Tải bản đầy đủ (.pdf) (169 trang)

Hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu phẩm báo chí tiếng việt thời kì đổi mới (từ năm 1986 đến nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 169 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ VĂN HẬU

HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ PHÊ PHÁN
TRONG TIỂU PHẨM BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT
THỜI KÌ ĐỔI MỚI (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ VĂN HẬU

HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ PHÊ PHÁN
TRONG TIỂU PHẨM BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT
THỜI KÌ ĐỔI MỚI (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)
Ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9.22.90.20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn KH: 1. TS. Vũ Thị Sao Chi
2. GS.TS. Nguyễn Đức Tồn


HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
cứ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 03 tháng 12 năm 2018.
Tác giả luận án

Hà Văn Hậu


LỜI CẢM ƠN
Tôi chân thành cảm ơn lãnh đạo Khoa Ngôn ngữ học, Ban Lãnh đạo Học
viện, cùng toàn thể cán bộ, các thầy giáo, cô giáo của Học viện Khoa học xã
hội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu, triển khai thực hiện luận án.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vũ Thị Sao Chi và
GS.TS. Nguyễn Đức Tồn - tập thể cán bộ hướng dẫn khoa học đã luôn tận tình
hướng dẫn, định hướng cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, để tôi
có thể hoàn thành luận án của mình.
Tôi trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Cao đẳng Ngô Gia Tự Bắc
Giang đã quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên cứu,
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn
quan tâm, động viên và đồng hành cùng tôi, tạo điều kiện để tôi hoàn thành
luận án này.
Tác giả luận án
Hà Văn Hậu



MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU TRONG LUẬN ÁN
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ............................................................2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu ...................................................2
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.........................................................3
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án .....................................................................4
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ....................................................................4
7. Cấu trúc luận án. ........................................................................................................5
NỘI DUNG ...............................................................................................................6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .........................................................................6
1.1.1. Nghiên cứu về dụng học ..................................................................................6
1.1.2. Nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí........................ 17
1.1.3. Nghiên cứu về hành động ngôn ngữ phê phán trong tiểu phẩm báo chí ...... 24
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài .................................................................................. 24
1.2.1. Lý thuyết về hành động ngôn ngữ ................................................................. 24
1.2.2. Khái quát về hành động ngôn ngữ phê phán ............................................... 39
1.2.3. Khái quát về văn bản báo chí và thể loại tiểu phẩm báo chí ......................... 43
Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................. 50
Chƣơng 2
HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ PHÊ PHÁN TRỰC TIẾP
TRONG TIỂU PHẨM BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT

THỜI KÌ ĐỔI MỚI (TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)
2.1. Biểu thức ngôn hành của hành động ngôn ngữ phê phán
trong tiểu phẩm báo chí ..................................................................................... 51
2.1.1. Các kiểu loại biểu thức ngôn hành phê phán ................................................ 52
2.1.2. Các thành phần trong biểu thức ngôn hành phê phán trực tiếp .................... 53
2.2. Thành phần mở rộng biểu thức ngôn hành của hành động ngôn ngữ
phê phán trực tiếp trong tiểu phẩm báo chí .................................................... 82


2.2.1. Thành phần mở rộng nêu cơ sở của sự phê phán ......................................... 82
2.2.2. Thành phần mở rộng mang tính rào đón cho lời phê phán .......................... 84
Tiểu kết chƣơng 2 ................................................................................................. 85
Chƣơng 3
HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ PHÊ PHÁN ĐƢỢC THỰC HIỆN GIÁN TIẾP
TRONG TIỂU PHẨM BÁO CHÍ TIẾNG VIỆT THỜI KÌ ĐỔI MỚI
(TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY)
3.1. Các nhóm hành động ngôn ngữ đƣợc sử dụng để gián tiếp thực hiện
hành động ngôn ngữ phê phán. ....................................................................... 87
3.1.1. Hành động ngôn ngữ phê phán được thực hiện gián tiếp thông qua các
nhóm hành động ngôn ngữ biểu cảm ............................................................ 88
3.1.2. Hành động ngôn ngữ phê phán được thực hiện gián tiếp thông qua các
nhóm hành động ngôn ngữ tái hiện (Hành động tái hiện - phê phán):
Nghiên cứu trường hợp hành động trần thuật - phê phán ............................. 107
3.1.3. Hành động ngôn ngữ phê phán được thực hiện gián tiếp thông qua hành
động ngôn ngữ điều khiển (Hành động điều khiển - phê phán): Nghiên
cứu trường hợp hành động hỏi - phê phán .................................................... 128
3.2. Đặc điểm chung của những hành động ngôn ngữ đƣợc sử dụng để gián
tiếp thực hiện hành động ngôn ngữ phê phán ............................................... 141
Tiểu kết chƣơng 3................................................................................................ 144
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...................... 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................. 152
DANH MỤC NGUỒN NGỮ LIỆU TIỂU PHẨM BÁO CHÍ ĐƯỢC TRÍCH DẪN.....161


DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

STT

Viết đầy đủ

1

BTNH

Biểu thức ngôn hành

2

BTNHPP

Biểu thức ngôn hành phê phán

3

ĐTNH

Động từ ngôn hành


4

ĐTNHPP

Động từ ngôn hành phê phán

5

F

Lực ngôn trung

6

HĐNN

Hành động ngôn ngữ

7

HĐNNPP

Hành động ngôn ngữ phê phán

8

NDMĐ

Nội dung mệnh đề


9

NDMĐPP

Nội dung mệnh đề phê phán

10

NL

Ngữ liệu

11

NNBC

Ngôn ngữ báo chí

12

PNNH

Phát ngôn ngôn hành

13

Sp1

Chủ thể phát ngôn


14

Sp2

Đối tượng tiếp nhận phát ngôn

15

TPBC

Tiểu phẩm báo chí

16

Y

Đối tượng bị phê phán


DANH MỤC
CÁC BẢNG, BIỂU THỐNG KÊ TRONG LUẬN ÁN
STT

Bảng số

Tên bảng, biểu

Trang


1

Bảng 2.1 Thống kê tần số xuất hiện HĐNNPP trực tiếp và
HĐNNPP gián tiếp.

51

2

Bảng 2.2

Thống kê tần số sử dụng các kiểu loại BTNHPP

53

3

Bảng 2.3

Thống kê tần số hiển thị Sp1 trong BTNHPP

54

4

Bảng 2.4

Thống kê động từ ngôn phê phán trong TPBC

55


5

Bảng 2.5

Thống kê tần số hiển thị Sp2 trong BTNHPP

60

6

Bảng 2.6

Thống kê các nhóm chủ đề phê phán của 72
HĐNNPP trực tiếp

63

7

Bảng 2.7

Thống kê từ ngữ đánh giá tiêu cực trong 72 BTNHPP

66

8

Bảng 2.8


Thống kê phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng trong
BTNHPP

82

9

Bảng 2.9

Thống kê thành phần mở rộng trong 72 phát ngôn
phê phán trực tiếp

85

10

Bảng 3.1

Thống kê các nhóm HĐNN được sử dụng để gián
tiếp thực hiện HĐNNPP

87

11

Bảng 3.2

Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng
trong 84 HĐNN than phiền- phê phán


93

12

Bảng 3.3

Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng
trong 48 HĐNN mỉa mai - phê phán

101

13

Bảng 3.4

Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng
trong 11 HĐNN phủ định - phê phán

106

14

Bảng 3.5

Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng
trong 661 HĐNN trần thuật - phê phán

127

15


Bảng 3.6

Tổng hợp các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng
trong 123 HĐNN hỏi - phê phán

