Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Một số đặc điểm bệnh care ở chó tại phòng khám thú y Funpet – Hà Nội và thử nghiệm phác đồ điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 45 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Viết tắt

Tên đầy đủ

1

CDV

Canine Distemper Virus

2

Cs

Cộng sự

3

ELISA

Enzyme-linked immunosorbent assay

4

SL

Số lượng


5

Hb

Hemoglobin

6

Nxb

Nhà xuất bản

1


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG
STT
1
2
3
4
5
6
7
8

Tên bảng
Trang

Bảng 4.1. Kết quả theo dõi và chẩn đoán bệnh của chó tới khám
25
và điều trị tại phòng khám Funpet
Bảng 4.2. Tỷ lệ chó mắc bệnh Care theo giống
27
Bảng 4.3. Tỉ lệ chó mắc bệnh Care theo lứa tuổi
28
Bảng 4.4. Biểu hiện lâm sàng của chó mắc bệnh Care
30
Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu hồng cầu ở chó mắc bệnh Care
Bảng 4.5. Kết quả khảo sát thân nhiệt, tần số hô hấp, tần số tim
31
Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu bạch cầu của chó mắc bệnh Care
Bảng 4.6. Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu hồng cầu ở chó mắc
33
bệnh Care
Bảng 4.7. Kết quả khảo sát một số chỉ tiêu bạch cầu của chó mắc
35
bệnh Care
36
Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh Care

2


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT
1
2


Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ 4.1: Tỷ lệ bệnh chó mắc bệnh tới khám và điều trị tại
26
phòng khém Funpet
Biểu đồ 4.2 Tỉ lệ mắc bệnh care theo lứa tuổi
39

3


DANH MỤC HÌNH

STT
1
2
3
4
5
6
7

Tên hình
Hình 1: Chó becgie Đức
Hình 2: Chó Malinois
Hình 3 : Chó Fox huơu
Hình 4 : Chó Fox sóc
Hình 5 : Chó Poodle
Hình 6 : Chó Bắc Kinh
Hình 7: Test thử CDV (Canine Distemper Virus – Ag Test Kit)


4

Trang
7
7
7
7
8
8
22


CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Ở nước ta ngày nay do nền kinh tế phát triển đời sống nhân dân ngày
được cải thiện thì việc nuôi chó đã dần trở nên phổ biến. Hiện nay nuôi chó
trong nước không chỉ dừng lại ở những giống chó thuần địa phương mà còn có
thêm nhiều giống chó nhập ngoại, kể từ khi nước ta mở cửa thì số lượng chó
ngoại cũng tăng lên mạnh, qua đó đã đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của
những người nuôi. Vì vậy theo thời gian chó ở nước ta đang tăng lên về chủng
loại và số lượng đặc biệt là những loài chó quý.
Tuy nhiên đi cùng với sự phát triển của chăn nuôi chó là sự phát triển về
bệnh trên chó, bệnh trên chó xảy ra ngày càng nhiều và phức tạp hơn, bao gồm
rất nhiều loại bệnh khác nhau: bệnh truyền nhiễm như bệnh dại, bệnh care, bệnh
tiêu chảy do Parvovirus, bệnh cúm chó,… Một số bệnh kí sinh trùng như sán lá,
sán dây, giun đũa,… Một số bệnh nội khoa và sản khoa... Trong đó nguy hiểm
nhất là bệnh truyền nhiễm và đặc biệt là bệnh Care hay còn gọi là bệnh sài sốt ở
chó. Bệnh Care là một trong những bệnh nguy hiểm và phổ biến nhất trên đàn

chó nội cũng như chó nhập ngoại. Nghiên cứu về bệnh Care của chó được các
nhà thú y trên thế giới đặc biệt quan tâm.
Bệnh Care xảy ra ở khắp nơi trên thế giới, không những ở chó nuôi mà
còn ở nhiều quần thể động vật hoang dã. Người ta cho rằng những chó mắc bệnh
Care mà không có biểu hiện triệu chứng rõ ràng là mối đe dọa nghiêm trọng cho
việc bảo tồn nhiều loài thú ăn thịt và thú có túi. Ở Việt Nam, bệnh Care được
phát hiện từ năm 1920. Đến nay, bệnh xảy ra ở hầu hết các tỉnh và gây thiệt hại
lớn do tỷ lệ tử vong của bệnh rất cao (Lê Thị Tài, 2006) [5].
Bệnh lây lan mạnh, có triệu chứng lâm sàng dễ lẫn với các bệnh khác trên
chó. Vì vậy vấn đề cấp thiết là phải tìm ra biện pháp chẩn đoán nhanh, chính
xác, để từ đó có những biện pháp phòng và trị bệnh Care một cách có hiệu quả.

5


Từ thực tế nói trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số đặc
điểm bệnh care ở chó tại phòng khám thú y Funpet – Hà Nội và thử nghiệm
phác đồ điều trị”.
1.2. Mục đích đề tài
- Biết được tình hình nhiễm care trên chó đến khám và điều trị tại phòng khám
thú y Funpet – Hà Nội
- Làm rõ một số đặc điểm bệnh
- Thử nghiệm phác đồ điều trị bệnh
1.3. Ý nghĩa đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung thêm các đặc điểm của bệnh Care
từ những nghiên cứu trước đó.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đưa ra được các triệu chứng điển hình của bệnh Care, phương pháp chẩn
đoán nhanh, kết quả điều trị theo phác đồ tại phòng khám.


6


CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Một số tư liệu về loài chó
2.1.1. Một số giống chó nội ở Việt Nam
Ở nước ta một số giống chó nội được người dân thuần hóa và nuôi dưỡng
cách đây khoảng 3-4 ngàn năm TCN, và có nguồn gốc từ chó sói lớn. Do nước
ta có tập quán nuôi chó thả rông nên xảy ra sự phối hợp một cách tự nhiên giữa
các giống kết quả là tạo ra thế hệ con lai có ngoại hình rất đa dạng từ tầm vóc
đến màu lông.


Chó vàng

Chó có tầm vóc trung bình, cao 50 đến 55cm, nặng 12-18 kg, đây là giống
chó săn được nuôi phổ biến ở nước ta để giữ nhà, săn thú và làm thực phẩm.
Chó đực thành thục sinh dục khi 16-18 tháng tuổi, chó cái khi 12-14 tháng tuổi.


