Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Văn hóa thiền tông trong thơ vương duy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.06 KB, 48 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trung Quốc đời Đường (618 – 907) là một quốc gia tiên tiến, văn minh trên
thế giới đương thời. Trong lĩnh vực văn học, xuất hiện một cảnh tượng phồn vinh;
chính thành tựu thơ ca đã tạo nên thời đại hoàng kim của lịch sử phát triển thơ ca
trong xã hội phong kiến. Bên cạnh tên tuổi của hàng loạt nhà thơ, nổi lên ba nhà
thơ lớn là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị. Nếu thơ Lý Bạch là đỉnh cao của lãng
mạn; thơ Đỗ Phủ là đỉnh cao của hiện thực; thì thơ Vương Duy là đỉnh cao của sơn
thủy điền viên, và trên hết đó là thơ của triết lý Thiền môn.
Đến với thơ Vương Duy ta dễ dàng nhận thấy rằng Vương Duy đặc biệt thành
công ở cả hai mảng thơ: thơ điền viên sơn thủy và thơ Thiền, mặc dù không phải
bao giờ trong thơ ông cũng có sự tách bạch rõ ràng đó. Ở mảng thơ điền viên sơn
thủy, Vương Duy tỏ ra là một nhà ngôn ngữ hội họa tài ba, tức là giỏi “gợi” vậy.
Ngược lại, ở mảng thơ Thiền, Vương Duy là một Thiền sư triết lí thâm trầm bằng
ngôn ngữ “Thiền vô ngôn Thiền”. Nhưng xét cho cùng, cả hai cái chất “gợi” và
“Thiền” ấy luôn ở trong nhau. Do vậy trong thơ điền viên sơn thủy có ý vị Thiền và
trong thơ Thiền có cảnh điền viên sơn thủy.
Chúng tôi chọn đề tài này với mong muốn đem đến cho người học văn cái
nhìn sâu sắc, toàn diện và khám phá những cái hay, mới lạ trong thơ Vương Duy,
đặc biệt là mảng thơ Thiền.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn hóa Thiền tông có ảnh hưởng rất sâu sắc trong các sáng tác văn học cổ điển
Trung Hoa và Việt Nam. Đi tìm giá trị chiều sâu của nó là nỗi băn khoăn của nhiều
nhà nghiên cứu hiện nay.
Nghiên cứu Văn hóa Thiền tông trong thơ Vương Duy là một hướng nghiên cứu
khá thú vị. Trong thời gian gần đây, xu thế giao lưu, hội nhập giữa các quốc gia,
dân tộc, giữa các nền văn hóa trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ. Vì vậy, các nhà
nghiên cứu Việt Nam tăng cường công tác nghiên cứu văn học của thế giới nói
chung và của các nền văn hóa có quan hệ tương đồng với văn hóa Việt Nam nói
riêng. Nhưng nếu thơ ca của Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị từ lâu đã được quan tâm
nghiên cứu thì mảng tư liệu về Thi Phật Vương Duy vẫn chiếm một vị trí khá


khiêm tốn. Về thơ Vương Duy, chỉ có hai công trình của Vũ Thế Ngọc và Lê
Nguyên Cẩn là khá công phu và đầy đủ. Kế thừa những quan điểm nghiên cứu đó,
1


chúng tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu “Văn hóa Thiền tông trong thơ Vương
Duy” để có thể từng bước tìm hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa Thiền học và thơ ca,
hiểu rộng và sâu hơn ý nghĩa của Thiền học trong Phật giáo nói riêng và các tôn
giáo khác nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài này là văn hóa Thiền tông trong thơ
Vương Duy. Đó là những vẻ đẹp, đặc sắc về văn hóa của Thiền tông và sự thể hiện
của nó trong thơ Vương Duy thông qua những bài thơ Thiền tiêu biểu.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những bài thơ mang màu sắc của văn hóa
Thiền và những tác phẩm mang yếu tố Thiền trong thơ Vương Duy. Trên cơ sở đó,
so sánh và đối chiếu với những bài thơ mang tính chất Thiền của Huyền Quang
(Việt Nam). Để từ đó thấy được tài năng văn chương của Vương Duy, hiểu được
con người và cách nhìn đời, quan niệm về cuộc sống của ông.
Trong quá trình nghiên cứu, khảo sát và thống kê, chúng tôi đã có sử dụng
một số ý kiến đánh giá của một số nhà nghiên cứu trước đây nhằm làm rõ hơn nội
dung của đề tài.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Văn hóa Thiền tông có ảnh hưởng rất sâu sắc trong các sáng tác văn học cổ
điển phương Đông.
Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục đích nghiên cứu một số nét đặc
trưng trong văn hóa Thiền tông và sự thể hiện của nó trong thơ của Vương Duy nói
riêng và của thơ Đường nói chung, bước đầu cung cấp cho chúng ta một cái nhìn
tổng thể và bao quát hơn về văn hóa Thiền tông trong thơ ca.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp cơ bản

sau:
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại: Dựa vào sự xuất hiện của những từ
ngữ mang tính chất Thiền, những thuật ngữ mang tính chất Phật giáo được sử dụng
trong các bài thơ của Vương Duy và Huyền Quang để thống kê và phân loại, nhằm
làm sáng tỏ các luận điểm chúng tôi đã đưa ra.
5.2. Phương pháp phân tích: Là phương pháp phân tích cụ thể một số câu
thơ, bài thơ của Vương Duy và Huyền Quang để thấy rõ đặc điểm nổi bật, phong
cách thơ ca của họ.

2


5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu: Sử dụng phương pháp này chúng tôi
nhằm làm rõ những nét tương đồng và dị biệt của yếu tố Thiền trong thơ Vương
Duy và Huyền Quang. Qua đó làm rõ những đặc điểm nổi bật trong phương thức
thơ có Thiền vị trong thơ Vương Duy.
5.4. Phương pháp khái quát hóa: Để đưa ra cái nhìn tổng thể, bao quát
hơn về văn hóa Thiền tông trong thơ ca, đặc biệt trong thơ Vương Duy.
6. Cấu trúc của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính
của đề tài được chia làm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung
Chương 2: Thơ Vương Duy – nhìn từ góc độ mỹ học Thiền tông
Chương 3: Ảnh hưởng của Thiền tông trong thơ Vương Duy và Huyền
Quang – nhìn từ góc độ so sánh.

3


PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
1.1.

Vương Duy và thơ Thiền Vương Duy

Lịch sử văn học cổ điển Trung Quốc phân chia theo các triều đại. Mỗi triều
đại lại được đánh dấu bởi một thể loại văn học phát triển mạnh mẽ nhất: tiên Tần có
tản văn, Hán có phú, Đường có thơ, Tống có từ, Nguyên có kịch và Minh - Thanh
có tiểu thuyết. Trong đó, đời Đường nổi bật lên như một thời đại hoàng kim của thơ
ca và nghệ thuật không chỉ bởi thành tựu hơn 48.000 bài thơ và 2.300 thi sĩ, cũng
không chỉ bởi những kiệt tác được người đời sau mãi say sưa ngâm vịnh, mà còn
bởi phong cách thơ độc đáo và đa dạng chưa từng có trong lịch sử thơ ca Trung
Quốc. Người ta chia thơ Đường ra làm bốn thời kì: Sơ Đường, Thịnh Đường, Trung
Đường, Văn Đường để nói đến tiến trình từ thịnh đến suy của thơ, nhưng xét cho
cùng, 300 năm đời Đường thơ ca chưa bao giờ giảm sắc giảm hương. Sơ Đường
(618 – 713) tuy chưa xuất hiện đông đảo nhà thơ, nhưng những tác phẩm của các
nhà thơ như: Vương Bột, Lạc Tân Vương, Dương Quýnh,… vẫn là những bông hoa
rực rỡ được người đời sau nâng niu, trân trọng. Thịnh Đường (713 – 766) không
chỉ giàu có về số lượng mà còn sung mãn về chất lượng. Với Thi Tiên Lí Bạch, Thi
Thánh Đỗ Phủ, Thi Phật Vương Duy…thơ ca đã bước lên đỉnh cao của danh vọng.
Người ta gọi Lí Bạch là Thi Tiên không chỉ vì phong cách lãng mạn, bay bổng của
ông mà còn vì ông là một tài năng siêu phàm. Khi tỉnh làm thơ, khi say cũng làm
thơ, mà dường như càng say thơ lại càng hay, thơ là sự tuôn chảy tự nhiên trong
tâm hồn của Lí Bạch. Đỗ Phủ được người đời gọi là Thi Thánh cũng không phải chỉ
vì ông am hiểu cuộc đời một cách sâu sắc mà còn vì thơ ông đã đạt đến độ chuẩn
mực. Qua lời thơ của mình, ông đã giúp người đời nói lên những chân lí của cuộc
sống. Và Vương Duy được gọi là Thi Phật cũng không chỉ vì ông theo đạo Phật mà
còn vì thơ ông đã đạt đến độ tịnh tâm hiếm có, giúp cho con người ta biết chiêm
nghiệm về bản chất của thế giới và bản nhiên của chính mình.

