- Huế
 Xuất thân: gia đình nhà nho nghèo
 Thời thơ ấu, sinh ra và lớn lên ở Huế
 Thời thanh niên, sớm giác ngộ cách mạng và hăng say hoạt động
 Sau đó, ông lần lượt đảm nhiệm những nhiệm vụ trọng yếu trên mặt trận văn hoá văn
nghệ, trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
3. Đường cách mạng, đường thơ
Tố Hữu đến với thơ ca và cách mạng cùng một lúc. Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn song hành,
gắn bó và phản ánh chân thực những chặng đường đấu tranh cách mạng gian khổ, vinh quang của
dân tộc, đồng thời thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của chính nhà thơ.

Các tập thơ
1) Từ ấy
(1937  1946)

Hoàn cảnh st
Phong trào Mặt
trận dân chủ và
cuộc vận động tiến
tới CMT8 năm


1945

Đặc điểm tiêu biểu
 Đánh dấu bước trưởng thành của người thanh
niên quyết tâm đi theo Đảng:
 Chia sẻ, cảm thông với cuộc đời cơ cực của
những người nghèo khổ trong XH.
 Khao khát tự do, quyết tâm chiến đấu trong
chốn lao tù.
 Nồng nhiệt ngợi ca thắng lợi của CMT8.

2) Việt Bắc
(1946  1954)

Cuộc kháng chiến  Tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng
chống Pháp gian chiến chống Pháp và con người kháng chiến.
khổ, anh dũng của  Thể hiện những tình cảm lớn
dân tộc

3) Gió lộng
(1955  1961)

Miền Bắc đi lên xây
dựng CNXH và đấu
tranh thống nhất đất
nước

 Hướng về quá khứ để ghi sâu ân tình cách mạng
 Ngợi ca cuộc sống mới trên miền Bắc
 Tình cảm thiết tha, sâu đậm với miền Nam ruột

thịt

4) Ra trận
(1962  1971)
5) Máu và hoa
(1972  1977)

Cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước
gian khổ, anh dũng
và toàn
thắng

 Bản hùng ca về miền Nam trong lửa đạn sáng
ngời
 Ghi lại chặng đường CM đầy gian khổ, hi sinh,
khẳng định niềm tin, niềm tự hào phơi phới khi
toàn thắng về ta

6) Một tiếng
đờn (1992)
7) Ta với ta
(1999)

Đất nước bước vào
thời kì hàn gắn vết
thương chiến tranh,
xây dựng, đổi mới

 Những suy tư, chiêm nghiệm mang tính phổ

quát về con người, cuộc đời
 Niềm tin vào lí tưởng và con đường cách mạng,
tin vào chữ nhân luôn toả sáng trong mỗi tâm hồn
con người
1


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

III. PHONG CÁCH THƠ TỐ HỮU
* Khái niệm phong cách:
Nói đến phong cách nghệ thuật của một tác giả là nói đến một sự bền vững, xuyên suốt,
lặp đi lặp lại nhiều lần trong sáng tác trên các phương diện nội dung, hình thức thể hiện,
nghệ thuật. Nói cách khác, đó là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ trong việc đưa đến
cho độc giả một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời thông qua những phương thức, phương tiện
nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của người sáng tạo.
* Phong cách thơ Tố Hữu:
1. Về nội dung: mang tính chất trữ tình chính trị
 Trong việc biểu hiện tâm hồn, thơ TH luôn hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình
cảm lớn, niềm vui lớn của con người CM, của cả dân tộc. (VD: những tình cảm lớn như:
tình yêu lí tưởng (Từ ấy), tình cảm kính yêu lãnh tụ (Sáng tháng Năm), tình đồng bào,
đồng chí, tình quân dân (Cá nước), tình cảm quốc tế vô sản (Em bé Triều Tiên)…; niềm
vui lớn (niềm vui chiến thắng trong Huế tháng Tám, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Toàn
thắng về ta).
 Trong việc miêu tả đời sống, thơ TH mang đậm tính sử thi:
+ Đối tượng hướng đến của cảm xúc: các sự kiện chính trị lớn lao, những vấn đề có tính
chất lịch sử và ý nghĩa toàn dân, những biến cố rộng lớn liên quan đến vận mệnh dân tộc.
+ Cảm hứng chủ đạo: cảm hứng lịch sử  dân tộc chứ không phải cảm hứng thế sự  đời tư.

+ Con người hiện diện trong thơ: tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc, mang tầm vóc lịch sử
thời đại (anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân, anh Nguyễn Văn Trỗi, chị Trần Thị Lý…).
+ Giọng điệu thơ: Thơ THữu có giọng điệu riêng rất dễ nhận ra, đó là giọng tâm tình,
ngọt ngào, tha thiết, giọng của tình thương mến. (Điều này thể hiện rõ từ những cách xưng
hô với đối tượng trò chuyện, tâm sự (Bạn đường ơi!; Hỡi người bạn; Anh vệ quốc quân
ơi...) cho đến cả thnhiên đất nước (Xuân ơi xuân; Hương Giang ơi; Đất nước ta ơi...).
2. Về nghệ thuật: đậm đà tính dân tộc
 Thể thơ: đặc biệt thành công khi vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc như
lục bát, thất ngôn, ngũ ngôn,…
 Ngôn ngữ:
+ Thường sử dụng lối nói, cách diễn đạt, những phương thức chuyển nghĩa quen thuộc
của thơ ca dân gian (Mình đi mình lại nhớ mình – Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy
nhiêu)
+ Thường sử dụng những ngôn từ giản dị, những thi liệu truyền thống (Ai về mua vại
Hương Canh – Ai lên mình gửi cho anh với nàng)
+ Tố Hữu có biệt tài trong việc sử dụng từ láy, phối hợp thanh, vần,... phát huy cao độ tính
nhạc phong phú của tiếng Việt (Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan – Đường Bạch Dương sương
trắng nắng tràn/ Gió lộng xôn xao, gió biển đu đưa – Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát)

Phần 2: Đoạn trích “Việt Bắc”
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Về bài thơ “Việt Bắc”
a) Xuất xứ, vị trí
 Là bài thơ tiêu biểu, được coi là linh hồn của tập thơ “Việt Bắc” (1946 – 1954).
 “Việt Bắc” không chỉ là đỉnh cao của thơ Tố Hữu mà còn là một trong những thành
công xuất sắc của thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp. “Việt Bắc” được coi là khúc
hùng ca và bản tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
b) Hoàn cảnh sáng tác
 Việt Bắc là khu căn cứ của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
2



Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

 Tháng 5/ 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7/ 1954 , hiệp định
Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng và đi
lên xây dựng CNXH, một trang sử mới của đất nước mở ra.
 Tháng 10/ 1954 , TW Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội.
 Nhân sự kiện có tính lịch sử ấy Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.
 Hoàn cảnh sáng tác: cho thấy rõ hơn cảm hứng chủ đạo của bài thơ. Đó là nỗi nhớ thương
lưu luyến trong giờ phút chia tay, là nghĩa tình thắm thiết với Việt Bắc, quê hương cách mạng,
với đất nước và nhân dân, với cuộc kháng chiến nay đã trở thành kỉ niệm.
c) Kết cấu, bố cục
 Kết cấu: Bài thơ được kết cấu theo hình thức đối đáp giữa mình và ta, giữa người đi và
kẻ ở tựa những câu hát giao duyên trong ca dao xưa. Nhưng thực ra, bên trong lớp đối
thoại của kết cấu là lời độc thoại của tâm trạng: kẻ ở  người đi, câu hỏi  lời đáp cũng chỉ
là sự phân thân của chủ thể trữ tình, là thủ pháp để nhà thơ bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng, tạo
ra sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.
 Bố cục: Bài thơ “Việt Bắc” gồm 2 phần:
+ Phần 1: Thông qua diễn tả tâm trạng nhớ nhung giữa người về xuôi với Việt Bắc và
Việt Bắc với người về xuôi, nhà thơ đã tái hiện một giai đoạn kháng chiến gian khổ hào
hùng của dân tộc, nay đã thành kỷ niệm sâu lắng trong lòng mỗi người.
+ Phần 2: Nhà thơ vẽ lên viễn cảnh tương lai tươi sáng của đất nước và ca ngợi công
lao của Đảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh với dân tộc.
2. Về đoạn trích “Việt Bắc” trong SGK
a) Vị trí: Văn bản trong SGK là thuộc phần 1 của bài thơ “Việt Bắc”
b) Bố cục
 Từ câu 1 đến câu 4 (Mình về mình có nhớ ta… Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ

nguồn?): Lời trăn trở, nhớ thương của người ở lại với người ra đi.
 Từ câu 5 đên câu 8 (Tiếng ai tha thiết bên cồn… Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”:
Tâm trạng của người ra đi trong giớ phút phân li
 Từ câu 9 đến câu 20 (Mình đi, có nhớ những ngày… Tân Trào, Hồng Thái, mái đình,
cây đa): Lời nhắc nhớ những kỉ niệm cụ thể của người ở lại.
 Từ câu 21 đến câu 90: (Ta với mình, mình với ta… Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân
Trào): Tình cảm thuỷ chung và nỗi nhớ nhung tha thiết của người ra đi.
* Lưu ý:
 Phần in nghiêng: là lời người ở lại – đồng bào Việt Bắc.
 Phần in đứng: là lời người ra đi – cán bộ kháng chiến.
II. TÌM HIỀU VĂN BẢN
1. Lượt lời thứ nhất của người ở lại (4 câu đầu): Lời trăn trở, nhớ thương của người
ở lại với người ra đi.
− Mở đầu bài thơ là 2 câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao của người Việt Bắc dành cho
người ra đi. Hỏi không phải để mong nhận được câu trả lời mà là để gợi nhắc những kỉ
niệm và thể hiện tâm trạng lưu luyến của người tiễn đưa.
− Câu hỏi thứ nhất gợi nhắc những kỉ niệm về thời gian : “Mình về mình có nhớ ta /
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
 Trong câu hỏi này, “mình” chỉ người ra đi, “ta” chỉ người ở lại. Cách xưng hô gợi
nghĩ đến những câu ca dao tiễn bạn đầy bịn rịn : “Mình về ta chẳng cho về / Ta
nắm vạt áo, ta đề câu thơ”.
 Trong câu thơ của Tố Hữu, “mình” ở đầu câu thơ, “ta” ở cuối câu thơ, tưởng như
xa cách nhưng lại hoá ra gần gũi bởi được kết dính với nhau bằng nỗi nhớ. Nỗi nhớ
được xây dựng trên cơ sở của “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
 “Mười lăm năm” là chi tiết tả thực, tính từ sau khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 cho
3


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn


Năm học 2018 - 2019

đến tháng 10 năm 1954. Đó là khoảng thời gian lịch sử trọng đại của cách mạng,
của dân tộc. Trong khoảng thời gian đó, nhân dân Việt Bắc đã đồng cam cộng khổ,
chung sức chung lòng với cách mạng làm nên những thắng lợi vĩ đại, giành lại độc
lập, tự do cho dân tộc.
 Cũng trong khoảng thời gian này, nghĩa tình cách mạng giữa đồng bào Việt Bắc và
cán bộ kháng chiến ngày càng keo sơn, thắm thiết. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng”
chất chứa biết bao tình cảm sâu đậm.
− Câu hỏi thứ hai gợi nhắc những kỉ niệm về không gian : “Mình về mình có nhớ không /
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?”
 “cây - núi”, “sông - nguồn” trước hết là những hình ảnh tả thực của thiên nhiên.
Người ở lại nhắn nhủ người về xuôi: về Hà Nội rồi, nhìn cây thì hãy nhớ đến núi
rừng chiến khu, nhìn sông thì hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc.
 Hơn nữa, hình ảnh “núi” và “nguồn” còn gợi mở những miền không gian linh
thiêng, trừu tượng. Đó là miền không gian của sự khởi thuỷ, của sự lớn lao không gì
đo đếm được như trong ca dao : “Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra”. Bởi vậy, câu hỏi thứ hai này còn là lời dặn dò kín đáo của
người ở lại đối với người về xuôi : đừng quên Việt Bắc đã từng là cội nguồn cách
mạng. Đây chính là đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” từ ngàn đời của ông cha ta.
 Bốn câu thơ tạo thành hai cặp câu bắt đầu với điệp ngữ “mình về mình có nhớ”, cùng
với các điệp từ “nhớ”, “nhìn” vang lên như một nỗi niềm lưu luyến khôn nguôi của người
ở lại. Sự tài tình của nhà thơ được thể hiện ở chỗ chỉ với hai câu hỏi tu từ, một câu gợi
nhớ thời gian, một câu gợi nhớ không gian, nhà thơ đã bao quát được cả một thời cách
mạng, một trời cách mạng với biết bao nhiêu ân tình.
2. Lượt lời thứ nhất của người ra đi (từ câu 5 đến câu 8): Tâm trạng của người ra đi
trong giờ phút phân li
− Lời của trái tim sẽ chạm đến với trái tim và ngân rung thành những lời tâm tình tha
thiết. Vì vậy nếu bốn câu thơ đầu là nỗi lòng của người ở lại thì bốn câu sau là tiếng
lòng đồng vọng của người ra đi :

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”
 “Ai” là đại từ phiếm chỉ. Ở đây, nó chỉ người ở lại nhưng không rõ là người nào.
Dường như người ra đi đang đắm chìm trong dòng hoài niệm về “mười lăm năm”
đã qua ở mảnh đất này, và bây giờ mới giật mình trở lại với hiện tại.
 Hiểu được nỗi lòng “tha thiết” của người ở lại nên người ra đi cũng bày tỏ tâm
trạng của mình lúc chia xa : “Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. Câu thơ
được ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối đã thể hiện được sự thống nhất giữa tâm
trạng bên trong và hành động bên ngoài của người ra đi. Vì trong lòng “bâng
khuâng” − luyến tiếc, nhớ thương xen lẫn nên bước chân cũng như mang đầy tâm
trạng “bồi hồi bước đi”. Đó bước chân dùng dằng, bịn rịn, nửa như muốn bước đi,
nửa như muốn quay lại, nửa không muốn xa, nửa vẫn đành phải xa.
− Vào giờ phút chia li ấy, điều đọng lại sâu đậm trong tâm trí người ra đi là hình ảnh “áo
chàm” : “Áo chàm đưa buổi phân li”. Đây là hình ảnh hoán dụ chỉ người dân Việt Bắc,
đồng thời cũng gợi nhiều suy nghĩ, liên tưởng. Màu chàm trầm ấm gợi nghĩ đến những
tấm lòng hồn hậu, chất phác và ấm áp nghĩa tình của con người Việt Bắc − những
người đã đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với người ra đi trong suốt mười lăm năm
qua. Màu áo ấy, điệu hồn ấy sẽ còn in mãi trong tâm trí người ra đi.
− Nỗi xúc động trào dâng, khiến người ra đi như nghẹn lời, mọi cảm xúc dồn nén trong
cái cầm tay lưu luyến : “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
 Bao lưu luyến vấn vương, bao yêu thương nồng đượm gửi gắm trong cái cầm tay ấy.
4


