Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

PHONG BA bão táp có BẰNG NGỮ PHÁP VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.94 KB, 2 trang )

PHONG BA BÃO TÁP CÓ BẰNG NGỮ PHÁP VIỆT NAM?

1. Học sinh và giáo viên dạy
câu châm biếm truyền miệng “phong ba bão táp không bằng ngữ pháp VN”.

Phần đúng của câu trên phản ánh một thực tế: sách giáo khoa (SGK) tiếng Việt trường ph
đã cung cấp cho học sinh quá nhiều kiến thức tiếng Việt không cần thiết. Ðiều này xuất
quan niệm đã là SGK cần giải thích được tất cả những hiện tượng ngữ pháp tiếng Việt.H
các nhà viết SGK luôn tìm cách đưa vào sách một loạt khái niệm nhằm giải thích được càn
càng tốt những hiện tượng tiếng Việt. Mà những hiện tượng trên bề mặt ngôn từ lại
phong phú và phức tạp. Thế là sinh rối, sinh ra những “phong ba bão táp” trong hệ thố
niệm ngữ pháp…

Ðiều này dẫn tới một toan tính khác: có người cho rằng ngữ pháp lâu nay chúng ta dạy tr
trường (được gọi là ngữ pháp chủ vị – một câu có hai phần chủ ngữ và vị ngữ) là thứ n
không thích hợp, cần được thay bằng ngữ pháp chức năng, còn gọi là ngữ pháp đề thuy
câu

hai
phần
đề
ngữ

thuyết

2. Thật ra thời trước những người viết SGK chưa có nhiều kiến thức ngôn ngữ học “uyên b
các tác giả SGK thời nay, và nhà trường vẫn dạy thứ ngữ pháp chủ vị và chỉ là những k
tiếng Việt tối thiểu. Ấy thế nhưng chỉ cần học xong trung học, thậm chí tiểu học, đa số
đúng. Như vậy không phải cứ học nhiều lý thuyết ngữ pháp là viết đúng, v

3. Một nông dân mù chữ nhưng vẫn hiểu và dùng thuần thục những lời nói xa xôi, bóng g


khóe, mỉa mai, những lời “mát nước thối đá”. Ðã là người Việt, sinh ra và lớn lên trên đất
ai cũng có năng lực bẩm sinh tiếng Việt, nói năng thành thạo tiếng Việt. Có điều nói và vi
chuyện khác nhau. Chỉ có học, trước hết là những kiến thức tiếng Việt cơ bản, mới viết đú
tốt


Nếu như SGK chỉ cần cung cấp những kiến thức tinh - cơ bản, tối thiểu – thì học sinh lại c
rèn luyện cách học tinh – hiểu chính xác từng chữ, từng từ, từng khái niệm đã học. Hình
hội chúng ta đang mất dần thói quen tiếp nhận và sử dụng chính xác ngôn từ. Chẳng
nhiều báo cáo, nhiều nghị quyết, nhiều bài diễn giảng năm sau cũng tựa như năm

Chẳng thế mà đề thi Tả cảnh trường em sau buổi học bị không ít học sinh, phụ huynh thậ
giáo viên cho là “không rõ ràng, quá mông lung và gây hiểu lầm” (TT, 19-5). Sau buổi h
trước buổi học. Còn buổi học khác tiết học. Không tạo dựng được thói quen dùng chính x
từ
thì
làm
sao
thấy
được
cái
hay
của
tiếng

4. Cái hay và đặc sắc của ngữ pháp tiếng Việt là ở những từ hư (empty words) – những t
có nghĩa từ vựng. Hãy đặt từ hư trong ngữ pháp giao tiếp, nhiều hiện tượng “phong ba b
của ngữ pháp tiếng Việt sẽ trở nên sáng sủa. Chúng ta minh họa qua bốn câu đơ
(a) Con học tiếng Anh.
(b)


Con

học

tiếng

Anh

(c)

Con

học

tiếng

Anh

(d)

Con

học

tiếng

Anh

chứ


Cả ngữ pháp chủ vị lẫn ngữ pháp đề thuyết đều cho bốn câu này đồng nhất nhau về cấu t
là chủ ngữ (hoặc đề ngữ), phần còn lại là vị ngữ (hoặc thuyết ngữ). Tuy nhiên, cả hai n
này đều không chỉ ra được cách dùng và ý nghĩa của chúng hoàn toàn khá

Khi nghe bố khuyên “Con nên học tiếng Pháp”, người con chỉ có thể dùng câu c, chứ khô
ba câu còn lại, để từ chối đồng thời đưa ra một đề nghị khác là học tiếng Anh. Nói cách
cơ (/kia) đặt cuối một câu tường thuật dẫn tới một hành vi từ chối một lời đề nghị, khu
hay yêu cầu trước đó, đồng thời là hành vi đưa ra lời đề nghị của

Khi nghe mẹ rầy la “Sao con suốt ngày chơi game vậy!”, người con chỉ có thể dùng câ
không phải ba câu còn lại, để bác bỏ lời phê phán, rầy la này. Nói cách khác, từ chứ bộ (/đ
đặt cuối một câu tường thuật dẫn tới hành vi đưa ra chứng cứ nhằm bác bỏ lời phê bình t

Ðó là một ví dụ về ngữ pháp giao tiếp tiếng Việt – ngữ pháp của các hành vi ngôn ngữ
acts). Mấy từ hư đã, cơ, chứ bộ… đặt cuối câu tường thuật làm nên nét đặc sắc của n
tiếng Việt là như thế. Lồng ngữ pháp giao tiếp vào quá trình dạy ngữ pháp chủ vị là cách
tiếng Việt với đời sống một cách sinh động.

NGUYỄN Đ
Nguồn: http://tu



×