1.1.1. Tiểu sử Vương Duy
Vương Duy (701 – 761) tên tự là Ma Cật, người đất Kì, Thái Nguyên
(nay thuộc huyện Kì, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc). Cha mất sớm, mẹ người họ Thôi
ở Bắc Lăng thờ Phật hơn ba mươi năm, điều đó ít nhiều có những ảnh hưởng nhất
4


định đối với tư tưởng tiêu cực của Vương Duy sau này. Hồi nhỏ ông đã thạo âm
nhạc, giỏi văn chương, năm 21 tuổi đậu Tiến sĩ, được bổ nhiệm làm quan Đại nhạc
thừa, vì chuyện con hát múa sư tử bậy bạ mà bị liên lụy rồi biếm đi Tế Châu (nay là
huyện Trường Thanh, Sơn Đông) làm tư khố tham quan. Năm Khai Nguyên thứ 22
đời Đường Huyền Tông, Trương Cửu Linh chấp chính, Vương Duy làm thơ dâng
lên xin được tiến cử, sau đó được bổ làm Hữu thập di.
Năm Khai Nguyên thứ 25, Trương Cửu Linh bị giáng chức, mùa thu năm đó,
Vương Duy phải đi sứ ngoài biên ải, ở Lương Châu một thời gian. Năm Khai
Nguyên thứ 27, ông từ Lương Châu trở về Trường An. Trong thời gian này, vì công
việc, ông có đi Tứ Xuyên, Hồ Bắc, nhưng thời gian không lâu. Ông sống tương đối
ổn định ở ngoại thành Trường An, một nơi rừng núi tráng lệ.
Trong khoảng mười lăm, mười sáu năm, từ cuối Khai Nguyên đến cuối Thiên
Bảo (740 – 755), Vương Duy sống cuộc đời yên tĩnh của một vị quan văn, chức
tước thăng dần dần, nhưng đó không phải là mặt chủ yếu trong cuộc sống của ông,
cuộc sống chủ yếu của ông lúc này là “suốt ngày gảy đàn, thổi sáo, làm thơ làm
phú” trong “biệt thự” đẹp đẽ của mình. Lúc này, Vương Duy là một cận thần của
triều đình, ông viết rất nhiều thơ phụng họa, ứng chế, ứng giáo và nhiều bài văn ca
tụng hoàng đế. Là chủ nhân của “biệt thự” Võng Xuyên, ông viết khá nhiều thơ
điền viên sơn thủy. Đây là thời kì chuyển tiếp từ tráng niên đến cảnh già của Vương
Duy và cũng là thời kì từ chí tiến thủ tích cực chuyển sang sùng bái đạo Phật.
Khi An Lộc Sơn chiếm Trường An và Lạc Dương, Vương Duy bị bức ra làm
quan cho ngụy triều. Sau khi hai kinh được thu phục, lẽ ra bị tội nặng, nhưng do có
người em trai là Vương Tấn nguyện từ bỏ chức quan của mình để chuộc tội cho,

nên được miễn tội. Kể từ đó, tư tưởng tiêu cực của Vương Duy ngày một phát triển,
mỗi lần bãi triều về, Vương đều đốt hương ngồi một mình, đọc kinh niệm Phật. Ông
thọ sáu mươi mốt tuổi, tạ thế vào năm Thượng Nguyên thứ hai đời Đường Túc Tông.
1.1.2. Thơ Thiền
1.1.2.1.

Khái niệm

Từ xưa đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về thơ Thiền. Có ý kiến cho
rằng thơ Thiền chỉ bó hẹp trong những bài kệ nhằm nêu lên một triết lí Thiền, một
quan điểm Thiền hay một bài học Thiền nào đó. Ý kiến khác lại cho rằng, thơ
Thiền bao gồm cả kệ và các bài thơ tức cảnh sinh tình của các nhà sư nhằm nêu lên
một triết lí quan niệm Thiền. Một luồng ý kiến lại định nghĩa thơ Thiền với một
ngoại diên rộng hơn, cho là thơ Thiền là thơ của các nhà sư và của cả những người
5


không tu hành nhưng am hiểu và yêu thích Phật giáo, thơ của họ thường trực tiếp
hoặc gián tiếp nêu lên một triết lí, bài học hoặc một trạng thái cảm xúc, tâm lí
Thiền. Rõ ràng nội dung khái niệm thơ Thiền là rất khác nhau. Song dù hiểu theo
nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì mỗi quan niệm về thơ Thiền đều xuất phát từ tiêu chí
nội dung phản ánh của thơ Thiền.
Thơ Thiền còn được gọi là Kệ. Tiếng Phạn, đó là “Gàtha”, có nghĩa là tụng,
ngợi, ca, tán dùng để khẳng định giáo lý, kinh nghiệm, truyền tâm pháp cho đệ tử.
Thơ Thiền Trung Hoa đã phát triển mạnh từ thời nhà Đường.
1.1.2.2

Sự phát triển của thơ Thiền ở Trung Quốc

Vào thời kỳ Ngụy Tấn (265 – 420), Phật giáo Trung Quốc đang đà phát triển,

đáng lưu ý nhất là việc dịch kinh Phật ngày càng rộng rãi về phạm vi, thành thục về
trình độ. Điều này đã mở ra một cánh cửa mới lạ cho các nhà văn, nhà thơ Trung
Hoa với kinh điển Đại thừa “phần lớn sử dụng phương thức văn học”. Song quan
trọng hơn, đây là lúc mà giới trí thức Trung Hoa ngày càng thấy rõ sự tương đồng
giữa nội dung tư tưởng của Phật học và Huyền học, nhất là giữa hai thuật ngữ căn
bản: “Đạo” (Huyền học) và “Chân Như” (Phật học). Xuất hiện một không khí hòa
đồng tôn giáo hiếm thấy, ở đó các danh nho, danh sĩ cùng đạo sĩ, cao tăng kết bạn
với nhau, cùng tham dự những cuộc đàm đạo về giáo lý hai phái mà người ta gọi là
“thanh đàm” và “huyền đàm”. Tình hình Phật học lúc bấy giờ có thể hình dung là
“Nho sĩ thường thạo kinh Phật, các nhà sư lại thạo những trứ tác của đạo gia, đặc
biệt là sách Trang Tử”, “các bậc danh sĩ thanh đàm, các vị cao tăng nổi tiếng
đương thời hoặc lấy thuyết Lão Trang mà tìm hiểu kinh Phật, hoặc lấy tư tưởng
Phật giáo để giải thích Lão, Trang”. Thơ ca đương nhiên cũng chịu ảnh hưởng của
không khí này. Viết nên những bài thơ mang nhân tố tư tưởng Phật giáo không chỉ
là các cao tăng mà còn là các danh nho – tác giả của loại thơ huyền ngôn rất thịnh hành
thời Ngụy Tấn.
Đến thời Nam Bắc Triều (420 – 589), xu hướng gắn kết tư tưởng Phật giáo –
nội dung thơ ca càng trở nên rõ nét. Chính nhà thơ Tạ Linh Vận - vị tiền bối dòng
thơ điền viên sơn thủy của Vương Duy – cũng là tác giả của những bài thơ như:
“Qúa Cồ Khê sơn phạn tăng” (Qua núi Cồ Khê ăn cơm nhà Phật), “Thạch Bích
lập chiêu đề tinh xá” (Lập nhà trai tịnh ở Thạch Bích). “Tịnh thổ vịnh” (Vịnh cảnh
niết bàn). Đây chính là nền tảng cho mối quan hệ giữa Phật giáo và thơ ca đời
Đường.