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

 Nhịp trong thơ lục bát thường đều đặn và ngắt nhịp chẵn nhưng câu thơ này, Tố Hữu
lại có cách ngắt nhịp độc đáo 3/3/2 (Cầm tay nhau / biết nói gì / hôm nay). Nhịp thơ

này đã tạo ra được khoảng lặng đong đầy cảm xúc biệt li bịn rịn, dùng dằng, lưu
luyến trong lòng người ra đi.
 Đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế và đầy cảm động tâm trạng của người ra đi, từ nỗi
bâng khuâng trong lòng, sự ngập ngừng mỗi bước chân đi, cử chỉ “cầm tay nhau” thân
thương, trìu mến cho đến cả sự im lặng không lời đầy xúc động... Bốn câu thơ ngắn gọn
vừa là sự đồng vọng, nhớ nhung của người về xuôi với người ở lại, vừa tái hiện cảnh tiễn
đưa bịn rịn, lưu luyến, sâu nặng nghĩa tình.
3. Lượt lời thứ 2 của người ở lại (câu 9  20): Lời nhắc nhớ những kỉ niệm cụ thể và
bộc bạch nỗi nhớ thương

Đoạn thơ gồm 12 dòng thơ, tạo thành 6 câu hỏi của người ở lại với người ra đi,
những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi dường như giờ phút chia tay càng đến gần thì những
kỉ niệm lại ùa về mãnh liệt hơn, khiến lòng người day dứt, thương nhớ khôn nguôi.
* Nhắc nhớ những kỉ niệm

Trước hết, là kỉ niệm về thời tiết khắc nghiệt, đặc trưng của núi rừng Việt Bắc:
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Phép liệt kê, cùng phép điệp từ chỉ số nhiều “những” đã nhắc nhớ trong lòng người cán bộ
kháng chiến về những chuỗi ngày phải đối mặt với hàng loạt thử thách khắc nghiệt của
thiên nhiên : Đó là ”mưa” – thứ “mưa rừng chớp bể” dữ dội mà chỉ trong chốc lát có thể
tạo nên những cơn “lũ” lớn cuốn phăng cả một ngôi làng, đó còn là sương, là mây mù –
thứ sương dày đặc phủ lấp cả đoàn quân (Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi – Quang
Dũng) và tạo nên cái “rét thấu xương” (Ngày lại ngày qua, rét thấu xương – Tố Hữu), “rét
xé thịt da” (Đói rét bao lần xé thịt da – Thôi Hữu).

Lời người ở lại còn gợi nhắc những ngày tháng với vô vàn thiếu thốn trong cuộc
kháng chiến trường chinh của dân tộc :
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai

Ở đây, nghệ thuật đối đã được sử dụng để nhấn mạnh sự đối lập giữa đời sống vật chất –
miếng cơm chấm muối  và gánh nặng tinh thần – mối thù nặng vai  mà “ta” và “mình”
đã cùng nhau chia sẻ.

Sự gắn bó khiến họ thêm thấu hiểu, thương cảm và trân trọng nhau hơn. Câu hỏi
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
gợi nhắc cho người ra đi về hình ảnh của đồng bào Việt Bắc.
 “Nhà” là hoán dụ chỉ con người.
 “Hắt hiu lau xám” vừa là hình ảnh thực gợi tả không gian hoang vắng, tiêu sơ, buồn bã
của núi rừng, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ cho cuộc sống nghèo khổ của người dân nơi đây
 “đậm đà lòng son” là chỉ tấm lòng thuỷ chung, son sắt.
 Nghệ thuật đối trong câu 8 đã khắc hoạ đậm nét sự đối lập giữa cảnh sống và tấm lòng
của người dân Việt Bắc đối với cách mạng. Chính trong hoàn cảnh sống còn nhiều khó
khăn, vất vả ấy, tấm lòng thuỷ chung, gắn bó với kháng chiến của đồng bào càng đáng
quý, đáng trân trọng hơn.

Trong hai câu hỏi cuối cùng của người ở lại, tất cả những kỉ niệm trong suốt những
năm tháng ác liệt và hào hùng từ thời Mặt trận Việt Minh, thời kháng Nhật, tới 9 năm
kháng chiến chống Pháp đều lần lượt sống dậy:
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
5


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa
+ Hai câu hỏi nhắc nhớ những khoảng thời gian khó khăn nhất của cách mạng “khi
kháng Nhật”, “thuở còn Việt Minh” và những địa danh gắn vơi các sự kiện lịch sử trọng đại
nhất của dân tộc và kháng chiến: đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội 8/1945,
thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng và phát lệnh Tổng khởi nghĩa; gốc đa Tân Trào là nơi
đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.
+ Câu thơ “Mình đi, mình có nhớ mình” có nhiều cách hiểu căn cứ vào nét nghĩa
khác nhau của từ “mình” ở cuối câu thơ. Có thể hiểu chữ “mình” ấy là người ở lại. Khi ấy,
câu hỏi sẽ trăn trở nỗi nhớ nhung, day dứt: mình đi, mình có còn nhớ đến ta nữa hay
không? Đây cũng là nỗi niềm da diết trong suốt cả bài thơ. Cách hiểu này cho thấy sự hoà
hợp, gắn kết giữa người đi – kẻ ở: tuy hai mà một, không thể tách rời. Lại cũng có thể
hiểu chữ “mình” ấy là người ra đi. Và khi ấy, câu hỏi sẽ là một lời nhắc nhở tha thiết, sâu
xa và nghiêm nghị: mình đi, mình có nhớ và giữ được mãi là con người mình ngày xưa
không? Nỗi lo lắng ấy có căn cứ bởi nơi mà người đi sẽ về là Hà Nội phồn hoa đô hội,
cuộc sống thay đổi có thể làm cho con người ta đổi khác.
* Bộc bạch nỗi lòng

Lời người ở lại không chỉ có nhắc nhớ mà còn bộc bạch nỗi lòng :
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
 “rừng núi” là hoán dụ chỉ người dân Việt Bắc,
 “ai” chính là người ra đi.
 “Trám bùi” và “măng mai” là những sản vật quen thuộc và quý giá của núi rừng.
 Phép điệp cấu trúc “…để rụng”, “…để già” gợi lên hình ảnh cuộc sống như ngưng trệ,
núi rừng như hoang phế và lòng người ở lại thì hụt hẫng, trống trải sau bước chân của
người đi. Dường như sau khi người cán bộ về xuôi, trám bùi trên cây không ai hái, rụng
xuống đất không ai nhặt, măng mai để già hoang phí giữa rừng sâu. Người ra đi đã để
lại một khoảng trống mênh mông trong lòng người Việt Bắc giữa heo hút núi rừng.
− Đoạn thơ là lời của người ở lại nhưng lại có tới 7 chữ “mình” – chỉ người ra đi  được
lặp lại, dường như trong giờ phút phân li này, hình ảnh của người ra đi đã chiếm trọn

tâm trí của người ở lại. Hơn nữa, tác giả lại dùng từ “mình” kết hợp hai từ chỉ sự di
chuyển “đi” – “về” khiến cho cảm giác về sự chia li càng được tô đậm thêm. Việc thay
đổi, luyến láy “mình đi”, “mình về” không chỉ tạo nhạc điệu tha thiết cho đoạn thơ mà
còn thể hiện một ý nghĩa sâu sắc: “Mình về” là về quê hương miền xuôi, “mình đi” là
đi khỏi quê hương Việt Bắc. Việt Bắc đã trở thành quê hương thứ hai thắm thiết nghĩa
tình của người cán bộ kháng chiến.
4. Lượt lời thứ 2 của người ra đi (câu 21  90): Tình cảm thuỷ chung và nỗi nhớ
nhung tha thiết của người ra đi
a) 4 câu đầu (câu 21 – 24) : Tình cảm thuỷ chung
 Mở đầu lượt lời thứ hai, người ra đi đã đưa ra câu trả lời để giải toả cho nỗi băn khoăn,
trăn trở của người ở lại về việc “mình về mình có nhớ ta”:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
+ Câu thơ “Ta với mình, mình với ta” ngắt nhịp 3/3 tạo thành 2 vế cân xứng. Nhịp
ngắt này kết hợp phép điệp đan xen cặp đại từ “mình – ta” cùng từ “với” đã gợi tả sự quấn
quýt, gắn bó không thể chia cắt giữa kẻ đi – người ở.
+ Câu thơ tiếp theo với nhịp ngắt 2/2/2/2 chắc khoẻ là một lời khẳng đinh chắc chắn:
“Lòng ta/ sau trước/ mặn mà/ đinh ninh” – dù là trước đây hay sau này thì tấm lòng của
“ta” dành cho “mình” vẫn mặn mà, bền chặt, không thay đổi hay nhạt nhoà.
6