137

16

Bảng 3.7

Thống kê các dạng phát ngôn ngôn hành của HĐNN
hỏi - phê phán

138

17

Bảng 3.8

Thống kê các nhóm chủ đề phê phán của 1.152
HĐNNPP gián tiếp

141


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngữ dụng học đã được rất nhiều nhà nghiên cứu Việt ngữ học quan tâm nghiên

cứu. Bên cạnh việc tìm hiểu sâu về mặt lý luận, các nhà nghiên cứu còn chú ý đến
việc ứng dụng lý thuyết ngữ dụng học vào nghiên cứu từng kiểu loại văn bản, chỉ ra
các đặc điểm về lập luận, về hội thoại và nhất là về các hành động ngôn ngữ (HĐNN)
nói chung, HĐNN trong một thể loại văn bản cụ thể nói riêng nhằm nâng cao hiệu
quả giao tiếp và tác động của văn bản.
Báo chí Việt Nam thời kỳ Đổi mới từ năm 1986 đến nay đã đạt được những
thành tựu rất đáng ghi nhận trên tất cả các phương diện: sáng tạo tác phẩm, công nghệ
in ấn, phát hành, công tác đào tạo, hợp tác quốc tế… Báo chí đã phát huy hiệu quả
tích cực của nó trên mọi mặt của đời sống xã hội. Trong dòng chảy mạnh mẽ của đời
sống báo chí hiện nay, tiểu phẩm báo chí (TPBC) được giới nghiên cứu đánh giá là
thể loại nở rộ khá trọn vẹn cả về quy mô số lượng và chất lượng tác phẩm so với các
giai đoạn lịch sử báo chí trước đây. Môi sinh dân chủ của thời kỳ Đổi mới đã tạo cơ
hội cho TPBC phát huy tối đa tính năng đấu tranh tư tưởng sắc bén, đem lại cho
người đọc những cảm nhận hết sức thú vị cả về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ
thuật thể hiện. TPBC thực sự có vị trí rất đáng trân trọng trong đời sống báo chí Việt
Nam đương đại. Tuy nhiên, thực tế nghiên cứu TPBC thời kỳ Đổi mới, nhất là về
phương diện ngôn ngữ còn nhiều hạn chế và thiếu tính hệ thống chuyên sâu.
Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí (NNBC) nói
chung và ngôn ngữ TPBC nói riêng, song từ góc độ ngữ dụng học thì vẫn còn có
nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện hơn, chẳng hạn như
các HĐNN, các thao tác lập luận, nghĩa hàm ẩn, các nhân tố văn hóa - xã hội chi phối
việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ,... trong TPBC được biểu hiện cụ thể ra sao,
để việc vận dụng ngôn ngữ vào quá trình sáng tạo báo chí nói chung và viết TPBC
nói riêng ngày một hiệu quả hơn. Hơn nữa, mặc dù đã có các công trình nghiên cứu
về HĐNNPP nói chung, song chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về
HĐNNPP trên thể loại TPBC.
Do đặc điểm nổi bật của thể loại TPBC là phản ánh các hiện tượng, sự kiện, sự
việc tiêu cực có thật trong đời sống xã hội qua bút pháp châm biếm, đả kích để phê
phán, nên hành động ngôn ngữ phê phán (HĐNNPP) là một trong số HĐNN chủ đạo
trong thể loại này. Vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài "Hành động ngôn ngữ

phê phán trong tiểu phẩm báo chí tiếng Việt thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến
nay)" là thực sự cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

1


Đi sâu tìm hiểu về HĐNNPP, một HĐNN tiêu biểu trong thể loại TPBC, chúng
tôi mong muốn làm sáng tỏ HĐNN này trên các phương diện: cách thức và các
phương tiện ngôn ngữ thực hiện hành động phê phán; sự chi phối của các nhân tố văn
hóa - xã hội tới việc sử dụng HĐNNPP. Từ đó luận án hi vọng góp thêm vào quá
trình nghiên cứu về NNBC nói chung và ngôn ngữ TPBC nói riêng những khía cạnh
tri thức mới mẻ, nhằm giúp cho việc sử dụng ngôn ngữ khi viết báo đạt hiệu quả cao.
Đồng thời, các kết quả nghiên cứu của luận án cũng sẽ là nguồn tài liệu tham khảo
hữu ích cho công tác giảng dạy các học phần liên quan đến tiếng Việt nói chung và
các học phần liên quan đến NNBC, trong đó có ngôn ngữ TPBC nói riêng ở các
trường đại học, cao đẳng đào tạo ngành Ngữ văn và Báo chí, các trung tâm đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí,... Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể là sự sẻ
chia tri thức ngữ dụng học thiết thực về TPBC đối với các phóng viên và biên tập
viên trong quá trình tác nghiệp và cả đối với những ai quan tâm tới các vấn đề được
đặt ra.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án hướng đến mục đích làm sáng tỏ những đặc điểm của HĐNNPP với tư
cách là một HĐNN tiêu biểu trong thể loại TPBC, từ đó góp phần chỉ ra đặc điểm của
NNBC nói chung, ngôn ngữ TPBC nói riêng từ góc độ ngữ dụng học.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết cơ bản về HĐNN và về thể loại TPBC để
làm cơ sở lý luận cho đề tài. Cụ thể là các vấn đề về HĐNN, HĐNN trực tiếp và
HĐNN gián tiếp; HĐNNPP trực tiếp và HĐNNPP gián tiếp; lý thuyết về văn bản báo

chí, ngôn ngữ báo chí, TPBC,...
- Khảo sát, miêu tả và phân tích các cách thức và phương tiện thực hiện
HĐNNPP trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay). Cụ thể:
+ Khảo sát, miêu tả và phân tích các cách thức và phương tiện thực hiện
HĐNNPP trực tiếp trong TPBC;
+ Khảo sát, miêu tả và phân tích các cách thức và phương tiện thực hiện
HĐNNPP được thực hiện gián tiếp trong TPBC.
- Phân tích sự chi phối của một số nhân tố văn hóa - xã hội như quan điểm, lập
trường tư tưởng chính trị, phép lịch sự, truyền thống văn hóa ứng xử của người Việt,
đặc trưng, đặc thù giao tiếp báo chí cách mạng, nội dung chủ đề phê phán,…tới việc sử
dụng HĐNNPP trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay).

2


3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là HĐNNPP trong thể loại TPBC tiếng Việt
thời kì Đổi mới từ năm 1986 đến nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
HĐNNPP trong thể loại TPBC sẽ được nghiên cứu trên các phương diện:
a) Cách thức thực hiện HĐNNPP;
b) Các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thực hiện HĐNNPP;
c) Sự chi phối của một số nhân tố văn hóa - xã hội như truyền thống văn hóa,
giao tiếp, hệ tư tưởng, nội dung, chủ đề,... tới việc sử dụng HĐNNPP.
3.3. Nguồn ngữ liệu
Phạm vi ngữ liệu khảo sát của luận án là các TPBC tiếng Việt (1.015 tiểu phẩm
tiêu biểu) của một số cây bút tiểu phẩm tiêu biểu ở Việt Nam thời kỳ Đổi mới (từ
năm 1986 đến nay) trên một số ấn phẩm báo chí chính thống tiêu biểu như: Nhân
dân, Lao động, Giáo dục và Thời đại, Tiền phong, Thể thao & Văn hóa, An ninh thế

giới (cuối tháng), Đời sống pháp luật, Nông thôn ngày nay, Tuổi trẻ Tp.Hồ Chí
Minh,…và trên một số tạp chí điển hình như: Nhà báo và Công luận, Người làm báo,
Làng Việt,…và một số trang web chính thức của một số cơ quan ngôn luận.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu, luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận là
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để đánh giá, phân tích việc
sử dụng HĐNNPP trong các TPBC được khảo sát. Một số phương pháp nghiên cứu
chính sẽ được luận án sử dụng như sau:
- Phương pháp phân tích: phân tích nội ngôn (phân tích các phương tiện ngôn
ngữ được sử dụng để thực hiện HĐNN trong TPBC, các thành phần cấu thành biểu
thức ngôn hành và phát ngôn ngôn hành của HĐNNPP trực tiếp và HĐNNPP gián
tiếp. Phân tích ngoại ngôn (ngữ cảnh, các yếu tố văn hóa - xã hội,...) nhằm xác định
đích ngôn trung của HĐNNPP trong tương quan với nội dung ý nghĩa của toàn bộ đoạn
văn - văn bản, sự kiện và thực tế văn hóa - xã hội tạo sinh văn bản;
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để miêu tả các cách
thức và phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thực hiện HĐNNPP trong TPBC;
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Ngoài ngôn ngữ học, những HĐNN còn
là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác. Phương pháp này được
chúng tôi sử dụng để khảo sát tư liệu liên quan đến thể loại TPBC, trong đó có sử
dụng các tri thức, kĩ năng của các chuyên ngành khoa học khác có liên quan như lí
luận báo chí, văn học, văn hóa học, xã hội học, tâm lí học,…

