Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Chuyên đề ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.75 KB, 14 trang )

1. Ứng dụng công nghệ thông tin là xu thế tất yếu trong dạy học hiện nay
1.1. Vấn đề đổi mới phương pháp - phương tiện dạy học hiện nay
Hiện nay, giáo dục và đào tạo đang là vấn đề thách thức của toàn cầu. Nhiều
quốc gia trên thế giới đang nỗ lực đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục – đào
tạo với nhiều mô hình, biện pháp khác nhau nhằm mở rộng quy mô, nâng cao tính tích
cực trong dạy học, dạy làm sao để giúp người học hướng tới việc học tập chủ động,
chống lại thói quen học tập thụ động và học một cách toàn diện. Muốn vậy cần phải
nâng cao, cải tiến đồng bộ các thành tố liên quan, trong đó phương tiện dạy học
(PTDH) là một thành tố quan trọng.
Đặt trong bối cảnh thế giới đang chứng kiến những đổi thay có tính chất
khuynh đảo trong mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội nhờ những thành tựu của
CNTT, đổi mới PTDH nghĩa là các PTDH truyền thống như bảng đen, phấn trắng, mô
hình, thiết bị thí nghiệm, tranh ảnh, sách giáo khoa, vườn trường,… được thay thế
bằng các phương tiện hiện đại như máy vi tính, đĩa CD, DVD, máy chiếu, phần mềm
PowerPoint, hệ thống bảng tương tác, …Đây là một xu thế mang tính tất yếu của thời
đại. Thực tế đó đòi hỏi giáo dục cũng phải nhanh chóng đổi mới phương pháp –
phương tiện dạy học của mình, phải chuẩn bị đầy đủ ý thức, kĩ năng cho các công dân
tương lai, phải giúp HS đồng hành với không khí chung của thời đại và theo kịp tốc
độ phát triển của xã hội.
Chỉ thị số: 55/2008/CT của Bộ Giáo dục – Đào tạo Về tăng cường giảng dạy,
đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008 –
2012 đã chỉ rõ: “Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp
giảng dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu
quả và chất lượng giáo dục”. Những phương tiện dạy học hiện đại, tiên tiến được vận
dụng vào quá trình giảng dạy, góp phần làm giảm tải sức lao động của người GV đồng
thời khơi gợi ở HS sự tò mò, hứng thú đối với việc học, tạo điều kiện tối đa cho hoạt
động tự học, tự nghiên cứu của cả thầy và trò. CNTT sẽ là một trong những phương
tiện chủ yếu góp phần tạo nên sự khác biệt to lớn giữa dạy học truyền thống và dạy
học hiện đại.



Hòa trong xu hướng ứng dụng CNTT vào dạy học ở các cấp học và ở tất cả các
môn học là điều tất yếu, bộ môn Ngữ văn cũng từng bước vận động đổi mới phương
tiện dạy học của mình . Tuy nhiên đây là môn học vừa có tính khoa học, vừa mang
tính nghệ thuật, tính cảm xúc nên việc khai thác các tiện ích của CNTT vào dạy học
Ngữ văn nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy vẫn còn là điều thử nghiệm của các GV.
1.2 Hiệu quả của phương tiện công nghệ thông tin trong giáo dục- đào tạo nói
chung và trong dạy học Ngữ văn.
Trong đổi mới PTDH, một trong những xu thế tất yếu hiện nay là ứng dụng CNTT
vào giảng dạy. Bởi lẽ những thành tựu của CNTT đã góp phần quan trọng cho việc tạo
ra một môi trường giáo dục đa phương tiện mang tính tương tác cao giữa thầy và trò,
góp phần đa dạng hóa quá trình dạy học. Nhờ đó phát huy được năng lực sáng tạo, sự
tích cực, chủ động ở học sinh, duy trì và phát triển hứng thú học tập, củng cố niềm tin
vào bản thân cho người học. CNTT là điều kiện để xây dựng một xã hội học tập, đào
tạo những con người học tập theo triết lí học suốt đời của thế kỉ XXI.
Phương tiện CNTT đã góp phần đắc lực giúp HS tự tìm kiếm tài liệu, mở rộng
tri thức, cập nhật thông tin, tự kiểm tra, đánh giá năng lực của mình với các phần mềm
hỗ trợ học tập ; Về phía GV, phương tiện CNTT giúp hoạt động dạy học trở nên sinh
động, nhẹ nhàng hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian và công sức hơn so với cách dạy
và sử dụng những phương tiện truyền thống. Chỉ cần một cái “click” chuột, vài giây
sau trên màn chiếu hiện ra ngay nội dung bài giảng với những hình ảnh, âm thanh
sống động, thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú nơi HS. Sử dụng PTDH hiện đại ,
GV cũng có nhiều thời gian đưa ra các câu hỏi gợi mở, tạo điều kiện cho HS hoạt
động nhiều hơn trong giờ học, có thể kết nối với những kiến thức mở rộng, bổ sung
làm phong phú thêm bài học, có thể tóm tắt, hệ thống hóa kiến thức của một chương,
một bài dài trong nháy mắt… PTDH hiện đại đã chứng tỏ vai trò to lớn của mình ở tất
cả các khâu: tạo động cơ, hứng thú học tập cho HS; minh họa cho lời giảng của GV;
sử dụng trong việc ôn tập, đào sâu, mở rộng kiến thức, kỹ năng cho HS; hỗ trợ việc
kiểm tra, đánh giá… Nhờ phương tiện CNTT, GV có thể giảm nhẹ cường độ và thời