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

 Hai câu kế tiếp như một lời thề chung thuỷ:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
+ Nếu ở phía trên, người ở lại băn khoăn, trăn trở trong câu hỏi: “Mình đi, mình có

nhớ mình” thì người đi cũng trả lời trong một sự hô ứng, đồng vọng: “Mình đi, mình lại
nhớ mình”. Từ “lại” diễn tả sự lặp lại. Nghĩa là nỗi “nhớ mình” đã xuất hiện nhiều lần
trong tâm trí của người ra đi. Từ “mình” cuối cùng trong câu thơ cũng có thể hiểu theo
nhiều cách. Nếu nó chỉ người ở lại thì ý thơ thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của những
con người có sự gắn bó, hoà hợp sâu sắc; nếu nó chỉ người ra đi thì câu thơ là lời khẳng
định: cuộc sống phồn hoa đô hội sẽ không bao giờ khiến người trở về quên quá khứ đẹp
đẽ, nghĩa tình, càng không bao giờ đánh mất chính mình.
+ Và để cụ thể hoá nỗi nhớ, người đi đã dùng cách so sánh, cách đo đếm mang đậm
màu sắc dân gian: “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Nước trong nguồn là vô
cùng vô tận, giống như ân tình của người cách mạng dành cho đồng bào Việt Bắc là đầy
ắp, vô hạn. Hơn nữa, hình ảnh nước trong nguồn còn gợi những suy nghĩ sâu xa về nguồn
cội, về đạo lí thuỷ chung tình nghĩa “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc. Hình ảnh so
sánh này như thầm đáp lại lời dặn dò kín đáo của người Việt Bắc: “Mình về mình có nhớ
không/ Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
b) Từ câu 25 đến câu 42: Nỗi nhớ sâu sắc của người ra đi với thiên nhiên, con người
và cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc
* Từ câu 25 đến câu 30: Nỗi nhớ sâu đậm của người ra đi với những vẻ đẹp của thiên
nhiên Việt Bắc

Cả 3 cặp câu lục bát đều bắt đầu bằng một chữ “Nhớ” thật tha thiết. Sắc thái và
mức độ của nõi nhớ được miêu tả qua một so sánh ngọt ngào, thấm thía:
Nhớ gì như nhớ người yêu
“Nhớ người yêu” là một nỗi nhớ ám ảnh, thường trực, không thể nguôi ngoai, một nỗi nhớ
nhiều khi mãnh liệt đến phi lí như cảm nhận của Xuân Diệu:
Uống xong lại khát là tình
Gặp rồi lại nhớ là mình với ta
Đó là nỗi nhớ từng khiến cho chính Tố Hữu ngạc nhiên:
Lạ chưa, vẫn ở bên em
Mà anh vẫn nhớ, vẫn thèm gặp em
Bằng phép so sánh nỗi nhớ dành cho đồng bào Việt Bắc với nỗi nhớ người yêu, Tố Hữu

đã bộc lộ sự gắn bó sâu nặng và nỗi nhớ thương da diết của người về xuôi với mảnh đất và
con người Việt Bắc.

Và có lẽ chính sự liên tưởng đến tình yêu đã khiến cho những hình ảnh sau đó của
thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên đầy gợi cảm và thi vị. Từng cảnh vật của Việt Bắc
trong mọi thời gian và không gian liên tiếp, dồn dập hiện lên trong nỗi nhớ của người đi:
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm hôm bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông đáy, suối Lê với đầy.
Việt Bắc khi thơ mộng với ánh trăng bàng bạc thấp thoáng nơi đầu núi, khi ấm áp lung
linh trong ánh nắng chiều lưng nương, lúc mơ hồ huyền ảo giữa những bản khói cùng
sương, và nhất là luôn nồng đượm ân tình bởi sự quấn quýt với hình ảnh “người thương”
“sớm hôm đi về”. Người Việt Bắc đã trở thành “người thương” trong lòng người về xuôi.
Những cảnh vật của Việt Bắc, dù là có tên như ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê hay không có
tên như rừng nứa, bờ tre,… đều in đậm trong tâm trí của người ra đi. Từ “nhớ” và cụm từ
“nhớ từng” điệp lại nhiều lần trong một đoạn thơ cho thấy nỗi nhớ da diết, sâu đậm của
7


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

người đi không chỉ dành cho những cảnh vật cụ thể mà còn như bao trùm cả lên tất cả
những gì thuộc về Việt Bắc thân thương.
* Từ câu 31 đến câu 42: Nỗi nhớ dành cho con người và cuộc sống sinh hoạt thời
kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc


Nếu ở đoạn thơ trên, nỗi nhớ của người ra đi chủ yếu hướng về thiên nhiên, cảnh
vật, con người mới chỉ thấp thoáng ở hình ảnh “sớm hôm bếp lửa người thương đi về” thì
đến đoạn thơ này, hình ảnh người Việt Bắc trực tiếp qua những hoài niệm xúc động về
cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến.
Nhớ con người:

Trước hết là một lời khẳng đinh đầy tri ân với con người Việt Bắc:
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi
Câu thơ được chia thành 2 vế tạo sự đăng đối, song hành: “mình đây ta đó” – “đắng cay
ngọt bùi”. “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ cho gian khổ và niềm vui. 15 năm gắn bó với
mảnh đất Việt Bắc là 15 năm “ta” có “mình” cùng chia sẻ đắng cay, chung hưởng ngọt
bùi. Những ngày tháng đó, “ta” sẽ mãi mãi khắc cốt ghi tâm.

Những ngày tháng của quá khứ hiện về trong tâm trí của người ra đi với cả gian
truân và tình nghĩa:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Trong những năm tháng kháng chiến gian khổ, người cách mạng không chỉ phải đối diện
với kẻ thù mà còn có cả cái đói, cái rét. Điều này đã được nhiều nhà thơ thể hiện trong các
tác phẩm của họ:
Cuộc đời cát bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
(Lên Cấm Sơn – Thôi Hữu)
Nhưng bên cạnh họ luôn có đồng bào Việt Bắc kề vai sát cánh, cùng họ vượt qua mọi khó
khăn. Những động từ “chia”, “sẻ nửa”, “đắp cùng” đã diễn tả đầy cảm động về tình cảm
của đồng bào Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Họ đã cùng nhau chia sẻ từ miếng ăn ngày
đói đến hơi ấm chăn sui giữa mùa đông buốt giá của núi rừng. Cái đói, cái rét đã bị đẩy
lùi, chỉ còn lại sự ấm áp của tình người, để rồi tình thương ấy đã tạo nên sức mạnh khiến
họ làm “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.