Chó Lào

Thường gặp ở vùng trung du, vùng núi. Lông xồm màu hung có 2 vệt
trắng trên mí mắt. Chó có tầm vóc trung bình cao 60-65 cm, nặng 18-25 kg, chó
đực thành thục khi 16-18 tháng tuổi, chó cái thành thục khi đủ 12-15 tháng tuổi.


Chó H’Mông cộc


Là giống chó của người H’Mông, đây là giống chó gắn liền với lịch sử
phát triển của dân tộc này. Chó thường được nuôi để giữ nhà và săn thú. Chó cao
55-60 cm, nặng 18-25 kg, chó có màu lông đen và đuôi cộc từ khi mới sinh ra.
Chó đực thành thục khi 14-16 tháng tuổi, chó cái khi 10-12 tháng tuổi.


Chó Phú Quốc

Sinh sống phổ biến trên đảo Phú Quốc. Hình dạng tổng thể bề ngoài chó
Phú Quốc hơi giống chó săn,đầu khá dài, sọ hơi gồ và da có nhiều nếp nhăn,
mõm khá lớn chiếm phân nửa tổng thể của đầu. Mắt màu hung, mũi đen lỗ mũi
hơi rộng, quai hàm khỏe và dài, môi đen hàm răng phát triển và cắn rất khít. Tai
thẳng hình dáng giống như vỏ ốc lật ngược, dựng đứng nhưng không nhọn, mặt
trong tai ít lông. Cổ dài và mềm mại rộng dần về phía vai, bụng rất thon, đùi
khỏe, cẳng chân dài và khoeo khá thẳng. Đuôi rất linh hoạt cong tròn về phía
7


lưng, lông rất ngắn và mọc rậm rạp trên khắp cơ thể, đặc biệt ở giữa lưng từ
vùng thắt lưng đến vai lông mọc ngược thành một dải dài hướng về phía đầu,
hàng lông này dày hơn, cứng hơn và dài hơn so với phàn lông còn lại trên cơ thể
tạo thành xoáy ở lưng. Đây là đặc điểm đặc trưng của chó Phú Quốc.
Chó Phú Quốc có kích thước vừa phải cao khoảng 60-65 cm, nặng 15-25
kg. Chó Phú Quốc rất thông minh và nhanh nhẹn, chúng rất cảnh giác, bơi lội và
leo trèo giỏi. Chính vì vậy chó Phú Quốc được coi là giống chó quý của Việt
Nam. Theo Cao Minh Kim Quy thì chó Phú Quốc có 3 loại là chó Đồng Bà, Bắc
Đão và chó Ba Chạy. (Nguyễn Văn Thanh, Vũ Như Quán, Nguyễn Hoài Nam,
2012) [8].
2.1.2. Một số giống chó nhập nội được nuôi phổ biến

a.

Giống Berger Đức

Là giống chó có nguồn gốc từ Đức được xác định gồm berger lông ngắn và
lông dài. Theo David Alderton thì chó berger Đức khỏe mạnh, thông minh,
nhanh nhẹn và có cơ bắp phát triển. Chó Berger Đức có tính ổn định rất cao về
trí tuệ và sự hài hòa giữa phần trước và phần sau của cơ thể. Hiện nay giống chó
này được phân bố rộng rãi khắp nơi trên thế giới và có nhiều mầu khác nhau
như: Đen nâu, đen vàng, đen xám,... Chó có thân hình vừa phải, con đực cao
61-66 cm, nặng 37-45kg, con cái 56-62 cm, nặng 25-32 kg.
Giống chó này rất thông minh, linh hoạt, dũng cảm, điềm tĩnh. Chúng được
huấn luyện và sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: Tìm kiếm, cứu hộ,
trinh sát, bảo vệ…
b.

Giống Rottweiler

Hay còn có tên là Rottweiler Metzgerhund (Butcher Dog). Giống chó này
thường có bộ lông màu đen với những đốm vàng trên má, trên mắt, bên dưới cổ,
ngực trước, chân và gần ngón chân. Đầu khỏe rộng, và lồi ở mức vừa phải, mũi
rộng, thẳng, hàm khỏe, môi sát, mắt hình quả hạnh đào, tai rũ xuống,… Thân
hình rắn chắc, cổ chắc, ngực rộng, hệ cơ bắp phát triển rất tốt.
Chó có thân hình to lớn và mạnh mẽ. Con đực cao 61-69 cm, nặng 43-59 kg.
Con cái cao 56-63 cm, nặng 38-52 kg.
8


c.


Giống Labrado

Là giống chó được nuôi phổ biến ở Mỹ và Anh, tổ tiên của chúng là
Newfuondland ở Canada. Chúng có thân hình khá dài, khỏe, rắn chắc và bộ lông
cứng, thẳng mịn không gợn sóng, đầu rộng, mũi dày và hàm sắc bén, mắt màu
hạt dẻ hoặc màu nâu đỏ. Chúng phổ biến với màu đen, vàng và socola. Con đực
cao 56-61cm, nặng 27-34 kg. Con cái cao 53-58 cm, nặng 25-34 kg. Hiện nay
chúng được nuôi với nhiều mục đích khác nhau như đi săn, canh gác, tìm kiếm
đồ vật, phát hiện ma túy, dắt người mù, cứu nạn,…
d.

Giống Doberman

Có nguồn gốc từ Đức và được phát hiện năm 1860. Là giống chó rất mạnh
mẽ, có thân hình cơ bắp nhưng thanh nhã. Chúng có bộ ngực cân đối, bộ răng
khỏe và chắc, phần thân sau gọn gàng, lông ngắn, dày, cứng và bó sát lớp da.
Thường gặp nhất là màu đen, đen vàng.
Doberman được yêu thích rộng rãi bởi trí thông minh tuyệt vời của chúng
trong nhiều công việc khác nhau. Chúng nổi tiếng nhờ sức mạnh, can đảm trong
các công việc canh gác và bảo vệ. Trong các cuộc thi chó Doberman được công
nhận là con chó tuân lệnh bậc nhất, có khả năng tuyệt vời như đánh hơi đồ vật,
đồ buôn lậu và ma túy. Là giống chó mạnh mẽ có thân hình cơ bắp nhưng lại rất
thanh nhã. Chúng có bộ ngực cân đối, phần sau gọn gàng, lông ngắn dày và
cứng bó sát vào lớp da, 4 chân thẳng dài. Chúng có dáng đi uyển chuyển và
vững chắc. Chiều cao con đực từ 68 – 72 cm, nặng 40 - 45 kg, con cái từ 63 - 68
cm, nặng 32 - 35 kg. Giống chó này có thể nuôi trong điều kiện căn hộ (Nguyễn
Văn Thanh và cs, 2012) [8].
e.