gian lao động của mình, có điều kiện tổ chức tốt giờ học và điều khiển quá trình dạy
học một cách nhẹ nhàng, thuận lợi theo hướng tăng cường hoạt động thảo luận, tìm
kiếm thông tin, độc lập giải quyết vấn đề cho HS, qua đó rèn năng lực tự học, năng
lực tự xử lí thông tin, giúp các em trở thành những con người năng động, thích ứng
được với xã hội tương lai.
Trong lĩnh vực dạy học Ngữ văn, việc ứng dụng CNTT vào quá trình dạy học
đã đem lại những hiệu quả không thể phủ nhận. Trước hết, nó làm thay đổi các hình
thức hoạt động của thầy và trò trong giờ học. Thầy không phải vất vả nhiều với việc
ghi bảng với bụi phấn, không phải loay hoay với việc làm đồ dùng dạy học bằng thủ
công và phải làm từ A đến Z mà nhiều khi chỉ sử dụng được một lần ! Trò tiếp nhận
bài học không chỉ bằng kênh chữ, kênh tiếng mà nhờ các tính năng đa dạng của máy
tính như văn bản, đồ họa, hình ảnh, âm thanh, hoạt cảnh… trò sẽ được tiếp nhận bằng
cả kênh hình sống động. Không chỉ vậy, những ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng
được kết nối với nhau, được khai thác tối ưu để tạo nên những điều kiện cực kì thuận
lợi cho hoạt động dạy học. Từ đây HS dễ phát huy khả năng sáng tạo của mình, năng
lực tiềm ẩn của các em được đánh thức và như vậy môi trường CNTT đã tác động tích
cực tới sự phát triển trí tuệ của các em, giúp các em say mê tìm tòi, khám phá phát
hiện ra những tri thức mới.
Về phần mình, GV sẽ dễ dàng thực hiện được các phương pháp sư phạm như:
phương pháp dạy học tình huống, phương pháp dạy học nêu vấn đề, phương pháp dạy
học tích hợp; thực hiện đánh giá và lượng giá học tập toàn diện, khách quan ngay
trong quá trình dạy học. Ngoài ra, việc soạn bài với những ứng dụng của CNTT cũng
mang lại những hiệu quả to lớn. GV có thể khai thác, cập nhật, trao đổi thông tin,
thường xuyên bổ sung, làm giàu vốn tri thức của mình, qua đó kĩ năng tin học cũng
được nâng cao. Đặc biệt, khi bắt tay vào soạn một bài dạy có vận dụng CNTT, GV
thật sự bị cuốn hút và càng làm nhiều thì càng thích thú và nảy sinh thêm nhiều ý
tưởng. Từ đó lòng yêu nghề và sự sáng tạo cũng được bồi đắp. Bài giảng điện tử của


GV cũng dễ bổ sung, sửa chữa, trao đổi với đồng nghiệp. Có thể nói CNTT là phương