3


Ngoài việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu nêu trên, luận án còn đồng
thời tiến hành một số thủ pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Thủ pháp thống kê, phân loại: Thủ pháp này được dùng để thống kê, phân loại
HĐNNPP trực tiếp và gián tiếp cùng các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng của
mỗi nhóm. Ngoài ra, thủ pháp này còn được dùng để thống kê, phân loại các nhân tố

xã hội chi phối đến việc sử dụng các HĐNNPP trong TPBC;
- Thủ pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa: Thủ pháp này dùng để phân tích
ngữ liệu, số liệu, từ đó khái quát những đặc điểm của HĐNNPP, cũng như những
chiến lược phê phán;
- Thủ pháp cải biên/ thay thế giả định: Thủ pháp này dùng để nhấn mạnh tác
dụng của cách thức và các phương tiện ngôn ngữ thực hiện HĐNNPP, qua việc so
sánh giữa hai trường hợp dùng và không dùng các phương tiện ngôn ngữ điển hình
nào đó, từ đó giúp khẳng định giá trị hay tầm quan trọng của các phương tiện ngôn
ngữ này;
- Thủ pháp so sánh, đối chiếu: Đây là thủ pháp quan trọng nhằm chỉ rõ những
đặc trưng khác biệt giữa HĐNNPP của TPBC với các thể loại báo chí khác; các nhóm
HĐNN về cách thức thực hiện, tần số xuất hiện,...
Các phương pháp và thủ pháp này có thể được tiến hành đồng thời, đan xen với
nhau, tùy theo đối tượng, nội dung và nhiệm vụ cụ thể.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trên cơ sở áp dụng lý thuyết ngữ dụng học về HĐNN, lý thuyết phân tích diễn
ngôn phê phán, lý thuyết về đặc trưng NNBC và thể loại TPBC để tìm hiểu HĐNNPP
trong TPBC, đề tài thu được các kết quả nghiên cứu sau đây:
- Thông qua việc nghiên cứu ngôn ngữ trong TPBC tiếng Việt từ góc độ ngữ
dụng học, luận án đã xác định HĐNNPP là HĐNN chủ đạo trong TPBC tiếng Việt
thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay);
- Chỉ ra các cách thức, chiến lược thực hiện HĐNNPP được sử dụng trong
TPBC, đồng thời chỉ ra những đặc điểm về lượng và chất của HĐNNPP trực tiếp và
gián tiếp trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới. HĐNNPP là một hành động nhạy
cảm, có mức độ đe dọa thể diện cao. HĐNNPP là HĐNN được thực hiện bằng hai
hình thức đó là hình thức trực tiếp và gián tiếp. Trong hai hình thức đó, HĐNNPP
trực tiếp xuất hiện với tần số thấp hơn nhiều so với HĐNNPP gián tiếp;
- Khảo sát, mô tả và phân tích các HĐNNPP trong TPBC, luận án đã đưa ra
khái niệm về HĐNNPP, chỉ ra được đặc điểm cấu trúc, phân loại biểu thức ngôn hành
phê phán (BTNHPP), các phương tiện ngôn ngữ chuyên dụng, cơ chế xác lập (nhận

diện) đích ngôn trung và cường độ lực ngôn trung của HĐNNPP được thực hiện trực
tiếp và gián tiếp trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới;
- Làm rõ một số đặc điểm của ngôn ngữ TPBC trên phương diện ngữ dụng học,
từ đó giúp định hướng cho việc tạo lập cũng như tiếp nhận văn bản TPBC đạt được
hiệu qủa tốt hơn.

4


- Bước đầu lý giải các mối liên quan, tác động của một số nhân tố văn hóa - xã
hội: truyền thống văn hóa của dân tộc, hệ tư tưởng chính trị, nội dung chủ đề,… tới
việc sử dụng HĐNNPP trong TPBC tiếng Việt thời kì Đổi mới, từ đó có thể thấy
được vai trò và tác động quan trọng của TPBC tới sự tiến bộ của xã hội ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần vào việc củng cố lý thuyết ngữ dụng học,
lý thuyết về HĐNN; làm sáng tỏ thêm một số đặc điểm của NNBC trên phương diện
ngữ dụng học, cụ thể là về HĐNNPP trong thể loại TPBC tiếng Việt. Kết quả nghiên
cứu của luận án góp phần khẳng định một hướng nghiên cứu còn khá mới mẻ: nghiên
cứu hành động ngôn ngữ phê phán trong một thể loại báo chí cụ thể, gắn với các yếu
tố văn hóa - xã hội.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án là công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu về
HĐNNPP gắn với thể loại TPBC dưới ánh sáng của lý thuyết ngữ dụng học. Trên cơ
sở khảo sát, mô tả và phân tích các HĐNNPP trong TPBC, luận án đã chỉ ra được đặc
điểm cấu trúc, phân loại biểu thức ngôn hành phê phán (BTNHPP), các phương tiện
ngôn ngữ chuyên dụng, cơ chế xác lập (nhận diện) đích ngôn trung và cường độ lực
ngôn trung của HĐNNPP được thực hiện trực tiếp và gián tiếp trong TPBC tiếng Việt
thời kì Đổi mới. Luận án góp phần làm rõ một số đặc điểm của ngôn ngữ TPBC trên
phương diện ngữ dụng học; đồng thời bước đầu lý giải các mối liên quan, tác động
của một số nhân tố văn hóa - xã hội: truyền thống văn hóa dân tộc, hệ tư tưởng chính
trị, nội dung chủ đề,… tới việc sử dụng HĐNNPP trong TPBC từ đó giúp định hướng

cho việc tạo lập cũng như tiếp nhận văn bản TPBC đạt được hiệu quả tốt hơn.
Kết quả nghiên cứu của luận án cũng sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho
công tác giảng dạy các học phần liên quan đến tiếng Việt nói chung và các học phần
liên quan đến NNBC, trong đó có ngôn ngữ TPBC nói riêng ở các trường đại học, cao
đẳng, các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng... Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ còn là tài
liệu tham khảo bổ ích đối với các nhà báo, biên tập viên và những ai quan tâm tới các
vấn đề nêu trên. Trên cơ sở kết quả việc nghiên cứu HĐNNPP trong TPBC, luận án
có thể gợi ý mở rộng nghiên cứu các HĐNN khác, gắn với các thể loại văn bản cụ thể.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và phần Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
nghiên cứu của luận án gồm 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2. Hành động ngôn ngữ phê phán trực tiếp trong tiểu phẩm báo chí
tiếng Việt thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay)
Chương 3. Hành động ngôn ngữ phê phán được thực hiện gián tiếp trong tiểu
phẩm báo chí tiếng Việt thời kì Đổi mới (từ năm 1986 đến nay)

5


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu về dụng học
Ngữ dụng học, chuyên ngành mới của ngôn ngữ học nghiên cứu ngôn ngữ trong
sử dụng, trong quan hệ với ngữ cảnh sử dụng, giao tiếp. Trong đó, có thể nói rằng,
“xương sống” của ngữ dụng học chính là lý thuyết về HĐNN.
Trên thế giới, trong khoảng 30 năm qua, ngữ dụng học đã phát triển vô cùng
mạnh mẽ và ngày càng có một vị trí đặc biệt trong ngôn ngữ học. Số lượng chuyên
khảo về ngữ dụng học cũng như các công trình nghiên cứu đề cập tới những phương

