Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Nghiên cứu định danh loài sán lá gan lớn fasciola spp sử dụng các chỉ thị phân tử ITS 2 và nad1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.67 MB, 64 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

Nguyễn Thị Hồng Vân

NGHIÊN CỨU ĐỊNH DANH LOÀI SÁN LÁ GAN LỚN Fasciola spp.
SỬ DỤNG CÁC CHỈ THỊ PHÂN TỬ ITS-2 VÀ Nad1

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

Hà Nội - 2018
i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

Nguyễn Thị Hồng Vân

NGHIÊN CỨU ĐỊNH DANH LOÀI SÁN LÁ GAN LỚN Fasciola spp.
SỬ DỤNG CÁC CHỈ THỊ PHÂN TỬ ITS-2 VÀ Nad1

Chuyên ngành: Di truyền học
Mã số: 60420121

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Bích Nga
PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Vân

Hà Nội - 2018


ii


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến TS. Nguyễn Thị Bích
Nga là người đã trực tiếp hướng dẫn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu, học tập và hoàn thành luận văn. Tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ của
Phòng Miễn dịch học – Viện Công nghệ sinh học nơi tôi thực tập đã nhiệt tình giúp
đỡ tôi hoàn thành luận văn của mình.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn đến PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Vân là người đồng
hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, học tập
và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những người thân đã luôn
khuyến khích, động viên cũng như chia sẻ những khó khăn với tôi trong suốt quá
trình học tập và hoàn thành nghiên cứu của mình.
Luận văn nghiên cứu được thực hiện với sự hỗ trợ kinh phí của Quỹ phát triển
Khoa học và công nghệ quốc gia (Nafosted) cho đề tài mã số 106-YS.02-2013.06
do TS. Nguyễn Thị Bích Nga làm chủ nhiệm.

Học viên

Nguyễn Thị Hồng Vân

iii


MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN………………………………………………………………….

i


MỤC LỤC………………………………………………………………………

ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT…………………………………………

iv

DANH MỤC BẢNG BIỂU…………………………………………………….

v

DANH MỤC HÌNH ẢNH……………………………………………………..

vi

MỞ ĐẦU………………………………………………………………………..

1

CHƢƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU………………………………………

3

1.1.

Giới thiệu về loài sán lá gan……………………………………………...

3


1.1.1. Phân loại sinh học………………………………………………………..

3

1.1.2. Đặc điểm hình thái của sán lá gan……………………………………….

3

1.1.3. Các giai đoạn phát triển của sán lá gan lớn………………………………

4

1.1.4. Vòng đời…………………………………………………………………

9

1.1.5. Hiện tượng lạc vị trí ký sinh của sán lá gan lớn………………………..

10

1.2.

Đặc điểm của bệnh do sán lá gan lớn……………………………………… 11

1.2.1. Cơ chế bệnh sinh của sán lá gan lớn…………………………………….

11

1.2.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá gan Fasciola spp ở người và động vật……


13

1.2.3. Vật chủ trung gian của sán lá gan lớn…………………………………….

15

1.3. Tầm quan trọng của nghiên cứu giám định loài bằng phương pháp sinh học 17
phân tử ....................................................................................................................
1.4. Sơ lược hệ gen nhân ribosomal DNA (Rdna)………………………………..

18

1.5. Hệ gen DNA ty thể (Mitochodrial DNA – mtDNA)…………………………

19

CHƢƠNG 2: VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…………...

21

2.1. Vật liệu nghiên cứu…………………………………………………………

21

2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu………………………………………….

21

2.3. Thiết bị và hóa chất…………………………………………………………


21

2.3.1. Thiết bị…………………………………………………………………….

21

iv


2.3.2. Hóa chất…………………………………………………………………..

21

2.4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………..

22

2.4.1. Phương pháp thu thập và bảo quản mẫu Fasciola spp………………….

22

2.4.2. Phương pháp tách chiết DNA tổng số…………………………………..

23

2.4.3. Thiết kế mồi, thục hiện PCR gen ITS2 và gen Nad1…………………..

23


2.4.4. Phương pháp giải trình tự………………………………………………

25

2.4.5. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu…………………………………

26

CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN…………………. 28
3.1. Thu nhận gen ITS-2 trong chuẩn đoán phân biệt…………………………..

28

3.1.1. Thu thập mẫu sán lá gan lớn và phân loại hình thái………………………

28

3.1.2. Sử dụng gen ITS-2 trong chuẩn đoán phân biệt………………………….

28

3.2. Thu nhận gen Nad1, giải trình tự và phân thích mối quan hệ phả hệ……..

35

3.2.1. Kết quả PCR gen ty thể Nad1………………………………………………

35

3.2.2. Kết quả giải trình tự và so sánh gen Nad1………………………………….


36

3.2.3. Kết quả phân tích tỷ lệ đồng nhất về trình tự gen Nad1…………………

43

3.2.4. Xây dựng mối quan hệ phả hệ giữa các loài thuộc lớp sán lá gan……….

46

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………………………………….

49

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….

51

v


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DNA

Deoxyribonucleotide

AST

Abnormal Spermatogenic Type


NST

Normal Spermatogenic Type

ITS-2

Second internal transcribed spacer

Nad1

Nicotinamide Adenine Dinucleotide dehydrogenase subunit 1

Rdna

Ribosome DNA

SLGL

Sán lá gan lớn

PCR

Polymerase chain reaction

ddNTP

dideoxyribonucleotide triphosphate

dNTP


deoxyribonucleotide triphosphate

bp

Cặp bazơ (base pair)

TAE

Tris base-Acetic-EDTA

PAGE

Điện di gel polyacylamid

EtBr

Ethidium Bromide

EDTA

Ethylene Diamine Tetraacemic Acid

OD

Mật độ quang học

Kb

Kilobase


Kda

Kilodalton

µl

Microlitre

µm

Micrometer

mm

Millimeter

vi


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Danh sách các mồi dùng trong phản ứng PCR thu nhận gen ITS-

24

2, và gen ty thể Nad1
Bảng 3.1. So sánh các nucleotide ở các vị trí biến đổi của gen ITS-2 của các

31


mẫu sán lá gan lớn ở các vùng địa lý và vật chủ khác nhau
Bảng 3.2. Các mẫu sán lá Trematoda trong Ngân hàng gen cung cấp chuỗi

39

Nad1 sử dụng so sánh đối chiếu trong nghiên cứu
Bảng 3.3. Tỷ lệ tương đồng trình tự nucleotide gen Nad1 của 2 loài sán lá
gan thuộc lớp sán dẹp Trematoda

vii

45


DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 1.1. Hình ảnh mô tả hình thái của sán lá gan lớn Fasciola spp.