tiện đa năng giúp GV và HS tự học tập và bồi dưỡng tri thức suốt đời.
Đã từng có quan niệm dạy học văn không cần thiết phải sử dụng phương tiện
CNTT mà chủ yếu là dùng trực quan ngôn ngữ của người thầy qua biện pháp đọc diễn
cảm để cho loại hình nghệ thuật ngôn từ này tỏa sáng hết hình và ngân hết nhạc, thậm
chí là những khoảng lặng để tâm cảm tiếp nhận cái hay của văn chương. Quan niệm
này không sai nhưng rõ ràng là chưa toàn diện. Bởi dạy học văn trong nhà trường đâu
chỉ thuần túy là thưởng thức, cảm thụ văn chương mà phải đồng thời thực hiện nhiều
mục tiêu: cung cấp hiểu biết, rèn luyện kĩ năng, giáo dục thái độ tình cảm cho HS qua
văn bản được học. Để làm được điều đó cần đến sự hỗ trợ đúng lúc, đúng chỗ và kể cả
đúng mức của CNTT. Trong giờ văn, GV có thể tóm tắt nội dung văn bản, giới thiệu
về quê hương, cuộc đời, bút tích của tác giả bằng các công cụ văn bản, đồ họa, ảnh
tĩnh, ảnh động; cài đặt thêm tư liệu, hình ảnh, màu sắc để nội dung bài giảng thêm
phong phú, sinh động ; hoặc tô đậm, nhấn mạnh những thông tin cốt yếu giúp HS dễ
tiếp nhận hơn, đồng thời định hướng cho quá trình thảo luận, làm bài tập của các em ;
cũng có thể cài đặt âm thanh để đạt tới sự chuẩn mực, sự truyền cảm hơn khi đọc một
thể loại đặc biệt nào đó…
Đối với hai phân môn Tiếng Việt và Làm văn, việc ứng dụng CNTT vào dạy
học cũng đem lại những kết quả bước đầu có sức thuyết phục. Chất lượng dạy và học
các kiểu văn bản , các phong cách ngôn ngữ chức năng, các bài lý thuyết về ngôn
ngữ… được nâng lên rõ rệt. Các ứng dụng của CNTT tỏ ra rất phù hợp với đặc trưng
của phân môn này, nhất là với các bài học Khái quát về lịch sử tiếng Việt, Đặc điểm
loại hình của tiếng Việt và các bài Ôn tập. Ứng dụng CNTT để kiểm tra, đánh giá
phân môn Tiếng Việt cũng đang được các GV phổ thông bước đầu lưu ý đến. Hơn thế
nữa, ứng dụng CNTT trong dạy học Ngữ văn còn rèn luyện được kĩ năng hợp tác, chia
sẻ với cộng đồng cho HS qua các hoạt động nhóm, đồng thời tạo được tính cá biệt hóa
trong dạy học.
Có thể nói, hiệu quả của việc ứng dụng CNTT vào dạy học nói chung và dạy
học Ngữ văn là không thể phủ nhận. Nếu GV biết khai thác hợp lí nguồn tài nguyên



phong phú này thì tác động tích cực mà CNTT đem lại cho quá trình dạy học là vô
cùng to lớn.
1.3 Một số hạn chế cần khắc phục trong ứng dụng CNTT vào dạy học nói chung
và dạy học Ngữ văn
- Thứ nhất, không phải bất kì bài học nào cũng có thể ứng dụng CNTT vào
giảng dạy. Với những bài học thiên về thực hành vận dụng, đòi hỏi GV phải kết hợp
với phấn trắng, bảng đen và các phương pháp dạy học truyền thống mới rèn luyện
được kĩ năng cho HS.
- Thứ hai, việc sử dụng CNTT để đổi mới phương pháp dạy học chưa được
nghiên cứu kĩ, dẫn đến nhiều GV còn lúng túng khi ứng dụng, hoặc ứng dụng không
đúng lúc đúng chỗ, nhiều khi lạm dụng.
- Thứ ba, kiến thức- kĩ năng về CNTT ở một số GV vẫn còn hạn chế, chưa đủ
vượt ngưỡng để đam mê, sáng tạo, thậm chí có nhiều người còn ngại khó, né tránh
việc học hỏi cái mới. Mặt khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một lối mòn
khó thay đổi khiến cho sự uy quyền, áp đặt của GV vẫn chưa thể xóa bỏ hoàn toàn.
Riêng đối với bộ môn Ngữ văn, khi ứng dụng CNTT để soạn bài và giảng dạy, GV
thường mắc phải những hạn chế khá phổ biến như chưa quan tâm đúng mức đến mục
tiêu, yêu cầu của bài học để lựa chọn các tính năng thích hợp của các phần mềm vào
xây dựng bài giảng điện tử ; Đôi khi còn nhầm lẫn giữa vấn đề hình tượng và hình ảnh
văn học nên đã dẫn đến những minh họa trực quan thô thiển, làm ảnh hưởng đến đặc
thù của giờ văn.
- Bên cạnh đó, nhiều bài giảng chưa đảm bảo được tính hệ thống của kết cấu bài
giảng, điều này dễ làm cho nhận thức của HS rơi vào sự tản mạn, thiếu logic chặt chẽ.
Các dạng kiến thức được trình bày trên các trang trình chiếu còn nghèo nàn, chủ yếu
là văn bản với câu chữ ít cô đọng, chưa thể hiện được rõ kiến thức cơ bản, trọng tâm.
- Ngoài ra, khi ứng dụng CNTT vào dạy học Tiếng Việt - Làm văn, nhiều GV chỉ
đơn thuần trình chiếu slide mà bỏ qua khâu phân tích ngữ liệu, phân tích dẫn chứng,
thậm chí cũng không xem trọng việc thực hành luyện tập nhằm củng cố kiến thức và
hình thành kĩ năng cho HS.



