Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tổ chức, hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Lý luận và thực tiễn.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.82 KB, 18 trang )

Tổ chức, hoạt động cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối
cao – Lý luận và thực tiễn.

A. MỞ ĐẦU
Trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành, trải qua nhiều biến động
thăng trầm, nhiều lần thay đổi về tổ chức bộ máy và nhiệm vụ, thẩm quyền,
nhưng trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) từ năm 1960 đến
nay luôn ghi nhận sự tồn tại của Cơ quan điều tra (CQĐT) và hoạt động điều tra
vụ án hình sự luôn được xác định là hoạt động không thể thiếu trong việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân.
Từ đó đến nay, Cơ quan điều tra ngành Kiểm sát nhân dân đã liên tục được
đổi mới về cả chất và lượng. Tổ chức bộ máy từng bước được kiện toàn, với đội
ngũ cán bộ, Điều tra viên có phẩm chất tốt, có trình độ chuyên môn, năng lực,
kinh nghiệm trong hoạt động điều tra, đã đạt được những kết quả quan trọng
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhiệm vụ
Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Khi nói đến Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC) thì có hai CQĐT là: CQĐT Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
CQĐT Viện kiểm sát quân sự trung ương.1 Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài
này sinh viên chỉ đề cập và nghiên cứu về tổ chức, hoạt động của CQĐT Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.

1 Điều 7, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015

1


B. NỘI DUNG
I.

Lý luận chung về Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối



cao
1. Cơ sở của việc thành lập Cơ quan điều tra ở VKSND
Ở nước ta, từ khi VKSND được thành lập (năm 1960) đến nay, pháp luật
luôn quy định việc tổ chức Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Đặc
biệt, từ năm 1989 đến nay, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát luôn được giao cụ
thể nhiệm vụ điều tra tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Việc thành lập Cơ quan
điều tra của Viện kiểm sát nhân dân xuất phát từ những lý do khách quan sau
đây:
Thứ nhất, xuất phát từ chức năng công tố của Viện kiểm sát trong tố tụng
hình sự. Viện kiểm sát nhân dân được giao trách nhiệm thực hành quyền công
tố, quyết định việc truy tố và thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội
trước Toà án; bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không để
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Hoạt động điều tra
của Cơ quan điều tra nhằm phục vụ chức năng công tố, giúp cơ quan thực hành
quyền công tố đưa vụ án ra Tòa và buộc tội người phạm tội trước Tòa án. Kết
quả hoạt động điều tra phục vụ cho hoạt động thực hành quyền công tố, có ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động thực hành quyền công tố. Mặt khác,
thông qua việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát
có lợi thế trong việc nắm bắt, phát hiện các vi phạm và tội phạm. Vì vậy, việc tổ
chức Cơ quan điều tra của VKSND để điều tra tội xâm phạm hoạt động tư pháp
mà người thực hiện tội phạm là cán bộ trong các cơ quan tư pháp là hoàn toàn
phù hợp.
Thứ hai, các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những tội phạm có chủ thể
đặc biệt, đó là cán bộ của các cơ quan tư pháp, có sự hiểu biết và ý thức pháp
luật cao, việc phát hiện tội phạm và điều tra làm từ hành vi phạm tội rất khó
khăn (điều này lý giải tại sao số lượng vụ án do Cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát khởi tố, điều tra không nhiều như các loại án khác). Tuy nhiên, thực trạng
nền tư pháp nước ta cũng có những hạn chế, tồn tại đã được Đảng ta đánh giá,

2


đó là: chất lượng hoạt động tư pháp cũng chưa cao; vẫn còn tình trạng bắt, giam,
giữ người trái pháp luật, để xảy ra oan, sai trong điều tra, truy tố, xét xử; một bộ
phận cán bộ tư pháp xuống cấp về đạo đức. Vì vậy, việc duy trì Cơ quan điều tra
của Viện kiểm sát với tư cách là một Cơ quan điều tra chuyên trách, độc lập để
phát hiện, điều tra, xử lý khách quan và phòng ngừa có hiệu quả đối với các tội
phạm này là rất cần thiết.
Thứ ba, tham khảo kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, nhiều
quốc gia có quy định thẩm quyền điều tra của cơ quan công tố/kiểm sát. Các cơ
quan công tố tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Italia, Trung Quốc
đều có thẩm quyền điều tra đối với một số loại tội phạm. Ví dụ: ở Trung Quốc,
theo Luật tổ chức Viện kiểm sát và Luật tố tụng hình sự của Trung Quốc, Viện
kiểm sát tổ chức hệ thống cơ quan điều tra từ Trung ương đến địa phương và có
quyền điều tra đối với nhiều loại tội phạm, một trong những loại tội phạm mà cơ
quan này có thẩm quyền điều tra là tội phạm tham nhũng, tội phạm về chức vụ.
Ở Italia, Văn phòng Công tố viên Quốc gia có nhiệm trực tiếp điều tra và truy tố
tội phạm do các tổ chức mafia thực hiện. Đây là những kinh nghiệm cần tham
khảo, vận dụng khi nghiên cứu vấn đề tổ chức lại các CQĐT ở nước ta.
Thứ tư, trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp, tại phiên
họp lần thứ tư của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương, sau khi nghe Ban
Cán sự đảng báo cáo các đề án, Chủ tịch nước, Trưởng Ban có kết luận về vấn
đề thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao như sau: “Pháp luật
hiện hành đó có các quy định về thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, cần thực hiện theo quy định này và tiếp tục nhiệm vụ, tổng kết thực tiễn
thi hành để có kiến nghị phù hợp khi sửa đổi, bổ sung pháp luật về tố tụng hình
sự”.
2. Thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC
Cũng như CQĐT trong Công an nhân dân và CQĐT trong Quân đội nhân