diện, góc độ khác nhau của bộ môn này ngày một gia tăng.
Ở Việt Nam, ngữ dụng học cũng đã được các nhà nghiên cứu thuộc các ngành
khoa học xã hội và nhân văn quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh việc tìm hiểu sâu về mặt
lý luận thì các nhà nghiên cứu đã quan tâm tới việc ứng dụng các lý thuyết này vào
nghiên cứu từng kiểu loại văn bản để nâng cao hiệu quả giao tiếp, hiệu quả tác động
của văn bản cũng như chỉ ra các đặc điểm về lập luận, về hội thoại, về các HĐNN,…
được sử dụng trong các thể loại văn bản.
Trong phạm vi luận án này, chúng tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu một lĩnh vực
của ngữ dụng học đó là lý thuyết HĐNNPP, trên cơ sở soi chiếu việc sử dụng ngôn
ngữ từ một thể loại văn bản cụ thể, đó là thể loại TPBC.
1.1.1.1. Nghiên cứu về hành động ngôn ngữ
Con người chúng ra nói không phải đơn thuần chỉ là nói, mà chính là chúng ta
đang hành động. Hoạt động lời nói là một phần trong các hoạt động của con người.
Vấn đề này đã được Hêghen đề cập:“Lời nói thực chất là những hành động diễn ra
giữa những con người, cho nên nó không phải là trống rỗng”[130]. Lý thuyết HĐNN
là một lĩnh vực của ngữ dụng học nghiên cứu các HĐNN.
Theo các nhà dụng học, hành động được thực hiện bằng ngôn ngữ được gọi là
hành động ngôn ngữ hay còn được gọi bằng các thuật ngữ tương ứng: hành vi ngôn
ngữ, hành động nói, hành động ngôn từ, hành động ngôn tại, hành động ngôn tác,
hành động ngôn trung,...Trong luận án này, chúng tôi thống nhất sử dụng thuật ngữ
hành động ngôn ngữ. Tuy nhiên khi trích dẫn ý kiến của các tác giả nghiên cứu về
vấn đề này thì có thể giữ nguyên cách sử dụng thuật ngữ của tác giả được trích dẫn.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, cho tới nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về
HĐNN. Bao quát tình hình chung, chúng tôi thấy, các nhà nghiên cứu đi theo hai
hướng chính sau: i) Những nghiên cứu có tính lý thuyết về HĐNN; ii) Những nghiên

6


cứu có tính ứng dụng về HĐNN. Dưới đây, chúng tôi sẽ trình bày lần lượt các hướng

nghiên cứu này.
a. Những nghiên cứu có tính lý thuyết về hành động ngôn ngữ
* Trên thế giới
Những nghiên cứu có tính lý thuyết về HĐNN, tiêu biểu có các nhà nghiên cứu
như: J.L.Austin, Searle, D.Wunderlich, F.Recanati, K. Bach, R. M Harnis, O. Ducrot,
G.Yule,…
Về HĐNN, John. L Austin (1962) là nhà nghiên cứu đã phát hiện ra bản chất
hành động của sự nói năng, tức bản chất hành động của ngôn ngữ. Austin trong cuốn
How to do things with word (Hành động như thế nào bằng lời nói) đã khẳng định và
xây dựng một hệ thống lý thuyết về HĐNN. Với lý thuyết này, Austin đã thấy được
bản chất xã hội và khía cạnh liên nhân của các phát ngôn. Theo ông, "nói cũng chính
là làm" [156], tức là khi chúng ta nói năng cũng có nghĩa là chúng ta hành động;
chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện đó chính là ngôn ngữ.
Khi ta nói là ta đã thực hiện một hành động bằng lời, trong đó phát ngôn sẽ có những
dấu hiệu tường minh và nguyên cấp để biểu thị lực ngôn trung của phát ngôn, hay ý
nghĩa đích thực của phát ngôn. Austin cho rằng, người ta thực hiện ba HĐNN khi nói
ra một phát ngôn, gồm: hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ở lời. Trong đó,
hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố của ngôn ngữ như ngữ âm, từ, các kiểu
kết hợp từ thành câu,… để tạo ra phát ngôn về hình thức và nội dung. Hành vi mượn
lời là những hành vi mượn phương tiện ngôn ngữ nào đó ở người nghe, người nhận
hoặc ở chính người nói. Hành vi ở lời là hành vi người nói thực hiện ngay khi nói
năng. Hiệu quả thuộc về ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ
tương ứng ở người nhận. Hành vi ở lời cũng chính là đối tượng nghiên cứu chủ yếu
của ngữ dụng học [12].
Nói đến các hành vi ở lời, Austin phân ra thành 5 nhóm lớn, gồm: 1) Phán xét;
2) Hành xử; 3) Cam kết; 4) Trình bày và 5) Ứng xử. Trong đó hành động phê phán
được Austin xếp vào nhóm Ứng xử. Nhóm hành vi phản ứng với cách xử sự của
người khác, đối với các sự kiện có liên quan, đồng thời chúng cũng là cách biểu hiện
thái độ đối với hành vi hay số phận của người khác, chẳng hạn: xin lỗi, cảm ơn, khen
ngợi, chào mừng, phê phán, chia buồn, nguyền rủa, chống lại,…

Tiếp đó, nhà nghiên cứu John Searle (1969) đã tiếp tục phát triển hệ thống lý
thuyết HĐNN này. Searle là người đã chỉ ra hạn chế trong cách phân loại của Austin
đó là không nêu ra các tiêu chí phân loại, đồng thời không thấy rõ sự khác biệt giữa
hành vi ngôn ngữ và động từ thể hiện hành vi ngôn ngữ. Searle cho rằng, trước hết là

7


phải phân loại các hành vi ở lời và cần xác lập được một hệ thống các tiêu chí thích
hợp với các hành vi ngôn ngữ, để tránh sự chồng chéo giữa các phạm trù [12].
Searle đã đưa ra 12 điểm khác biệt, đồng thời là 12 tiêu chí để phân loại hành vi
ngôn ngữ. Searle đã phân loại hành vi ở lời ra thành 5 lớp lớn, đó là các hành vi: 1)
Tái hiện; 2) Điều khiển; 3) Cam kết; 4) Biểu cảm; 5) Tuyên bố [12]. Nhìn chung, các
tiêu chí phân loại của Searle sẽ giúp phân loại được các động từ nói năng (hành động
ở lời) thành các phạm trù lớn, rồi lại chia nhỏ thành những loại và tiểu loại.
Về việc sử dụng hành động ở lời: Hành động ở lời có thể được sử dụng trực tiếp
hoặc có thể được sử dụng theo lối gián tiếp.
- Tất cả những HĐNN mà các tác giả nghiên cứu đều là về các HĐNN (hành
động ở lời) chân thực, nghĩa là những HĐNN được thực hiện đúng với đích ở lời,
đúng với điều kiện sử dụng chúng;
- Hiện tượng người giao tiếp sử dụng trên bề mặt hành động ở lời này nhưng lại
nhằm hiệu quả của một hành động ở lời khác là hiện tượng sử dụng HĐNN theo lối
gián tiếp. Theo Đỗ Hữu Châu: “Một hành vi sử dụng gián tiếp là một hành vi trong
đó người nói thực hiện một hành vi ở lời này nhưng lại nhằm làm cho người nghe dựa
vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai người, suy ra hiệu lực
ở lời của một hành vi khác” [12, tr.146].
Hành động ở lời gián tiếp được Austin nhắc đến một cách sơ lược và được
Searle nghiên cứu kĩ và sâu hơn. Thuật ngữ hành động ngôn ngữ gián tiếp (indirect
speech acts) do Searle đặt ra. Các HĐNN gián tiếp là một trong những phương thức
tạo ra tính mơ hồ về nghĩa trong lời nói. Tuy nhiên, không phải người nói tùy tiện

muốn dùng hành động ở lời trực tiếp nào để tạo ra hành động ở lời gián tiếp nào cũng
được. Quy tắc sử dụng gián tiếp các hành động ở lời hoặc vấn đề một hành động ở lời
trực tiếp có thể được dùng để tạo ra những hành động gián tiếp nào là vấn đề chưa
được giải quyết đến nơi đến chốn, cần tiếp tục có những nghiên cứu tiếp theo.
Theo Đỗ Hữu Châu, cũng giống như mọi sự phân loại khác, sự phân loại
HĐNN ở lời bao giờ cũng nhằm hai mục tiêu: một là, phát hiện ra các đặc tính quan
yếu của các hành vi ở lời (là mục tiêu chủ yếu); hai là, sắp xếp chúng thành từng loại.
Về cách phân loại hành động ở lời, chúng tôi còn nhận thấy có các nhà nghiên
cứu D.Wunderlich, F. Recanati, K. Bach và R. M Harnis cũng tiến hành phân loại
HĐNN ở lời. Cách phân loại của các nhà nghiên cứu này chỉ khác với Searle chủ yếu
ở: 1) việc lựa chọn tiêu chí nào là tiêu chí bậc một để phân loại; 2) việc lựa chọn các
tiêu chí bổ sung cho tiêu chí bậc một và trật tự vận dụng các tiêu chí đó để phân chia
loại lớn thành các tiểu loại. Như vậy, cách phân loại của các nhà nghiên cứu này đều
thống nhất với Searle ở mục tiêu thứ nhất, đó là phát hiện ra đặc tính quan yếu của

