Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học và nghiên cứu môn Hán nôm ở trường đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.8 KB, 13 trang )

Connexions module: m28800 1
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN VÀO DẠY-HỌC VÀ NGHIÊN
CỨU MÔN HÁN NÔM Ở TRƯỜNG
ĐẠI HỌC (APPLICATION OF
INFORMATICS TECHNOLOGY TO
EDUCATION AND RESEARCH
RELATED TO
CHINO-VIETNAMESE AT
UNIVERSITIES)

Nguyễn Hoàng Thân
This work is produced by The Connexions Project and licensed under the
Creative Commons Attribution License

Tóm tắt nội dung
Ứng dụng CNTT vào dạy-học và nghiên cứu môn Hán Nôm là một xu thế tất yếu của thời đại. Chính
vì vậy, các nhà nghiên cứu CNTT không ngừng xây dựng, thiết kế phần mềm Hán Nôm để phục vụ việc
dạy-học và nghiên cứu Hán Nôm. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện dạy học, nội dung từng bài học, đối
tượng nghiên cứu cụ thể mà chúng ta có phương pháp ứng dụng CNTT với các mức độ và hình thức khác
nhau sao cho khoa học và hiệu quả. (It si an inevitble tendency today to apply informatics technology
(IT) to education and research related to Chino-Vietnamese. It si because to this that IT researchers
continuously create Chino-Vietnamese softwaers for education and research on the language. However, a
method to apply IT in this case should be chosen in accordance to conditions of a class, its contents and,
in the case of a research work, to object the research is aimed at. The extent and manner of application
chosen should help bring the best result.)

Version 1.1: Jul 9, 2009 10:05 pm GMT-5

/> />Connexions module: m28800 2
1 ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO DẠY-HỌC


2 VÀ NGHIÊN CỨU MÔN HÁN NÔM Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Phan Anh Dũng (TT CNTT TT-Huế)-Nguyễn Hoàng Thân (ĐH Đà Nẵng)
3 I. Giáo dục mới Việt Nam gắn liền với công nghệ thông tin
4 I.1. Đổi mới phương pháp giáo dục bằng công nghệ thông tin1Ở đây chúng tôi
dùng từ công nghệ thông tin với nghĩa rộng, bao gồm thiết bị kĩ thuật, chương
trình phần mềm, v.v. . . Song, trong đề tài này vẫn nhấn mạnh hệ thống các
chương trình phần mềm. - xu thế của thời đại2Chúng tôi mượn tên bài báo của
Lưu Lâm đăng trên Tạp chí Giáo dục, số 20/2002, tr.4-6..
Từ thập niên 90 của thế kỉ trước, vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một chủ đề lớn được
UNESCO chính thức đưa ra thành chương trình hành động trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI. Ngoài ra,
UNESCO còn dự báo: công nghệ thông tin sẽ làm thay đổi nền giáo dục một cách cơ bản vào đầu thế kỉ
XXI.
Trước tình hình công nghệ thông tin với giáo dục trên thế giới như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam trong
Nghị quyết TW2, khóa VIII đã nhấn mạnh:
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành
nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện vào quá
trình dạy và học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh, nhất là sinh viên đại
học”.
1
Nghị quyết TW2, khóa VIII nêu trên đã được cụ thể hóa bằng Chỉ thị 58-CT/TW (17/10/2000) của Bộ
Chính trị, nội dung Chỉ thị có đoạn:
“Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo ở các cấp học, bậc học,
ngành học. Phát triển các hình thức đào tạo từ xa phục vụ nhu cầu học của toàn xã hội.”
2
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã có Chỉ thị 29/CT-BộGD&ĐT về “Tăng cường
giảng dạy, đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành GD - ĐT giai đoạn 2001 - 2005”.
Như vậy, ứng dụng công nghệ thông tin vào giáo dục là một xu thế mới của nền giáo dục Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay và trong tương lai lâu dài.
5 I.2. Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy-học và nghiên cứu môn Hán Nôm
là một tất yếu khách quan trong xu thế giáo dục hiện nay