4

Hình 1.2. Hình thể trứng sán lá gan lớn và hình thể ấu trùng Miracidium

5

Hình 1.3. Hình nang ấu trùng sán lá gan lớn và hình nang rediae SLGL

6

Hình 1.4. Hình nang cercariae sán lá gan lớn và hình thể nang ấu trùng SLGL

7


Hình 1.5. Cấu tạo thể sán lá gan lớn trưởng thành

8

Hình 1.6. Chu trình vòng đời phát triển của sán lá gan lớn Fasciola spp.

10

Hình 1.7. Mô hình cấu trúc ribosome DNA của gen nhân và vùng gen nghiên

18

cứu (vùng gen ITS-2)
Hình 1.8. Mô hình cấu trúc DNA của hệ gen ty thể

19

Hình 2.1. Sơ đồ tóm tắt quy trình thí nghiệm

22

Hình 3.1. Hình ảnh sán lá gan lớn

28

Hình 3.2. Ảnh điện di kiểm tra sản phẩm PCR của vùng gen ITS-2

29


Hình 3.3. So sánh trình tự chuỗi nucleotide gen ITS-2 của 19 mẫu Fasciola spp.

31

Hình 3.4. Cây phả hệ thể hiện mối quan hệ về loài giữa các mẫu SLGL Fasciola

34

spp. dựa trên trình tự nucleotide của gen ITS-2 bằng chương trình MEGA6
Hình 3.5. Ảnh điện di kiểm tra sản phẩm PCR của gen Nad1 với cặp mồi

35

.FAND1F – FAND1R (~ 1kb)
Hình 3.6. Trình tự chuỗi gen Nad1 của FspNB-VN; FspHU-VN; FspCB-VN.

38

Hình 3.7. So sánh trình tự chuỗi nucleotide gen Nad1 của FspNB-VN;

42

FspCB-VN và FspHU-VN với các chuỗi thuộc lớp sán dẹp Trematode
Hình 3.8. Cây phả hệ thể hiện mối quan hệ về loài giữa các mẫu sán lá gan
dựa trên thành phần nucleotide của gen Nad1 bằng phương pháp MEGA6

viii

46



MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Bệnh sán lá gan lớn (fascioliasis) do hai loài Fasciola hepatica và Fasciola
gigantica thuộc họ Fasciolidae ký sinh trên động vật nhai lại (trâu, bò, dê, cừu…)
và đang dần thích ứng gây bệnh trên người. Trước đây, các đặc tính hình thái học
(morphology), sinh thái học (ecology) và huyết thanh học (serology) thường sử
dụng trong chẩn đoán cũng đã đáp ứng được phần lớn yêu cầu về phân loại sinh vật
trong đó có ngành ký sinh trùng [11]. Tuy nhiên nếu phân loại sán lá gan chỉ dựa vào
hình thái thì rất khó phân định. Đặc biệt đã có hiện tượng lai và dạng trung gian
(hybrid form) trong quần thể sán lá gan được phát hiện, đó là trong hệ gen có sự trộn
lẫn của F. hepatica và F. gigantica (Fh/Fg), trong đó hệ gen nhân tế bào mang gen từ
dòng bố (F. hepatica) và hệ gen ty thể (F. gigantica) mang tính di truyền theo dòng
mẹ [9].
Bệnh sán lá gan lớn hiện nay được coi là bệnh ký sinh trùng mới nổi bị lãng
quên và đang được Tổ chức y tế thế giới (WHO) quan tâm.
Sán lá gan lớn gây bệnh ở người, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, do
chúng gây ra các tổn thương bệnh lý ở hệ thống gan mật, gây can xi hóa đường
mật, ký sinh lạc chỗ hoặc di chuyển lạc lên não gây tổn thương nặng ở nhu mô gan
làm suy gan dẫn đến tử vong [6, 9, 20]. Một số trường hợp do bệnh sán lá gan lớn
ở người gây phản ứng viêm, xơ hóa gan, dẫn đến chẩn đoán bị nhầm là bệnh ung
thư gan [3, 5, 14].
Đối với động vật ăn cỏ (trâu, bò, dê, cừu…) khi nhiễm sán lá gan lớn làm
giảm trọng lượng của con vật, ốm yếu, thiếu máu bệnh lý, con vật không sinh sản,
gây thiệt hại lớn về kinh tế [2].
Vì vậy việc phát hiện sớm và xác định chính xác loài Fasciola spp. gây bệnh là
rất cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn trong chẩn đoán và điều trị. Chẩn đoán, giám định và
phân biệt loài Fasciola spp. được thực hiện bằng các phương pháp sinh học phân tử
dựa trên các chỉ thị di truyền ADN của hệ gen nhân và hệ gen ty thể đã được ứng dụng
trong nghiên cứu và thẩm định chính xác giữa các loài.


1


Xuất phát từ yêu cầu đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
định danh loài sán lá gan lớn Fasciola spp. sử dụng chỉ thị phân tử ITS-2 và
Nad1”.
Mục tiêu của đề tài
- Giải mã trình tự ITS-2 và Nad1 để xác định loài sán lá gan lớn Fasciola spp.
gây bệnh trên động vật tại Việt Nam.
- Xây dựng cây phả hệ về mối quan hệ loài dựa trên trình tự nucleotide của
gen ITS-2 và Nad1 trong phân loại.
Nội dung nghiên cứu
- Thu nhận và sàng lọc các mẫu sán lá gan lớn Fasciola spp. từ các tỉnh ở
Việt Nam.
- Xác định trình tự gen ITS-2 và Nad1 của các mẫu Fasciola spp. thu được.
- Phân tích, so sánh các trình tự gen ITS-2 và Nad1 trong nghiên cứu với các
trình tự trên ngân hàng gen để định danh loài sán lá gan lớn Fasciola spp.
- Xây dựng cây phả hệ dựa trên các trình gen ITS-2 và Nad1 trong nghiên
cứu và các trình tự trên ngân hàng gen.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Góp phần cung cấp thêm trình tự dữ liệu gen ITS-2 và gen Nad1 của sán lá
gan lớn Fasciola spp. ở Việt Nam.
- Ngoài ra các phân tích trình tự gen bằng kĩ thuật sinh học phân tử về ký
sinh trùng chính xác hơn, nhằm ứng dụng trong nghiên cứu dịch tễ học phân tử và
giám định phân loại loài.