8


hành động ở lời, thống nhất về đặc tính quyết định hành động ở lời. Điểm khác giữa
họ là cách sắp xếp các hành động hay các nhóm hành động trong bảng phân loại của
mình, tức chỉ khác ở mục tiêu thứ hai. (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu, [12, tr.133]).
Nhà nghiên cứu O. Ducrot nói rõ thêm về các hành động ở lời. "Hành động ở lời
khác với hành động mượn lời ở chỗ chúng thay đổi tư cách pháp nhân của người đối
thoại; chúng đặt người nói và người nghe vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với
tình trạng trước khi thực hiện hành động ở lời của họ" (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu [12, tr.90]).
Nhà nghiên cứu G. Yule (1996) trong cuốn Dụng học [45, tr.97] đã đưa ra giả
thuyết ngôn hành những vấn đề của ngữ dụng học: chỉ xuất khoảng cách, quy chiếu
và suy luận, tiền giả định và dẫn ý, cộng tác và hàm ý, lịch sự và tương tác, hội thoại,
diễn ngôn và văn hóa… đồng thời tác giả này cũng đã đề cập đến hành động nói và
sự kiện nói, trong đó có bàn đến các vấn đề như: phương tiện chỉ ra lực ngôn trung,

điều kiện may mắn, giả thuyết ngôn hành, phân loại hành động nói,…Theo G.Yule,
trong một trường hợp bất kì, việc hành động được thực hiện bằng cách tạo ra một
phát ngôn cũng đều có ba hành động liên quan với nhau, gồm: hành động tạo ngôn,
hành động ngôn trung, hành động dụng ngôn.
Về điều kiện thực hiện hành động ở lời, Austin xem các điều kiện sử dụng hành
động ở lời là điều kiện may mắn. (Nguyễn Đức Dân gọi đó là điều kiện thuận lợi [23,
tr.20]). Điều kiện may mắn của Austin như sau: A) (i) Phải có thủ tục quy trình quy
ước và thủ tục này phải có hiệu quả cũng có tính quy ước; (ii) Hoàn cảnh và con
người phải thích hợp với những điều quy định trong thủ tục; B). Thủ tục phải được
thực hiện (i) một cách đúng đắn và (ii) đầy đủ; C). Thông thường thì (i) những người
thực hiện hành vi ở lời phải có ý nghĩ, tình cảm và ý định đúng như đã được đề ra
trong thủ tục và (ii) khi hành động diễn ra thì ý nghĩ, tình cảm, ý định đúng như nó đã có.
Searle lại gọi điều kiện thực hiện hành động ở lời là điều kiện sử dụng hay điều
kiện thỏa mãn. Ông cho rằng, có 4 điều kiện: 1) Điều kiện nội dung mệnh đề; 2) Điều
kiện chuẩn bị; 3) Điều kiện chân thành (điều kiện tâm lí); 4) Điều kiện căn bản. Mỗi
điều kiện lại được biểu hiện khác nhau tuỳ theo từng phạm trù, từng loại và từng hành
vi ở lời cụ thể.
Qua việc hệ thống một cách khái quát các nghiên cứu tiêu biểu nêu trên, chúng
tôi nhận thấy, nhìn chung các nhà nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề lý thuyết
cơ bản của dụng học, trong đó có bàn đến những khía cạnh khác nhau của HĐNN.
Những kết quả nghiên cứu này sẽ là tiền đề quan trọng để các nhà nghiên cứu sau này
tiếp tục bổ sung và phát triển.

9


* Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, từ những năm 80 - 90 của thế kỉ XX, ngữ dụng học trong đó có
HĐNN đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Giai đoạn đầu có các nhà
nghiên cứu như: Hoàng Phê, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân, Cao Xuân Hạo,… Cụ

thể là trong một số chuyên đề ở các trường đại học, hay trong một số công trình của
một số tác giả như: Hoàng Phê (1989) Lô gíc và ngôn ngữ học [104]. Trong các tập
bài giảng tại một số trường đại học trọng điểm, đầu ngành ở Việt Nam của các nhà
nghiên cứu như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thiện Giáp,...Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp chức năng [56] của Cao Xuân Hạo (1991); Quy luật ngôn ngữ [89]
của Hồ Lê (1995). Trên một số tạp chí nghiên cứu cũng đăng tải nhiều bài của các tác
giả: Hoàng Phê, Nguyễn Đức Dân, Lê Đông,... và một số công trình luận án tiến sĩ về
ngữ dụng học. Đã có một hội nghị khoa học về ngữ dụng học tại Đại học Ngoại ngữ
Hà Nội (1996).
Vấn đề ngữ dụng học nói chung và HĐNN nói riêng tiếp tục được các nhà
nghiên cứu quan tâm tìm hiểu và phát triển. Tiêu biểu là các nhà nghiên cứu Đỗ Hữu
Châu, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Văn
Hiệp, Đỗ Việt Hùng,…
Nhìn nhận ngữ dụng học một cách tổng quát như một bộ môn khoa học, phải
nhắc đến nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu trong Ngữ pháp chức năng dưới ánh sáng
của dụng học hiện nay (1992) [09] và cuốn Đại cương ngôn ngữ học (Tập 2 - Ngữ
dụng học, 2009) [12] và trong các công trình nghiên cứu của các tác giả khác như
Nguyễn Đức Dân (1998) trong cuốn Ngữ dụng học (tập 1) [23], Nguyễn Thiện Giáp
(1998) Cơ sở ngôn ngữ học [46],…Những vấn đề trung tâm của ngữ dụng học đã
được trình bày một cách có hệ thống và phân tích trên cứ liệu tiếng Việt như: chiếu
vật và chỉ xuất, hành vi ngôn ngữ, lý thuyết lập luận, lý thuyết hội thoại, ý nghĩa hàm
ẩn và tường minh,…
Theo tổng kết của Đỗ Hữu Châu còn những vấn đề hiện nay cho việc nghiên cứu về
hành động ở lời (Đỗ Hữu Châu gọi là hành vi ở lời) như sau: "Một là số lượng hành
động ở lời: Có bao nhiêu hành vi ở lời trong từng ngôn ngữ và trong các ngôn ngữ ?
Vì hiện nay, con số do các nhà ngôn ngữ đưa ra rất khác nhau; Hai là vấn đề phân
loại các hành vi ở lời; Ba là vấn đề quan hệ giữa các động từ ngữ vi và các hành động
ở lời; Bốn là vấn đề về tính phổ quát của các hành động ở lời; Năm là vấn đề ranh
giới giữa các hành động ở lời. Ranh giới này không phải là dứt khoát, rõ ràng,…; Sáu
là vấn đề phối hợp giữa các hành động trong một phát ngôn và rộng ra là trong một
sự kiện lời nói…" [12, tr.139]