Giống chó Pug


Có nguồn gốc là giống chó cảnh ở vùng viễn đông. Chó có tầm vóc nhỏ, cao
30-33, dài 50-55 cm, nặng 5-8 kg.
Chó có bộ lông mịn mầu nâu nhạt hoặc mầu vàng sẫm, khoang mắt chia thùy,
tai cụp, ngực sâu, đuôi ngắn và cuộn.
f.

Giống chó Chihuahua

9


Chihuahua được nuôi tại cung đình và quý tộc xưa ở Trung Quốc từ lâu đời.
Ngày nay chúng được nuôi làm cảnh ở nhiều nước trên thế giới, chó còn có tên
gọi là Fok hươu vì có kích thước nhỏ nhưng hình dáng giống con hươu.
Chó có tầm vóc khá nhỏ nhắn. Cao 16-20 cm dài 30 cm, nặng 2.1-2.7 kg là
một trong những giống chó nhỏ nhất thế giới. Chó có bộ lông vàng sẫm hoặc
nâu nhạt, tai mõm thường sẫm hơn. Về ngoại hình, Chihuahua có thân hình
thanh mảnh, mõm dài và tai dựng đứng, ngực nở, bụng thon nhỏ, đuôi ngắn.
Chó đực có thể phối giống khi 14 tháng tuổi, chó cái có thể phối giống khi 9-10
tháng tuổi. (Đỗ Hiệp,1994) [2]; (Nguyễn Văn Thanh, Vũ Như Quán, Nguyễn
Hoài Nam, 2012) [8].
g.

Giống chó Fox

Là loại chó nhỏ gọn. Con đực có chiều cao 25-30cm, cân nặng 4-5 kg, con
đực trưởng thành có thể phối giống khi 13-15 tháng tuổi. Con cái cao 25-28 cm,
cân nặng khoảng 3-4 kg, con cái có thể cho sinh sản khi 10-12 tháng tuổi.
Chó Fox có bộ lông bóng mượt, và cơ thể cân đối với các đường nét cân đối.

Hai chân trước thẳng có treo ngón huyền đề, bàn chân nhỏ và mềm mại. Hàm
răng sắc và mõm rất khỏe, mắt hình ô van và có sẫm mầu. (Nguyễn Văn Thanh,
Vũ Như Quán, Nguyễn Hoài Nam, 2012) [8].
h.

Poodle
Được sinh ra ở những vùng đầm lầy hoang dã nước Đức, Pháp. Giống chó

Poodle có 3 kích thước phổ biến: Toy Poodle có chiều cao tối đa khoảng 25 cm
khi đứng, và nặng từ 2 – 5 kg khi trưởng thành. Vì rất nhỏ nhắn xinh xắn
nên Toy hầu như chỉ được nuôi để làm thú cưng. Miniature Poodle có chiều cao
tối đa khoảng 40 cm và nặng tối đa 9kg. Standard Poodle lớn nhất trong họ
Poodle với chiều cao phổ biến khoảng 40cm, cá biệt những con cao nhất có thể
cao tới 50cm và nặng tới 30kg.
Giống chó Poodle nổi tiếng vì sự tinh nghịch, vui vẻ và cực kỳ thông
minh,có khả năng đi bằng 2 chân sau. Xét về việc huấn luyện, Poodle là một học
sinh xuất sắc. Chúng rất biết vâng lời, dễ huấn luyện và nhanh nhẹn.
i. Chó Pekingese (Bắc Kinh)
10


Đây là giống chó cảnh được nuôi từ lâu đời trong các cung đình và quý
tộc Trung Quốc. Nó có nguồn gốc từ Bắc kinh. Ở nước ta, chúng được nhập về
nuôi từ năm 1986 trở lại đây. Chó có tầm vóc nhỏ, thấp lùn, cao 20cm, dài 38
cm, nặng 5,0 - 5,5 kg. Chúng có bộ lông dài xù, lượn sóng, màu hạt dẻ, đôi khi
có màu vàng sẫm hoặc trắng sữa. Chó có hình dạng rất ngộ nghĩnh đầu to, mõm
rộng và rất ngắn, hầu như liền tịt với mũi, mũi rộng chia thùy; tai to có lông dài
phủ xuống hai bên đầu; mắt to đen hoặc nâu sẫm, bốn chân thấp lùn (Nguyễn
Văn Thanh và cs, 2012) [8].
Hình ảnh một số giống chó hay gặp ở Việt Nam


Hình 1: Chó Becgie Đức

Hình 2: Chó Malinois

Hình 3: Chó Fox huơu

Hình 4: Chó Fox sóc

11


Hình 5: Chó Poodle

Hình 6: Chó Bắc Kinh

2.2. Đặc điểm sinh lý của loài chó
2.2.1. Đặc điểm thân nhiệt
Thân nhiệt là giá trị biểu thị cho nhiệt độ của cơ thể. Nhiệt độ cơ thể có
thể thay đổi theo nhiệt độ môi trường ở động vật biến nhiệt hoặc không thay đổi
theo nhiệt độ môi trường ở động vật hằng nhiệt.
Thân nhiệt cơ thể ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng của cơ thể do ảnh
hưởng đến quá trình hoạt động của các ezym trong cơ thể, ảnh hưởng đến quá
trình trao đổi chất, tuần hoàn của cơ thể.
Ở trạng thái sinh lý bình thường thân nhiệt của chó đo ở trực tràng dao
động từ 38,5 đến 39,5ᵒC, thường cao hơn ở chó non và thấp dần ở chó già, do ở
chó non quá trình trao đổi chất diễn ra mạnh hơn làm nhiệt độ cơ thể cao hơn.
(Nguyễn Văn Thanh và cs., 2012) [8].
Thân nhiệt của chó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Tình trạng sức khỏe
của cơ thể, tuổi tác, giới tính, sự vận động, thời gian trong ngày. Thông thường

nhiệt độ cơ thể chó vào buổi sáng thấp hơn buổi chiều, sự chênh lệch này dao
động từ 0,2-0,5ᵒC. Ngoài ra tình trạng bệnh lý cũng ảnh hưởng rất lớn đến nhiệt
độ cơ thể chó, sự thay đổi này phụ thuộc vào mức độ và tính chất của bệnh.
(Nguyễn Như Pho, 1995) [6].