2



CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Giới thiệu về loài sán lá gan lớn

Đặc điểm sinh học của sán lá gan lớn
Sán lá gan lớn (Fasciola) là kí sinh trùng lây truyền theo đường tiêu hoá.
1.1.1. Phân loại sinh học
Theo Skarjabin và cộng sự (1997), [65] sán lá gan lớn kí sinh và gây bệnh
cho trâu bò được xếp trong hệ thống phân loại động vật như sau:
Ngành: Plathelminthes (Schneider, 1873)
Phân ngành: Platodes (Leuckart, 1854)
Lớp: Trematoda (Rudolphi, 1808)
Phân lớp: Prosostomadidea (Skrjabin và Guschanskaja, 1926)
Bộ: Fasciolida (Skrjabin et Schulz, 1937)
Phân bộ : Fasciolata (Skrjabn et Schulz, 1937)
Họ : Fasciotidae (Railliet, 1985)
Phân họ : Fasciolinae (Stiles et Hasall, 1898)
Giống : Fasciola (Linnaeus, 1758)
Loài : Fasciola hepatica (Linnaeus, 1758)
Loài : Fasciola gigantica (Cobbold, 1888).
1.1.2. Đặc điểm hình thái của sán lá gan lớn
Cũng như nhiều loài sán lá khác, sán lá gan lớn (SLGL) thuộc dạng sinh sản
lưỡng tính có thể thụ tinh chéo hoặc tự thụ tinh.
Có thể phân biệt 2 loài sán lá gan thuộc giống Fasciola như sau:
- Loài F. hepatica (Linnaeus, 1758): có kích thước thân rộng, đầu lồi và nhô
ra phía trước làm cho sán có vai, nhánh ruột chia ít nhánh ngang hơn (Hình 1.1A) .
F. hepatica có chiều dài 18 – 51 mm, rộng 4 – 13 mm, phần trước thân nhô ra tạo
cho sán có vai bè ra hai bên (Hình 1.1A). Hai rìa thân sán không song song với nhau

mà phình ra ở chỗ vai rồi thót lại ở đoạn cuối thân. Những ống dẫn tuyến noãn
hoàng chạy ngang, chia vùng giữa của sán lá thành phần trước và phần sau của thân.

3


Phần sau thân có tinh hoàn và bộ phận sinh dục đực. Tinh hoàn phân nhiều nhánh
xếp chỗ sau thân. Tử cung ở phần giữa thân trước tạo nên một mạng lưới rối như tơ
vò. Buồng trứng phân nhánh nằm ở sau tử cung. Trứng của sán lá F. hepatica có
màu sắc, hình thái tương tự như trứng của loài F. gigantica, kích thước 0,13 - 0, 145
× 0,07 - 0,09 mm [32].

A

B

Hình 1.1. Hình ảnh mô tả hình thái của sán lá gan lớn Fasciola sp. [66]
A: Sán lá gan lớn Fasciola hepatica
B: Sán lá gan lớn Fasciola gigantica
- Loài F. gigantica (Cobbold, 1885). Có chiều dài gấp 3 lần chiều rộng, vai
không có hoặc không nhìn rõ rệt, nhánh ruột chia tỏa ra nhiều nhánh ngang. F.
gigantica (có nghĩa là sán khổng lồ), có kích thước chiều dài 25 – 75 mm, chiều
rộng 3 – 12 mm, u lồi hình nón của đầu là phần tiếp theo của thân, vì vậy nó không
có vai như loài khác của giống Fasciola, hai rìa bên thân sán lá song song với nhau,
đầu cuối của thân tù (Hình 1.1B). Giác bụng tròn lồi ra. Ruột, tuyến noãn hoàng,
buồng trứng và tinh trùng đều phân nhánh. Trứng hình bầu dục, màu vàng nâu, phôi
bào to đều và xếp kín vỏ. Kích thước trứng 0,125 - 0,170 × 0,06 - 0,10 mm [52].
1.1.3. Các giai đoạn phát triển của sán lá gan lớn
Trứng sán lá gan lớn
Trứng SLGL có kích thước lớn nhất trong các loài sán lá, trứng có màu vàng,

hình elip đối xứng qua trục dọc, vỏ mỏng, có nắp ở một đầu (Hình 1.2A). Trứng
SLGL có kích thước trung bình (140-172,3 x 80 -89,6) μm, dao động (130-150 x 6090) μm có khi tới 152-198 x 72-94 μm. Trứng SLGL có phổ dao động kích thước
rộng là do chúng tồn tại dưới 2 thể: nhị bội và tam bội. Trứng sán có từ 20-30 phôi
bào; trong các giai đoạn phát triển của trứng, lúc đầu các phôi bào phân bố đều, sau

4


đó phôi bào tập trung dần vào trung tâm và hình thành nguyên ấu trùng lông ở trong
trứng [8].

A

B

Hình 1.2. Hình thể trứng sán lá gan lớn và hình thể ấu trùng Miracidium
A: Hình thể trứng sán lá gan lớn [70]
B: Hình thể ấu trùng Miracidium SLGL [69]
Ấu trùng lông (Miracidium): khi còn ở trong trứng, ấu trùng lông có kích
thước nhỏ (nhỏ hơn khi đã thoát vỏ), bọc trong một lớp màng, túi tinh chưa hình
thành, hình thái nhìn chung giống như khi đã chui ra ngoài (Hình 1.2B). Ấu trùng
lông có lớp lông ở xung quanh, nhờ vậy chúng có khả năng bơi lội trong nước cho
tới xâm nhập được vào ốc hoặc chết. Ấu trùng lông gồm có túi tinh ở phía đầu, hai
bên có tuyến đỉnh. Cơ quan bài tiết được tạo thành từ một đôi tế bào ngọn lửa và
các ống dẫn. Tế bào hình ngọn lửa hoạt động rất mạnh (trong trứng cũng như khi đã
ra ngoài), soi kính hiển vi dễ thấy. Mắt của ấu trùng lông nằm ở mặt lưng, cấu tạo
theo kiểu dấu nhân chéo nhau thành khối màu đen [16].
Nang ấu trùng (Sporocyst) là một dạng ấu trùng thứ hai của sán lá, nang ấu
trùng có dạng hình túi được bao bởi màng mỏng. Các cơ quan của ấu trùng đuôi mất
đi và xuất hiện các cơ quan mới. Ấu trùng lông có mắt, phát triển thành nang ấu

trùng thì mắt không còn, vẫn được phủ lông như ấu trùng lông, các tuyến đỉnh, túi
tinh cũng không thấy ở nang ấu trùng (Hình 1.3A).