10


Nhìn chung, mặc dù mới vào Việt ngữ học trong khoảng thời gian từ những
năm 80 của thế kỉ XX, song ngữ dụng học cũng như những vấn đề về HĐNN đã sớm
tỏ ra là một lĩnh vực nghiên cứu vô cùng hấp dẫn và thú vị, thu hút được rất nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Các tác giả đã đưa ra hệ thống lí thuyết căn bản về ngữ dụng
học nói chung, trong đó có HĐNN như: các khái niệm HĐNN, phân biệt biểu thức
ngữ vi, phát ngôn ngữ vi và động từ ngữ vi, các dấu hiện đánh dấu lực tại lời, điều
kiện sử dụng hành động ở lời của HĐNN. Chúng tôi nhận thấy, điểm nổi bật của việc
nghiên cứu ngữ dụng học đó là khảo sát về ngữ cảnh và việc giao tiếp. Mặc dù các
nghiên cứu về ngữ dụng học, trong đó có HĐNN ở Việt Nam đã đạt được những
thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên còn một loạt các vấn đề của ngữ dụng học nói
chung và các vấn đề về HĐNN nói riêng như Đỗ Hữu Châu đã chỉ ra, đang chờ đợi
được nghiên cứu và phát triển tiếp.
Như vậy, theo quan sát của chúng tôi, cả trong và ngoài nước, những nghiên cứu
có tính lý thuyết về HĐNN được quan tâm khá toàn diện và sâu sắc. Những thành tựu
nghiên cứu về mặt lý thuyết này sẽ là cơ sở, tiền đề quan trọng để các nhà nghiên cứu
tiếp tục vận dụng vào việc nghiên cứu từng HĐNN cụ thể.
b. Những nghiên cứu có tính ứng dụng về hành động ngôn ngữ
* Trên thế giới
Nghiên cứu có tính ứng dụng về HĐNN là hướng nghiên cứu vận dụng lý thuyết
ngữ dụng học nói chung và HĐNN nói riêng vào việc tìm hiểu, nghiên cứu một ngôn
ngữ cụ thể hay một tiểu loại HĐNN hoặc một nhóm HĐNN cụ thể.
Theo hướng nghiên cứu này, có thể kể đến các tác giả tiêu biểu sau: G.N Leech
(1983), với cuốn Principles of Pragmatics (Những nguyên lí ngữ dụng học) [163] đã
mô tả câu ngữ vi và ĐTNH trong tiếng Anh; Ana Weirzbicka (1987) với công trình
English speech act verb (Động từ nói năng tiếng Anh) đã miêu tả cấu trúc ngữ nghĩa
và điều kiện sử dụng của các động từ nói năng tiếng Anh [157].

* Ở Việt Nam
Trên cơ sở những thành tựu nghiên cứu về lý thuyết ngữ dụng học nói chung và
HĐNN nói riêng, các nhà nghiên cứu đã vận dụng và tập trung vào nghiên cứu các
HĐNN giao tiếp cụ thể. Có thể nói rằng, những nghiên cứu có tính ứng dụng này ở
Việt Nam vô cùng phong phú và khó có thể thống kê hết được. Theo quan sát của
chúng tôi, những công trình nghiên cứu có tính ứng dụng về HĐNN được triển khai
theo các xu hướng nghiên cứu cụ thể sau:
i) Nghiên cứu một tiểu loại HĐNN cụ thể hoặc một nhóm HĐNN;
ii) Nghiên cứu một HĐNN cụ thể cũng như phương tiện, cách thức thực hiện
hành động đó trong sự so sánh, đối chiếu giữa tiếng Việt với một ngôn ngữ khác;

11


iii) Nghiên cứu về HĐNN trong một diễn ngôn cụ thể, một sáng tác của một tác
giả hoặc trong một thể loại văn bản.
Việc phân chia thành các hướng nghiên cứu này của chúng tôi chỉ có tính chất
tương đối, để tiện cho việc theo dõi. Vì trong các hướng nghiên cứu hoặc trong cùng
một công trình nghiên cứu cũng có thể có những sự giao thoa với nhau. Dưới đây
chúng tôi sẽ trình bày lần lượt các hướng nghiên cứu nói trên.
* Hướng nghiên cứu thứ nhất: Nghiên cứu một tiểu loại hành động ngôn
ngữ hoặc một nhóm hành động ngôn ngữ cụ thể, trong đó đề cập đến các phương
tiện ngôn ngữ thực hiện những hành động đó
Theo hướng này, có một số lượng lớn các công trình của đông đảo các nhà
nghiên cứu. Chúng tôi nhận thấy, hướng nghiên cứu này lại được chia thành các
nhánh nghiên cứu nhỏ sau:
Nhánh 1. Nghiên cứu phân tích cấu trúc, ngữ nghĩa của các động từ, nhóm
động từ nói năng (động từ ngôn hành) thực hiện hành động ngôn ngữ
Có thể kể đến các tác giả và công trình tiêu biểu sau: Chử Thị Bích (2008), Cấu
trúc của lời nói cho, tặng trong tiếng Việt [07]; Trần Thị Hoàng Yến (2014), Đặc

điểm cấu trúc, ngữ nghĩa của hành động chửi qua lời thoại nhân vật trong truyện
ngắn Việt Nam [155];…Nhìn chung, các công trình theo hướng này, tập trung nghiên
cứu động từ nói năng về phương diện nghĩa, chỉ ra các điều kiện sử dụng của ĐTNH,
trên cơ sở đó tiến hành việc xây dựng cấu trúc ngữ nghĩa của từng tiểu loại hoặc từng
nhóm động từ này.
Nhánh 2. Nghiên cứu các hành động ngôn ngữ như một sự kiện lời nói trong
tương tác hội thoại
Theo nhánh nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy có các công trình và các tác giả
tiêu biểu sau: Nguyễn Thị Hoàng Yến (2006), Sự kiện lời nói chê trong tiếng Việt
(cấu trúc và ngữ nghĩa) [153]; Hà Thị Hải Yến (2006), Hành vi cảm thán và sự kiện
lời nói cảm thán trong tiếng Việt [152]; Đào Nguyên Phúc (2007), Lịch sự trong đoạn
thoại xin phép của tiếng Việt [108]; Dương Tuyết Hạnh (2007), Hành động nhờ và sự
kiện lời nói nhờ trong giao tiếp tiếng Việt [53]; Vũ Tố Nga (2010), Sự kiện lời nói
cam kết trong hội thoại [98]; …
Điểm nổi bật của các công trình nghiên cứu theo hướng này là nghiên cứu xây
dựng khái niệm của một HĐNN cụ thể như: khái niệm thỉnh cầu, mách, khen, chê,
trách, nhờ, cam kết,… xây dựng mô hình cấu trúc của biểu thức ngữ vi tường minh
của từng HĐNN đó. Trên cơ sở này, các tác giả bước đầu xác định cấu trúc đặc thù
của từng sự kiện lời nói với các tham thoại cụ thể như tham thoại dẫn nhập, tham

12


thoại hồi đáp; đồng thời bước đầu tìm hiểu, kiến giải sự ảnh hưởng, chi phối của các
nhân tố văn hóa - xã hội đến việc thực hiện các HĐNN ấy.
Nhánh 3. Nhánh nghiên cứu tổng hợp
Ngoài hai nhánh nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy còn có các công trình
nghiên cứu từng tiểu loại HĐNN hoặc một nhóm HĐNN cụ thể, trên cơ sở phân tích
những phát ngôn ngữ vi và biểu thức ngữ vi,… chúng tôi tạm gọi là nhánh tổng hợp.
Nhánh nghiên cứu này có các công trình của các tác giả tiêu biểu sau: Hà Thị Hải

Yến (2000), Hành vi cảm thán, các biểu thức cảm thán và tiếp nhận cảm thán [151];
Nguyễn Thị Hải Yến (2000), Hành vi chê với biểu thức, phát ngôn và tham thoại tiếp
nhận chê [154]; Đặng Thị Hảo Tâm (2003), Cơ sở lý giải hành vi ngôn ngữ gián tiếp
trong hội thoại [126]; Đào Thanh Lan (2011) Nhận diện hành động mời và rủ trong
tiếng Việt [86]; Lương Đình Khánh (2012), Những hàm ý ngữ dụng liên quan đến từ
“thì” và cách dùng nó để biểu hiện các hành vi ngôn ngữ [82];…
Trong thực tế cuộc sống, HĐNN của con người vô cùng phong phú. Có những
HĐNN khi nghe thấy, tiếp nhận, người ta thường thích thú, có tâm trạng yên tâm,
phấn chấn như HĐNN cảm ơn, khen, chúc tụng…; thề, nịnh…Ngược lại có những
HĐNN khi đề cập đến, người ta lại thường không thích, có tâm lí không thoải mái
hoặc bực tức như HĐNN chê, trách, nói kháy, chửi,…Gần đây các HĐNN này cũng
được các tác giả quan tâm nghiên cứu.
Nhìn một cách tổng quát, hướng nghiên cứu một tiểu loại HĐNN hoặc một
nhóm HĐNN cụ thể (gồm 3 nhánh nghiên cứu như đã nêu ở trên) đã thu hút được sự
quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu. Những vấn đề cơ bản nhất và những vấn
đề liên quan của từng tiểu loại HĐNN hoặc nhóm HĐNN cụ thể đã được các tác giả
tập trung nghiên cứu, làm rõ. Ngoài ra, các HĐNN gián tiếp, biểu hiện tính lịch sự,
ứng xử văn hóa trong HĐNN cũng được các tác giả quan tâm nghiên cứu.
* Hướng nghiên cứu thứ hai: Nghiên cứu một tiểu loại HĐNN hoặc một
nhóm HĐNN cụ thể trong sự so sánh, đối chiếu về một số phương diện nhất định
giữa tiếng Việt với một ngôn ngữ khác
Theo hướng này, có thể điểm đến các tác giả và công trình nghiên cứu tiêu biểu
sau: Nguyễn Văn Quang (1998), Một số khác biệt giao tiếp lời nói Việt - Mĩ trong
cách thức khen và tiếp nhận lời khen [112]; Nguyễn Văn Độ (1999), Các phương tiện
ngôn ngữ biểu hiện hành động thỉnh cầu trong tiếng Anh và tiếng Việt [38]; Nguyễn
Phương Chi (2004), Một số đặc điểm văn hóa ứng xử của hành vi từ chối trong tiếng
Anh, liên hệ với tiếng Việt [17]; Trần Chi Mai (2005), Phương thức biểu hiện hành vi
từ chối lời cầu khiến trong tiếng Anh (liên hệ với tiếng Việt) [95]; Siriwong
Hongsawan (2009), Hành động bác bỏ trong tiếng Thái và tiếng Việt [118]; Trần Thị