Mặc dù còn nhiều hạn chế do các nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan, song
phải thẳng thắn thừa nhận rằng CNTT đã đem đến một bước đột phá trong dạy học
nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng. CNTT được sử dụng như là một công cụ để
GV và HS chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng, phát triển tư duy. Điều này khiến bản
thân người dạy và người học cũng cảm thấy mình năng động hơn, sáng tạo hơn và
không tụt hậu so với sự phát triển vũ bão của “cuộc sống số” qua mỗi ngày.
2. Những vấn đề cơ bản về bài giảng điện tử và phần mềm Microsof Powerpoint
2010
2.1 .Bài giảng điện tử (BGĐT)
2.1.1
Khái niệm bài giảng điện tử
Hiểu theo nghĩa rộng, BGĐT là một “sản phẩm điện tử, được số hóa (giáo
trình điện tử, giáo án điện tử, hồ sơ dạy học, học liệu điện tử…) được thiết kế, tổ chức
theo ý đồ, mục tiêu sư phạm nhất định. Sản phẩm này có thể được dùng một cách độc
lập hoặc tích hợp với các bài giảng truyền thống hiện nay” và là một “quá trình dạy
học được điện tử hóa, số hóa. Quá trình dạy học “không truyền thống” này cho phép
người học, người dạy và nội dung tri thức tương tác với nhau trong một môi trường
số hóa (thường là mạng Internet, đĩa CD-Rom) ở mọi nơi, mọi lúc”. [Ứng dụng
CNTT trong dạy học –NXB Giáo dục, Hà Nội 2006].
Hiểu theo nghĩa hẹp hơn thì BGĐT là một hình thức tổ chức bài lên lớp mà ở đó
toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học đều thực hiện thông qua môi trường multimedia
do máy tính tạo ra.
Multimedia được hiểu là đa phương tiện, đa môi trường, đa truyền thông. Trong
môi trường multimedia, thông tin được truyền dưới các dạng: văn bản (text), đồ họa
(graphics), ảnh động (animation), ảnh tĩnh (image), âm thanh (audio) và phim video
(video clip). [Tài liệu bồi dưỡng cho sinh viên sư phạm về ứng dụng CNTT trong
dạy học, Đại học Quy Nhơn, 2011]
Sách giáo khoa điện tử hay giáo trình điện tử là tài liệu giáo khoa, mà trong
đó kiến thức được trình bày dưới nhiều kênh thông tin khác nhau như văn bản, đồ họa,

hình ảnh động, hình ảnh tĩnh, âm thanh…Đặc điểm quan trọng của sách giáo khoa
điện tử là kiến thức được khai thác theo nhiều phương án khác nhau: trọng tâm, đơn


giản hoặc chi tiết… thuận tiện cho người học tra cứu và tìm kiếm nhanh thông tin.
Giáo án điện tử là bản thiết kế cụ thể toàn bộ kế hoạch hoạt động dạy học của GV
trên giờ lên lớp, toàn bộ hoạt động dạy học đó đã được multimedia hóa một cách chi
tiết, có cấu trúc chặt chẽ và logic được quy định bởi cấu trúc của bài học. Giáo án
điện tử chính là bản thiết kế của BGĐT, chính vì vậy xây dựng giáo án điện tử hay
thiết kế BGĐT là hai cách gọi khác nhau cho một hoạt động cụ thể để có được BGĐT.
Tóm lại, hiểu một cách khái quát nhất thì BGĐT là một sản phẩm dạy học điện
tử đã được chương trình hóa trong môi trường multimedia nhằm hỗ trợ bài giảng trên
lớp của GV để đạt hiệu quả cao theo một kế hoạch giảng dạy đã được vạch ra trước
đó; đồng thời nó còn là một quá trình lên lớp của GV có sự hỗ trợ đắc lực của các
phương tiện điện tử. Thực hiện BGĐT là hình thức ứng dụng CNTT chủ yếu nhằm hỗ
trợ hiệu quả bài học trên lớp.
2.1.2
Các tiêu chí đánh giá chất lượng của một bài giảng điện tử
 Tính khoa học:
+ Đảm bảo nội dung của bài giảng chính xác và đầy đủ, không thiếu, không
sai sót.
+ Nội dung bài giảng bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình theo
quy định, có tính hệ thống, logic và chặt chẽ.
+ Nội dung bài giảng phản ánh những thành tựu mới mẻ, hiện đại của khoa học
mà HS đang học tập
 Tính sư phạm:
+ Bài giảng được trình bày rõ ràng, sinh động, phù hợp với logic tiếp nhận của
HS và thực hiện được mục tiêu dạy học đã đề ra.
+ Bài giảng thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát
huy tính tích cực của HS.