5


A

B

Hình 1.3. Hình nang ấu trùng sán lá gan lớn và hình nang rediae SLGL [71]
A: Hình nang ấu trùng sán lá gan lớn
B: Hình nang rediae SLGL
Nang ấu trùng hình thành ống ruột và hầu, các bộ phận này còn nằm trong
khối tế bào thân rất lớn, ngoài ra trong cơ thể nang ấu trùng còn có một đám phôi
khác nữa. Do hiện tượng đơn tính sinh, về sau các đám phôi này sẽ phát triển thành
rê-đi. Kích thước của nang ấu trùng sau 6 ngày ấu trùng lông nhiễm vào ốc là:
(0,250 - 0,291 x 0,156 - 0,177) mm; trung bình 0,272 x 0,167 mm. Khoảng 3 - 7
ngày, nang ấu trùng sinh sản vô tính cho ra nhiều rê-đi, một nang ấu trùng cho ra 515 rê-đi [16].
Rê-đi (Rediae): Có hai hệ: rê-đi thế hệ 1 và rê-đi thế hệ 2 cùng phát triển
trong ốc. Rê-đi có dạng hình giun, ít hoạt động, đã xuất hiện một số nét của sán
trưởng thành: giác miệng, giác bụng, hầu, thực quản và ruột, ống ruột chạy dọc cơ
thể của ấu trùng, đuôi dài hơn thân giúp di chuyển được dễ dàng, rê-đi lớn hơn hẳn
nang ấu trùng, kích thước sau 7 ngày trung bình 0,494 x 0,134 mm; chiều dài ống
ruột trung bình 0,338 mm, giác miệng trung bình 0,078 - 0,063 mm. Toàn bộ cơ thể
có màu vàng đậm, các đám phôi thấy rõ và lớn hơn. Thời gian càng dài thì kích
thước rê-đi càng lớn, sau 35 ngày kể từ khi nhiễm ấu trùng lông, đạt kích thước
trung bình: thân: 1,48 x 0,2 mm; ruột 0,68 x 0,121 mm, hầu: 0,077 x 0,063 mm
(Hình 1.3B) [16].
Ấu trùng đuôi (Cercariae): là dạng ấu trùng sống tự do của sán lá gan lớn,

được phát triển từ rê-đi, cấu tạo gồm thân và đuôi. Ấu trùng đuôi còn non phần thân
dài hơn, khi già phần đuôi dài hơn. Ấu trùng đuôi đã mang phần nào những đặc

6


điểm cấu tạo của sán lá trưởng thành cơ quan bám bám gồm giác miệng và giác
bụng, ống tiêu hoá có lỗ miệng, hầu gồm hai mảnh hình hạt đậu. Ruột gồm những tế
bào tròn xếp sát nhau hình thành nên; hai bên thân có các tế bào hình trứng xếp
thành hai đường chạy từ cuối giác miệng đến núm đuôi; ngoài ra, trong cơ thể còn
có những hạt nhỏ sáng là nguồn cung cấp năng lượng cho hoạt động của ấu trùng
(hạt glycogen) ( Hình 1.4A) [15].

A

B

Hình 1.4. Hình nang cercariae sán lá gan lớn và hình thể nang ấu trùng SLGL [71]
A: Hình nang cercariae sán lá gan lớn
B: Hình thể nang ấu trùng SLGL
Nang ấu trùng (Metacercariae): được hình thành từ ấu trùng đuôi, trong
giai đoạn này ấu trùng không còn đuôi và tạo thành nang, hình cầu, kích thước nang
kể cả màng ngoài 0,208 - 0,291 mm; trung bình 0,244 mm. Kích thước nang đo theo
màng trong là 0,177 - 0,250 mm; trung bình 0,203 mm (Hình 1.4B). Khi phát triển
đến giai đoạn nang ấu trùng, sức đề kháng của chúng tăng lên rõ rệt. Nang ấu trùng
có khả năng tồn tại ở nhiệt độ -4oC đến -6oC. Ở điều kiện nhiệt độ bình thường,
những nang ấu trùng có trong cỏ khô bị ẩm và trong môi trường nước có thể tồn tại
đến trên 5 tháng [15].
Sán trưởng thành
Sán trưởng thành sống trong hệ đường mật và từ ống mật trứng theo đường

mật xuống ruột và ra ngoài theo phân. Trứng xuống nước, ở nhiệt độ thích hợp 2530oC, nở thành ấu trùng lông, sau 14-16 ngày, ấu trùng này thâm nhập và ký sinh ở
vật chủ phụ 1 là ốc thuộc giống lymnaea; trong ốc, ấu trùng phát triển qua giai đoạn
nang bào tử, hai giai đoạn rê-đi, phát triển và sản sinh ra một số lượng lớn ấu trùng
7


đuôi bơi lội tự do và các ấu trùng đuôi này bám vào cây thủy sinh như rau muống,
rau cần, cải soong... và tạo thành nang ấu trùng (metacercaria) [8].
Tất cả ký sinh trùng sán lá nói chung ở người đều có hình lá và dẹt, kích
thước dao động từ 1- 30 mm (riêng Fasciolopsis có kích thước đến 75 mm). SLGL
trưởng thành hình chiếc lá, thân dẹt và bờ mỏng, kích thước 20-30 x 10-12 mm,
màu trắng hồng hoặc xám đỏ, giác miệng (oral sucker) nhỏ, kích thước 1 mm, giác
bụng (ventral suckers) to hơn, kích thước 1,6 mm. Cơ thể sán được bao phủ bởi một
lớp cutile mỏng và có nhiều chóp nhỏ. Chúng thường “bám dính” với nhiều cơ quan
khác của vật chủ thông qua các giác hút (một giác hút ở phía trước gọi là giác
miệng và một cái còn lại ở giữa gọi là giác bụng). Miệng thường nằm ngay ở giác
miệng và nối với manh tràng, chia hai nhánh và mỗi nhánh mở rộng về một phía
của cơ thể. Đặc điểm chính của sán lá gan lớn là sự có mặt của các tế bào hình ngọn
lửa trong hệ bài tiết của sán. Sán lưỡng tính, bộ phận sinh dục có lỗ nằm gần giác
bụng. Sán lá có giác miệng và giác bụng, giác bụng không nối với cơ quan tiêu hóa.
Sán lá không có hệ hô hấp, tuần hoàn và cơ quan thị giác, ở giai đoạn mao ấu có
dấu vết sắc tố mắt. Hệ sinh dục rất phát triển với cả hệ sinh dục đực và cái trong
cùng một cơ thể, tử cung sán lá chứa đầy trứng (Hình 1.5).