12


2.2.2. Tần số hô hấp
Tần số hô hấp được tính bằng số lần hít vào (hoặc thở ra) / phút. Tần số
hô hấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cường độ trao đổi chất, tuổi tác, tầm vóc,
trạng thái sinh lý và trạng thái bệnh lý…
Ở trạng thái sinh lí bình thường chó có tần số hô hấp 36-37,5 lần/ phút.
(Nguyễn Xuân Tịnh và cs, 1996) [9].
Tần số hô hấp phụ thuộc và nhiều yếu tố khác nhau như môi trường, tuổi
tác:
- Nhiệt độ bên ngoài: Chó thải nhiệt qua đường hô hấp nên khi thời tiết
quá nóng thì chúng phải thở nhanh để thải nhiệt, khi đó nhịp thở của chúng có
thể lên đến 100-160 lần mỗi phút.
- Thời gian trong ngày: Do thời gian trong ngày chịu ảnh hưởng khác nhau
của thời tiết, vì vậy thời gian trong ngày khác nhau thì tần số hô hấp của chó
cũng khác nhau. Vào ban đêm và sáng sớm chó thở chậm hơn so với buổi trưa
và buổi chiều.
- Tuổi tác của chó: Con vật càng lớn tuổi thì tần số hô hấp càng chậm.
Ngoài ra khi con vật mang thai, hoặc khi con vật sợ hãi cũng làm tần số hô
hấp tăng cao. (Nguyễn Phước Trung, 2002) [7].
2.2.3. Tần số tim
Tần số tim là số lần tim co bóp trong 1 phút. Nhịp tim thể hiện cường độ
trao đổi chất của vật nuôi, trạng thái sinh lí và trạng thái bệnh lí của cơ thể.
Ở trạng thái sinh lí bình thường: Các thời kì phát triển khác nhau thì có tần

số tim khác nhau.
-

Chó con là: 200-220 lần mỗi phút.
Chó trưởng thành: 70- 120 lần mỗi phút.
Chó già: 70-80 lần mỗi phút. (Nguyễn Phước Trung, 2002) [7].

2.2.4. Một số đặc điểm sinh lí tiêu hoá
- Tuyến nước bọt: Nước bọt đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiêu
hóa ở chó. Trong 1 ngày đêm một con chó trưởng thành có thể liên tục tiết ra 1,5
lít nước bọt. Tỉ trọng nước bọt của chó là 1,005-1,008, hàm lượng nước 9899%, pH: 7,56.
13


Trong nước bọt có thành phần vô cơ (các muối clorua, photphat;
hidrocacbonat của kali, canxi, natri, magie) và các thành phần hữu cơ(albumin,
globulin,muxin,amilaza, maltaza). Trong nước bọt của chó có lizozym, nó có
tính sát khuẩn rất mạnh, vì vậy sự liếm vết thương ở động vật này có khả năng
làm cho vết thương mau lành.
- Tiêu hóa ở dạ dày: Khối lượng dịch dạ dày ở chó dao động mạnh phụ
thuộc vào loại thức ăn và thành phần, thường dao động 0,3 – 0,9 lit/1 lần tiếp
nhận thức ăn. Dịch dạ dày chó có pH:0.8-1 tỉ trọng là 1,002- 1,006. Gồm những
thành phần hữu cơ như: Muxin, pepsin, kimosin, lipaza. Các chất vô cơ như:
Axit clohidric, các muối clorua, photphat, sulphat của canxi, nattri, kali, magie.
- Tiêu hóa ở ruột: Ruột chó có chiều dài 2,3-7,3 m. Chiều dài của ruột chó
có tương quan với chiều dài của cơ thể là 1/5. Tốc độ vận chuyển thức ăn trong
ruột là 7,7cm/ giờ. Trong ruột có dịch ruột được tiết ra trong giới hạn 100ml/
ngày đêm. Với pH là 8,3, trong dịch ruột có phần vô cơ và hữu cơ. Trong đó
phần vô cơ bao gồm các muối: Clorua, carbonat, hydroccarbonat, phần hữu cơ
bao gồm: Muxin, các men pepsin, amylaza, lipaza (Nguyễn Văn Thanh và cs,

2012) [8].
- Một số tuyến tiêu hóa khác.
Tuyến tụy: Tiết ra dịch tụy với 1-35 ml/ ngày. Trong dịch tụy bao gồm các
thành phần như: Albumin, globulin, muxin, các men (tripsin, maltalaza, lipaza,
…) và một số thành phần vô cơ (các muối carbonat, hydrocarbornnat của kali,
natri, magie).
Dịch mật: Đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiêu hóa. Ở những con
chó lớn mỗi ngày tiết ra 250 ml/1 ngày đêm. Dịch mật có pH : 5,33- 7,08. Trong
dịch mật có một số thành phần chính như: Muối clorua, carbonat, phốt phat,
sulphat của canxi, kali, magie và sắt. (Nguyễn Văn Thanh và cs., 2012) [8]
- Một vài chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu trên chó trưởng thành.