dân, CQĐT VKSNDTC cũng có thẩm quyền riêng biệt trong việc điều tra vụ án
hình sự. Theo quy định của pháp luật hiện hành ( khoản 3, Điều 163, Bộ luật tố
tụng hình sự 2015 và khoản 2, Điều 30, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự
3


2015) CQĐT VKSNDTC có thẩm quyền “Tiến hành Điều tra tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương
XXIII và Chương XXIV của Bộ luật hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà
người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan Điều tra, Tòa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành
hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân.”
3. Vị trí pháp lý của CQĐT VKSNDTC
Theo quy định tại Điều 2, Quy chế Tổ chức và hoạt động của CQĐT
VKSNDTC (Ban hành kèm theo Quyết định số 18/QĐ – VKSTC – C1 ngày
20/11/2015 của Viện trưởng VKSNDTC) thì Cơ quan điều tra là đơn vị trực
thuộc bộ máy làm việc của VKSNDTC có trụ sở chính đặt tại Hà Nội, có Đại
diện thường trực Cơ quan điều tra tại các khu vực do Viện trưởng VKSND tối
cao quyết định thành lập. Ngoài ra, Cơ quan điều tra có con dấu và tài khoản
riêng. Cơ quan điều tra được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước.
4. Nhiệm vụ của CQĐT VKSNDTC
Theo quy định tại Điều 3, Quy chế Tổ chức và hoạt động của CQĐT
VKSNDTC, cùng quy định tại Điều 30, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự
2015, CQĐT VKSNDTC có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
 Điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm tham
nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của
luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra,
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan thi hành án,
người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp;

 Tiếp nhận, thu thập và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố thuộc thẩm quyền; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy
định của pháp luật;
 Thực hiện công tác phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực tư pháp;
phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm trong hoạt động
4


tư pháp để tham mưu với Viện trưởng VKSND tối cao kiến nghị với
các cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục, phòng ngừa, xử lý tội
phạm và vi phạm pháp luật;
 Dự báo tình hình tội phạm trong hoạt động tư pháp để tham mưu với
Viện trưởng VKSND tối cao về các biện pháp tăng cường công tác
điều tra, thực hành quyền công tố, đấu tranh phòng, chống tội phạm
thuộc thẩm quyền;
 Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Viện trưởng VKSND
tối cao giao.
5. Nguyên tắc làm việc của CQĐT VKSNDTC
Nguyên tắc là những tư tưởng, quan điểm chủ đạo, cốt lõi mang tính định
hướng đường lối, làm kim chỉ nam xuyên suốt mọi hành động, mọi vấn đề.
CQĐT VKSNDTC được tổ chức và hoạt động dựa trên năm nguyên tắc cơ bản
sau đây:
 Cơ quan điều tra làm việc theo chế độ Thủ trưởng. Mọi hoạt động
của Cơ quan điều tra phải tuân thủ quy định của pháp luật, quy định
của Ngành. Công chức thuộc Cơ quan điều tra phải thực hiện đúng
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn.
 Hoạt động kiểm tra, xác minh, điều tra của Cơ quan điều tra chịu sự
kiểm sát của Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án
xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt
động tư pháp VKSND tối cao.

 Đảm bảo tuân thủ trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết công việc
theo đúng quy định của pháp luật, chương trình, kế hoạch, lịch làm
việc và Quy chế làm việc, trừ trường hợp đột xuất hoặc có yêu cầu
khác của Lãnh đạo Viện.
 Bảo đảm phát huy năng lực và sở trường của công chức, tăng cường
sự phối hợp công tác, trao đổi thông tin trong giải quyết công việc
theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định.
5


 Bảo đảm dân chủ, minh bạch trong mọi hoạt động gắn với thực hiện
chủ trương cải cách hành chính, cải cách công vụ, công chức của
Đảng và Nhà nước.2
II.