Hình 1.5. Cấu tạo thể sán lá gan lớn trưởng thành [1]
Cơ quan sinh dục đực bao gồm 1 hay nhiều tinh hoàn kết nối với một ống
đơn thuần hoặc một ống dẫn tinh lớn, nhờ vào một ống ngắn hoặc ống dẫn tinh.
Ống dẫn tinh sẽ kết thúc bằng một cơ quan sinh dục đực. Cơ quan sinh dục cái bao
gồm một buồng trứng duy nhất kết nối với ống dẫn trứng. Ống dẫn trứng nối với vài
ống hoặc ống noãn hoàng. Ống dẫn trứng nối tiếp với ootype rồi được bao quanh


8


bởi một khối tuyến ngoại tiết (tuyến Mehlis). Tử cung nằm ở cuối của ootype. Sự tự
thụ tinh hiếm khi xảy ra trong các loài sán lá. Cũng giống như nhiều loài sán lá
khác, sán lá gan lớn lưỡng tính, có thể thụ tinh chéo hoặc tự thụ tinh, trong cơ thể
sán có cả cơ quan sinh dục đực và cái. Hệ thống sinh dục rất phát triển, tử cung sán
chứa đầy trứng. Sán có giác bụng và giác miệng, giác miệng đóng kín và không nối
với cơ quan tiêu hóa. Sán không có hệ thống tuần hoàn, hô hấp và cơ quan thị giác,
hệ bài tiết ở cuối thân [16].
SLGL có cả những loại sinh tinh bất thường (abnormal spermatogenic type AST) bao gồm nhiễm sắc thể nhị bội (diploid form), tam bội (triloid form) và đa bội
mà không thụ tinh và loại sinh tinh bình thường (normal spermatogenic type - NST)
của Fasciola spp. được tìm thấy ở một số quốc gia châu Á như Trung Quốc, Đài
Loan, Ấn Độ, Nepal, Philippines, Thái Lan và Việt Nam. AST xảy ra đặc biệt ở
Nhật Bản và Hàn Quốc. Tại vùng Đông Nam Á, loài sán có loại AST cùng khu vực
phân bố với NST F. hepatica và NST F. gigantica. Tương tự, tại châu Phi, chủ yếu
gặp chủng F. gigantica. Ngược lại, ở châu Âu, Nam và Bắc Mỹ, châu Đại Dương là
các địa danh phân bố chủ yếu của F. hepatica [41].
1.1.4. Vòng đời
Vòng đời sinh học của SLGL đã được Leukart (1883) ở Đức và Thomas
(1882) ở Anh đồng thời nghiên cứu vào năm 1882 [66]. Qua nhiều năm, vòng đời
của sán lá gan lớn đã được làm sáng tỏ, có thể tóm tắt như sau:

9


Hình 1.6: Chu trình vòng đời phát triển của sán lá gan lớn Fasciola spp. [67]
1. Trứng từ đường mật được đào thải ra ngoài theo phân.
2. Trứng rơi xuống môi trường nước.

3. Ấu trùng lông nở ra từ trứng.
4. Ốc trung gian truyền bệnh và ấu trùng sán phát triển trong ốc.
5. Ấu trùng đuôi rời khỏi ốc bơi trong nước.
6. Nang ấu trùng bám trong thực vật thuỷ sinh.
7-8. Động vật ăn cỏ hoặc người ăn ấu trùng sán có nhiễm trong thực vật thuỷ sinh
hoặc nước uống, ấu trùng vào dạ dày, xuyên qua thành ống tiêu hóa và ổ bụng rồi
xuyên lên gan ký sinh trong đường mật.
1.1.5. Hiện tƣợng lạc vị trí ký sinh của sán lá gan lớn
Các loại ký sinh trùng (KST) thường chỉ sống và phát triển ở các vị trí nhất
định trong vật chủ hoặc ký sinh ở những loại vật chủ thích hợp. Tuy vậy, trên thực
tế có những trường hợp ngoại lệ, ký sinh trùng có thể ký sinh trái quy luật, nó có thể
ký sinh lạc chỗ hoặc lạc vật chủ. Ký sinh trùng lạc chủ là những ký sinh trùng bình
10


thường ký sinh ở một loài vật chủ nhất định nhưng do một lý do nào đó KST
chuyển sang ký sinh ở vật chủ mới. Sán lá gan lớn có vật chủ chính chủ yếu ký sinh
ở trâu bò và người [16].
Ký sinh trùng lạc vị trí là những ký sinh trùng ký sinh lạc sang cơ quan, phủ
tạng khác với cơ quan, phủ tạng mà nó thường ký sinh. Bình thường sán lá gan lớn
ký sinh trong gan của vật chủ, nhưng nhiều trường hợp vì một lí do nào đó đã ký
sinh ở nhiều vị trí khác nhau trong cơ thể như ở mắt, cơ, khớp... Đây là những
trường hợp cá biệt và gây nhiều khó khăn trong chẩn đoán bệnh. Khác với các bệnh
ký sinh trùng khác, bệnh do sán lá gan lớn gây nên không ở thể mạn tính mà có thể
được coi là cấp tính. Thể cấp tính thường xảy ra đối với các trường hợp ấu trùng cư
trú trong hoặc đang di trú qua các mô, bệnh chuyển thể mạn tính khi sán đã xâm
nhập vào gan và hoàn thành chu kỳ phát triển trong cơ thể người. Trong quá trình
hoàn thành vòng đời, sán tiền trưởng thành có thể di hành trong cơ thể, đến cư trú ở
các cơ quan khác. Trên người thường gặp nhất là tình trạng sán lá gan lạc vị trí ký
sinh ở đường tiêu hóa. Một số nơi khác mà SLGL lạc vị trí ký sinh như cư trú dưới

da, lạc vị trí ký sinh ở tim, phổi, màng phổi và mạch máu, lạc vị trí ký sinh ở ổ mắt
hoặc ở thành bụng, có thể vùng phân khu nào hoặc nhiều nhất là ở vùng dưới rốn, ở
tụy, hoặc ở hạch bẹn, ở hạch cổ hoặc ở cơ xương, lạc vị trí ký sinh ở mào tinh hoàn
[21].
1.2 Đặc điểm của bệnh do sán lá gan lớn
1.2.1. Cơ chế bệnh sinh của sán lá gan lớn
Theo các nhà ký sinh trùng học, SLGL gây bệnh ở vật chủ bằng tác động của
độc tố tiết ra từ con sán và đặc biệt là sự chiếm đoạt dinh dưỡng của vật chủ . Khi
trâu bò mới nhiễm bệnh, SLGL di chuyển trong cơ thể làm tổn thương ở ruột, thành
mạch máu, nhu mô gan. Một số ấu trùng có thể di chuyển “lạc chỗ” đến phổi, lách,
cơ hoành, tuyến tụy…gây tổn thương hoặc xuất huyết nặng hoặc nhẹ. Sán lá gan
lớn xuyên qua các nhu mô gan làm các tổ chức gan bị phá hoại tạo ra các đường di
hành đầy máu và mảnh tổ chức gan bị phá hủy. Gan bị viêm từ nhẹ đến nặng tùy
theo số lượng ấu trùng nhiễm vào cơ thể. Trâu bò có thể thiếu máu do xuất huyết
hoặc chết do mất máu [5].
11