 Tính thân thiện, dễ sử dụng:
+ Hình thức tổ chức, trình bày bài giảng gần gũi, dễ tiếp nhận, gây hứng thú
cho người học ; người học có thể nhận ra ý đồ sư phạm của người dạy trên từng slide,
và nếu BGĐT của một GV được sẻ chia cho đồng nghiệp cùng tham khảo, học tập thì
ai cũng có thể sử dụng được.


+ Cách trình chiếu, dẫn dắt vấn đề đem lại những tác động tích cực trong nhận
thức và thái độ, tình cảm của người học đối với các nội dung được nêu ra trong bài
giảng.
Tính công nghệ
+ Sử dụng và tích hợp các công cụ CNTT một cách hợp lí, tối ưu nhằm
phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi trường


tương tác tích cực giữa GV với HS và giữa HS với nhau.
2.2.
Phần mềm Microsoft PowerPoint 2010
Microsoft PowerPoint là một phần mềm thuộc bộ tin học văn phòng –
Microsoft Office – phục vụ việc tạo ra các bản trình diễn mang tính chuyên nghiệp.
Có thể sử dụng PowerPoint cho các mục đích như dạy học, thuyết trình, báo cáo công
việc, báo cáo đồ án, luận văn, trình bày một dự án, …
Có thể đưa vào bản trình diễn PowerPoint nhiều loại đối tượng :
- Đối tượng chứa văn bản: hộp văn bản (text box), khuôn mẫu tự động
(AutoShape),…
- Đối tượng phi văn bản: đồ họa (graph), âm thanh (sound), phim (video),
hình ảnh (picture), biểu đồ (chart), biểu thức toán học (equation), bảng (table)…
PowerPoint cung cấp một tập hợp các hiệu ứng hoạt hình đa dạng phục vụ cho
việc trình diễn. PowerPoint cũng cho phép tạo ra liên kết nội tại trong bản trình diễn,
liên kết với tập tin khác hay liên kết đến một trang Web, giúp cho việc trình diễn

thông tin linh hoạt hơn.
Một bản trình diễn có thể được kết xuất thành nhiều định dạng khác nhau như
dạng file trình diễn (PowerPoint Show), dạng trang Web hay các dạng file tranh ảnh.
3.

Đặc điểm của các bài học Ngữ văn và khả năng ứng dụng CNTT

3.1 Phân môn Văn học và khả năng ứng dụng CNTT
Phân môn Văn học giữ vị trí trọng yếu trong chương trình Ngữ văn THPT với
một tỉ lệ thời lượng khá lớn và một nội dung phong phú bao gồm nhiều bộ phận tri
thức : Lịch sử văn học, Lý luận văn học và Đọc hiểu văn bản – từ văn bản nhật dụng


đến văn bản nghệ thuật. Chính vì vậy dễ dàng thấy rằng các bài học của phân môn này
vừa có tính khoa học lại vừa có tính nghệ thuật ngôn từ.
3.1.1 Tính khoa học, tính hệ thống
Bàn về tính khoa học của phân môn Văn học, giáo trình Phương pháp giảng
dạy văn học đã xác định: Đó là một môn khoa học vừa có tính nghệ thuật ngôn từ
vừa mang tính chất một môn học.
Như vậy với tư cách là môn học trong nhà trường, phân môn Văn học bắt buộc
phải có tính hệ thống, tính khoa học trong việc cung cấp những tri thức nền tảng về
Lịch sử văn học, về Lý luận văn học. Những tri thức này là kết quả nghiên cứu của
các chuyên ngành văn học và đã có sự biên soạn cẩn thận chính xác của các nhà sư
phạm nên từ nội dung dạy học cho đến cấu trúc của chương trình đã thấm đẫm tính
khoa học, tính hệ thống. Và để đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống đó, để khắc họa
những tri thức vừa cụ thể vừa khái quát như đã nêu, người giáo viên hoàn toàn có thể
sử dụng các tính năng, các hiệu ứng của CNTT để dạy học. Ví như GV có thể giới
thiệu khái quát tình hình phát triển của một thời kỳ, một giai đoạn văn học, hoặc các
thể loại của bộ phận Văn học dân gian… bằng các bảng biểu sinh động, trực quan.
GVcòn có thể tóm tắt nội dung một văn bản, một tác phẩm bằng các sơ đồ, giới thiệu