Và trong số những con người ân tình ấy, hình ảnh khắc sâu nhất trong tâm khảm
của người đi là hình ảnh người mẹ Việt Bắc:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rấy bẻ từng bắp ngô
Câu thơ miêu tả một hình ảnh cụ thể, quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người
dân Việt Bắc: những người mẹ địu con cùng đi làm rẫy, làm nương. Hình ảnh này, về sau
cũng được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khắc hoạ trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé
lớn trên lưng mẹ”:
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-Lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ cho ngoan đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
Cụm từ “nắng cháy lưng” gợi ra hình ảnh cả một vạt nương đầy nắng – những tia nắng
gay gắt, chói chang làm cháy rát cả lưng người. Giữa không gian núi rừng, trong cái thời
tiết khắc nghiệt như thế, bóng dáng người mẹ trở nên nhỏ bé vô cùng. Vậy mà công việc
của người mẹ ấy lại chẳng hề nhẹ nhàng. Câu thơ tiếp theo liệt kê một loạt những công
việc: địu con/ lên rẫy/ bẻ từng bắp ngô. Cơ cực, vất vả là vậy nhưng thành quả lao động
8


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

chỉ là “từng bắp ngô” nhỏ nhoi, ít ỏi. Bởi lúc này mẹ đâu phải chỉ lao động để nuôi con,
nuôi gia đình mà còn là để phục vụ kháng chiến, phục vụ cách mạng. Lời thơ vừa thấm
thía nỗi thương xót, lẫn sự cảm phục và tri ân của người đi đối với đồng bào Việt Bắc.
Cũng như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết:

Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi
Nhớ cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến

Trong hoài niệm của người ra đi, cuộc sống ở chiến khu trong những năm tháng
kháng chiến tuy gian nan, vất vả song cũng rất sôi động và đầy lạc quan:
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Hình ảnh “lớp học i tờ” gợi lên những tiếng đánh vần ngọng ngịu, những nét chữ viết
vụng về, những say mê, háo hức của người dân miền núi khi được học con chữ của cách
mạng, của Bác Hồ trong những lớp học “Bình dân học vụ” do cán bộ kháng chiến giảng
dạy. Rồi hình ảnh “Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan” gợi lên những đêm liên
hoan văn nghệ giữa đồng bào và cán bộ kháng chiến được tổ chức ngay trên cánh đồng,
sau những giờ lao động và chiến đấu. Ánh sáng của những ngọn đuốc hay ánh sáng của
niềm vui tươi náo nức đã làm sáng rực cả cánh đồng khuya? Những hoạt động ấy không
chỉ siết chặt tình quân dân mà còn giúp họ có thêm niềm vui, niềm lạc quan vào cuộc đời
và cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc:
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Gian nan, thử thách không làm sờn lòng người kháng chiến. Ngày ngày tiếng hát của họ
vẫn vang khắp núi đèo.

Không chỉ có tiếng hát lạc quan của con người, núi đèo Việt Bắc còn vang vọng
những âm thanh bình dị mà rất đỗi gợi cảm:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Đó là tiếng mõ trâu khua vang rừng chiều, tiếng chày giã gạo đều đều mỗi đêm khuya,
tiếng suối thoảng xa vời vợi… Những âm thanh đó vừa gợi cảm giác êm đềm, yên ả, vừa

phảng phất chút hoang vắng tiêu sơ, cho thấy tình cảm thắm thiết, nỗi nhớ thương sâu
đậm, nỗi bùi ngủi xao xuyến của người ra đi với cuộc sống và con người nơi chiến khu
Việt Bắc.
c) Từ câu 43 – câu 52: Bức tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc
* Hai câu đầu: Giới thiệu cảm xúc chung của đoạn thơ.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu giới thiệu nội dung bao quát đoạn:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” vừa là lời đối thoại, vừa là cái cầu nối xuống câu
dưới và đấy cũng là cái cớ để bày tỏ tấm lòng, nỗi niềm của mình. Với Tố Hữu, người cán
bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp
cùng” mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của “hoa cùng người”. Ở đây, “hoa” tượng trưng
cho cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, “người” chỉ đồng bào Việt Bắc. “Hoa” ở bên
“người” để “người” mang gương mặt sắc màu của “hoa”. “Người” ở bên “hoa” để cho
“hoa” mang hồn “người”. “Hoa” và “người” quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hai hoà,
đằm thắm để tạo nên nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên
cấu trúc đặc sắc của đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu 6 dành cho nhớ “hoa”,
nhớ cảnh; câu 8 dành cho nhớ “ngừời”. Cảnh và người trong mỗi câu có những sắc thái,
9


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

đặc điểm riêng làm nên một bộ tranh tứ bình về bốn mùa trong năm thật hấp dẫn.
* Đầu tiên là bức tranh Việt Bắc giữa mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”


Hai câu thơ đã mở ra một khoảng không gian khoáng đạt với chiều rộng mênh
mông của rừng xanh, chiều cao ngút ngàn của đèo núi, chiều cao vời vợi của bầu trời.
Trên cái nền khoáng đạt ấy, Tố Hữu đã vẽ những nét vẽ thần tình về cảnh rừng đông Việt
Bắc: Đông về với màu xanh thăm thẳm, trầm mặc của rừng già đại ngàn. Trên cái nền
xanh thẳm ấy nổi bật lên những bông hoa chuối đỏ tươi như những đốm lửa bập bùng. Cái
màu đỏ tươi tắn của hoa chuối, cùng với màu vàng nhẹ nhàng của nắng đông, và đặc biệt
là ánh phản quang của nắng trên nước thép sáng loáng của con dao người đi rừng đã làm
cho khu rừng trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ,
lạnh giá, hiu hắt vốn có của núi rừng.

Trên nền thiên nhiên khoáng đạt ấy, sự xuất hiện của con người càng làm tăng
thêm vẻ ấm áp, thơ mộng của mùa đông Việt Bắc. Đó là con người của vùng chiến khu lên
núi phát nương làm rẫy: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Ở đây, bút pháp chấm phá
của hội hoạ đã được vận dụng một cách tài tình. Nhà thơ không miêu tả dáng người, mặt
người mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp loé trên lưỡi
dao rừng ở ngang lưng. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã
xuất hiện ở một vị trí, tư thế đẹp nhất – nơi “đèo cao”, giữa núi và nắng, giữa trời cao bao
la với rừng xanh mênh mang. Câu thơ làm ta nhớ đến hình ảnh anh bộ đội trong một bài
thơ khác của Tố Hữu:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo”
(Lên Tây Bắc)
Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi của con người trước thiên
nhiên đất trời rộng lớn.
* Đông qua mùa xuân lại về:

Mùa xuân về mang điều tốt lành cho con người, báo hiệu những niềm vui, sức
sống âm thầm đang trỗi dậy. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân Việt Bắc là màu trắng dịu

dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng”
“Trắng rừng” được viết theo lối đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như một động từ,
nó có tác dụng nhấn mạnh vào sự vận động của màu sắc. Nghĩa là bức tranh mùa xuân
Việt Bắc không tĩnh lặng mà là bức tranh động. Ở đó, hoa mơ đang bung nở, màu trắng
của nó đang lan toả, đang dần dần lấn át những màu sắc khác của núi rừng. Để rồi cuối
cùng, cả rừng Việt Bắc sẽ chìm trong sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát. Cái màu
trắng tinh khôi ấy sẽ mãi mãi được lưu giữ trong tâm trí của người ra đi. Sau này (1972),
khi nhớ về mùa xuân năm 1941 – thời điểm Bác Hồ trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong
trào cách mạng trong nước, Tố Hữu cũng đã nhớ về sắc trắng hoa mơ ấy:
“Ôi sáng xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về... Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ...”
(Theo chân Bác)

Nổi bật trên nền của hoa mơ nở trắng ấy, là hình ảnh con người với công việc của
mùa xuân: đan nên những chiếc nón tình nghĩa gửi tặng bộ đội, dân công:
“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
10


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

Hai chữ “chuốt từng” vừa khắc hoạ vẻ đẹp cần mẫn, cẩn trọng, tài hoa của người Việt
Bắc, lại vừa làm cho hành động “đan nón” có tinh thần chủ động chứ không vô cảm và bị
động. Dường như bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu nỗi niềm của người Việt Bắc dành cho
người kháng chiến đều được kết giữ trong từng sợi giang mà kết thành vành nón.