6


Ngược lại, về phía các thi nhân đời Đường, hầu hết đều chịu ảnh hưởng của tư
tưởng Phật giáo trong cuộc sống và thể hiện sự ảnh hưởng này trong thơ ca. Khảo
sát tiểu sử của họ trong phụ lục cuốn “Đường thi tuyển dịch” (Lê Nguyễn Lưu) tập

2 và “Thơ Đường” (Nam Trân) tập 1, chúng ta nhận thấy: có những nhà thơ từng
làm hòa thượng (như Gỉa Đảo lấy pháp danh Vô Bản), có những nhà thơ từng theo
sư tăng học thơ (như Lí Đoan), có nhiều người giao du với giới tu hành và thường
xuyên đến chùa đàm đạo. Rất nhiều nhà thơ từng có một thời gian sống ẩn cư trong
cuộc đời, một số ở ẩn cả đời (Mạnh Hạo Nhiên, Lưu Phương Bình, Trịnh Ngao,
Trương Hưu,…) một số ở ẩn thời trẻ (Mạnh Giao, Lí Thiệp,…), song hầu hết đều ở
ẩn khi về già, lúc đã từ quan, sau những biến động lớn lao của thời đại. Đây là
những thời điểm họ tìm đến hoặc đi sâu hơn vào các tư tưởng khác Nho gia như
Lão Trang hay Phật giáo, rồi bộc lộ chúng trong nội dung và hình thức thơ ca.
Chính sự pha trộn một cách độc đáo các luồng tư tưởng khác nhau này đã tạo nên
một Lí Bạch của Nho, Đạo và tư tưởng du hiệp trong Đường thi. Ở Vương Duy,
bên cạnh tư tưởng Phật giáo ta còn có thể tìm thấy ảnh hưởng Lão Trang. Có lẽ, ít có
thời kì nào mà các nhà thơ lại dành cho Phật giáo mối quan tâm và cái nhìn thiện cảm như
đời Đường.
Nói tóm lại, từ thời Ngụy Tấn đến Nam Bắc Triều và đến đời Đường, mối
quan hệ giữa nhà sư và thi nhân, Phật giáo và thơ ca ngày càng được thúc đẩy,
làm nền tảng cho sự lên ngôi của thơ Thiền.
1.1.2.3. Đặc điểm thi pháp của thơ Thiền
1.1.2.3.1. Đặc điểm thi pháp cơ bản của thơ Thiền
- Tỉnh thức trước luật vô thường
- Tha thiết với sự cô liêu trật tự và mầu nhiệm của thế giới (giác ngộ và trở
về với thế tục)
- Cấp độ khác, thơ Thiền có thể miêu tả các biến cố trực tiếp chỉ thẳng vào
chân lý thâm sâu (như các công án).
- Bừng mở tâm ra khỏi thói quen thụ cảm sự vật theo cách thông thường.
Xuất phát từ chỗ, mục đích của một bộ phận quan trọng thơ Thiền là sự ngộ
đạo và truyền đạo nên nó mang một nội dung riêng biệt. Nó lựa chọn cho mình một
chủ đề, một đề tài phản ánh riêng. Thơ Thiền không phản ánh toàn bộ cuộc sống
nói chung mà chỉ đề cập đến một phạm vi nhất định của cuộc sống có ảnh hưởng
của Phật giáo. Và từ đó nó bộc lộ những quan niệm khác nhau về triết lí Phật giáo

trong quá trình triết luận về vũ trụ và nhân sinh của nhà thơ.
7


Để thể hiện cái nội dung dị biệt đó, Thơ Thiền được làm theo những bút pháp
nghệ thuật riêng. Thực ra không có hẳn một trường phái thơ Thiền, vì thế cũng
không hề có lý luận về thi pháp thơ Thiền. Tuy nhiên, khi đọc thơ Thiền, người đọc
có thể nhận ra một vài đặc trưng trong phép làm những bài kệ - thơ Thiền của các
Thiền sư.
- Thơ Thiền là kinh nghiệm tu chứng của Thiền sư, là thời khắc sáng loà của
tâm thanh tịnh, an nhiên, đạt tới thực tại vô tướng, thể tính chân như của hiện hữu.
Ánh sáng của sự chứng ngộ ấy tạo nên cái đẹp thơ. Để thể hiện nó thơ Thiền chú
trọng lựa chọn các lớp từ ngữ, những điển cố, điển tích nhà Phật. Ngôn ngữ nhà
Phật trở thành một bộ phân quan trọng của thơ Thiền, đánh dấu một loại chất liệu
nghệ thuật có tính riêng biệt.
Thơ Thiền sử dụng một số diễn tả đã thành "điển" của Phật giáo, như điển hoá
Thiền thoại; diễn tả cái Có và cái Không nhị nguyên bằng những chữ như “sát”
(giết chết) và “hoạt” (cho sống), “đoạt” (cướp lấy) và “dữ” (ban cho), “xúc” (khẳng
định) và “bối” (phủ định), bằng từ vựng Phật giáo như “khổ”, “dục”, “vô thường”,
“vô ngã”, “tâm”, “an nhiên thanh tịnh” v.v...
Ta gặp hình ảnh diễn tả tư tưởng Phật quen thuộc như: Tất cả các pháp là hữu
vi, đều giống như “sao đêm” (tinh), như “mắt loạn” (ế), như “ngọn đèn” (đăng),
như “huyễn thuật (ảo), như “sương mai” (lộ), như “bọt nước” (bào), như “cơn
mộng” (mộng), như “ánh chớp” (điện), như “đám mây nổi” (vân).
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phôi”
(Vạn Hạnh Thiền sư)
Những hình ảnh quen thuộc ấy có nghĩa riêng của giáo lý Phật. Tinh tú biểu

tượng cho cái thấy. Mắt bệnh là ví dụ cho tướng của đối tượng. Ngọn đèn là thức
uẩn. Huyễn thuật là cư xứ, chỉ khí thế gian, Sương mai là ví dụ cho thân thể. Bọt
nước là thọ dụng. Chiêm bao là thời gian quá khứ. Điện chớp là thời gian hiện tại.
Vầng mây là thời gian vị lai.
- Thơ Thiền được viết bằng kiểu ngôn ngữ vô ngôn, xuất phát từ cách sử
dụng ngôn ngữ của các Thiền sư. Đối với Thiền, ngôn ngữ được xem là lừa dối và
sai lạc để thấu hiểu chân lý. Kinh Lăng Già khẩn thiết bảo ta rằng ngôn ngữ là
một phương tiện hoàn toàn thiếu thích đáng để diễn đạt và truyền đạt nội thể của
8


Giác Ngộ. Kinh Kim Cang viết “Vô pháp khả thuyết thị danh thuyết pháp”
(thuyết pháp là: không có pháp nào có thể thuyết ấy là thuyết pháp). Thực tại vô
tướng, thể tính chân như không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, hay bằng ý niệm. Vì
thế đọc thơ Thiền, người đọc phải tìm ra cách nói của tác giả, nắm lấy diệu lý
Thiền, vượt qua ngôn ngữ. Các Thiền sư phải trải qua vô số thử thách ê chề mới
đạt tới được tuyệt kỹ này. Cách nói vô ngôn có thể gói trong những thí dụ sau: 1.
Nói nghịch, 2. Nói vượt qua, 3. Nói chối bỏ, 4. Nói quyết, 5. Nói nhại, 6.Hét, 7.
Phép im lặng, 8. Lý luận vòng tròn.
1.1.2.3.2. Về cú pháp và ý nghĩa cuả thơ Thiền
Thơ Thiền chú ý việc lựa chọn những kiểu câu riêng, rất yêu thích các loại
câu phủ định. Các biện pháp tu từ trong thơ Thiền cũng mang dấu hiệu riêng. Các
biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng, ước lệ… được hình
thành trong quá trình trực giác, gắn bó thường xuyên với sự giải thích tư tưởng
nhà Phật. Thơ thiền thể hiện những giây phút đốn ngộ, giác ngộ chân lí, nên nó
chuộng các thể thơ ngắn, hàm súc. Các câu thơ 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ rất phù hợp
cho hình thức nghệ thuật ám thị “ngón tay chỉ trăng” thường thấy trong thơ
Thiền.
Lớp nghĩa tư tưởng diễn tả sự chứng ngộ của tác giả về Chân Như, và lớp
nghĩa nghệ thuật do hệ thống hình tượng thơ gợi ra. Lớp nghĩa này được hiểu

theo cách hiểu của cộng đồng, bằng tri thức, văn hoá thẩm mỹ của cộng đồng.
Hai lớp nghĩa này có khi đồng nhất, có khi là riêng biệt, tuỳ theo cách sử dụng
kiểu ngôn ngữ của Thiền sư. Nếu ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ dạy đệ tử, lời dạy
trực tiếp cho người chưa chứng ngộ, đó là kiểu ngôn ngữ đời thường, hai lớp
nghĩa này thường đồng nhất. Nếu Thiền sư biểu lộ sự chứng ngộ, thì đó là kiểu
ngôn ngữ vô ngôn, là tiếng kêu vô nghĩa. Lúc ấy, nghĩa tư tưởng và nghĩa nghệ
thụật là tách biệt, có khi không có quan hệ gì với nhau. Vì thế những cách đọc
bằng phương pháp truyền thống, phân tích nhân vật trữ tình, phương pháp Tiểu
Sử, Phân Tâm Học, Phản ánh Luận, Cấu Trúc Luận… đôi khi bất lực trong việc
giải mã thơ Thiền.
Vương Duy là nhà thơ kiêm họa sĩ nổi tiếng đời Đường. Ông đã để lại hơn
bốn trăm bài thơ cho kho tàng văn học Trung Quốc. Thơ ông hiện lên hình tượng
con người nhàn nhã, cảnh sắc thiên nhiên yên tĩnh, trong sáng. Đó chính là sự thể
hiện màu sắc thanh tịnh “vô vi”, “vô sinh bất tử”, nhàn tâm của đạo Phật. Tô
Thức đời Tống khi đọc thơ Vương Duy đã nhận xét: “Vi Ma Cật chi thị, thi trung
9


hữu họa, quan Ma Cật chi họa, họa trung hữu thi” (Thưởng thức thơ Ma Cật,
thấy trong thơ có họa, xem họa Ma Cật, thấy trong họa có thơ). Thế giới Thiền thi
của Vương Duy là một nghệ thuật kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa thơ và họa,
giữa Phật giáo và Lão giáo, là sự dung hợp Thiền - Thơ.
1.2.