về quê hương, cuộc đời, bút tích của tác giả bằng các liên kết đồ họa, ảnh tĩnh, ảnh
động hoặc cài đặt thêm tư liệu, hình ảnh, màu sắc, âm thanh… để nội dung bài giảng
thêm phong phú, sinh động ; tô đậm, nhấn mạnh những thông tin cốt yếu giúp HS dễ
tiếp nhận hơn đồng thời định hướng cho quá trình thảo luận, làm bài tập của các em.
Thậm chí trong việc sử dụng câu hỏi để gợi mở, nêu vấn đề, để khắc họa tri thức cơ
bản trọng tâm, GV cũng có thể sử dụng thêm kênh chữ, kênh hình để hỗ trợ cho câu
hỏi miệng của mình, giúp cả lớp đều được tiếp cận câu hỏi một cách đầy đủ, chính xác
nhất.


3.1.2 Tính hình tượng, tính cảm xúc
Đề cập đến tính hình tượng, tính cảm xúc là đề cập đến một đặc trưng rất hiển
nhiên của giờ Văn, nhất là giờ đọc hiểu tác phẩm văn chương và vấn đề mà nhiều GV
băn khoăn lâu nay là liệu việc sử dụng CNTT có làm phương hại đến đặc trưng này
của giờ Văn không ? Với phương tiện CNTT cũng vậy, nếu biết sử dụng thì vẫn gây
được hiệu quả thẩm mĩ, sự rung động sâu xa cho giờ học Văn chương. Thực tế đã có
những giờ Đọc hiểu tác phẩm văn chương hấp dẫn nhờ sự hỗ trợ của công nghệ hiện
đại. Hình ảnh Cô Tấm nghiêng mình bên giếng nước cất lời gọi bống lên ăn cơm
Bống bống bang bang… bằng các tính năng, hiệu ứng âm thanh - hình ảnh gợi cảm,
sinh động đã làm học sinh thích thú. Cũng có thể sử dụng các tiện ích của đa phương
tiện vào việc trình chiếu các trích đoạn sân khấu, điện ảnh khi dạy một số tác phẩm
văn học nước ngoài như Ông già và biển cả (E. Hê-ming-uây), Những người khốn
khổ (V. Huy-gô), Rô-mê-ô và Giu-li-ét (U. Sếch-xpia)… Trong một chừng mực nào
đó, CNTT đã kết nối các em với thế giới với người xưa, đã tích hợp văn học với các
loại hình nghệ thuật khác làm tăng hiệu quả dạy học Văn .
Đến đây có thể kết luận: Trong các giờ học tác phẩm văn chương, nếu biết kết
hợp các ưu điểm của phương pháp - phương tiện truyền thống với các phương pháp phương tiện hiện đại, biết tích hợp ngôn từ diễn cảm của thầy cô với các phương tiện
kĩ thuật một cách tinh tế, hài hòa, sáng tạo với một mức độ vừa phải không lạm dụng
thì vẫn có thể khơi dậy xúc cảm, hứng thú thẩm mĩ cho học sinh bên cạnh việc cung
cấp kiến thức cơ bản, khoa học, hệ thống và rèn luyện- phát triển kĩ năng đọc hiểu như

mục tiêu môn học đã xác định.
3.2 Phân môn Tiếng Việt, Làm văn và khả năng ứng dụng CNT
3.2.1 Tính khoa học, cụ thể, chính xác
Phân môn Tiếng Việt trong chương trình THPT có nhiệm vụ cung cấp cho


HS những tri thức về hệ thống tiếng Việt và hoạt động của hệ thống đó - chủ yếu là
những nội dung có quan hệ trực tiếp đến hoạt động giao tiếp của tiếng Việt, đến cách
nói và cách viết của HS. Người GV còn phải sử dụng những phương pháp, phương
tiện dạy học phù hợp với bản chất khoa học của bộ môn để giúp HS tiếp nhận chính
xác, sâu sắc những tri thức đó. Trong quá trình dạy học người dạy nhất thiết phải giải
thích, chứng minh tất cả những nhận định, những đặc điểm, những quy tắc… mà bài
học đề cập một cách rõ ràng đầy thuyết phục. Để thực hiện điều đó người GV cần đến
những mô hình, những bảng đối chiếu, so sánh, những sơ đồ, những hình ảnh, ngữ
liệu trực quan…Phương tiện CNTT với những tính năng vượt trội như đã phân tích ở
trên hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu này trong tích tắc.
Ngoài ra, để thực hiện các giờ Ôn tập Tiếng Việt , GV có thể dựa vào tính năng
vẽ biểu đồ, bảng biểu (SmartArt) của CNTT để hệ thống hóa kiến thức tiếng Việt HS
đã học trong cả năm hoặc sơ đồ hóa mối quan hệ giữa các kiến thức đó giúp HS sắp
xếp kiến thức đã học vào một trật tự nhất định, có hệ thống, vừa có tác dụng ghi nhớ
kiến thức một cách sâu sắc, bền vững vừa rèn tư duy khoa học, tư duy hệ thống cho
HS.
Đối với phân môn Làm văn - ở đây chỉ đề cập đến các giờ học về Lý thuyết làm
văn – có thể thấy:
- Để ôn tập, hệ thống hóa các kiểu văn bản đã học ở THCS : văn bản tự sự, văn
bản thuyết minh, văn bản nghị luận, cách tóm tắt các văn bản…GV có thể lập các
bảng so sánh tổng hợp để giúp HS khắc sâu những tri thức đó, đồng thời giúp các em
phân biệt thật rõ ràng từng kiểu văn bản.
- Hay để giới thiệu các kiểu văn bản mới như văn bản quảng cáo, bản tin, phỏng
vấn, tóm tắt tiểu sử, làm kế hoạch cá nhân, viết bản tổng kết, đề cương diễn thuyết,