Trong quá trình ký sinh sán lá thường xuyên tiết độc tố. Độc tố tác động vào
thành ống mật và mô gan, gây biến đổi đại thể và vi thể làm tăng quá trình viêm.
Đồng thời độc tố của sán lá còn hấp thu vào máu gây hiện tượng trúng độc toàn
thân, gây hủy hoại máu, làm biến chất protein trong máu, làm albumin giảm,
globumin tăng. Độc tố của sán lá còn làm tăng nhiệt độ cơ thể, tăng bạch cầu (đặc
biệt là bạch cầu ái toan) và tác động vào thần kinh, làm cho con vật có triệu chứng
thần kinh (run rẩy, siêu vẹo…). Độc tố của sán lá gan tác động vào thành mạch
máu, làm tăng tính thẩm thấu của thành mạch, gây hiện tượng thủy thũng, làm cho
máu đặc lại. Cũng do tác động của độc tố nên giữa các tiểu thùy gan có hiện tượng
thẫm nhiễm huyết thanh và tế bào, hình thành nên các mô liên kết mới dọc theo các
vách ngăn của tiểu thùy gan và quanh ống mật, vì vậy các ống mật này cũng dày
lên. Quá trình viêm kéo dài làm cho các tế bào yêu cầu tăng sinh, thay thế những tế

bào nhu mô gan, gây hiện tượng sơ gan và teo gan. Khi trâu bò nhiễm sán lá gan
nặng, hiện tượng sơ gan chiếm diện tích lớn của gan, làm cho chức năng gan bị phá
hủy. Từ đó dẫn đến hàng loạt các rối loạn khác như: rối loạn cơ năng dạ dày - ruột,
thiếu máu, suy nhược, gầy dần, cổ chướng, xoang phúc mạc tích nước [4].
Một tác động quan trọng của Fasciola khi ký sinh ở vật chủ là chiếm đoạt
dinh dưỡng. Dinh dưỡng của sán lá gan là máu trâu, bò mà nó ký sinh. Bằng
phương pháp phóng xạ, người ta đã thấy mỗi sán lá ký sinh ở ống dẫn mật lấy 0,2
ml máu mỗi ngày. Như vậy nếu trâu bò nhiễm ít sán là thì vai trò chiếm đoạt dinh
dưỡng không rõ, nhưng nếu trâu bò có hàng trăm, hàng nghìn sán lá ký sinh thì
lượng máu mất đi rất nhiều. Ngoài các tác động gây bệnh trên, trong khi di chuyển
trong cơ thể của vật chủ, sán lá gan lớn còn mang theo các loại vi trùng từ bên ngoài
vào máu, gan và những cơ quan khác, gây những bọc mủ hoặc gây bệnh truyền
nhiễm ghép với bệnh sán lá gan. Tất cả những tác động kể trên của sán lá gan lớn
làm cho sức đề kháng của trâu, bò giảm sút nghiêm trọng dễ mắc các bệnh khác
hoặc làm cho các bệnh trong cơ thể trâu, bò nặng thêm lên [5].
Sán lá gan lớn thường gây tổn thương gan và có thể gây nên những biến
chứng nặng nề ở vật chủ. Trâu bò được xem là vật chủ chính của sán lá gan lớn và

12


người là vật chủ tình cờ do ăn phải rau sống hoặc uống nước bị nhiễm ấu trùng sán
lá gan lớn [2, 68].
1.2.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh sán lá Fasciola spp. ở ngƣời và động vật
1.2.2.1.

Trên thế giới

Cho đến nay, bệnh sán lá gan đã được ghi nhận từ các châu lục trên thế giới.
Trong đó, Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Đại Dương là những nơi chỉ phát hiện được

một loài F. Hepatica gây bệnh. Tuy nhiên, ở Châu Phi và Châu Á thì có cả hai loài
F. hepatica F. gigantica có khả năng gây bệnh. Năm 2017, WHO ước tính có ít nhất
2,4 triệu người bị nhiễm bệnh sán lá gan ở trên 70 quốc gia trên toàn thế giới và
hàng triệu người có nguy cơ nhiễm bệnh. Đặc biệt, không có lục địa nào thoát khỏi
bệnh sán lá gan và bệnh này có khả năng xảy ở cả người và động vật [72].
1.2.2.2.

Việt Nam

Tại Việt Nam bệnh phát hiện ở khắp các tỉnh trên cả nước. Houmeder (1938)
đã điều tra và thấy trâu, bò ở miền Bắc Việt Nam đều nhiễm sán lá F. gigantica với
tỷ lệ là 64,7% ở trâu, 23.5% ở bò và đặc biệt có 2% nhiễm sán lá gan ở người.
Ở trâu trưởng thành mắc bệnh sán lá gan do F. gigantica với tỷ lệ nhiễm
50% - 70%. Theo Phan Địch Lân (1980), mổ khám 1043 con trâu ở Thái Nguyên,
số trâu nhiễm sán là 57%, trong đó có nhiều gan phải hủy bởi do số lượng sán lá
quá nhiều. Kết quả điều tra ở huyện Bình Lục – Hà Nam, tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở
trâu là 51,2 – 57,5% [14].
Theo tác giả Đoàn Văn Phúc đã kiểm tra 64 bò tại trại bò sữa Hà Nội, thấy tỷ
lệ nhiễm sán lá Fasciola là 73,43%. Tác giả còn cho biết, bệnh sán lá gan đã ảnh
hưởng rõ rệt đến sức khỏe và sản lượng sữa của đàn bò. Tỷ lệ trâu bò khu vực Hà
Nội nhiễm sán lá gan tỷ lệ 53,41%. Kết quả kiểm tra trâu, bò ở một số địa phương
xung quanh Hà Nội, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hòa Bình, tỷ lệ nhiễm sán lá gan là
44,53%. Trong đó, trâu nhiễm 33,92%, bò nhiễm 54,21% [19].
Tỷ lệ và cường độ nhiễm sán lá gan lớn ở gia súc nhai lại phụ thuộc vào các
yếu tố sau:
- Yếu tố thời tiết, khí hậu và mùa vụ