Thiền tông và văn hóa Thiền tông

Thiền là một thuật ngữ quan trọng trong tư tưởng của Phật giáo, nghĩa gốc
của Thiền mà người Nhật gọi là “zen” xuất phát từ một từ Trung Hoa “Chan”
(Thiền) hay “Channa” (Thiền na), nó được phiên âm theo Ấn ngữ từ chữ Dhyana
hoặc Jhana. Dhyana thường được dịch là “tịnh lự” và đại khái có nghĩa là quá

trình trầm tư, chiêm nghiệm về một vấn đề, hiện tượng, quan điểm nhân sinh nào
đó đến mức thuần ngộ một cách thấu triệt.
Trong một ý niệm về Thiền, Thiền sư Vô Ngôn Thông (Việt Nam) đã phát
biểu: “Thiền hay Thiền sư không phải là cái gì có thể định nghĩa được, như cây
thoan lư kia, nhìn thẳng vào đó thì thấy ngay, khỏi cần qua trung gian ngôn ngữ
và khái niệm. Thiền là sự tỉnh thức, sự linh hoạt trong thế giới thực tại, chỉ có thể
thể nghiệm mà không thể đàm luận và giảng giải.”
Ở Trung Quốc từ xưa vẫn gọi chung các tông phái chuyên tâm tọa thiền là
Thiền tông. Nhưng từ đời Đường về sau, tông Đạt Ma hưng thịnh thì Thiền tông
là chỉ riêng cho tông Đạt Ma. Đây là tông phái Đại thừa tôn ngài Bồ Đề Đạt Ma
làm Sơ Tổ, chủ trương "kiến tính thành Phật". Thành Phật là kết quả của tự biết
bản tâm, tự thấy bản tính (tự thức bản tâm, tự kiến bản tính), bởi lẽ tự tâm chính
là Phật tính.
Phương pháp truyền thừa của Thiền tông là lấy tâm truyền tâm, truyền riêng
ngoài giáo (dĩ tâm truyền tâm, giáo ngoại biệt truyền). Thành Phật là do giác ngộ
tự tính, tự tính mê thì Phật tức chúng sinh, tự tính tỏ ngộ thì chúng sinh tức Phật
(tự tính mê, Phật tức chúng sinh; tự tính ngộ, chúng sinh tức Phật). Thiền tông
chủ trương đốn ngộ, thấy ngay chân như Phật tính (đốn kiến chân như Phật tính),
mê thì trải qua nhiều kiếp, mà ngộ thì chỉ trong sát na (mê lai kinh lũy kiếp, ngộ
tắc sát na gian). Thành Phật do ngộ một niệm trong sát na, chứ không do công
phu tọa thiền lâu dài. Ngồi thiền để mong thành Phật thì không khác gì mài gạch
thành gương (công án Nam Nhạc mài gạch).
Mặt khác, Thiền tông cũng chủ trương “bất lập văn tự”, vì ngôn ngữ văn tự
không có giá trị tuyệt đối, không diễn tả được hết những khái niệm trừu tượng về
tâm linh, huống chi nó cũng là vật ngoài tự tâm. Không chấp trước ngôn ngữ văn
10


tự mà phải rời bỏ nó để đạt tới chân lý, để ngộ đạo. Thiền sư Thần Tán đời Đường
qua bài thơ “Không môn bất khẳng xuất” đã mượn việc con ong cứ đâm đầu vào

giấy dán cửa sổ tìm cách bay ra ngoài để nói lên chủ trương ấy:
“Bách niên toàn cố chỉ
Hà nhật xuất đầu thì?”
(Trăm năm dùi giấy cũ
Ngày nào mới ló đầu?)
1.3.

Mối quan hệ giữa Thiền và thơ ca

Thơ trước hết giống thiền ở cách thể nghiệm. Thơ là một nghệ thuật dùng
ngôn từ để biểu đạt. Đối tượng nhận thức của thơ cũng là con người và cuộc
sống. Thông qua nghệ thuật ngôn từ, thơ biểu hiện những rung cảm về nội tâm và
ngoại cảnh, những thao thức, trăn trở về thân phận con người, khiến cho nhà thơ
và người đọc do cảnh giới của thơ mà có sự đồng cảm.
Thơ không chỉ phản ánh, phục chế hiện thực mà còn là chỗ ký thác tâm tư,
tình cảm và lý tưởng. Nhà thơ sáng tạo một thế giới mà chính họ đã thể nghiệm,
đó là cảnh giới mà nghệ thuật và nhân sinh, vũ trụ dung hợp thành một thể bất
khả phân. Chính do cùng thể ngộ nhân sinh và vũ trụ mà Thiền và thơ gặp nhau.
Lại nữa, Thiền và thơ đều chủ trương không chấp trước vào ngôn ngữ văn
tự mà đi tìm sự diệu ngộ siêu nghiệm, ý ở ngoài lời, biểu tượng ở ngoài hình
tượng. Thiền tông dùng phương pháp “dĩ tâm truyền tâm”, “bất lập văn tự”, vì
Phật tính tuy rằng chỗ nào cũng có, nhưng lại không có thực tướng mà cũng
không có định tính, giống như bóng trăng đáy nước, có thể thấy mà không thể
nắm bắt được. Thế nên chỉ có cách phá bỏ lề lối tư duy bình thường, vượt ra
ngoài cái vỏ ngôn ngữ, dựa vào sự thể ngộ siêu nghiệm của trực giác thì mới có
thể đốn ngộ mà thấy được Phật tính vĩnh hằng. Vì vậy, trong các công án Thiền
tông, các thiền sư thường đả khai hoặc đốn ngộ bằng những câu hỏi đáp có vẻ
như đi ra ngoài vấn đề, thậm chí bằng những hành động kỳ quặc khó hiểu (như
mài gạch làm gương, cầm gậy đánh, giơ ngón tay, chặt đứt ngón tay...), bằng
tiếng quát, bằng sự im lặng.

Phương thức biểu hiện của thơ cũng giống với Thiền. Nghệ thuật thơ cũng
chủ trương không chấp trước vào văn tự, không gò bó ở câu chữ. Ngôn ngữ thơ
khác với ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng ngày. Ngôn ngữ trong sinh hoạt hàng
ngày đòi hỏi tính chân xác, rõ ràng; trái lại, ngôn ngữ thơ phải có tính biểu cảm,
có nội dung phong phú, hàm ý sâu xa, đa nghĩa và mông lung, gợi mở nhiều chỉ
11


hướng. Vì thế, cùng một bài thơ mà người đọc cảm thụ khác nhau tùy theo trình
độ hiểu biết và kinh nghiệm sống của mỗi người. Lắm khi trong thơ dùng phép ẩn
dụ, mượn cái này để nói cái kia. Người đọc thông qua trực giác mà cảm nhận ý ở
ngoài lời, biểu tượng ở ngoài hình tượng.
Xưa nay, người ta ví Thiền và thơ như băng tuyết với than hồng [3;tr101].
Nhưng đến đời Đường Trung Quốc, thời kì Thiền tông cực kì thịnh hành thì thơ
và Thiền được dung hợp từ tư duy nghệ thuật, có mối quan hệ vô cùng khăng
khít. Theo một số nhà nghiên cứu, mối quan hệ giữa chúng được thể hiện ở các
phương diện:


Một là: “Dĩ thi ngụ Thiền” (dùng thơ nói Thiền)



Hai là: “Dĩ Thiền thuyết thi” (dùng Thiền nói thơ)



Ba là: “Dĩ thi nhập Thiền” (dùng thơ vào Thiền)

Ở phương diện thứ nhất: Dĩ thi ngụ thiền, lại chia ra làm hai trường hợp:

1.

Dùng Thiền nói thơ chỉ quá trình dùng các đặc trưng triết lí của thiền

để làm các phương thức thể hiện của thơ. Trường hợp này ứng với quá trình sáng
tạo của nhà thơ.
2.