14


Bảng 2.1. Bảng số liệu thể hiện một số chỉ tiêu sinh lý máu của chó khỏe
Chỉ tiêu

Đơn vị tính

Trị số

Hồng cầu

103/mm3

5,5-8,5

Bạch cầu


103/mm3

6-18

Hemoglobulin

g/100ml

12-8

Hematocrite

Ml/100ml

37-55

(Đỗ Đức Việt, Trịnh Thơ Thơ, 1997) [1]
2.3. Bệnh care ở chó
Bệnh Care là bệnh truyền nhiễm lây lan rất mạnh, chủ yếu ở chó non với
các triệu chứng sốt, viêm phổi, viêm ruột, niêm mạc và các nốt sài ở vùng da
mỏng. Cuối thời kỳ bệnh thường có hội chứng thần kinh. Sự kế phát các vi
khuẩn ký sinh sẵn có ở đường tiêu hoá, hô hấp thường làm bệnh trầm trọng
thêm, lúc đó bệnh thể hiện chủ yếu dưới hai dạng viêm phổi và viêm ruột
(Vương Đức Chất và Lê Thị Tài, 2004) [11].
2.3.1. Lịch sử căn bệnh và phân bố địa lí
Bệnh Care hay còn gọi là bệnh sài sốt chó tên khoa học là Canine
Distemper (CD) xuất hiện ở một số nước châu Âu, một số nước châu Á và Nam
Mĩ từ giữa thế kỉ XVIII (Tymothy Y.Woma and Moritz van Vuuren, 2009) [11].
Virus Care ở chó được phát hiện từ thế kỷ XVIII và được tìm thấy ở Peru, thuộc
châu Á. Bệnh phân bố khắp thế giới, trong nhiều năm nguyên nhân của bệnh này

gán cho nhiều loại vi khuẩn. Năm 1905, bác sỹ thú y người Pháp tên là Care
trong quá trình nghiên cứu ông lấy nước mũi của chó bệnh lọc qua lọc vi khuẩn
gây bệnh thực nghiệm cho chó, cũng vẫn gây được bệnh và ông cho rằng
nguyên nhân bệnh là virus. Vì vậy, bệnh này được gọi là bệnh Care (David
T.Smith and Donald S.Martin, 1979) [4].

15


Bệnh care được báo cáo lần đầu tiên ở châu âu năm 1760 (Appel và
Gillespie, 1972) [1]. Các triệu chứng lâm sàng và tiến triển của bệnh đã được
mô tả năm 1809 bởi Edwadjenner (Appel và Gillespie, 1972) (Shufl 1990) [2].
Năm 1905 căn bệnh được phân lập từ nước mũi của chó bị bệnh bởi bác sỹ
Thú y người pháp Henri Care. Ông đem lọc mẫu bệnh phẩm qua màng lọc vi
khuẩn và đem gây bệnh cho chó khỏe mạnh khác thì thấy vẫn gây bệnh được. Vì
thế ông kết luận nguyên nhân của bệnh là do virus. Sau này người ta lấy tên ông
đặt tên cho mầm bệnh và tên bệnh (David và Martin, 1979) [4]. Sau đó vào năm
1923 Putoni đã chế được vacxine vô hoạt từ chất nghiền bệnh phẩm.
Qua thống kê cho thấy bệnh care góp phần vào sự tuyệt chủng của chồn
chân đen. Và là nguyên nhân gây tử vong định kì của chó hoang dã châu phi.
(Assesment, 2005) [3]. Năm 1991 bệnh xảy ra trên quần thể sư tử Serengeti ở
Tanzania, làm giảm 20% số lượng toàn đàn (Timothy và cs, 2009) [11].Đặc biệt
virus Care đã biến đổi có khả năng gây bệnh cho một số động vật biển (Kennedy
và cs 1989) [8].
Ở Việt Nam bệnh được phát hiện năm 1920 bệnh xảy ra ở hầu hết các tỉnh và
cho tỉ lệ tử vong cao (Lê Thị Tài, 2006) [5]. Nguyễn Thị Lan và cộng sự đã
nghiên cứu thành công đặc điểm sinh trưởng của chủng CDV trên tế bào vero có
gắn receptor tương ứng với virus Care, qua đó tác giả cũng chỉ ra tế bào vero
DST là tế bào thích hợp có khả năng phân lập và đánh giá hiệu giá virus. (Lan
NT và cs, 2005) [9]

2.3.2. Đặc điểm căn bệnh
Canine Distemper Virus (CDV) là thành viên của giống Morbillivirus thuộc
họ Paramixoviridea các thành viên khác của giống như virus gây bệnh sởi trên
người,virus gây dịch tả trâu bò (RPV), virus gây bệnh trên động vật nhai lại nhỏ
(PPRV), virus gây bệnh trên động vật có vú dưới nước (Griffin, 2001; Murphy
1999) [6].
Morbillivirus là virus tương đối lớn, với cấu trúc xoắn ốc, chúng có lớp vỏ
lipoprotein (Kennedy và cs, 1989) [8]. Mặc dù có sự khác biệt nhỏ về kháng
nguyên giữa các chủng CDV nhưng nó được chấp nhận chỉ có 1 serotype. Tuy
16


nhiên có sự khác biệt đáng kể về khả năng gây bệnh của các virus được phân lập
và các type ở các khu vực địa lý khác nhau đã được nói tới. Các type của CDV
bao gồm: Asian 1 có ở Nhật Bản và Trung Quốc, Asian 2 chỉ có ở Nhật Bản, Bắc
Cực, động vật hoang dã Châu Âu, USA 1 và 2, CDV cổ điển (Onderstepoort,
Convac, Rockborne và Snyder Hill) (Haas và cs, 1997,1999; Harder và
Osterhaus, 1997; Martella và cs, 2006,2007) [10]; (Yoshida và cs 1998) [7].
Virus Care chỉ có một serotype duy nhất nhưng có nhiều chủng được phân
lập ở nhiều khu vực địa lý khác nhau trên thế giới và có những đặc trưng riêng.
Trên thế giới hiện nay có 5 type lớn khác nhau về vùng địa lý phân lập với
những đặc tính cơ bản bao gồm: Type Châu Âu, Type cổ điển, Type Asia1, Asia
2, USA (Lan NT và cs, 2005) [9].
a. Hình thái và cấu trúc căn bệnh:
-

Hình thái: Virus có hình vòng tròn, hình bán nguyệt do các sợi cuộn

quanh tròn mà thành. Dạng tròn có đường kính 115- 230 nm. Màng cuộn kép có
độ dày 75-85A0 với bề dày mặt phủ các sợi xoắn ốc từ bên trong ra, không gây

ngưng kết hồng cầu. (David T. Swit, Donald S.Martin, 1979) [4].
-

Cấu trúc virus: Trong Nuclecapside là ARN sợi đơn không phân đoạn

gồm gần 1600 Nucleotit mã hóa thành 6 Protein cấu trúc và 1 Protein không cấu
trúc:
Các protein cấu trúc bao gồm:
Nucleocapsit (N): Có khối lượng phân tử là 60-62 Kdal, có vai trò bao
quanh và phòng vệ cho gen của virus. Chúng nhạy cảm với các chất phân giải
protein
Phosphoprotein (P): Có khối lượng phân tử 73-80 Kdal. Đóng vai trò quan
trọng trong quá trình sao chép ARN. Nhạy cảm với những yếu tố phân giải
protein.
Membrane (M) : hay còn gọi là protein màng có trọng lượng phân tử dao
động 34-39 Kdal. Đóng vai trò quan trọng trong sự trưởng thành của virus và
nối Nuclecapsit với protein vỏ bọc.