13



Thời tiết khí hậu của một vùng, một khu vực có liên quan trực tiếp đến sự tồn
tại của ốc - vật chủ trung gian của sán lá gan lớn. Điều kiện ẩm ướt, mưa nhiều tạo
ra môi trước nước, giúp ốc nước ngọt sống và sinh sản thuận lợi. Trâu bò bị nhiễm
sán lá gan lớn đều tăng lên vào mùa vật chủ trung gian phát triển. Những năm mưa
nhiều, tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn tăng lên so với những năm có thời tiết nắng ráo
và khô hạn. Mùa vụ gắn liền với sự thay đổi thời tiết, khí hậu. Mùa hè thu, số
lượng gia súc bị nhiễm sán lá gan lớn tăng cao hơn so với các mùa khác trong
năm. Bệnh sán lá gan lớn thường xảy ra cuối mùa thu và mùa đông [11, 13].
- Yếu tố vùng và địa hình
Vùng và địa hình là hai khái niệm khác nhau song có liên quan chặt chẽ với
nhau. Các vùng khác nhau có địa hình không giống nhau. Địa hình là yếu tố quan
trọng quyết định sự khác nhau giữa các vùng. Các vùng khác nhau trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng đều thuộc bốn loại địa hình: Ven biển, đồng bằng,
trung du và miền núi. Hầu hết các nhà ký sinh trùng học đều thống nhất rằng, gia
súc nhai lại ở vùng đồng bằng nhiễm sán lá gan nhiều nhất, tỷ lệ và cường độ nhiễm
giảm dần đối với đàn gia súc ở vùng ven biển, vùng trung du và vùng núi. Về
nguyên nhân dẫn đến quy luật này, một số tác giả đều giải thích do vùng đồng bằng
có nhiều ao, hồ, kênh, rạch, có điều kiện cho ốc – vật chủ trung gian sống và sinh
sản. Các điều kiện địa hình khác thì vấn đề này hạn chế hơn ở vùng đồng bằng [11,
43, 56].
Theo số liệu đã điều tra 7359 trâu, bò ở miền Bắc Việt Nam, kết quả cho thấy:
Trâu, bò ở vùng đồng bằng nhiễm sán lá gan lớn cao nhất, sau đó đến vùng trung du,
vùng ven biển và vùng núi. Bình quân tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn ở các vùng điều tra
như sau: vùng đồng bằng từ 19,6% - 61,3%; vùng trung du 16,4% - 50,2%; vùng ven
biển 13,7% - 39,6%; vùng núi 14,7% - 44%). Tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn ở trâu bò
qua mổ khám vùng đồng bằng là 88%, vùng trung du là 77,6% . Các loài gia súc nhai
lại đã được thuần hóa như trâu, bò, dê, cừu đều nhiễm sán lá Fasciola. Ngoài ra các
loài nhai lại hoang dã cũng nhiễm sán lá này (hươu, nai, hoẵng…), cũng có trường
hợp thỏ, ngựa, lợn và kể cả người đều có thể nhiễm sán lá gan lớn Fasciola
spp.[14].

14


Về mối liên quan giữa tỷ lệ, cường độ nhiễm sán lá gan lớn và tuổi vật chủ,
các tác giả đều thống nhất rằng, tuổi trâu, bò càng cao tỷ lệ và cường độ nhiễm càng
tăng lên. Một điều dễ nhận thấy là trâu, bò tuổi càng tăng lên (thời gian sống càng
dài) thì sự tiếp xúc với môi trường ngoại cảnh càng nhiều, cơ hội gặp và nuốt phải
nang ấu (Adolescaria) càng cao. Mặt khác sán lá lớn Fasciola trưởng thành có thời
gian ký sinh ở trâu bò nhai lại tương đối dài (3-5 năm, thậm chí lên tới 11 năm). Đó
chính là cơ sở khoa học giải thích cho quy luật nhiễm theo tuổi vật chủ của sán lá
Fasciola spp. Theo tác giả Phan Địch Lân cho biết, trâu dưới 3 năm tuổi chỉ nhiễm
sán lá gan 17,2 -22%; trâu 3 – 5 năm tuổi nhiễm sán lá gan 31,2% -40,2%; trâu 5 –
8 năm tuổi nhiễm 42,4% - 57,5%; trâu 8 năm tuổi nhiễm 56,8% - 66,3%; trâu ở độ
tuổi phế canh (loại thải) khi mổ khám thấy tỷ lệ nhiễm cao tới 84,6% (những trâu
này tỷ lệ nhiễm rất nặng, gan phải hủy bỏ toàn bộ do quá nhiều sán ký sinh) [14].
Vật chủ truyền bệnh SLGL là từ trâu, bò, dê, cừu… và những dã thú mang
Fasciola. Trứng sán lá gan theo phân của các loài động vật này ra ngoài tự nhiên.
Hàng năm mỗi sán lá gan lớn đẻ ra hàng chục vạn trứng. Vì vậy mỗi trâu, bò mang
sán lá gan hàng năm thải khối lượng trứng khá lớn ra đồng cỏ và các bãi chăn thả.
Những đồng cỏ ẩm thấp lầy lội là những nơi cần thiết để mầm bệnh phát triển và
xâm nhập vào trâu bò, đồng thời cho trứng nở thành Miracidium và thuận lợi cho
vật chủ trung gian tồn tại và phát triển [15].
1.2.3. Vật chủ trung gian của sán lá gan lớn
Sự phân bố của các loài ốc - vật chủ trung gian của san lá gan phụ thuộc vào
các vùng địa lý khác nhau. Vật chủ trung gian của sán lá gan lớn Fasciola là các
loài ốc nước ngọt Lymnaea: L. auricularia, ở nhật Bản là L. pervia, ở Indonesia, ở
Philippine là L. viridis, ở Hungari là G. truncatula [11].
Ốc G. truncatula là loài ốc nhỏ, dài 10mm, rộng 5mm, vỏ màu xám, đầu dài,
có 4 - 5 gai thịt. Nhiệt độ tốt nhất để loài ốc này phát triển là 20 – 22oC, pH 6,6 8,6, sinh sản mạnh từ tháng 4 đến tháng 9. Nhiệt độ thích hợp nhất cho sự phát triển
của ốc là 15 – 26oC, khi ở nhiệt độ này chúng có thể đẻ số lượng trứng rất lớn. Trứng