Dùng Thiền nói thơ còn chỉ việc lấy triết lí thiền tông làm phương

thức lĩnh hội thơ. Tình huống này ứng với quá trình tiếp nhận của độc giả.
Ở phương diện thứ hai: dùng thơ nói Thiền là chỉ sự gửi gắm những tư
tưởng triết học của Thiền tông thông qua các bài thơ.
Hai phương diện trên chính là hai mặt của một vấn đề, bởi vì phương diện
thứ hai chính là hệ quả của phương diện thứ nhất. Ở phương diện thứ nhất, cách
tư duy của Thiền trở thành phương thức thể hiện của thơ, đây chính là “ tầng
hình thức”. Phương thức đó nhằm đạt đến hiệu quả là thể hiện triết lí Thiền tông,
đây là tầng ý nghĩa ẩn ảo.
Tiểu kết
Những tác phẩm chỉ mượn hình thức thơ để nói Thiền thì dễ rơi vào lí
thuyết khô khan như một số kinh điển Phật giáo được diễn ngâm; nhưng những
bài mà màu sắc Thiền tan biến trong thơ khó nhận ra được là những bài thơ mang
vẻ đẹp đích thực của thi ca.
Có thể nói rằng, đối với những bài thơ sử dụng quá nhiều Thiền ngữ để diễn
đạt Thiền lý thì sa vào sự khô khan, trừu tượng không hấp dẫn. Những bài gần
như không dùng Thiền ngữ mà đạt được Thiền lý thì thâm trầm, thơ có Thiền vị
thì đậm chất thơ, là thơ đích thực.
12



Quá trình tìm hiểu thơ Thiền Vương Duy, cần nhấn mạnh đến Thiền tông
(Huệ Năng với phái Nam tông) chắc hẳn không chỉ vì địa vị hay tính độc đáo của
nó, mà quan trọng hơn là sự ảnh hưởng một cách sâu sắc, rộng rãi của nó đối với
các loại hình nghệ thuật như hội họa, âm nhạc, thi pháp,… của đời Đường, trong
đó có Đường thi. Cho nên mới nảy sinh ra cái gọi là “Thiền thú thi” (thơ có Thiền
vị). Và có thể nói, ảnh hưởng Phật giáo trong thơ Đường chủ yếu là ảnh hưởng
của Thiền tông. Giáo lý Thiền tông đã giúp các nhà thơ kết hợp hài hòa giữa tư
cách nhà thơ và nhà sư, giữa việc làm thơ và ngồi Thiền, giữa sự ngộ đời và ngộ
đạo mà nổi bật lên là Vương Duy.

13


Chương 2
THƠ VƯƠNG DUY
NHÌN TỪ GÓC ĐỘ MỸ HỌC THIỀN TÔNG
2.1. Phong cách thơ Vương Duy – Sự hạnh ngộ giữa văn hoá Thiền và thơ
Cơ duyên với Thiền của Vương Duy bắt nguồn từ chính gia đình của nhà
thơ. Ngay từ nhỏ Vương Duy đã tiếp thu luồng tư tưởng Phật học từ gia đình mà
đặc biệt là từ mẹ. Gia đình ông là một gia đình Phật tử thuần thành, mẹ và anh
em ông đều quy y và ăn chay [9;tr73]. Không khí trong nhà lúc nào cũng đượm
mùi nhang khói, lầm rầm tiếng tụng kinh niệm Phật hết sức thành kính[3;tr9].
Mỗi người có một hoàn cảnh xuất thân khác nhau, gia đình sẽ là cái nôi nuôi
dưỡng tâm hồn và dẫn dắt luồng tư tưởng của họ sau này. Cha mất sớm, ông được
mẹ nuôi dưỡng và chăm sóc, thiếu thốn tình cảm của cha từ nhỏ ông đã có sẵn
một tâm hồn nhạy cảm để dễ dàng rung động trước cuộc sống, thiên nhiên và con
người. Hoàn cảnh ấy cũng tạo điều kiện thuận lợi để ông đến với Phật giáo và
tiếp thu tinh thần Phật giáo ngay từ rất sớm.
Ngay từ nhỏ Vương Duy đã sớm bộc lộ những năng khiếu khác thường.
Với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế sẵn có, Vương Duy đã dần thẩm thấu không khí

sùng đạo Phật trong gia đình để sau này, khi đã trưởng thành, mỗi khi chán
chường, mệt mỏi, ông lại tìm về với Phật. Vương Duy luôn tìm thấy ở Phật giáo
một nguồn an ủi thật gần gủi, thật thân thuộc như đứa con tìm về với lòng mẹ vậy.
Hơn nữa Vương Duy sống vào thời cực thịnh của đạo Phật ở Trung Hoa nên đây
cũng là điều kiện thuận lợi để đưa Vương Duy trở về với sự tĩnh tại của Phật giáo.
Lí do Vương Duy đến với Phật giáo và Thiền tông một phần nữa là do chính
những biến cố từ cuộc đời của ông. Nếu tuổi thơ của nhà thơ trôi qua một cách
êm đềm bên người mẹ hiền từ thì cuộc đời sau này của ông lại trải qua rất nhiều
biến cố, con đường hoạn lộ của ông cũng lắm thăng trầm, lúc thăng lúc giáng.
Năm 721, Vương Duy đỗ Tiến sĩ và được bổ làm Đại Nhạc Thừa (phụ tá cho bộ
trông coi về Lễ nhạc và Âm nhạc), và cũng bắt đầu từ đâu ông bị cuốn vào cái
vòng quay của bao tranh chấp, tranh giành quyền lực. Vương Duy sống trong một
giai đoạn đầy biến động của lịch sử Trung Hoa. Vương Duy là nạn nhân của cuộc
tranh chấp giữa giới quý tộc và giới sĩ phu [9;tr28]. Dưới thời của Vũ Hậu , bà
trọng dụng giới sĩ phu, một phần vì trọng dụng nhân tài thực sự, một phần để
đánh đổ thế lực của hoàng tộc họ Lý. Tuy nhiên, đến khi cháu nội của bà là
14


Huyền Tông lên ngôi (712) thì ông lại khôi phục dần thế lực của giới quý tộc
nhưng sau đó nhà vua lại nghi ngờ chính thế lực hoàng tộc của họ mình .
Năm 722, khi Vương Duy vừa nhận chức quan thì nhà vua ra đạo lực cấm
giới quý tộc thân cận với thường dân. Tuy xuất thân từ một gia đình quý tộc,
nhưng vì mới đậu Tiến sĩ nên Vương Duy bị xem là thuộc tầng lớp trí thức khoa
bảng nhiều hơn [9;tr28]. Từ năm 723-733 là những năm phiêu bạt của Vương
Duy, lúc này ông mới 22 tuổi. Vương Duy lớn lên trong cảnh vàng son của một
gia đình quý tộc, giữa kinh đô Trường An hoa lệ, lại là người sớm nổi tiếng về
cầm, kì, thi, họa được trọng vọng ngưỡng mộ nay lại bị đuổi đi xa. Đây quả là
một biến cố bi đát nhất trong cuộc đời của vị thi sĩ trẻ đầy tài hoa này. Mười năm
phiêu bạt giang hồ, Vương Duy trải nghiệm biết bao cay đắng, khổ cực và từ đây

ta có thể thấy những năm khắc khoải, đớn đau, tiều tụy mà ông phải trải qua.
Vương Duy đến với Thiền tông, tìm về cái tâm an tĩnh. Mỗi khi bãi triều trở về
nhà, ông lại ngồi lặng lẽ một mình đốt hương, tụng kinh, niệm Phật[3;tr23]. Đây
là lúc Vương Duy đặc biệt nhạy cảm với bước đi của thời gian và nhạy cảm với
những chuyện chốn quan trường, ông càng nương vào những triết lí nhà Phật như
một nguồn an ủi.
Cuộc đời đầy sóng gió của Vương Duy còn gắn liền với sự kiện lịch sử to
lớn của Trung Quốc, đó là loạn An Lộc Sơn. Từ khi vợ mất, năm ông 30 tuổi,
Vương Duy đã sống cuộc sống bình lặng “bán quan bán ẩn”, không nàng hầu,
không thê thiếp. Sự biến An Lộc Sơn đã phá vỡ thế ổn định tạm thời của nhà
Đường, cũng như làm đảo lộn cuộc sống yên tĩnh, nhàn cư của Vương Duy [3;tr.
22]. Ông từng bị bắt bỏ tù và buộc phải làm quan cho Ngụy triều. Ngụy triều sụp
đổ, ông suýt bị tội nặng, may nhờ sự che chở của bạn bè và nhờ có người em trai
là Vương Tấn đã lập công lớn cho Túc Tông mà ông mới được vô sự. Tất cả
những biến cố “trời long đất lở” ấy đã tác động mạnh mẽ tới tư tưởng của hầu
hết các nho sĩ trí thức đương thời, trong đó có Vương Duy. Ông đã có một cái
nhìn thấu suốt về cuộc sống. Vương Duy đã tìm thấy lối đi riêng cho thơ ca, để
rồi ông tạo nên một phong cách nghệ thuật rất riêng, rất mới mẻ.
Tóm lại, tài năng văn chương sẵn có, kết hợp với truyền thống gia đình và
những biến cố lớn lao xảy ra trong cuộc đời đã đưa Vương Đuy đến với Phật giáo
Thiền tông và tạo thành một Vương Duy - Thi Phật sừng sững, sánh ngang cùng
Lý Bạch - Thi Tiên, Đỗ Phủ - Thi Thánh.
2.2 Vương Duy - Thi Phật
15