Tổ chức, hoạt động của CQĐT VKSNDTC

1. Giai đoạn trước khi thành lập Viện kiểm sát nhân dân – từ năm
1945 đến năm 1959
Sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời đã hình thành hệ
thống các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Công tố, là tiền thân của Viện
kiểm sát (VKS) ngày nay. Cơ quan công tố (Công tố viện) thời kỳ này được tổ
chức trong hệ thống Tòa án. Thẩm quyền điều tra của Công tố viện được thể
hiện trong các Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về “Cách tổ chức các Tòa án
và các ngạch Thẩm phán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”; Sắc lệnh số
42/SL ngày 03/4/1946; Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 về “Thẩm quyền của
các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên” và Sắc lệnh số 131/SL ngày
20/7/1946 về tổ chức Tư pháp Công an thì các hoạt động điều tra được phân
công cụ thể hơn. Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa I (họp từ 16/4 đến 29/4/1958)
đã quyết định hệ thống Tòa án và hệ thống Công tố tách khỏi Bộ Tư pháp và

trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Trên cơ sở nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 256/TTg ngày 01/7/1959 quy định về
nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố. Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số
256/TTg thì trong các hoạt động của Viện công tố có hoạt động điều tra vụ án
hình sự.
Giai đoạn này, hoạt động tư pháp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa xuất hiện ngay từ khi nước ta giành được độc lập (1945). Mặc dù mới được
thành lập nhưng đã hình thành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và do nhiều cơ
quan thực hiện. Trong đó, điều tra gắn liền với công tố, điều tra phục vụ cho
hoạt động công tố đã được thể hiện một cách rõ ràng. Cơ quan Công tố ban đầu
nằm trong hệ thống Tòa án, nhưng sau đó đã tách ra thành một hệ thống cơ quan
2 Điều 4, Quy chế tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân tối cao (Ban hành kèm
theo Quyết định số 18/QĐ-VKSTC-C1 ngày 20/11/2015 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao)

6


độc lập; có vị trí, vai trò quan trọng trong tố tụng hình sự và bộ máy Nhà nước
ta.
2. Giai đoạn 1960 – 1988 (trước khi ban hành BLTTHS năm 1988)
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh số 20/L-CTN công bố
Luật Tổ chức VKSND, đây là văn bản đánh dấu sự ra đời của hệ thống VKSND
trong bộ máy Nhà nước ta. Ngày 16/4/1962, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông
qua Pháp lệnh quy định về tổ chức của VKSND tối cao và ngày 18/4/1962 Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 12/L-CTN công bố Pháp lệnh. Điều 5 của Pháp
lệnh này quy định về bộ máy của VKSND tối cao có 8 đơn vị, trong đó có Vụ
điều tra thẩm cứu (trên thực tế thì tại thời điểm này mới thành lập Phòng điều tra
thẩm cứu; đến năm 1978, Vụ Điều tra thẩm cứu chính thức được thành lập ở
VKSND tối cao trên cơ sở Phòng Điều tra thẩm cứu), quy định tại Điều 5 của
Pháp lệnh này đã đánh dấu cho sự hình thành tổ chức Cơ quan điều tra trong

VKSND.
Đến năm 1984, Viện trưởng VKSND tối cao ra quyết định thành lập 4
Phòng Điều tra thẩm cứu ở các VKSND thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải
Phòng và Quảng Nam – Đà Nẵng. Vụ Điều tra thẩm cứu của VKSND tối cao
vẫn trực tiếp tiến hành điều tra các vụ án theo đúng thẩm quyền quy định tại
Luật Tổ chức VKSND năm 1981 và Thông tư liên bộ số 01 ngày 23/01/1984.
Riêng với Viện kiểm sát các cấp cũng đã tiến hành các hoạt động điều tra khi
cần thiết với hình thức tổ chức là thành lập một tổ điều tra khi thấy cần thiết và
người thực hiện điều tra là các cán bộ, Kiểm sát viên của Phòng kiểm sát điều
tra kiêm nhiệm thực hiện.
Có thể nói, giai đoạn 1960 – 1988 đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử tố
tụng hình sự, bằng việc Hiến pháp, pháp luật quy định Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cụ thể, trong đó có hoạt động điều tra và đơn
vị trực tiếp làm nhiệm vụ điều tra (Vụ Điều tra thẩm cứu).
Hoạt động điều tra của Viện kiểm sát là một công tác nhằm thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố nhà nước, tuy nhiên, trong giai đoạn này có lúc,
7