17


Fusion (F): Có trọng lượng phân tử 59-62 Kdal, là protein kết hợp virus với
thụ thể màng tế bào cảm nhiễm, làm tan màng dẫn đến sự kết hợp nhiều tế bào
cảm nhiễm còn gọi là hiện tượng hợp bào.
Hemagglutinin (H): Là protein ngưng kết hồng cầu hay gọi là yếu tố kết
dính, là Glycoprotein thứ hai của vỏ bọc. Trọng lượng phân tử 76-80 Kdal,
chúng thể hiện tính chuyên biệt của mỗi loài virus. Chúng không hấp phụ hồng
cầu cũng không gây ngưng kết hồng cầu.
Lage protein (L): Có trọng lượng phân tử > 200 Kdal (Trần Thanh Phong,
1996) [5], (David T. Swit, Donald S.Martin, 1979) [4].

b. Sức đề kháng của virus:
Trong điều kiện hoang dã virus sống ít nhất 1 năm ở điều kiện 7 0C. Trong
Nitrogen không có oxy virus sống được 1 năm và trong môi trường đông khô
virus sống được nửa năm. Ở điều kiện bên ngoài virus rất dễ bị vô hoạt và phá
hủy vì vậy việc lây nhiễm gián tiếp là rất hiếm gặp.
Sự vô hoạt đối với nhiệt độ của virus còn phụ thuộc vào cơ chất, đậm độ
virus, chủng virus. Trong môi trường lỏng virus rất dễ bị vô hoạt bởi tia cực tím,
tia gama.
Với pH: Virus ổn định ở 7,2-8.
Với các tác nhân hóa học: Rất dễ bị bất hoạt bởi các chất hòa tan lipid như
ete, chloroforme, hay những chất hóa học khác như formalin 0,1 % trong 1-2
giờ, phenol 0,5 % trong 48- 72 giờ. (Trần Thanh Phong, 1996) [10].
c. Đặc tính sinh học của virus.
- Tính chất nuôi cấy:
Trên chó virus có độc lực được phân lập từ tế bào phổi.
Virus care có độc lực được giữ nguyên độc lực bằng cách cấy truyền qua
chó hoặc chồn mẫn cảm.
Các chủng vacxin:
Khi tiến hành nuôi cấy liên tục trên tế bào thận chó sẽ tạo nên chủng chó
hóa, tiêu biểu là chủng Rockborn. Những chủng này có thể gây viêm não sau khi
tiêm vacxin cho chó non, gây suy giảm miễn dịch.
18


Chủng gà hóa: Biến đổi bằng cách tiêm nhiều lần qua màng nhung niệu
trứng gà có phôi rồi sau đó cấy vào tế bào phôi gà. Tiêu biểu là chủng
Onderstepoort và chủng Lederles, những chủng này không gây bệnh trên chồn
và ít dẫn đến phản ứng sau khi tiêm so với chủng chó hóa.
- Độc lực của virus: Độc lực của virus thể hiện khả năng cảm nhiễm của
ầm bệnh. Các nhà khoa học đã phân lập được chủng SH (Synder Hill), chủng

A75/17 và chủng R252 là chủng có độc lực cao và vừa, đầu tiên chúng gây viêm
não tủy rồi sau đó gây hủy hoại myelin, các trường hợp khác có thể gây tổn
thương thần kinh trung ương.
2.3.3. Dịch tễ học
- Loài vật mắc bệnh: Trong tự nhiên tất cả các giống chó đều cảm thụ với
bệnh, tuy nhiên ở nước ta nặng nhất là giống chó nhập ngoại. Ngoài ra thì ở cáo,
cầy và một số động vật ăn thịt khác cũng mắc. Năm 1987 người ta còn tìm thấy
virus care trên hải cẩu bởi các chủng được đặt tên là PDV1 và PDV2. (Trần
Thanh Phong, 1996) [10].
Trong phòng thí nghiệm thường dùng chồn đen để tiến hành gây nhiễm,
ngoài ra cũng có thể dùng chuột lang, thỏ.
- Lứa tuổi mắc bệnh: Trong tự nhiên tất cả các giống chó ở mọi lứa tuổi
đều mắc tuy nhiên mẫn cảm nhất là chó từ 2-12 tháng tuổi, đặc biệt là chó từ 3-4
tháng tuổi, ở lứa tuổi này tỉ lệ chết có thể từ 90-100%. Chó con đang bú mẹ ít
mắc vì thu được miễn dịch thụ động qua sữa đầu. Việc gây bệnh thực nghiệm
trên chó 6 tháng tuổi dễ hơn chó dưới 3 tháng tuổi. (Nguyễn Văn Thanh, Vũ
Như Quán, Nguyễn Hoài Nam, 2012) [8].
Chó trưởng thành thường mang virus nhưng không biểu hiện bệnh nên
thường trở thành nguồn tàng trữ mầm bệnh.
- Mùa vụ mắc bệnh: Bệnh thường xảy ra quanh năm nhưng thường xuất
hiện nhiều khi có sự thay đổi của thời tiết, đặc biệt trong thời gian mưa nhiều độ
ẩm cao. (Nguyễn Văn Thanh, Vũ Như Quán, Nguyễn Hoài Nam, 2012) [8].