Tên tự của Vương Duy trùng với tên của một vị bồ tát: Duy Ma Cật (tức
Vimalakirti). Duy Ma Cật chủ trương không trốn chạy, né tránh trần thế mà chủ
trương giải thoát ngay ở thế giới phàm tục này, dùng mọi biện pháp để cảm hóa
chúng sinh. Việc Vương Duy dùng tên vị Bồ tát này làm tên tự càng chứng minh

rõ quan điểm “tâm xuất gia, thân không xuất gia” của ông.
Vương Duy là đệ tử của Thiền tông. Thiền tông ở Trung quốc được phân
hóa thành hai phái : Thần Tú cầm đầu Bắc Tông và Huệ Năng đứng đầu Nam
Tông. Vương Duy là đệ tử của Nam Tông.
Học giả Lâm Ngữ Đường (Trung Quốc) đã nói: “Thơ có nhiệm vụ thay thế
tôn giáo, nghĩa là nhiệm vụ làm cho tâm hồn thanh khiết, cảm nhận được cái đẹp
của vũ trụ và khiến cho con người cảm hóa được sinh vật. Nói thế nghĩa là thơ có
những điểm gặp gỡ, đồng điệu với tôn giáo”. Điều này thể hiện rất rõ trong
những bài thơ Thiền. Thơ và Thiền gặp nhau trong trực giác và cảm nhận của tri
thức “Thơ và Thiền từ Đông sang Tây trợ duyên nhau mà làm nên những bài thơ
siêu việt. Phương Đông xưa nay là quê hương, xứ sở của Thiền”[11]. Ngoại trừ
những bài thơ được sáng tác thời niên thiếu với tinh thần trẻ trung, hồn nhiên thì
phần lớn sáng tác của Vương Duy đều bị chi phối bởi tư tưởng của văn hóa Thiền
tông.
Vương Duy sống cuộc sống theo gương của Vương Ma Cật và chịu nhiều
ảnh hưởng của ông. Chính vì thế, “toàn bộ phần chính của thơ Vương Duy là thơ
của Vương Ma Cật”[9; tr75]. Dường như thơ của ông không có cái đau đớn,
chán chường, không có nỗi khổ đau, bệnh tật, chết chóc của cuộc đời tục lụy. Đó
là sự “siêu thoát một cách đơn giản, tuyệt diệu một cách nhẹ nhàng”[9; tr75]…
tất cả tạo nên một phong cách riêng biệt, độc đáo của riêng Vương Duy.
Hai đặc trưng nổi bật trong thơ Vương Duy đó là: “Thi trung hữu họa” và
“Dĩ thi ngụ Thiền, Dĩ Thiền thuyết thi”
Đặc trưng thứ nhất là “Thi trung hữu họa” (trong thơ có họa). Sỡ dĩ chúng
ta có thể nói như vậy vì thơ Vương Duy áp dụng đầy đủ ba nguyên tắc cơ bản của
“họa”. Nguyên tắc đầu tiên là “luật viễn cận”. Mỗi bài thơ mang một điểm nhìn
của “chủ thể nhìn”. Có thể là từ điểm nhìn cố định, “chủ thể nhìn” phóng tia
nhìn ra khắp cảnh vật theo hướng nằm ngang hay chiều dọc của mặt bằng không
gian (tiêu điểm thấu thị). Sự kết hợp giữa cảnh xa, cảnh gần đưa đến một bức
tranh bình ổn nhã đạm:
“Thanh cô lâm thủy ánh

16


Bạch thủy hướng sơn phiên”
Dịch nghĩa:
“Cỏ xanh soi bóng xuống nước long lanh
Chim trắng bay về phía núi”
Để cuối cùng điểm nhìn tập trung về phía con người:
“Cát cao phương quán viên”
(Lấy gàu múc nước giếng tưới vườn)
Và đó có thể là điểm nhìn từ cao xuống hay thấp lên, biến hoá và có độ
nghiêng nhất định (phủ ngưỡng thấu thị). Sau một đêm mưa, nước từ khe suối xa
tuôn xuống cả trăm dòng, Vương Duy đã khéo léo ghép cảnh xa với cảnh gần
(ngọn cây cao ngang trước mắt) đưa đến cho ta cảm giác mới lạ, giống như trăm
dòng suối đang đổ từ trên ngọn cây xuống đầu mình:
“Sơn trung nhất dạ vũ
Thụ điểu bách trùng tuyền”
(Tống Tử Châu Lí sứ quân)
Dịch nghĩa:
“Trong núi sau một cơn mưa đêm
Trăm lớp suối tuôn từ trên ngọn cây”
Hay đó có thể là điểm nhìn di động theo sự di chuyển của con người cả về
không gian lẫn thời gian (tán điểm thấu thị), thế cho nên thế giới được nhìn như
chính nó từ khắp mọi nơi và không từ nơi nào cả:
“Thái ất cận thiên đô/ Liên sơn đáo hải ngu
Bạch vân hồi vọng hợp/ Thanh ái nhập khan vô
Phân dã trung phong biến/ Âm tình chúng hác thù
Dục đầu nhân xứ túc/ Cách thủy vấn tiều phu”
(Chung Nam sơn)
Dịch nghĩa:

“Núi Thái ất ở gần thiên đô/ Núi liền nhau chạy đến tận biển
Nhìn lui thấy mây trắng bao phủ/ Mây xanh biếc khi thấy khi không
Vị trí (châu Tần, Lương) do ngọn giữa thay đổi/ Khi tạnh im, hang hốc
phân biệt rõ
Muốn ghé nhà người ta nghỉ nhờ/ Cách dòng suối hỏi người đốn củi.”
Nguyên tắc thứ hai là phép pha màu sắc. Thơ Vương Duy có bài là bức hoạ
hoặc được vẽ bằng màu sắc sinh động, tươi tắn:
17


“Mộc mạc phù dung hoa
Sơn trung phát hồng ngạc
Giản hộ tịch vô nhân
Phân phân khai thả lạc.”
(Tân Di ổ)
Dịch nghĩa:
“Chót vót cành phù dung
Cánh hồng nảy giữa núi
Nơi khe vắng bóng người
Bời bời nở rồi rụng.”
Giữa “sơn trung”, “giản hộ” nổi bật lên một bông phù dung rực rỡ mang
màu “hồng ngạc”. Qủa là một sự tinh tế đến tột bậc, giữa màu sắc ảm đạm của
núi, của suối, bông hoa nổi bật lên như một triết lý về sự sống của vũ trụ trong
một xu thế vận động quen thuộc tất yếu: nở - tàn (khai – lạc).
Hoặc bằng nét vẽ nhạt màu của hội họa thủy mặc sơn thủy:
“Không sơn bất kiến nhân
Đản văn nhân ngữ hưởng
Phản ảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng.”
(Lộc trại)

Dịch nghĩa:
“Núi vắng không thấy người
Chỉ nghe tiếng người nói
Nắng hắt vào rừng sâu
Trên rêu xanh lại rọi.”
Hoặc là bằng nét vẽ không, ở đó sự vật, hiện tượng thường không có màu,
sơn thủy đạm bạc thanh không. Khiến cho thiên nhiên đạt tới độ cao của vẻ “tự
nhiên nhi nhiên”:
“Độc tọa u hoàng lý
Đàn cầm phục trường khiếu
Thâm lâm nhân bất tri
Minh nguyệt lai tương chiếu.”
Dịch nghĩa:
“Một mình giữa bụi hoang
18


Gảy đàn rồi hét vang
Rừng sâu nào ai biết
Trăng sáng lại soi chung.”
Nhìn chung, màu sắc trong thơ Vương Duy là màu sắc của hội họa thuỷ mặc
sơn thuỷ. Nó mang vẻ đẹp tĩnh tại, đạm bạc... đầy phong vị Thiền.
Nguyên tắc thứ ba là “phép cấu trúc”. Tức là tạo ra mối liên hệ giữa các
yếu tố của một bức họa. Trong thơ Vương Duy, nguyên tắc này thể hiện ở sự
thống nhất giữa các mặt đối lập để tạo nên sự hài hoà của ý cảnh. Cấu trúc thơ
Vương Duy có thể là từ rộng lớn đến bé nhỏ, từ vũ trụ bao la đến con người và
ngược lại:
“Đại mạc cô yên trực
Trường hà lạc nhật viên”
(Sứ chí tái thượng)