Ngày xưa, ông cha ta chủ yếu học tập theo lối văn chương cử tử. Nội dung học tập và nghiên cứu thu hẹp
trong phạm vi tư tưởng, triết lí, nhân sinh quan... Phương pháp dạy học một chiều. Người học hoàn toàn
thụ động. Tất cả mọi người đều lấy phương thức học thuộc lòng hoặc thực hiện theo lời thầy là chính. Do
vậy trong quá trình dạy và học, người thầy giảng giải rất nhiều, thời gian học tập rất dài (thập niên đăng
hỏa - 10 năm đèn sách), số lượng người chiếm lĩnh tri thức không nhiều.
Nhưng trong xã hội hiện nay, với sự bùng nổ thông tin, con người càng phải học tập nhiều môn khoa
học hơn. Vai trò của người thầy chỉ là làm nhiệm vụ hướng dẫn người học tự đi tìm và lĩnh hội tri thức.
Vấn đề này lại gây khó khăn cho người dạy và học Hán Nôm. Bởi vì môn này đòi hỏi người dạy phải giảng
giải nhiều, thế nhưng quĩ thời gian thì lại rất ít. Điều đó tạo nên một mâu thuẫn mà chúng ta cần phải
giải quyết tốt để đảm bảo quá trình dạy-học. Như vậy đòi hỏi người dạy và người học phải sử dụng một số
1
Trích dẫn lại từ Kỉ yếu hội thảo khoa học “Đổi mới phương pháp dạy học với sự tham gia của thiết bị kĩ thuật”, ĐHSP,
Huế, 4/2004, trang 11.
2
Trích dẫn lại từ Kỉ yếu hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng dạy và học trong trường phổ thông nhờ sự hỗ trợ của thiết
bị và phần mềm dạy học”, ĐHSP, HCM, 11/2005, trang 9.
/>Connexions module: m28800 3
phương tiện khác để hỗ trợ. Trong số đó là vận dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ vào quá trình dạy và
học. Thông qua ứng dụng công nghệ thông tin này, chúng ta có thể rút ngắn thời gian dạy học văn bản. Từ
đó chúng ta có nhiều thời gian hơn cho việc giảng dạy, bình giảng, phân tích nội dung bên trong của tác
phẩm như triết lí, tư tưởng, giá trị nhân sinh quan... Chỉ có như vậy mới có thể đảm bảo được mục tiêu
dạy-học Hán Nôm trước đây cũng như hiện nay.
Trên đây là hai lí do cốt lõi quan trọng nhất trong số nhiều lí do khác. Nó đã thúc đẩy chúng tôi thường
xuyên suy nghĩ nhiều lần và liên tục trong quá trình dạy-học và nghiên cứu môn Hán Nôm. Do vậy, chúng
tôi quyết định chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu của mình, nhằm tạo hiệu quả cho việc dạy-học và
nghiên cứu môn Hán Nôm.
6 II. Lịch sử quá trình nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy-học
và nghiên cứu Hán Nôm
7 II.1. Lịch sử quá trình nghiên cứu về vấn đề công nghệ thông tin trong dạy-học
và nghiên cứu Hán Nôm