13


Thu Phương (2015), Thành phần rào đón ở hành vi hỏi và hồi đáp trong giao tiếp
tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt) [109]; ...
Gần đây đáng chú ý là trong luận án của Lê Thị Thúy Hà (2015), Lịch sự trong
hành động ngôn từ phê phán của người Việt và người Anh [52], tác giả đã tập trung
khai thác sâu về tính lịch sự trong HĐNNPP trong sự đối chiếu giữa người Việt và
người Anh: các cách thức và các phương tiện biểu đạt lịch sự ngôn từ và HĐNNPP;
chỉ ra các chiến lược thực hiện, các nhân tố xã hội ảnh hưởng đến các chiến lược thực
hiện HĐNNPP. Theo quan sát của chúng tôi, công trình này đã góp phần chỉ ra những
tương đồng và khác biệt trong việc lựa chọn chiến lược và các cách thức, phương tiện
biểu đạt lịch sự trong HĐNNPP của người Việt và người Anh. Về mặt thực tiễn, kết
quả nghiên cứu của luận án có thể là một gợi ý, định hướng cho việc biên soạn giáo
trình, giảng dạy, học tập và sử dụng HĐNNPP trong tiếng Việt và tiếng Anh.
Trong các nghiên cứu này, các tác giả đã chỉ ra phương tiện ngôn ngữ biểu hiện
HĐNN nhất định, từ đó chỉ ra sự tương đồng cũng như những khác biệt của các
HĐNN ấy giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ so sánh được nghiên cứu. Bước đầu, các
tác giả lý giải sự khác biệt đó trên cơ sở từ sự khác biệt về văn hóa, tư duy giữa các
dân tộc ảnh hưởng đến ngôn ngữ. Những nghiên cứu này đã góp phần tích cực vào
việc xây dựng các phương pháp học ngoại ngữ theo lý thuyết HĐNN, đồng thời góp
phần vào lĩnh vực dịch thuật, vào việc xây dựng sự hiểu biết, ứng xử văn hóa ngôn
từ, cũng như quá trình, phương thức tư duy của người Việt và các dân tộc khác
trên thế giới.
* Hướng nghiên cứu thứ ba: Nghiên cứu về hành động ngôn ngữ trong một
diễn ngôn cụ thể, một sáng tác của một tác giả hoặc trong một thể loại văn bản
Theo hướng nghiên cứu này, theo quan sát của chúng tôi có một số luận án, bài
viết đăng trên tạp chí chuyên ngành, cụ thể: Khuất Thị Lan (2000), Hành vi ngôn ngữ
rào đón thuộc phương châm về chất trong một số truyện ngắn tiêu biểu của Nam Cao
[87]; Nguyễn Thị Bạch Dương (2011), Nhóm động từ ngôn hành thể hiện hành động

cam kết trong văn bản hành chính [34]; Vũ Ngọc Hoa (2011), Hành động ngôn từ cầu
khiến trong văn bản hành chính [61];…Chúng tôi nhận thấy, các nghiên cứu về
HĐNN ở các thể loại văn bản hay một diễn ngôn cụ thể không phong phú bằng
hướng nghiên cứu một tiểu loại hoặc một nhóm HĐNN như đã nêu ở trên. Dưới ánh
sáng của lý thuyết HĐNN, các tác giả đã giải quyết được một số vấn đề về HĐNN
trong một thể loại diễn ngôn: phân tích, làm rõ việc sử dụng các BTNH, các dấu hiệu
chỉ dẫn lực ngôn trung của các HĐNN. Những nghiên cứu này đã và đang góp phần
tích cực vào việc ứng dụng xây dựng các thể loại văn bản cũng như việc lĩnh hội các
văn bản được thuận lợi, chuẩn xác và hiệu quả hơn.

14


Theo quan sát của chúng tôi, trên cơ sở thành tựu về lý thuyết của ngữ dụng học
nói chung và HĐNN nói riêng, có thể nói việc nghiên cứu các HĐNN theo hướng
nghiên cứu có tính ứng dụng ở Việt Nam đã thu hút được đông đảo các nhà nghiên
cứu. Nhìn chung, từ lý thuyết chung về HĐNN, các HĐNN trong tiếng Việt cụ thể
như: cam kết, cầu khiến, mời, rủ, từ chối, thỉnh cầu, cảm thán, chê, khen, chúc tụng,
hỏi, thề, nịnh,… đã được các tác giả xem xét một cách cụ thể và khá kĩ lưỡng trên các
phương diện: xác lập khái niệm, nhận diện, điều kiện sử dụng, BTNH, cách thức và
phương tiện biểu hiện, các nhân tố xã hội chi phối đến việc sử dụng HĐNN,… Đáng
chú ý là có một số công trình nghiên cứu sự thể hiện HĐNN cụ thể trong sự so sánh,
đối chiếu giữa tiếng Việt với một số ngôn ngữ khác để chỉ ra những điểm tương đồng
và những khác biệt giữa các ngôn ngữ được đối chiếu. Bên cạnh đó, các HĐNN gián
tiếp hay biểu hiện của tính lịch sự trong HĐNN cũng đã được bàn tới.
Có thể nói, bức tranh toàn cảnh về việc nghiên cứu HĐNN cũng đã khá phong
phú và đa dạng. Những kết quả nghiên cứu nêu trên góp phần giải quyết phần nào
những vấn đề đang còn tồn tại của lý thuyết HĐNN mà nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu
đã nêu ra. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, số lượng HĐNN của con người lại vô
cùng phong phú và trong mỗi ngôn ngữ ứng với mỗi cộng đồng dân tộc sự biển hiện

của chúng dưới sự chi phối của các yếu tố văn hóa - xã hội, tư duy lại càng đa dạng,
tinh tế. Vì thế mà vẫn rất cần những nghiên cứu tiếp theo mang tính ứng dụng để giải
quyết những vấn đề còn để ngỏ của HĐNN.
1.1.1.2. Nghiên cứu về hành động ngôn ngữ phê phán
a. Trên thế giới
Cho đến nay, theo quan sát của chúng tôi, HĐNNPP bước đầu đã được đề cập tới
trong một số công trình của các tác giả: Tracy, Dussen và Robinson (1987), House và
Kapspe (1981), Tracry và Eissenberg (1990), Wajnryb (1993,1995); Toplak và Katz (2000).
Tracy, Dussen và Robinson (1987) khi bàn về đặc điểm của HĐNNPP, giữa họ
cơ bản có nhiều điểm tương đồng. Trên cơ sở khảo sát các đặc tính của HĐNNPP tốt
và HĐNNPP tồi, các tác giả Tracy, Dussen và Robinson đã đưa ra 5 đặc tính về
phong cách để phân biệt 2 loại HĐNNPP này. Đó là: 1) Một lời phê phán tốt phải thể
hiện bằng thái độ và ngôn ngữ mang tính tích cực; 2) Gợi ý của S (chủ thể phê phán)
phải đủ độ chi tiết và phải trong điều kiện có thể thực hiện được; 3) Lí do phê phán
phải được đưa ra rõ ràng; 4) Lời phê phán phải được đưa ra cùng lời khen; 5) Một lời
phê phán tốt không làm phá vỡ mối quan hệ giữa các bên tham thoại và phải chính
xác [52].
Về chủ đề HĐNNPP, các tác giả Tracy, Dusen và Robinson (1987) cho rằng: có
sự khác nhau về tần suất của HĐNNPP trong mỗi nhóm quan hệ và các nhóm chủ đề