Dịch nghĩa:
“Sa mạc lớn một ngọn khói cô độc thẳng đứng
Dòng sông dài một mặt trời sa xuống tròn xoe.”
Nhờ áp dụng nguyên tắc cấu trúc này mà mỗi bài thơ Vương Duy trở nên là
một bức tranh hoàn chỉnh, làm nêu bật đặc trưng “thi trung hữu họa”. Như Tô
Đông Pha đã từng nhận xét: “Đọc thơ Ma Cật thấy trong thơ có họa. Xem tranh
Ma Cật thấy trong họa có thơ.”
Đặc trưng nổi bật thứ hai của thơ Vương Duy là thơ Thiền, điển hình của
hiện tượng thi tăng trong thơ Đường. Đặc trưng này nói lên mối quan hệ khắng
khít giữa tư tưởng Phật giáo, nhất là Thiền tông đối với thơ ca đời Đường nói
chung và với Vương Duy nói riêng. “Thi tăng” có thể hiểu đơn giản là thơ do
những nhà tu hành làm ra hoặc là thơ do những người chỉ chịu ảnh hưởng tư
tưởng Phật giáo làm ra.Vương Duy thuộc loại thứ hai này. Ông không phải là nhà
sư, nhưng thơ ông lại được gọi là “thi Phật”. Bởi lẽ, thơ ông là thơ của triết lý
Thiền và hơn thế, cuộc đời ông sống theo lối sống của một đệ tử nhà Thiền: “tâm
xuất gia, thân không xuất gia”. Nhờ đó, Thiền sư - thi nhân có thể là bạn tri âm
của nhau và cũng có thể là song trùng một bản ngã duy nhất. Thế giới Thiền thi
của Vương Duy là một nghệ thuật kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa thơ và họa,
giữa Phật giáo và Lão giáo, là sự dung hợp Thiền - Thơ. Tính triết lý của Thiền và
tính trữ tình của thơ hài hoà cho nhau. Triết lý vô ngôn tỏ ra vô cùng hữu dụng
cho tính “gợi”, tính hàm súc và khái quát của thơ Đường. Chính vậy, với thơ
19


Thiền nói chung, sự cảm nhận bằng trực giác, trực cảm quan trọng hơn sự phân
tích. Nói cho chính xác, để thấy cái hay của thơ Thiền, phương pháp phân tích
cần được áp dụng trong ý thức rằng phải làm thế nào để sự phân tích đó không
tách rời ý, cảnh mà ngược lại, phân tích để làm sáng rõ nghệ thuật, sự chuyển
hoá, sự hài hoà giữa các mặt đối lập với nhau.
Thiên nhiên xưa nay vốn là “khách” của Thiền nhân và thi nhân. Thi nhân

lấy thiên nhiên làm suối nguồn cảm tác, làm nơi gởi gắm tâm tình; Thiền nhân lại
dùng thiên nhiên làm khung cảnh thiền để nói ý vị Thiền và triết lí Thiền. Thơ
điền viên sơn thuỷ xét cho cùng cũng là thơ viết về thiên nhiên. Ca ngợi, bày tỏ
thú vui điền viên thực chất là ca ngợi lối sống chối bỏ vinh hoa phú quý, trở về
với thiên nhiên, coi đó là lí tưởng sống, triết lí sống hạnh phúc của nhân sinh vậy:
“Tái kiến: phong hầu vạn hộ
Lập đàm: di bích nhất song
Cự thắng ngẫu canh nam mẫu
Hà như cao ngọa đông song.”
(Điền viên lạc – bài số 5)
Dịch nghĩa:
“Đứng thuyết: đôi ngọc bích: tặng
Gặp lại: Vạn Hộ Hầu: phong
Chẳng bằng cày bừa vườn ruộng
Nào như nằm ngủ đông song.”
Hiện thực cuộc sống đôi lúc bộn bề với những lo toan và đau khổ nhưng con
người ta vẫn có thể sống vui ở đời là nhờ vào ước mơ và khát vọng. Những khi mà
hiện thực ghì chặt đôi cánh ước mơ, khát vọng hạnh phúc vẫn được ươm trồng, nâng
niu trên mặt đất sỏi đá khô cằn này.
Nhờ hiểu rõ quy luật “sinh, lão, bệnh, tử” của con người, lẽ “thành, trụ, hoài,
không” của vạn vật, Vương Duy dùng cái tâm an nhiên, tự tại của Thiền nhân để
nhìn sự vật, hiểu được lẽ vô thường của vạn pháp và sự bất biến của tự tính Chân
Như. Vì cánh hoa bay mà con người nhận thức được bằng mắt thường đó chỉ là giả
tướng. Gửi gắm triết lý yếu chỉ của Thiền tông vào một cánh hoa rơi, tính chất triết
lý – trữ tình của Vương Duy đã đạt đến độ nhuần nhuyễn:
“Nhật nhật nhân không lão
Niên niên xuân cánh quy
Tương hoan hữu tôn tửu
20



Bất dụng tích hoa phi.”
(Tống xuân từ)
Dịch nghĩa:
“Ngày lại ngày, người cứ già
Năm theo năm vẫn đến hoài
Hãy vui thú cùng với chén rượu
Cần gì phải tiếc thương cánh hoa bay.”
Những bài thơ Thiền của Vương Duy mang xu hướng “tĩnh hóa sự vật”. Chủ
trương của Thiền tông là “vô ngôn” vì vậy yếu tố đặc trưng trong thơ Thiền là
“tĩnh”. Vương Duy đã nhìn cảnh vật bằng cái tâm đầy Thiền ý nên mới có thể sáng
tạo ra một khung cảnh cực kì “tĩnh”:
“Đại mạc cô yên trực
Trường hà lạc nhật viên.”
(Sứ chí tái thượng)
Dịch nghĩa:
“Sa mạc lớn một ngọn khói cô độc thẳng đứng
Dòng sông dài một mặt trời sa xuống tròn xoe.”
Giữa sa mạc gió cuốn mà vẫn nhìn thấy một ngọn khói cô độc, giữa dòng
sông dài chảy xiết vẫn có một mặt tròi tròn xoe. Bản ngã phi thường của một vị
Thiền sư – thi sĩ Vương Duy đã vượt lên trên sự vật, dùng huệ nhãn để nhìn thấy
cái tĩnh vĩnh hằng của Chân Như đằng sau những sự vật vốn cực kì biến động
trong mắt thường nhân là đại mạc, trường hà. Thứ logic này chỉ riêng những người
có kiến thức Thiền tông mới hiểu được.[1; tr. 115]
Vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống con người đã đem lại trạng thái giác ngộ
chân lý cho nhân vật trữ tình. Và như thế, nhân vật trữ tình hòa nhập bản ngã của
mình vào đại vũ trụ để thể ngộ chân lí của đạo. Điểm tuyệt diệu của những bài thơ
này là nội dung triết lý hòa tan vào trong những hình ảnh sống động của thơ ca.[1;
tr. 115]
Có thể phân tích tác phẩm “Điểu minh giản” để làm minh chứng cụ thể cho

điều này:
Điểu minh giản là một bài thơ xinh xắn, bình dị nhưng hàm chứa nhiều ý vị
thâm trầm của Thiền học. Bài thơ được làm theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt, chỉ vẻn
vẹn hai mươi chữ nhưng ý nghĩa của bài thơ không hạn định trong khuôn viên
câu chữ của nó.
21


Cả bài thơ là một bức tranh phong cảnh nhuốm tình người:
“Nhân nhàn quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không.
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh tại giản trung.”
Tất cả cảnh vật được thu vào bên trong. Những hình ảnh xuất hiện trong bài
thơ: hoa quế, ánh trăng, núi non, khe suối, chim kêu,.. là những hình ảnh quen
thuộc trong thơ ca phương Đông nhưng ở đây lại có sức ám gợi lạ thường, sâu xa.
Nói như Nguyễn Văn Hạnh: Tính biểu tượng của thiên nhiên trong bài thơ không
phải ở những hình ảnh đơn lẻ mà ở sự tương tác hài hòa giữa chúng (…). Màu
Thiền của bài thơ nằm khuất lấp giữa các dòng thơ, ẩn mình đằng sau cảnh sắc,
trong cái tĩnh lặng của hồn người.[6]. Bởi vậy bài thơ tạo cảm giác tĩnh lặng,
thanh nhã, bình đạm. Thế giới nghệ thuật của nó là một phức hợp cộng hưởng,
giao hòa giữa: người và cảnh, âm thanh và ánh sáng, thính giác - thị giác - khứu
giác và xúc giác, không gian và thời gian.
Ở đây, thiên - nhân - địa cùng hợp nhất. Mọi vật đều có linh hồn. Cảnh vật
thiên nhiên trong tứ thơ của “Điểu minh giản” ảnh hưởng tư tưởng Thiền “có có
không không” hết sức sâu đậm, tạo thành một cảnh giới linh hoạt, huyền ảo, yên
tịnh, vắng lặng đến nhiệm mầu. Con người, vũ trụ là một, “tất cả tức một, một
tức tất cả”. Tác giả mượn cảnh sơn thủy hữu tình để truyền tải đến độc giả một
cảnh giới “thong dong tự tại, tĩnh lặng trong lành” có cội nguồn gốc rễ tự trong
tâm. Đó là bức tranh tâm cảnh. Đỗ Phủ trong bài thơ Giải muộn từng gọi Vương