* Mùa hè của Việt Bắc trong nỗi nhớ của người đi tràn đầy âm thanh và màu sắc:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng”

Tiếng ve là dấu hiệu của mùa hạ, hình ảnh rừng phách vàng là đặc trưng của mùa
hè Việt Bắc. Trên thực tế thì đây chỉ là hai hiện tượng thiên nhiên cùng xuất hiện vào thời
điểm mùa hè chứ hoàn toàn không có mối quan hệ gì với nhau. Thế nhưng, qua cách cảm
nhận và thể hiện của Tố Hữu thì giữa chúng dường như có một mối tương quan kì diệu:
tưởng như sau sự giục giã của tiếng ve, có một sự náo nức kì lạ của thiên nhiên, rồi cả một
dòng thác vàng đổ ào từ trời cao xuống rừng phách khiến khu rừng phút chốc được khoác
tấm áo vàng lộng lẫy; cũng có thể hiểu chính vì sắc vàng kiêu sa, rực rỡ của rừng phách
mà bầy ve rừng không thể cầm lòng được, phải náo nức cất tiếng gọi hè về. Cảnh vật thiên
nhiên như có linh hồn và sự giao cảm.

Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm
cần mẫn đi hái búp măng rừng, cung cấp cho bộ đội kháng chiến:
“Nhớ cô em gái hái măng một mình”
“Cô em gái” là cách gọi thân thương, trìu mến trong quan hệ gia đình. Cách gọi này
cho thấy giữa người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc đã được gắn kết với nhau bởi tình
cảm thiêng liêng, bền chặt như những người thân ruột thịt. Động tác “hái măng một mình”
gợi dáng vẻ cắm cúi, thầm lặng. Thông thường thì cái dáng vẻ ấy sẽ gợi lên cảm giác cô
đơn, lẻ loi, hiu hắt:
“Cô hái mơ ơi! Cô gái ơi!
Chẳng trả lời tôi lấy một lời
Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt, lá mơ rơi”
(Nguyễn Bính)
Thế nhưng câu thơ của Tố Hữu lại không mang đến cảm giác như vậy. Cô gái đi hái
măng một mình nhưng vẫn không lẻ loi bởi cô gái ấy đang lao động giữa khúc nhạc rừng
rừng rộn rã, hái măng để góp phần nuôi quân phục vụ kháng chiến. Cô gái là một trong vô
số những con người lao động, cống hiến trong thầm lặng, không cần ai phải biết đến hay

ngợi ca mà nhà Nguyễn Khoa Điềm đã nói đến trong thơ của ông:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
(Nguyễn Khoa Điềm)
* Hai câu cuối là hình ảnh Việt Bắc khi mùa thu tới:

Thông thường các bộ tranh tứ bình bắt đầu là bức tranh mùa xuân và kết lại bằng
bức tranh mùa đông. Nhưng trong bộ tranh tứ bình bằng thơ ca của mình, Tố Hữu lại mở
đầu bằng cảnh mùa đông và kết lại bằng một bức họa phẩm mùa thu, bởi mùa thu là thời
điểm kết thúc cuộc kháng chiến gian nan, oanh liệt, thời điểm của cuộc chia li giữa những
người kháng chiến với Việt Bắc. Đó là mùa của hoà bình:
“Rừng thu trăng rọi hoà bình”
“Trăng rọi hoà bình” là ánh trăng chiếu sáng không khí thanh bình nơi chiến khu
kháng chiến. Những ai đã từng trải qua những tháng ngày mưa bom bão đạn, “khoét núi
ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt… máu trộn bùn non” thì mới hiểu hết sự xúc động của lòng
người trong những đêm trăng hoà bình đó. Hình ảnh thơ gợi nghĩ đến một câu thơ của Hồ
Chí Minh cũng viết về trăng rừng Việt Bắc:
11


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
(Cảnh khuya)
Cái hay của những câu thơ trên là ở chỗ tả ánh trăng giữa rừng già bao la mà hoàn

toàn không gây cảm giác vắng lặng, lạnh lẽo, trái lại vẫn gợi lên không khí yên bình,
thanh khiết.

Mùa thu càng ngọt ngào hơn bởi có tiếng hát của con người:
“Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Nếu ở những bức tranh mùa đông, mùa xuân, mùa hạ, người ra đi hướng nỗi nhớ tới
những người lao động cụ thể: người phát nương làm rẫy, người đan nón, người hái
măng… thì ở bức tranh cuối cùng của bộ tứ bình Việt Bắc, nỗi nhớ hướng tới “ai”. “Ai” là
một đại từ phiếm chỉ, nó không chỉ đối tượng cụ thể nào mà là tất cả những người dân
Việt Bắc nghèo khổ, trung hậu, nghĩa tình. Dường như, giờ phút chia tay càng tới gần thì
nỗi nhớ càng trở nên sâu đậm hơn.
Miêu tả tiếng hát gợi ân tình của người ở lại, nhắc nhở sự thuỷ chung của người ra đi
trên nền ánh trăng hoà bình có lẽ là dụng ý nghệ thuật sâu sắc của nhà thơ. Thông qua 2
câu kết đoạn tứ bình này, người đi như thầm nhắn gửi: những đổi thay trong cuộc sống
hoà bình sẽ không bao giờ có thể làm người đi thay lòng đổi dạ, người về xuôi sẽ mãi thuỷ
chung, không bao giờ quên ân tình của người Việt Bắc.
 Tóm lại, đây là một đoạn thơ vừa sâu sắc về nội dung, vừa độc đáo về nghệ thuật.
Nó xứng đáng là đoạn thơ hay nhất của bài “Việt Bắc”. Đoạn thơ cũng cho ta thấy rõ
phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình, sâu lắng, tha thiết, ân tình mang đậm tính dân tộc.
Những câu thơ lục bát đậm đà âm hưởng ca dao nhịp nhàng, uyển chuyển cứ tuôn trào và
dạt dào cảm xúc qua cách xưng hô “mình” và “ta”, một cách xưng hô truyền thống thắm
thiết nghĩa tình. Nhạc điệu dịu dàng, trầm bổng khiến cho cả doạn thơ mang âm hưởng
bâng khuâng, êm ái như một khúc hát ru kỉ niệm. Đặc biệt từ “nhớ” được láy lại nhiều lần,
mỗi lần một khác và sắc độ tăng dần lên làm cụ thể hơn tấm lòng của người ra đi đối với
cảnh và người Việt Bắc.
d) Từ câu 53 – câu 62: Nhớ thiên nhiên Việt Bắc đã cùng con người chiến đấu và
chiến thắng kẻ thù
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu thơ gợi lên cảnh tao loạn:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
“giặc đến” là thời điểm nguy kịch, “giặc lùng” sục sạo khắp nơi là tình thế nguy biến dễ

dẫn đến cảnh tan tác, loạn lạc:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất tổ đàn chim dáo dác bay
(Chạy giặc – Nguyễn Đình Chiểu)
Thế nhưng ở Việt Bắc, ta không thấy cảnh loạn lạc ấy bởi con người không chỉ đoàn
kết với nhau mà còn có sự chung sức của cả thiên nhiên núi rừng trong cuộc chiến chống
ngoại xâm:
Rừng cây núi đã ta cùng đánh Tây
Ở đoạn thơ này, đại từ “ta” không mang ý nghĩa chỉ người đi hay kẻ ở như trong những
đoạn thơ trước nữa. Nó mang ý nghĩa chỉ “chúng ta” – bao hàm cả người dân Việt Bắc và
bộ đội, cán bộ kháng chiến, thậm chí bao hàm cả “rừng cây núi đá”. Núi rừng đã vào cuộc
chiến đấu:
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
12