Ở Trung Quốc, vào thập niên 80 của thế kỉ XX, người ta đã thấy được vai trò quan trọng của máy vi tính
đối với chữ Hán. Do chữ Hán khó học, khó phổ cập cho nên trong lịch sử Trung Quốc, đã có thời kì mà một
số người cho rằng cần phải bỏ chữ Hán thay bằng kí tự latinh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo
dục, truyền bá tri thức khoa học. Nhưng rất may, vi tính đã cứu vớt chữ Hán, giúp chữ Hán tồn tại, giúp
Trung Quốc vừa có thể bảo lưu chữ viết truyền thống, vừa vẫn có thể hòa nhập với sự phát triển của thế
giới.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỉ trước, chúng ta cũng đã ứng dụng công
nghệ thông tin vào lĩnh vực Hán Nôm, đi tiên phong có lẽ là Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Năm 1994, Hội
đồng Nghiệm thu cấp Nhà nước đã tiến hành hội nghị nghiệm thu đề tài khoa học “Bước đầu ứng dụng Tin
học để bảo vệ và khai thác di sản thư tịch cổ Việt Nam” (Tin học Hán Nôm) do nhóm nghiên cứu thuộc
Viện Nghiên cứu Hán Nôm thực hiện. Cũng trong năm này, chữ Nôm của dân tộc đã được đi vào bộ mã
quốc tế (mang mã TCVN 5773 - 1993).
Kể từ đó cho đến nay, trên Tạp chí Hán Nôm đã đăng tải nhiều bài nghiên cứu về ứng dụng công nghệ
thông tin trong lĩnh vực Hán Nôm, như: Để chữ Nôm Việt Nam cũng có mặt trong “Bảng mã chuẩn quốc
tế” UNICODE và ISO (Ngô Thế Long, 1993), Chữ của cha ông ta đi vào bộ nhớ quốc tế (Phác Can, 1994),
Chữ Nôm và công nghệ thông tin (Nguyễn Quang Hồng, 1995), Giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam và hội
nhập cùng văn hóa khu vực nhờ công nghệ thông tin (Ngô Thế Long, 1995), Tạo chữ Nôm trên máy tính (Đỗ
Nguyên Đương, 1996), Ứng dụng công nghệ thông tin tin học trong công tác lưu trữ, quản lí và nghiên cứu
khai thác tư liệu Hán Nôm (Trịnh Khắc Mạnh, 1999), Hán Nôm vào thiên niên kỉ mới (Đinh Khắc Thuân,
2001), Chữ Nôm trên đường hội nhập với khu vực và thế giới (Nguyễn Quang Hồng, 2002), Một số vấn đề
và khía cạnh nghiên cứu chũ Nôm (Nguyễn Quang Hồng, 2004), Dự án cho một trạm mạng về văn bản Hán
Việt (Alexandre Lê, 2005). Một số sách tham khảo về công nghệ thông tin trong lĩnh vực Hán Nôm cũng
được xuất bản như Phương pháp nhập chữ Hán Thương Hiệt (1998)
3
, Vi tính chữ Hán dành cho người Việt
(2000)
4
, v.v..
Ngoài ra, bộ môn Hán Nôm, khoa Ngữ văn, khoa Văn học của các trường đại học cũng đã tổ chức một
số hội thảo bàn về dạy-học và nghiên cứu Hán Nôm, trong đó có vấn đề công nghệ thông tin với Hán Nôm.

Năm 1997, Bộ môn Hán Nôm thuộc Khoa Văn học - Trường ĐHKHXH&NV - ĐHQG Hà Nội tổ chức hội
thảo khoa học “25 năm ngành Hán Nôm”, có một số báo cáo liên quan đến công nghệ thông tin với Hán
Nôm như: Góp một suy nghĩ nhỏ về phương pháp đào tạo ngành học Hán Nôm trước yêu cầu của thời đại
(Phạm Vân Dung)
5
, Mấy nhận xét về công nghệ xử lí đa văn tự trên máy tính (Ngô Thế Long)
6
, Vài suy
3
Nguyễn Hữu Tài, Phương pháp nhập chữ Thương Hiệt, Nxb Thống kê, 1998
4
Lê Quí Ngưu, Vi tính chữ Hán dành cho người Việt, Nxb Thuận hóa, 2000
5
Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQG Hà Nội, Những vấn đề về Hán Nôm học, tập 1, Nxb ĐHQGHN, H., 2002, trang 148
6
Sđd như trên, trang 158
/>Connexions module: m28800 4
nghĩ về việc đào tạo cử nhân Hán Nôm (Cao Tự Thanh)
7
. Năm 2005, Trung tâm Nghiên cứu và Giảng dạy
Hán Nôm thuộc Trường ĐHSP Hà Nội tổ chức hội thảo khoa học “Nghiên cứu, giảng dạy Hán Nôm trong
nhà trường đại học và cao đẳng sư phạm”, cũng có một số báo cáo bàn về công nghệ thông tin với Hán Nôm
như: Một số ý kiến về việc nghiên cứu và giảng dạy, học tập ngữ văn Hán Nôm trong các nhà trường đại
học và cao đẳng sư phạm (Nguyễn Xuân Diện), Suy nghĩ về việc vận dụng công nghệ thông tin vào quá
trình dạy học môn Hán Nôm trong nhà trường hiện nay (Đỗ Phương Lâm), Một vài suy nghĩ về việc vận
dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy học môn Hán Nôm trong nhà trường hiện nay (Nguyễn Hoàng
Thân), Phần mềm chuyển đổi giữa lịch âm và lịch dương của Việt Nam và Trung Quốc - một công cụ tiện
lợi cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập (Lê Thành Lân - Nguyễn Gia Đăng - Trần Ngọc Dũng - Lê
Quốc Thái).
Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm đã hai lần tổ chức hội thảo quốc tế về chữ Nôm (2004 tại Hà Nội, 2006