Duy là cao nhân Vương Hữu Thừa. Vương Xương Linh thì nói: “Thân ở thế gian
nhưng tâm thì vượt thoát thế gian”. Nhận xét đó thật đúng với bài thơ này.
Nổi bật trong bức tranh sơn thủy hữu tình, giàu sức gợi, nên thơ và tĩnh lặng
đó là hình ảnh một tao nhân mặc khách - một ẩn sĩ muốn thoát khỏi mọi hệ lụy
của chốn bụi trần để “tịnh tâm”. Vương Duy chịu ảnh hưởng Thiền học rất sâu
đậm, “không tịnh” là cảnh giới ông ra sức để đạt được ở trong thơ. Đó cũng
chính là sự “bừng ngộ” trong tâm hồn ông. Vì vậy, cái khoảng không gian tĩnh
lặng ở khe núi nên thơ nên họa, đậm chất Thiền xuất hiện khá nhiều trong thơ
ông:
“Giản hộ tịch vô nhân
Phân phân khai thả lạ”
(Tân Di ổ)
22


Dịch nghĩa:
“Ngõ khe vắng không người
Mặc tình hoa nở rụng”
Trong bài thơ “Điểu minh giản”, triết lý của Thiền học giống như cục nam
châm tạo nên tâm điểm hút dính các câu thơ lại thành một chỉnh thể, một cấu trúc
ẩn, một hàm ý siêu thoát! Có thể thấy rằng, cái hay của bài thơ thể hiện ở tính độc
đáo trong cách diễn tả sự chứng ngộ Phật - sự “Tịnh độ” trong tâm linh của Ma
Cật: an nhiên, tĩnh tại, hòa nhập với thế giới sắc không (lớp nghĩa tư tưởng) và ở
thế giới hình tượng thơ tương giao, hòa quyện, gắn kết tạo nên ý nghĩa thẩm mỹ
mới lạ (lớp nghĩa nghệ thuật). Nghĩa tư tưởng và nghĩa nghệ thuật của tứ thơ có sự
chuyển hóa, dung hợp, đan quyện, giao hòa đem đến cho người đọc những mỹ cảm,
nhận thức khác. Đó là vẻ đẹp tâm hồn dung dị của nhà thơ hòa mình trong đời sống
dân dã, đằm thắm. Có lẽ nhà thơ đã khám phá ra chính mình trong thiên nhiên và
trong thái tĩnh lặng, hư vô. Bài thơ gợi ra hình ảnh một Thiền sư ở giữa cuộc sống,
giữa thiên nhiên vừa ung dung giản dị vừa tinh tế nhạy cảm, vượt lên tất cả, hòa

nhập tất cả, “tất cả tức một, một tức tất cả”. Bài thơ ngắn, ý tứ cô đọng rất thích
hợp với tình cảnh sâu lắng mang đậm nội tâm của Thiền.
Thơ Vương Duy ở mảng đề tài nào cũng thấy ngọn bút tài hoa của ông: Thơ
tâm tình li biệt, thơ vui thú điền viên và cả thơ Thiền nữa. Thơ Vương Duy đẹp,
không chỉ đẹp ở “bức màn thưa” mà còn đẹp ở nơi chỗ tự nhiên và bình thường
của cuộc sống. Đó là lí do khiến cho phong cách thi Phật rất riêng của Vương Duy
có thể góp thành cái chung không thể thiếu trong diện mạo thơ Đường.
2.3 Giá trị của văn hóa Thiền tông trong thơ Vương Duy
Thơ Thiền là một mảnh đất màu mỡ được nhiều người cùng nhau cày xới.
Thiền tông có ảnh hưởng sâu rộng đến nền văn hóa, văn học của nhiều nước châu
Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam… Tư tưởng của Thiền (Zen) chi phối
mạnh mẽ đến văn hóa và tư duy người Nhật trên nhiều phương diện. Sự gặp gỡ
giữa Thiền và thơ đã sinh ra những bông hoa xinh xắn nhất trong vườn hoa Haikư. Nhiều bài thơ của Basho thấm đẫm tinh thần Zen:
“Ao cũ
Con ếch nhảy
tiếng nước”
Ở Việt Nam thơ Thiền cũng lên ngôi ở thời đại Lý – Trần. Thơ Thiền thời
này đã đạt được những thành tựu rực rỡ mà đời sau vẫn còn ngưỡng mộ:
23


Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá Đông hoàng diện
Thiền bản đồ đoàn khan tụy hồng
(Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không
Ngày xuân hoa nở rộ tơ long
Chùa xuân nay hãy còn quen mặt
Chiếu cọ giường sư ngắm bong hồng
(Ngô Tất Tố dịch)

Ở Trung Quốc, trong trường phái thơ điền viên sơn thủy, ngoài Vương Duy
còn có nhiều nhà thơ khác như Mạnh Hạo Nhiên. Phong cách thơ của Mạnh Hạo
Nhiên gần với Vương Duy, người đời sau xếp ông ngang với Vương Duy, gọi là
phái “Vương Mạnh”. Nhiều bài thơ của họ Mạnh cũng có cái nhìn an nhiên của
lòng Thiền :
“Xuân miên bất giác hiểu,
Xứ xứ văn đề điểu.
Dạ lai phong vũ thanh,
Hoa lạc tri đa thiểu “
(Xuân hiểu)
Dịch nghĩa:
“Giấc xuân, sáng chẳng biết ;
Khắp nơi chim ríu rít ;
Đêm nghe tiếng gió mưa ;
Hoa rụng nhiều hay ít?”
(Buổi sáng mùa xuân)
Trong mảnh đất lắm người cày xới ấy, Vương Duy đã tạo cho mình một
tiếng nói riêng, một cách diễn đạt riêng. Văn hóa Thiền tông trong thơ Vương
Duy mang những giá trị thẩm mĩ đặc sắc và chính cái đặc sắc ấy đã làm nên một
Vương Duy – Thi Phật.
Không ở đâu con người thi nhân và con người Thiền sư lại hòa nhập tuyệt
đối như trong thơ Vương Duy:
“Nhật nhật nhân không lão
Niên niên xuân cánh quy
Tương hoan hữu tôn tửu
24


Bất dụng tích hoa phi”
(Tống xuân từ)

Dịch nghĩa:
“Ngày lại ngày, con người cứ già đi
Năm lại năm xuân vẫn đến hoài
Hãy vui thú cùng với chén rượu
Cần gì phải tiếc thương cánh hoa bay.”
(Lê Nguyễn Lưu dịch)
Hiểu rõ cái vòng quay của cuộc sống, Vương Duy dùng cái tâm an nhiên, tự
tại của Thiền nhân để đối mặt. Vì vậy mà bình thản “bất dụng tích hoa phi”. Có
gì đâu mà phải buồn, phải tiếc vì cánh hoa mà con người nhận thức được bằng
mắt thường chỉ là giả tướng. Nếu dùng con mắt của Thiền, cái tâm của Thiền mà
nhìn sự vật, hiểu rõ cái vô thường của vạn pháp và sự bất biến của tự tính Chân
Như thì không có gì đáng phải tiếc thương. Mượn một cánh hoa bay để gửi gắm
triết lí sâu sắc của Thiền tông đã cho thấy độ nhuần nhuyễn của tính chất triết lí trữ tình trong thơ Vương Duy.
Một nét đặc sắc khác trong nghệ thuật thơ Thiền Vương Duy đó là nghệ
thuật sử dụng hình ảnh biểu tượng, thiền ngữ trong thơ. Số lượng bài thơ dùng
thiền ngữ để trực tiếp diễn đạt thiền lý tuy không nhiều nhưng nó cũng làm nên
diện mạo thơ Vương Duy. Nhiều người cho rằng không dùng thuật ngữ của Thiền
mà bài thơ vẫn mang Thiền tính mới là đặc sắc, mới là hay, là khó. Ý kiến đó
không phải là không có lí. Tuy nhiên, việc đưa Thiền ngữ vào trong thơ, tạo nên
một chỉnh thể nghệ thuật đặc sắc cũng không phải là dễ dàng.
Thiền ngữ với xu thế ước lệ hóa, khi đưa vào bài thơ nó sẽ giúp cho mục
đích triết lí được hiển lộ rõ ngay trên bề mặt ngôn ngữ:
Sơn trung tập tĩnh quan triêu cận
Tùng hạ thanh trai chiết lộ quỳ
( Nhìn cây cận sớm học Thiền ở trong núi
Bẻ lá quỳ đẫm sương để ăn chay dưới rừng thông)
Tuy nhiên nếu Thiền ngữ không được sử dụng khéo léo thì sẽ làm mất đi
chất thơ của tác phẩm và biến nó trở thành một bài kệ thuần túy. Hơn nữa, để có
thể sử dụng Thiền ngữ đúng và đắt đòi hỏi nhà thơ phải hiểu sâu sắc và cặn kẽ
triết lí của Thiền cũng như giá trị, ý nghĩa biểu đạt của Thiền ngữ. Một nhà thơ tài

hoa, nổi danh ngay từ rất sớm, một con người từ nhỏ đã tiếp xúc với không khí
25


×