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Chỉ trong 5 câu thơ mà “núi” được lặp lại 2 lần, “rừng” được lặp lại 3 lần, kết hợp với các
động từ ‘giăng’, “vây” đã gợi lên sự trùng điệp của địa hình núi rừng Việt Bắc. Tất cả lại
được bao phủ trong “Mênh mông bốn mặt sương mù” càng đem đến cảm giác về chốn
thiên la địa võng của chiến trường Việt Bắc. Nghệ thuật nhân hoá khiến cho rừng cây núi
đá không còn là thứ thiên nhiên vô tri vô giác, không còn là thứ tĩnh tại bất biến ngàn đời

nữa mà chúng như cũng có cảm xúc, cũng vận động chuyển mình trong cuộc chiến đấu
chung: núi rừng che chở cho bộ đội và “đánh”, “giăng”, “vây” bắt quân thù. “Đất trời” và
“ta” – thiên nhiên và con người cùng chung sức một lòng đánh giặc, khiên mảnh đất quê
hương thành đất chết của kẻ thù như Nguyễn Đình Thi đã từng viết:
“Những làng xóm đã mọc lên luỹ thép
Những cánh đồng thành bể dầu sôi
Quân giặc kinh hoàng đi trên đất chết
Mỗi bước đi lạnh toát mồ hôi”
Từ đó mà chúng ta có những chiến thắng đầu tiên gắn liền với các địa danh làm náo nức
lòng người:
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, Đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhờ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
Sau câu hỏi gợi nhớ “Ai về ai có nhớ không?” là lời khẳng định quen thuộc: “Ta về, ta
nhớ…”. Rồi điệp từ “nhớ” gắn liền với hàng loạt các địa danh được lặp lại liên tiếp trong
những dòng thơ sau cho thấy nỗi nhớ đã hoà quyện với niềm phấn khích của chiến thắng
đang ào ạt trào dâng trong dòng hoài niệm của người đi. Mỗi địa danh nhắc nhớ một trận
đánh lớn. Đã có biết bao máu đổ xương rơi, biết bao anh hùng ngã xuống mới có thể đưa
tên núi, tên sông, tên đèo, tên phố nơi Việt Bắc vào lịch sử. Nhắc lại những địa danh,
những chiến thắng ấy trong một niềm hào sảng cũng chính là biểu hiện của sự tri ân của
người ra đi đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc đã hợp sức, giúp đỡ trong những
năm tháng kháng chiến gian lao mà anh dũng không thể nào quên.
e) Từ câu 63 – câu 74: Nhớ khung cảnh Việt Bắc ra trận
* Trước hết là ấn tượng chung về sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
“Những” – một từ chỉ số nhiều không xác định, cùng với đại từ “của ta” vang lên
dõng dạc, đầy từ hào. Trăm ngả đường hướng về Việt Bắc, trăm nẻo đường từ Việt Bắc tỏa
đi muôn nơi đều là “của ta”. Hai tiếng “của ta” giản dị mà vô cùng thiêng liêng. Chúng thể

hiện rõ ý thức làm chủ đất nước cũng như niềm tự hào về sự bất khả xâm phạm của vùng
căn cứ. Cảm hứng này đã nhiều lần xuất hiện trong thơ ca cách mạng, như:
Mây của ta, trời thắm của ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
(Ta đi tới – Tố Hữu)
Hoặc câu:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù xa
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Trong dòng hoài niệm của người ra đi, những con đường ấy đẹp vô cùng, bởi chúng
là những con đường kháng chiến:
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
13


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

“Đêm đêm” nghĩa là đêm nối tiếp đêm, hết đêm này đến đêm khác. Hồi kháng chiến
chống Pháp, máy bay giặc chủ yếu hoạt động ban ngày nên ta phải hành quân đêm. Trên
khắp các nẻo đường Việt Bắc, đêm nối đêm từng đoàn quân cứ “rầm rập” tiến ra trận.
“Rầm rập” là một từ láy tượng thanh rất gợi cảm. Nó không chỉ diễn tả được âm thanh
nhanh, mạnh, dồn dập của tiếng bước chân mà còn thể hiện được cái khí thể hăng hái và
sức mạnh áp đảo của một tập thể người đông đảo, có đội ngũ chỉnh tề. Nó gợi liên tưởng
đến một cuộc duyệt binh, diễu binh hoành tráng.
Sự so sánh “như là đất rung” mang đậm màu sắc thần thoại. Đoàn quân ta như mang

sức mạnh làm rung chuyển cả đất trời. Không khí ấy gợi nhớ tới hào khí Đông A ngút trời
thuở nào:
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu
(Ba quân sức mạnh như hổ báo, khí thế lấn át cả sao Ngưu)
(Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão)
* Sức mạnh ấy được tạo nên bởi sự hợp sức của cả dân tộc. Trước hết là của đoàn quân
vệ quốc:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Các từ láy “điệp điệp, trùng trùng” thật giàu ý nghĩa diễn tả, vừa cực tả khí thế, vừa
có giá trị gợi hình. Nó gợi lên hình ảnh những đoàn quân ra trận nối dài vô tận và hùng vĩ
như những dãy núi trùng điệp. Sau này, trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, Phạm Tiến
Duật cũng đã miêu tả cảnh những đoàn quân ra trận bằng những hình ảnh thơ tương tự:
Từ nơi em gửi tới nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Như vậy, một lần nữa, sức mạnh, khí thế của đoàn quân ra trận lại được nâng lên
ngang tầm với sức mạnh của thiên nhiên sông núi.
Trong hồi ức của người đi, không chỉ lưu giữ những ấn tượng về sức mạnh hoành
tráng, đông đảo của đoàn quân ra trận mà còn lưu giữ những hình ảnh khó quên về người
chiến sĩ đi giữa hàng quân trên những con đường Việt Bắc:
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan
Ánh sao nơi đầu súng làm bạn cùng chiếc mũ nan của người chiến sĩ. Một hình ảnh
lung linh được đặt cạnh một hình ảnh đơn sơ, giản dị. Câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực,
vừa mang ý nghĩa khái quát tượng trưng sâu xa. Trước hết, nó diễn tả hình ảnh người
chiến sĩ vai bồng súng hành quân trong đêm, đầu súng lấp lánh ánh sao trời. Nó gợi liên
tưởng đến một hình ảnh thơ rất đẹp trong thơ Chính Hữu: “Đầu súng trăng treo” (Đồng
chí). Nhưng hình ảnh “ánh sao đầu súng” còn là biểu tượng cho lí tưởng chiến đấu của
người lính. Các anh cầm súng, cầm vũ khí chiến đấu là theo sự soi đường chỉ lối của “ánh
sao” – lí tưởng cộng sản, vì hoà bình, tự do cho dân tộc:
Anh đi bộ đội sao trên mũ

Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
(Núi đôi – Vũ Cao)
Hình ảnh tươi sáng ấy kết hợp với hình ảnh chiếc mũ nan giản dị, trang bị còn thiếu
thốn của anh bộ đội tạo cho anh một vẻ đẹp bình dị mà cao cả, bình thường mà vĩ đại.
* Tiếp theo những binh đoàn bộ đội là dân công tiếp tế lương thực, đạn dược. Cũng như
những người chiến sĩ rầm rập lên đường, những nam nữ dân công cũng vào trận đầy khí
thế và sức mạnh:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”
Câu thơ “Dân công đỏ đuốc từng đoàn” sử dụng phép đảo ngữ. Cấu trúc đảo ấy tạo
ấn tượng về sự trùng điệp của những đoàn dân công. Hình ảnh phóng đại “Bước chân nát
đá” vừa gợi lên được những gánh hàng nặng, vừa nói lên được bước chân đầy sức mạnh
tiến công. Nhớ về ngày xưa, cha ông ta đã mơ ước đến cháy bỏng:
14


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

“Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đã mềm”
thì giờ đây, niềm mơ ước ấy đã trở thành hiện thực kì diệu ở chiến trường Việt Bắc. Hình
ảnh thơ “đỏ đuốc từng đàn” và “muôn tàn lửa bay” là những hình ảnh rất đẹp. Đoàn dân
công đi dưới ánh đuốc có “muôn tàn lửa bay”. Đó là lửa của bó đuốc đang bay, hay có cả
ánh lửa từ trái tim của anh chị dân công hoả tuyến ? Ở hai câu thơ này, tác giả sử dụng
nhiều hình ảnh giàu màu sắc tạo hình, vừa chân thực vừa bay bổng. Đoàn dân công đi vào
chiến dịch mà như thể đi trong hội hoa đăng. Thật đẹp biết bao, mà cũng tự hào biết bao
về khí thế và niềm tin ra trận của quân dân ta.

* Trong dòng thác ra trận ấy còn có những đoàn xe cơ giới :
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Hai câu thơ miêu tả đoàn xe chở đạn dược, vũ khí và cao xạ pháo ra chiến trường, xe
nối đuôi nhau, đèn pha bật sáng trưng như ánh sáng ban ngày, phá tan lớp sương dày, xua đi
màn đêm tăm tối. Chỉ bằng hình ảnh ấy, Tố Hữu đã diễn tả được sự trưởng thành vượt bậc
của quân đội ta. Mới ngày nào ta còn phải mai phục nơi rừng núi “thăm thẳm sương dày”
hàng ngàn đêm tăm tối gian khổ, vậy mà giờ đây, ta đã có cả những đoàn xe cơ giới mang
sức mạnh quật khởi. Hình ảnh “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” còn là ẩn dụ cho đêm
trường nô lệ của dân tộc. Sự tương phản giữa quá khứ “thăm thẳm sương dày” với ánh sáng
của “ngày mai lên” đã làm nổi bật giá trị của những đêm dài kháng chiến và thể hiện niềm
tin tưởng mãnh liệt vào tương lai huy hoàng, sáng chói của dân tộc.
* Khúc hùng ca Việt Bắc ra trận được khép lại bằng tiếng reo ca khi toàn thắng về ta :
Tin vui thắng trận trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Điệp từ “vui” được lặp đi lặp lại nhiều lần cùng với nhịp thơ ngắn, nhanh, mạnh tạo
nên âm hưởng hào sảng, hùng tráng. Những cụm từ : vui từ, vui về, vui lên thể hiện sự lan
toả của chiến thắng, của niềm vui đến khắp mọi miền Tổ quốc. Ở đây, việc liệt kê các địa
danh chiến thắng cũng chứa đựng những giá trị nghệ thuật − tư tưởng của tác giả. Đó là sự
sắp xếp nhằm làm thể hiện ý nghĩa: tin vui như bay đi với một tốc độ “siêu tốc”. Vừa mới
là Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, ngay sau đó đã là Đồng Tháp (Nam Bộ), An Khê (Tây
Nguyên), rồi lại đã là Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
 Nếu ở đoạn thơ đầu nói về nỗi nhớ, tiết tấu của câu thơ dìu dặt, ngân nga như
những khúc hát ru kỉ niệm thì ở đoạn này cảm hứng thơ chuyển sang mạnh mẽ, mang màu
sắc anh hùng ca, tác giả đã phá vỡ tính cân xứng để tạo ra nhịp thơ mạnh, dồn dập như âm
hưởng của những bước hành quân vũ bão.
f) Từ câu 75 – câu 90: Hoài niệm về một cuộc họp của Chính phủ trong hang núi và
khẳng định vai trò của Việt Bắc

* Hoài niệm giản dị mà trang trọng về cuộc họp của Chính phủ trong hang núi:
Ai về ai có nhớ không
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương Chính phủ luận bàn việc công
Không gian của cuộc họp là hang núi chật hẹp, vậy mà vẫn lồng lộng gió núi, vẫn
rực rỡ cờ đỏ sao vàng, vẫn chan hoà ánh nắng… Cảnh tượng mang vẻ đẹp nghiêm trang
và phóng khoáng trong ngọn gió của thời đại mới. Đó là nơi mà những quyết định vừa lớn
lao, thiêng liêng, vừa cụ thể, thiết thực của cách mạng đã được đưa ra:
Điều quân chiến dịch Thu – đông
15


Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019

Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…
* Kết thúc đoạn thơ lại là hình ảnh Việt Bắc, Thủ đô kháng chiến, nơi có Đảng và Bác
Hồ, nơi quy tụ niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt
là những nơi còn “u ám quân thù”.
 Cũng ở đoạn thơ cuối cùng này, vị trí của Việt Bắc đã được người đi khẳng định rõ ràng.
Việt Bắc là “quê hương cách mạng”.
 Kết thúc đoạn thơ vẫn là nỗi nhớ ngân nga trong lòng kẻ ở - người đi:
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.
III. TỔNG KẾT
1. Nội dung:

 Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc; tái hiện lại cuộc kháng chiến gian khổ mà
hào hùng của dân tộc.
 Khẳng định ân tình cách mạng thủy chung son sắt giữa đồng bào Việt Bắc với cán bộ
miền xuôi.
 Nuôi dưỡng tình yêu quê hương đất nước cho các thế hệ sau.
2. Nghệ thuật:
 Kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chính trị.
 Việt Bắc đậm đà tính dân tộc:
+ Thể thơ lục bát là thể thơ quen thuộc của dân tộc, đã được sử dụng thành công.
+ Kết cấu đối đáp thường được thấy trong ca dao, dân ca truyền thống, được dùng
một cách sáng tạo để diễn tả nội dung, tình cảm phong phú về quê hương, con
người, Tổ quốc và Cách mạng.
+ Cặp đại từ nhân xưng “mình – ta” với sự biến hoá linh hoạt và những sắc thái ngữ
nghĩa biểu cảm phong phú vốn có của nó được khai thác rất hiệu quả.
+ Những biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng… quen thuộc của
quần chúng được dùng nhuần nhuyễn.
MỘT SỐ DẠNG ĐỀ CƠ BẢN
Đề 1: Phân tích/ Cảm nhận về các đoạn thơ.
Đề 2: Nhận xét về trích đoạn Việt Bắc (Tố Hữu), có ý kiến cho rằng: “Đoạn trích đậm đà
tính dân tộc, không chỉ trong nội dung mà còn ở hình thức nghệ thuật”. Anh/chị hãy làm
sáng tỏ ý kiến trên.
Đề 3: Tìm hiểu phong vị dân gian và màu sắc cổ điển trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
Đề 4: “Việt Bắc” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu. Anh (chị)
hãy làm sáng tỏ điều đó.

Trọn bộ tài liệu kiến thức cơ bản các tác phẩm Ngữ Văn
12 phục vụ ôn thi THPT Quốc gia, biên soạn công phu.
Ai có nhu cầu, vui lòng liên hệ số điện thoại
0978075007 hoặc email: vinaphone89@gmail. com


16



×