phát biểu trong hội thảo…GV nhất thiết phải cho HS quan sát, phân tích các mẫu sống


động của từng kiểu văn bản đó, cần thiết còn phải khái quát hóa, mô hình hóa các kiểu
văn bản để HS dễ nhớ, dễ thực hiện. Nhìn chung, việc sử dụng các tiện ích của đa
phương tiện (multimedia) cũng rất phù hợp với các giở Lý thuyết Làm văn ở THPT.
3.2.2 Tính thực hành
Thực hành trong dạy học Tiếng Việt và Làm văn không chỉ là vận dụng lí
thuyết đã được học vào giải quyết các bài tập mà còn là vận dụng được những gì đã
học vào trong thực tiễn giao tiếp tiếng Việt hằng ngày sao cho hiệu quả nhất. Do đó,
có thể khẳng định tính thực hành là một đặc trưng nổi bật của hai phân môn Tiếng
Việt và Làm văn. Đặc điểm này đòi hỏi GV cần linh hoạt, sử dụng nhiều loại bài tập
đa dạng, phong phú thông qua sự hỗ trợ đắc lực của CNTT để giúp học sinh thực hiện
hoạt động thực hành - luyện tập. Ngoài ra , GV có thể khuyến khích, hướng dẫn HS sử
dụng một số phần mềm để làm bài tập tiếng Việt và tự kiểm tra, đánh giá năng lực
tiếng Việt của mình qua kết quả chấm của công cụ hỗ trợ. Có vậy, việc dạy học Tiếng
Việt , Làm văn mới thật sự đạt được mục tiêu đã đề ra, chất lượng dạy và học Tiếng
Việt, Làm văn mới được cải thiện và nâng cao một bước.
Như vậy, xuất phát từ đặc trưng tính khoa học, tính hệ thống, tính thực hành
của các bài học Tiếng Việt và Làm văn mà chúng ta có thể ứng dụng CNTT vào dạy
học nhằm đổi mới sinh khí các giờ học đang có nguy cơ bị học sinh ngoảnh mặt quay
lưng, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường
Trung học phổ thông.
4. Một số yêu cầu cơ bản khi sử dụng phần mềm Microsoft PowerPoint 2010
trong thiết kế bài giảng điện tử
1.1 Chọn lọc các tính năng thích hợp của phần mềm để xây dựng bài giảng
điện tử, tránh lạm dụng kĩ thuật