tại Huế), đều có chuyên đề “Công nghệ thông tin với chữ Nôm” - một trong số bốn hoặc năm chuyên đề
khoa học của mỗi lần hội thảo. Hội thảo năm 2004 có một số bài nghiên cứu chữ Nôm với công nghệ thông
tin của các nhà nghiên cứu như: Ts Ngô Trung Việt (Viện Công nghệ thông tin) - Ngô Thanh Nhàn (Viện
các khoa học Toán Courant, Đại học New York) với Một cách nhìn về tương lai của chữ Nôm, Tống Phước
Khai (HanoSotf) với Phương pháp đọc phiên thiết và Chữ Nôm và hệ phần mềm HaNoSoft (dành cho hệ
MS Windows 2000 và XP), Phan Anh Dũng (HueSoft, Công ty Sách - Thiết bị Trường học Thừa Thiên -
Huế) với Một số kết quả ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ nghiên cứu chữ Nôm và Hiển thị các kí tự
Unicode DBCS với Visual Basic, Nhóm Nôm Na (Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm, Hà Nội) với Qui trình Nôm
Na, Giúp đọc Nôm và Hán Việt và chữ Nôm trên mạng, Tống Phước Khải & Lê Anh Minh với Hệ phần
mềm HaNoSoft, Wong - Kevin Kin Foon (Nhật) với Tiến đến hệ bàn phím Hán Nôm đa năng: Thử bàn về
khả năng sử dụng phương pháp 4 góc, Furuya Tokio - Yatagai Tsuneo - Sachihiro (Mojikyo) với Thế giới
chữ Nôm và Viện Văn tự kính, Chu Tuyết Lan với Số hóa để bảo quản và khai thác di sản Hán Nôm Việt
Nam: thách thức và triển vọng. Trong hội thảo năm 2006, một số bài báo cáo trình bày về công nghệ thông
tin với chữ Hán Nôm như: Đưa chữ Hán - Nôm vào thiết bị cầm tay của Phan Anh Dũng - Dương Văn Việt
- Hoàng Thị Ngọc Dung (Trung tâm Công nghệ Thông tin tỉnh Thừa Thiên - Huế), Xây dựng cơ sở tri thức
chữ nhiều bậc đệ qui và kho thành tố cơ bản của chữ Nôm của Ngô Thanh Giang - Tô Trọng Đức (Nhóm
Nôm Na - Hà Nội), Phần mềm chuyển đổi lịch Việt Nam và Trung Quốc - một công cụ tiện lợi cho việc
nghiên cứu chữ Nôm của Lê Thành Lân (Viện Công nghệ thông tin) - Nguyễn Gia Đăng (Viện Khoa học
và Công nghệ Việt Nam), Ba vấn đề số hóa văn bản học của Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Thanh Nhàn
(Đại học New York) - Ngô Trung Việt (Viện Công nghệ thông tin), Phương hướng mới cho tự điển chữ Nôm
của Nguyễn Hữu Vinh (Industrial Technology Research Institute, Hsin Chu, Taiwan)
Về lĩnh vực làm phần mềm ứng dụng CNTT cho Hán Nôm ban đầu xuất phát từ sự phổ biến phần mềm
gõ chữ Hán Song Kiều (TwinBridge), nhiều người đã vận dụng khả năng vẽ thêm font mới của nó để tạo chữ
Nôm và khả năng tạo Thâu nhập pháp (IME) tự định nghĩa của Song Kiều để tạo các bộ gõ chữ Hán theo
âm Hán Việt, và phát triển thành việc chế bản sách chữ Nôm. Sau đó đã phát triển các phần mềm hoàn
chỉnh hơn, ngoài chức năng gõ chữ còn có các công cụ khác như từ điển tra cứu .v.v. như phần mềm Việt
Hán Nôm của Phan Anh Dũng, Hanosoft của Tống Phước Khải, bộ gõ chữ Nôm của Trần Uyên Thi (viện
Việt học, ở Mỹ), phần mềm chuyển đổi âm dương lịch của GS Lê Thành Lân (viện CNTT). . .
Ngoài phần mềm, các trang WEB tra cứu Hán Nôm cũng đã góp phần tích cực vào việc cung cấp các
thông tin tư liệu, tuyên truyền và phổ biến chữ Nôm: www.nomfoundation.org