nở trong vòng 2 tuần và trong một tháng ốc trưởng thành. Một con ốc trong vòng 10 12 tuần có thể sinh sản ra hàng ngàn con ốc, ở dưới 10oC ốc không phát triển và
15


ngừng hoạt động. Tuy nhiên, ốc có thể chui vào bùn và sống trong điều kiện bất lợi
nhiều tháng [42].
Tác giả Phan Địch Lân và cộng sự đã nghiên cứu đặc điểm sinh học của ốc –
vật chủ trung gian của F. gigantica ở miền Bắc Việt Nam. Theo tác giả này vật chủ
trung gian của sán lá Fasciola là hai loại ốc nước ngọt thuộc giống Lymnae với tên
gọi là ốc vành tai (L. swinshoei) và ốc chanh (L. viridis). Loài L. swinshoei cỏ vỏ
mỏng, dễ vỡ, không có nắp miệng, kích thước 20 mm, vòng xoắn cuối cùng rất lớn,
chiếm gần hết phần thân, vỏ loe ra như vành tai. Loài L. viridis cũng có vỏ mỏng,
không có nắp miệng, kích thước 10 mm, vỏ dễ vỡ, có 4 - 5 vòng xoắn cuối cùng
lớn. Ốc L. viridis thường sống ở những nơi có nước xâm nhập lớn, đẻ trứng thành ổ 7
- 10 trứng, sau 7 ngày nở thành ốc con, ốc L. swinshoei thường sống trôi nổi ở cống,
rãnh, ao, hồ, đẻ trứng quanh năm, mỗi ổ có 60 - 150 trứng. Loài ốc L. swinshoei phân
bố nhiều hơn ở đồng bằng, trong khi ốc L. viridis phân bố nhiều hơn ở vùng núi,
trung du và ven biển. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả thì cà hai loài ốc này đều
xuất hiện trong cả 12 tháng của năm, nhưng mật độ (tính trên 1m2) khác nhau theo
từng vùng: vùng đồng bằng, mật độ ốc L. swinshoei cao hơn và phân bố đều hơn
trong năm. Cụ thể ở Mỹ Hào (Hưng Yên) bình quân mật độ là 110,4 con/ m2, ở Bình
Lục (Hà Nam) 116,2 con/ m2, còn ốc L. viridis thì xuất hiện với mật độ cao hơn ở các
vùng núi là 75%, trung du 66,5%, ven biển 42%. Từ đó, tác giả nhận xét rằng, L.
swinshoei chịu nước hơn, L.viridis chịu cạn hơn [14].
Sự tồn tại và phát triển quanh năm, ở tất cả các vùng ốc - vật chủ trung gian
là điều kiện quan trọng nhất làm cho tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu bò cao và phổ
biến ở tất cả các vùng. Nước ta được xếp vào 1 trong 5 nước ở châu Á trồng lúa
nước có đàn trâu, bò có tỷ lệ bệnh nhiễm sán lá gan lớn cao nhất. Kết quả điều tra
giữa tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá gan của ốc - vật chủ trung gian với tỷ lệ nhiễm sán
lá gan của trâu, bò có mối tương quan thuận, nghĩa là nếu tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán lá

gan nước ngọt cao thì tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu, bò khu vực đó cũng cao [12, 25].
Khi phát triển đến giai đoạn nang ấu (Adolescaria), sức đề kháng của chúng
tăng lên rõ rệt. Adolescaria có khả năng tồn tại ở (-4oC đến - 6oC), ở điều kiện nhiệt

16


độ bình thường những Adolescaria có trong cỏ khô bị ẩm và trong môi trường nước
có thể tồn tại đến trên 5 tháng [6, 43].
1.3. Tầm quan trọng của nghiên cứu giám định loài bằng phƣơng pháp sinh
học phân tử
Trước đây, các đặc tính hình thái học, sinh thái học và huyết thanh học
thường sử dụng trong chẩn đoán cũng đã đáp ứng được phần lớn yêu cầu về phân
loại sinh vật trong đó có ngành ký sinh trùng [5, 22]. Đặc điểm hình thái học của F.
hepatica là loài này có kích thước bề dài ngắn hơn và có bề ngang rộng hơn F.
gigantica [2]. Giữa hai loài này có nhiều trường hợp tồn tại ở dạng lưỡng bội (diploid),
tam bội (triploid), đa bội (mixoploid) và nhiều khi tồn tại ở dạng hình thái học trung
gian (intermediate form) thuộc loài khuyết sản nên khó xác định chính xác về loài và
dễ gây nhầm lẫn trong chẩn đoán [47, 53, 55].
Hiện nay, sự phát triển của sinh học phân tử trong chẩn đoán đã giúp phân định
được loài ký sinh trùng có liên quan mật thiết với nhau mà nếu chỉ dựa trên hình thái
học đơn thuần sẽ không thể phân tách ra được. Đây là trường hợp phân loại ở SLGL
của Nhật Bản và Hàn Quốc, ở Ai Cập và cả ở Việt Nam - nơi mà giữa F.
hepatica và F. gigantica thường khó phân định chính xác loài [28, 53, 54].
Giải trình tự nucleotide rất có giá trị trong chẩn đoán khi phân biệt giữa các
loài Fasciola spp. với nhau, chẳng hạn nucleotide của vùng gen trong hệ gen nhân
(second internal transcribed spacer-ITS2), như cox1 (cytochrome c oxidase subunit I),
và Nad1 (nicotinamide dehydrogenase subunit 1) của gen ty thể [36, 40, 41].
Kỹ thuật giải trình tự vùng ITS-2 và vùng D2 trong phân tử 28S rRNA của hệ
gen nhân hoặc giải trình tự thông qua đầu dò (probe) DNA cũng được phổ biến và

được coi là một công cụ dịch tễ học để kiểm tra vật chủ trung gian ốc nhiễm SLGL
[45]. Bằng kỹ thuật giải trình tự ITS-2 và vùng D2 trong phân tử gen 28S của gen
nhân, các nhà khoa học đã tìm thấy sự lai chéo nội loài giữa F. hepatica và F.
gigantica trên mẫu bệnh phẩm của Hàn Quốc và Nhật Bản [27, 38, 39].
Tại Việt Nam, gần đây một số tác giả trong nước đã ứng dụng các kỹ thuật
sinh học phân tử, công nghệ gen trong lĩnh vực ký sinh trùng và đặc biệt nghiên cứu về
sán lá gan lớn trong hơn 10 năm nay và cũng đã có một số thành tựu đáng kể, đó là
17


×