15


được phê phán. Các tác giả cho rằng: trong các nhóm quan hệ thì nhóm người thân có
tần suất phê phán nhiều nhất, tiếp đó là nhóm ông chủ, nhóm giáo viên và cuối cùng
là nhóm người lạ. Chủ đề được phê phán nhiều nhất là chủ đề về hình thức thực hiện
các kĩ năng, chủ đề về các mối quan hệ tính cách người nói nói chung và nhóm chủ
đề về sự quyết định, thái độ [52].
Wajnryb (1993) nghiên cứu HĐNNPP ở phương diện của người nhận lời phê
phán. Đối tượng thể nghiệm là giáo viên hướng dẫn và các giáo sinh thực tập trong

một khóa hội thảo về việc giảng dạy tiếng Anh như một ngoại ngữ. Kết quả khảo sát
cho thấy về đặc tính của một lời phê phán có hiệu quả có những nét tương đồng với
nhận định của Tracy, Dusen và Robinson. Mặc dù vậy, nghiên cứu này cũng mới chỉ
là sự tìm hiểu HĐNNPP ở góc độ nhận thức, cảm nhận, suy nghĩ đối với HĐNN của
người phê phán và người bị phê phán ở vai trò và phạm vi hẹp mà chưa đi đến nghiên
cứu HĐNN cụ thể [52]. Tiếp đó Toplak và Katz (2000) lại chú trọng tới hiệu quả giao
tiếp của lời phê phán trực tiếp và gián tiếp. Qua việc khảo sát nhận xét về người tham
thoại, hai phương diện được đề cập đến, đó là: phương diện người thực hiện
HĐNNPP và người nhận HĐNNPP ấy. Kết quả cho thấy, người tiếp nhận HĐNNPP
cho những lời phê phán gián tiếp có tính chế giễu nghiêm trọng hơn ý định của người
phát ngôn và tất nhiên đối với họ những lời phê phán như vậy có tính chất tiêu cực và
có ảnh hưởng tới mối quan hệ của những người tham thoại hơn lời phê phán trực tiếp.
Kết quả khảo sát này tương đồng với nghiên cứu của Wajnryb (1993). Ở đây,
HĐNNPP mới chỉ khảo sát ở góc độ nhận xét, cảm nhận, chưa đi vào thực tế của phát
ngôn. [52]
b. Ở Việt Nam
Theo quan sát của chúng tôi, nghiên cứu về HĐNNPP có các tác giả như
Nguyễn Thị Thủy Minh (2005), Hoàng Thị Xuân Hoa (2008), Đoàn Trần Thùy Vân
(2010), Lê Thị Thúy Hà (2015); …
Nguyễn Thị Thủy Minh (2005) Criticizing and Responding to Criticism In A
Foreign Language: A study of Vietnamese Learners of English, nghiên cứu sự Chỉ
trích và phản ứng với những lời chỉ trích bằng tiếng nước ngoài: một nghiên cứu về
người Việt học tiếng Anh, khảo sát chuyển di ngữ dụng của HĐNNPP của người Việt
học tiếng Anh và người Úc bản ngữ qua câu hỏi khảo sát, đóng vai và phỏng vấn hồi
tưởng. So sánh chuyển di ngữ dụng giữa 3 nhóm đối tượng, gồm: nhóm người Việt
học tiếng Anh, nhóm người Việt bản ngữ và nhóm người Úc bản ngữ [164].
Hoàng Thị Xuân Hoa (2008) với The Speech Act of Criticizing by the Vietnamese
and the Anglo-American: A Cross- cultural Study nghiên cứu về Hành động lời nói phê
bình của người Việt và người Mĩ gốc Anh: nghiên cứu giao văn hóa. Kết quả nghiên


16


cứu cho thấy những tương đồng và dị biệt trong việc thực hiện hành động lời nói phê
bình của người Việt và người Mĩ gốc Anh. Đáng lưu ý, nghiên cứu cung cấp các
thông tin về HĐNNPP dưới góc độ giao thoa văn hóa, về sự khác biệt trong hành
động phê phán giữa hai nền văn hóa, hai dân tộc; ảnh hưởng của các yếu tố xã hội và
ngôn cảnh đối với hành động lời nói phê bình của người Việt và người Mĩ gốc
Anh [161]. Về tần suất đưa ra lời phê phán, Hoàng Thị Xuân Hoa cho rằng: So với
người Việt, Người Mỹ ít phê phán hơn, đặc biệt là trong các chủ đề về cá nhân hay
liên quan đến ý kiến cá nhân. Người Việt tuy hay đưa ra lời phê phán hơn người Mỹ
nhưng thường lại bị chi phối bởi các yếu tố xã hội, tình huống hơn. Mặc dù vậy, luận
án của Hoàng Thị Xuân Hoa tăng cường sự hiểu biết về các hình thức biểu đạt của
HĐNN phê bình. Kết quả luận án còn là nguồn tham khảo hữu ích cho các nhà biên
soạn giáo trình và người dạy, người học tiếng Anh [161].
Đoàn Trần Thùy Vân (2010), trong A study of verbal criticism in English and
Vietnamese (nghiên cứu về Hành động phê phán bằng lời trong tiếng Anh và tiếng
Việt) [169], đã sử dụng phương pháp phân tích các câu phê phán trích dẫn từ các tác
phẩm truyện ngắn và tiểu thuyết của các nước nói tiếng Anh như: Anh, Mỹ, Úc, Niudi-lân đầu thế kỉ XIX và giai đoạn trước, sau năm 1945 sử dụng cách phân loại của
các nghiên cứu đi trước và cùng chung một khái niệm về HĐNNPP nên có chung cách
phân loại; chia ra thành chiến lược phê phán trực tiếp và chiến lược phê phán gián tiếp.
Nhìn chung, các nghiên cứu về HĐNNPP nêu trên tập trung vào 5 chủ đề chính
sau: 1) Đặc điểm của HĐNNPP; 2) Chủ đề của HĐNNPP; 3) Phân loại HĐNNPP; 4)
Hiệu lực của HĐNNPP; 5) Tính lịch sự của HĐNNPP. Mặc dù đây là những nghiên
cứu ban đầu về HĐNNPP, cũng có thể còn có những ý kiến chưa đồng thuận như:
phân loại HĐNNPP còn chồng chéo, chưa rạch ròi; các khảo sát về chủ đề của
HĐNNPP chưa thực sự sát với thực tế cuộc sống; phần hiệu lực của HĐNNPP mới
chỉ tìm hiểu ở góc độ nhận thức, cảm nhận chưa nghiên cứu những hành động cụ thể,
chưa đi vào thực tế của phát ngôn,...[52, tr.4-6]; ngữ liệu khảo sát chủ yếu là những
HĐNNPP lấy từ các tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu, song những nghiên cứu này đã

góp phần mang lại những gợi ý, đường hướng hết sức quý báu trong việc tìm hiểu
HĐNNPP ở thể loại TPBC trong nghiên cứu của chúng tôi.

1.1.2. Nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ tiểu phẩm báo chí tiếng Việt
1.1.2.1. Nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí
a. Trên thế giới
Việc nghiên cứu về NNBC nói chung từ nhiều góc nhìn khác nhau đã đạt được
những thành tựu quan trọng. Dưới góc nhìn của báo chí - xã hội học, những vấn đề về
truyền thông đại chúng đã được đề cập đến từ những năm 50 của thế kỉ XX. Frank
Dance trong cuốn Khái niệm cơ bản về truyền thông, đã khái quát vai trò quan trọng

17


×