8
của Hội bảo tồn di sản chữ
Nôm www.hannosoft.com
9
của nhóm HanNomsoft, www.huesoft.com.vn/Hannom
10
của Trung tâm Công
nghệ thông tin Thừa Thiên Huế , www.viethoc.org
11
của Hội Việt học ở Mỹ. Song sự kiện có ý nghĩa nhất là
Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã khai trương Website của Viện:
12
vào giữa tháng
3 năm nay - đánh dấu sự thành công lớn của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực Hán Nôm.
7
Sđd như trên, trang 219
8
/>9
/>10
/>11
/>12
/> />Connexions module: m28800 5
8 II.2. Lịch sử quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy-học và nghiên
cứu Hán Nôm
Trong phần này, chúng tôi trình bày bao hàm cả hai nội dung là lịch sử quá trình xây dựng, thiết kế công
nghệ thông tin (phần mềm) về lĩnh vực dạy-học, nghiên cứu Hán Nôm và lịch sử quá trình ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy-học, nghiên cứu Hán Nôm. Do vậy, trong quá trình trình bày, có nhiều chỗ đan
xen giữa các vấn đề. Đó cũng là điều tất nhiên, bởi vì mọi sáng tạo khoa học kĩ thuật đều nhằm phục vụ
cho cuộc sống. Công nghệ thông tin về lĩnh vực Hán Nôm được xây dựng, thiết kế cũng nhằm phục vụ cho
lĩnh vực Hán Nôm, hay nói cách khác, khi có công nghệ thông tin về lĩnh vực Hán Nôm, ngay lập tức chúng