19


- Chất chứa virus: Trong chó bệnh, virus thường có trong máu, phủ tạng,
óc, lách, hạch, tủy xương, đặc biệt trong nước tiểu thường xuyên có virus bài
thải ra ngoài môi trường.
- Đường xâm nhập: Mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể thông qua đường hô

hấp, đường tiêu hóa và niêm mạc mắt là chủ yếu tuy nhiên cũng có thể xâm
nhập qua da. Trong thực nghiệm có thể tiêm, bôi niêm mạc mũi hoặc cho uống
đều có thể gây bệnh.
- Phương thức truyền lây:
+ Lây trực tiếp do sự tiếp xúc giữa con khỏe và con ốm, nhưng phổ biến
hơn là qua thức ăn nước uống vấy nhiễm các chất bài tiết của con vật ốm như
nước mũi, nước tiểu.
+ Lây qua đường hô hấp do con khỏe hít phải bụi hoặc chất bẩn có nhiễm
mầm bệnh từ con vật ốm tiết ra.
2.3.4. Cơ chế sinh bệnh
Sau khi virus xâm nhập vào cơ thể con vật chúng bắt đầu xâm nhập vào
các đại thực bào rồi vào dịch bạch huyết rồi đến các hạch lympho tại đó chúng
nhân lên về số lượng và tăng cường về độc lực.
Sau đó virus vào máu và di chuyển đến các cơ quan và khi đó bắt đầu gây
sốt, cơn sốt kéo dài từ 1 cho đến 2 ngày.
Do cơ thể suy yếu, sức đề kháng của con vật giảm sút, một số vi khuẩn kí
sinh sẵn trên cơ thể như Staphylococcus,Bacillus bronchisepticus, Pasteurella,
Salmonella,… kế phát và gây nên nhiễm trùng phủ tạng vì vậy ít ngày sau cơn
sốt thứ hai sẽ xuất hiện với mức độ sốt mãnh liệt hơn so với cơn sốt thứ nhất. Đó
là do sự tác động của virus và các yếu tố kế phát. Chính vì vậy con vật bị bệnh
có những biến chứng như viêm phổi, viêm ruột, viêm não, sừng hóa gan bàn
chân.

20


2.3.5. Triệu chứng và bệnh tích
a. Triệu chứng bệnh
Biểu hiện lâm sàng của bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như độc lực
chủng gây bệnh, giống chó, tuổi chó mắc bệnh, tình trạng sức khỏe, chế độ chăm

sóc và nuôi dưỡng và một số biện pháp can thiệp thú y.
Đầu tiên chó biểu hiện các triệu chứng chung của bệnh như: Mệt mỏi, ủ rũ,
ăn ít, nôn mửa, lười vận động, chảy nước mắt nước mũi. Sau đó chó sốt 4041,50C kéo dài từ 24-26 giờ rồi thân nhiệt giảm xuống 38,5-39,50C.
Sau đó 3-4 ngày thì xuất hiện cơn sốt thứ 2, cơn sốt này kéo dài 3-4 ngày.
Lúc này bệnh trầm trọng hơn không chỉ do độc lực của virus gây nhệnh mà còn
do bội nhễm một số vi khuẩn khác. Cùng xuất hiện ở cơn sốt thứ 2 là các triệu
chứng khác ở đường tiêu hóa, hô hấp, da và thần kinh.
- Triệu chứng trên đường tiêu hóa:
+ Do viêm cata dạ dày và ruột nên con vật khát nước, nôn mửa. Lúc đầu
nôn ra thức ăn sau đó nôn khan hoặc ra bọt mầu vàng.
+ Chó đi ỉa chảy lúc đầu phân loãng có bọt, sau đó có lẫn máu làm phân
có màu cà phê nhạt. Trong trường hợp nặng phân có thể lẫn máu tươi. Niêm mạc
ruột bong ra làm phân có mùi tanh khắm rất khó chịu.
- Triệu chứng trên đường hô hấp:
+ Chó bị viêm mũi, thanh quản, phế quản rồi viêm phổi làm chó khó thở,
nhịp thở tăng, nghe phổi có tiếng ran ướt, chó thở gấp, thè lưỡi ra mà thở.
+ Chó chảy nhiều nước mũi lúc đầu loãng sau đục và đặc dần đôi khi có
lẫn mủ xanh hoặc có màu đen.
+ Chó bị ho lúc đầu ho khan sau đó ho ướt.
- Triệu chứng trên da:
+ Đặc trưng của bệnh biểu hiện trên da là sự xuất hiện các nốt sài ở bụng,
ở bẹn, ngực và mặt trong đùi. Đầu tiên chỉ là những chấm đỏ trên da sau đó biến
thành các nốt sài to bằng hạt đỗ xanh, hạt gạo, sau đó do bội nhiễm vi khuẩn nên
mềm ra,có mủ. Khi các nốt sài vỡ bết vào lông và làm cho có mùi hôi. Các nốt
sài có thể không bị vỡ mà đóng vảy rồi bong ra để lại vết thương chóng lành.
21


+ Da tăng sinh: Sau khi bị bệnh 10-15 ngày, khoảng 80-90% số chó bị
bệnh tăng sinh ở gan bàn chân làm gan bàn chân dầy lên và đôi khi bị nứt ra làm

chó đi khập khiễng.
- Triệu chứng thần kinh:
+ Chó bệnh ủ rũ buồn rầu hoặc hung dữ, sau đó xuất hiện các cơn co giật
đều đặn ở bắp thịt, mũi, tai, chân và đôi khi là toàn thân.
+ Con vật đi loạng choạng, đi đứng không vững, đôi khi đâm sầm vào
tường, sùi bọt mép. Cuối cùng chó bị liệt, chó nằm bệt. Chó bị loạn nhịp tim,
thân nhiệt hạ và chết. Tỷ lệ chết có thể lên đến 60%, bệnh kéo dài trong 2-3
tuần. Một số con lành bệnh thường có di chứng gầy còm, đi đứng xiêu vẹo, mù
và điếc… (Nguyễn Văn Thanh, Vũ Như Quán, Nguyễn Hoài Nam, 2012) [8].
b. Bệnh tích
- Bệnh tích đại thể: Con vật chết gầy còm, lông bẩn và có mùi hôi, niêm
mạc mắt trũng sâu, niêm mạc mũi,miệng viêm cata và có nhiều chất nhớt.
Có thể gặp sừng hóa gan bàn chân và mõm. Tùy theo mức độ nhiễm vi
trùng có thể gây viêm phế quản phổi, viêm ruột, mụn ở da,… (Trần Thanh
Phong, 1996) [10].
Bệnh tích thường gặp ở đường tiêu hóa là viêm cata ruột, loét ruột, hạch
ruột sưng, niêm mạc dạ dày có nhiều điểm xuất huyết, trong ruột có chứa phân
lẫn máu.
Lách sưng có nhồi huyết ở rìa, gan sưng bị thoái hóa mỡ và xuất huyết
thành vệt.
Triệu chứng ở đường hô hấp:Chó thường bị viêm mũi, viêm thanh khí
quản, chó bị viêm phổi nặng, có mụn mủ trong phổi, đôi khi mụn mủ vỡ ra gây
viêm phế mạc.
Triệu chứng trên thần kinh: Con vật bị viêm não, não bị tụ máu và xuất
hiện các tế bào thần kinh bị hoại tử.
- Bệnh tích vi thể: Virus Care gây hoại tử những mô bạch huyết, có thể thấy
thể vùi trong tế bào chất của các tế bào như bàng quang, thận, những tế bào biểu
mô đường hô hấp, tiêu hóa và não.
22