Nhiều GV khi bắt tay vào thiết kế một BGĐT đều lúng túng hoặc gặp khó khăn

ở khâu tích hợp công nghệ, chưa lựa chọn được những tính năng phù hợp để thể hiện
ý đồ sư phạm của mình một cách tối ưu nhất. Thay vì phải sử dụng quá nhiều chữ trên
một slide để tổng hợp những kiến thức trọng tâm, GV có thể dựa vào tính năng
AutoShape hoặc SmartArt để hình thành những sơ đồ, bảng biểu thể hiện mối quan hệ
giữa các kiến thức đó. Hoặc giả như để tránh việc phải sử dụng quá nhiều slide trong
một bài giảng, GV nên kết hợp linh hoạt những hiệu ứng làm xuất hiện (Entrance
Effects) và làm biến mất (Exit Effects) của những đơn vị kiến thức trên cùng một slide
để tiện lợi trong việc nối kết chúng với nhau.
Không chỉ vậy, khi thiết kế BGĐT, GV cần lưu ý trong việc sử dụng khung nền
(background) thống nhất có màu sáng, tránh sử dụng những hình nền có màu sắc quá
tối hoặc quá lòe loẹt, những hình nền có hoa văn, họa tiết chi chít, rườm rà, gây rối
mắt cho người học. Đi kèm theo đó là yêu cầu sử dụng đồng bộ kiểu (font) chữ phổ
biến (Ví dụ: Times New Roman), màu sắc hài hòa và cỡ chữ (size) nên từ 20 trở lên.
Riêng đối với những kiến thức quan trọng cần nhấn mạnh thì GV nên tô đậm hoặc cho
chữ có màu nổi bật (ví như: đỏ, xanh,…) để tạo sự chú ý cho HS.
Nên chọn một số hiệu ứng đơn giản, thích hợp cho việc thể hiện nội dung bài giảng,
tránh lạm dụng các hiệu ứng “bay lượn” cầu kì cùng âm thanh phức tạp không cần
thiết sẽ làm phân tán sự chú ý của HS vào nội dung bài học. Cạnh đó, cần sử dụng tốt
các chức năng liên kết (Hyperlink) để tạo nên những khả năng mở, linh hoạt của
BGĐT trong việc mở rộng kiến thức, liên hệ, so sánh hay thực hiện các dạng bài tập
áp dụng …
1.2 Đảm bào tính hệ thống và tính trọng tâm của kiến thức
Bất cứ bài học nào cũng đều có tính logic, tính hệ thống của nó mà có nhà sư
phạm xem đó là biểu hiện đầu tiên của tính khoa học. Tính logic, tính hệ thống này
được hình thành dựa trên logic nội tại của khoa học mà HS đang tìm hiểu cũng như
dựa trên logic nhận thức của chính người học. Bài học Ngữ văn cũng vậy, dù là bài
Tiếng Việt hay bài Làm văn, Đọc văn cũng đều mang tính hệ thống, tính logic nên khi
tiến hành thiết kế BGĐT và thực hiện quá trình dạy học, GV cần đảm bảo tính hệ



thống, logic này. Có như vậy quá trình tiếp nhận tri thức của HS mới thuận lợi, hiệu
quả. Hơn nữa, nhờ đặt trong hệ thống, trong mối quan hệ với nhau nên những tri thức
đó sẽ được HS tiếp nhận một cách liên tục, tự nhiên và sâu sắc do thấy được những
tương đồng và khác biệt giữa chúng. Mặt khác, tri thức sẽ không bị sai sót, thất lạc,
không bị nhầm lẫn khi đặt trong hệ thống. Vì vậy đảm bào tính hệ thống, logic là điều
phải tuân thủ. BGĐT nhất thiết phải thể hiện được những mối quan hệ đó, tính hệ
thống đó và càng phù hợp với mạch tư duy, với logic nhận thức của HS càng tốt.
Đối với BGĐT, mỗi slide tương ứng với một phần mặt bảng, nếu GV không
khéo léo sắp xếp các đề mục, thứ tự của các slide thì các em dễ rơi vào trạng thái mơ
hồ, dàn trải, không thấy trọng tâm và tính hệ thống của bài học ; bản thân GV cũng sẽ
gặp trở ngại khi muốn quay lại những kiến thức vừa đi qua. Khác với phương tiện dạy
học truyền thống là bảng đen, phấn trắng nên toàn bộ kiến thức của một bài học đều
nằm trên mặt bảng, nó như là một mặt phẳng giúp GV trình bày tất cả nội dung giờ
học trên đó - thì với hình thức dạy học có ứng dụng CNTT mới mẻ này, người soạn
giảng bắt buộc phải suy nghĩ, tìm cách trình bày trên các slide sao cho thể hiện được
tính hệ thống, tính logic đó.
Ví dụ: dạy bài Ôn tập phần Tiếng Việt 10, tiêu đề của bài học sẽ hiện diện ở tất
cả các slide, đồng thời các đề mục I, 1), a),… cần được nhắc lại ở đầu mỗi slide mới,
có vậy HS mới dễ dàng theo dõi và biết được mình đang ôn tập đến phần nào, từ đó
các em khắc sâu kiến thức một cách trật tự có hệ thống hơn.
Về tính trọng tâm của kiến thức, GV nên thể hiện chúng trên slide một cách
ngắn gọn, súc tích, rõ ràng, không nên viết quá chi tiết hay trình bày bằng những cấu
trúc câu phức tạp.
Đối với các giờ Văn học, để thể hiện tính hệ thống ta có thể bố cục slide làm 2
phần, phần thứ nhất bên trái dùng để tái hiện các nội dung cơ bản đã học dưới dạng
các tiêu đề, phần thứ hai bên phải mới dùng để dạy học kiến thức mới.




×