sẽ được con người ứng dụng vào lĩnh vực Hán Nôm. Tuy nhiên, trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày nhiều
hơn về lịch sử quá trình xây dựng, thiết kế công nghệ thông tin về lĩnh vực Hán Nôm.
Năm 1998, Lê Anh Minh đã thành công với phần mềm Song Kiều 4.0. Với phần mềm này, người làm
công tác Hán Nôm có thể thâu nhập chữ Hán vào máy tính; có thể khôi phục, chế bản hoặc chế bản lại các
văn bản Hán Nôm. Thực ra, trước đó vài năm, Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng đã nghiên cứu xây dựng
phần mềm này để “vẽ” chữ Nôm. Sau này, Lê Quí Ngưu đã dựa trên phần mềm Song Kiều 4.0 của Lê Anh
Minh để xây dựng phần mềm LQN thâu nhập pháp 3.0, có công năng:
Gõ chữ Việt ra chữ Hán, tích hợp chạy trên nền chương trình Twin-Bridge (Song Kiều) 4.x/5.0 hay CPNT
2.0. Các phiên bản Twin-Bridge có thể cài đặt trên Traditional Chinese Windows (phồn thể), Simplified
Chinese Windows (giản thể) hoặc Windows tiếng Anh... LQN Thâu nhập pháp 3.0 (nâng cấp từ LQN Thâu
nhập pháp 2.0) được chia làm 2 phần: Univers 1 dùng để gõ theo cách đánh Telex, Univers 2 dùng để gõ
theo cách đánh VNI.
(Dẫn theo )
Đồng thời ông xuất bản cuốn sách Vi tính chữ Hán dành cho người Việt nhằm hướng dẫn cách sử dụng
phần mềm này.
Bắt đầu từ năm 2000, Tống Phước Khải đã thiết kế xây dựng phần mềm Hanokey 1.0, đến năm 2003
hoàn thành phần mềm Hannokey 2.0. Hai phần mềm này chủ yếu dùng để gõ chữ Hán và một ít chữ Nôm
(Hanokey 2.0). Trong khoảng thời gian này, ông còn thiết kế phần mềm Hano Converter 1.0:
Giúp thực hiện các chuyển đổi trên văn bản Hán: Từ văn bản Hán phồn thể sang văn bản âm Hán Việt.
Từ văn bản Hán giản thể sang văn bản âm Hán Việt. Từ văn bản Hán phồn thể sang văn bản Hán giản thể.
Từ văn bản giản thể sang văn bản Hán phồn thể.
(Dẫn theo )
Năm 2004, ông tiếp tục thành công với phần mềm Hanosoft Tool.
Hanosoft Tool là bộ phần mềm tổng hợp các công cụ tiện ích Hán-Nôm, dành cho những người học tập
và nghiên cứu chữ Hán theo cách phát âm của các ngôn ngữ Việt Nam, Trung Quốc (phổ thông), Hàn Quốc
(Hanja) và Nhật Bản (Kanji). Phần mềm này nối tiếp các phiên bản đã được phổ biến trước đây. Ngoài ra,
ông còn thiết kế phần mềm Từ điển Hán-Việt Việt-Hán 1.0, cung câ´p cho ngươ`i sư dung nhiê`u ca´ch
kha´c nhau đê tra chư˜ Ha´n như: Tra theo bô thu. Tra theo tông sô´ ne´t bu´t. Tra trưc tiê´p trên văn
ban Word hoăc Website.
(Dẫn theo )

Từ năm 2002, Phan Anh Dũng đã thiết kế phần mềm Việt Hán Nôm 2002, ban đầu là phần mềm Việt
Hán Nôm 2002 phiên bản 1.0, sau nâng cấp thành phiên bản 1.1, 1.2 và hiện nay là phiên bản 2.0. Công
dụng của phần mềm này như sau:
1. Hỗ trợ nhập chữ Hán và chữ Nôm vào văn bản, trước mắt cung cấp hai font Unicode chữ Nôm cơ bản
(bao gồm cả chữ Hán) là chữ Nôm Minh và chữ Nôm Khải, tạm đủ để chế bản một số tác phẩm Nôm kinh
điển.
2. Tra cứu chữ Hán và Nôm nhờ ba từ điển tích hợp: Từ điển Hán Việt (bản Thiều Chửu có tăng cường
và bổ sung), Từ điển Việt Hán, Từ điển Nôm - Quốc ngữ (cơ sở là Bảng tra chữ Nôm của NXB Khoa học
Xã hội 1977). Dự kiến sẽ bổ sung thêm một số từ điển nữa.
3. Xem các trang Web có chữ Hán trên mạng hay trên đĩa, và hỗ trợ phiên âm Hán Việt tự động để đọc
các trang đó.
/>

×