Bệnh tích vi thể ở não: Có hiện tượng viêm não tủy không mủ với thoái hóa
nơron tăng sinh tế bào thần kinh đệm và thể vùi trong nhân thường gặp ở tế bào
thần kinh đệm. (Trần Thanh Phong, 1996) [10].
2.3.6. . Phòng và điều trị bệnh
- Phòng bệnh
Phòng bằng vệ sinh
Cách ly để theo dõi những chó mới nhập.
Thường xuyên sát trùng chuồng nuôi
Chó phải thường xuyên tắm rửa sạch sẽ. Những người tiếp xúc với chó
bệnh có thể trở thành vật mang trùng thụ động và thầm lặng.
Phòng bệnh bằng vaccine
Khó khăn lớn nhất trong việc phòng bệnh bằng vaccine là sự tồn tại của
hàm lượng kháng thể thụ động từ sữa mẹ truyền sang, ngay tại thời điểm mất
kháng thể này thì việc tiêm phòng rất có ý nghĩa. Những chó con có đủ lượng
kháng thể từ mẹ sẽ không đáp ứng với vaccine.
Sử dụng vaccine bằng đường tiêm vào cơ thể mũi 1 lúc 6 đến 8 tuần tuổi,
mũi 2 cách mũi 1 là 21 ngày sau đó 1 năm định kỳ tiêm nhắc lại. Tuy nhiên, hiện
nay nhiều tác giả khuyến cáo nên dùng ba mũi vaccine trong năm đầu tiên và
hàng năm tiêm nhắc lại một lần (mũi thứ ba cách mũi thứ hai 28 ngày sau đó
hàng năm tiêm nhắc lại một lần)
Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại vaccine đa giá phòng được rất
nhiều bệnh truyền nhiễm trong đó có bệnh Care. Một số loại vaccine như
Vanguard của Zoetis (Mỹ), Ricombitek của Merial (Pháp), Canigen của Virbac
với vaccine phòng 5 bệnh và 7 bệnh.
Vaccine phòng 5 bệnh cho chó bao gồm :
Bệnh care (Distemper virus)
Bệnh viêm gan truyền nhiễm (Andenovirus type 1)
Bệnh ho cũi chó (Parainfluenza-Adenovirus type 2)
Bệnh viêm ruột truyền nhiễm (do Parvovirus)

Bệnh xoắn khuẩn (do leptospira)
23


Vaccine phòng 7 bệnh cho chó bao gồm:
Bệnh care (Distemper virus)
Bệnh viêm gan truyền nhiễm (Andenovirus type 1)
Bệnh ho cũi chó (Parainfluenza-Adenovirus type 2)
Bệnh viêm dạ dày ruột truyền nhiễm (do Parvovirus)
Bệnh xoắn khuẩn (do leptospira)
Bệnh phó cúm
Bệnh gây bởi Coronavirus
- Điều trị bệnh
Cũng giống như các bệnh do virus gây ra, bệnh không có thuốc điều trị
đặc hiệu mà chỉ điều trị triệu chứng, kết hợp chống bội nhiễm và tăng sức đề
kháng, trợ sức, trợ lực.
Sử dụng kết hợp các biện pháp sau:
Truyền dịch nhằm bù lại lượng nước do ói mửa, tiêu chảy. Việc bù
lại lượng nước phải có tính hệ thống và thường truyền qua tĩnh mạch hoặc dưới
da. Dung dịch này gồm nước sinh lý mặn để điều chỉnh lượng nước mất ngoài tế
bào và nước sinh lý ngọt, acid amin thiết yếu để cung cấp năng lượng và protein.
Việc bù đắp nước phải đầy đủ, ít nhất là 20 - 30ml nước/kgP dùng trong 4 ngày.
Chống nôn: Atropin sulphat 0,1%.
Chống vi khuẩn bội nhiễm: sử dụng kháng sinh T- 5000
Trợ sức, trợ lực: Vitamin B, Vitamin C.
Cầm máu: vitamin K (Vương Đức Chất và Lê Thị Tài (2004) [11].

24



CHƯƠNG 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tất cả các giống chó mang đến khám và điều trị tại phòng khám..
- Bệnh care trên chó khám và điều trị tại phòng khám.
3.2. Địa điểm nghiên cứu
- Phòng khám Funpet 83 Giải phóng, Hà Nội.
- Phòng thí nghiệm Trung tâm phẫu thuật bệnh viện thú y Funpet Nghi
Tàm, Tây Hồ, Hà Nội
- Thời gian nghiên cứu từ 31/10/2017-16/3/2018
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Tỷ lệ chó nhiễm bệnh Care tại phòng khám.
- Theo dõi một số chỉ tiêu lâm sàng, chỉ tiêu huyết học của chó mắc bệnh.
- Xây dựng phác đồ điều trị và phòng bệnh
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp xác định bệnh bằng test CDV Ag
- Bộ kít chẩn đoán nhanh bao gồm
+ Test xét nghiệm
+ Chất pha loãng (1ml)
+ Ống hút dung dịch
+ Que bông lấy bệnh phẩm
Thành phần
Test xét nghiệm có đánh dấu vùng S (vị trí nhỏ giọt), vạch kết quả xét
nghiệm T và vạch đối chứng C.
-

Tác dụng

Phát hiện kháng nguyên virus Care trên chó từ các mẫu xét nghiệm là dịch

mắt, dịch mũi.
-

Thao tác xét nghiệm:

Dùng que bông lấy dịch mắt, dịch mũi của chó nghi mắc bệnh hòa tan vào
ống chứa 1ml chất pha loãng.
25


×