có nơi lại không được đánh giá đúng tầm quan trọng của hoạt động này. Vì thế,
mặc dù Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
ngày 18/4/1962 quy định trong tổ chức bộ máy VKSND tối cao có Vụ Điều tra
thẩm cứu, nhưng nhiều năm sau mới chính thức được thành lập; với số lượng
cán bộ điều tra còn hạn chế (10 cán bộ điều tra), lại phải thực hiện nhiệm vụ
điều tra trong cả nước cho nên khó đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ công tác
đặt ra.
3. Giai đoạn 1988 – 2003 theo quy định của BLTTHS năm 1988 và
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 1989
Sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) đầu tiên của nước ta ban hành
vào năm 1988, ngày 04/4/1989, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp

lệnh Tổ chức điều tra hình sự, các văn bản này đã quy định rõ CQĐT của
VKSND là một trong hệ thống các CQĐT chuyên trách. Về tổ chức bộ máy, giai
đoạn này, Cơ quan điều tra VKSND được tổ chức ở hai cấp: VKSND tối cao có
Cục điều tra; ở VKSND cấp tỉnh có Phòng điều tra, nhưng chỉ thành lập 36
Phòng điều tra của 36 tỉnh, thành.
Đến năm 2000, chức năng, nhiệm vụ của VKSND có sự thay đổi một cách
cơ bản nên thẩm quyền của Cơ quan điều tra VKSND cũng có sự thay đổi. Theo
tinh thần tại Thông báo số 136/TB-TW ngày 25/01/1996 của Bộ Chính trị đánh
giá và định hướng cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, Viện
trưởng VKSND tối cao ban hành Chỉ thị số 01/2000/CT ngày 10/01/2000 về
công tác kiểm sát của ngành KSND năm 2000, trong đó về công tác điều tra của
Cơ quan điều tra VKSND đã nêu rõ: Thực hiện đổi mới Cơ quan điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân theo hướng tăng cường tổ chức và hoạt động của Cục
điều tra thuộc VKSNDTC, chỉ để lại Phòng điều tra Viện kiểm sát cấp tỉnh ở
những nơi xét thấy thật cần thiết. CQĐT của VKSND chỉ tập trung vào việc điều
tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ của các
cơ quan tư pháp.
8


Với sự ra đời của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và các văn bản pháp
luật khác, Cơ quan điều tra VKSND đã trở thành hệ thống Cơ quan điều tra
chuyên trách, độc lập trong hoạt động tố tụng. Hoạt động của Cơ quan điều tra
VKSND thời kỳ này đã góp phần nâng cao chất lượng thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của VKSND và nâng cao uy tín của ngành KSND, được dư luận đồng
tình, ủng hộ; góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và
các cơ quan bảo vệ pháp luật.
4. Giai đoạn từ năm 2003 – 2014 theo quy định của BLTTHS năm
2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004
Sau khi BLTTHS năm 2003 được ban hành, thể chế hóa chủ trương cải

cách tư pháp của Đảng theo Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị khẳng định VKS không thực hiện chức năng kiểm sát chung. Phòng
điều tra ở VKSND cấp tỉnh giải thể, CQĐT của VKS chỉ được tổ chức ở
VKSND tối cao. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND tối cao
được quy định cụ thể trong BLTTHS năm 2003 (Điều 110), Luật Tổ chức
VKSND năm 2002 (khoản 2 Điều 3) và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm
2004 (Điều 18), theo đó “Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán
bộ thuộc cơ quan tư pháp”.
So với quy định của BLTTHS năm 1988 thì thẩm quyền của Cơ quan điều
tra VKSND trong BLTTHS năm 2003 đã thu hẹp hơn rất nhiều. Trong đó quy
định tổ chức bộ máy Cơ quan điều tra gồm 03 phòng: Phòng Tham mưu tổng
hợp (Phòng 1); Phòng Điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tư
pháp tại các tỉnh phía Bắc (Phòng 2); Phòng Điều tra một số loại tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp tại các tỉnh phía Nam (Phòng 3). Trong Phòng 3 có 02
tổ công tác đặt tại thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. Nhưng thực
tế chỉ mới thành lập tổ công tác đặt tại thành phố Hồ Chí Minh. Về cán bộ, trong
giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2009, Cơ quan điều tra VKSND tối cao có 31
biên chế, trong đó có 30 Điều tra viên các cấp (12 Điều tra viên cao cấp, 17 Điều
9


tra viên trung cấp, 1 Điều tra viên sơ cấp). Về bộ máy lãnh đạo, gồm có: Cục
trưởng, 03 Phó Cục trưởng, 03 Phòng nghiệp vụ nhưng chỉ có 2 Trưởng phòng,
không có Phó trưởng phòng. Vì thế, kết quả công tác của Cơ quan điều tra
VKSND tối cao trong giai đoạn này chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, nhiệm
vụ đã đặt ra.
Đến năm 2010, nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả công tác điều tra tội
phạm của Cơ quan điều tra VKSND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao ký
Quyết định số 1169/2010/VKSTC-C6 ngày 19/8/2010 ban hành Quy chế về tổ

chức và hoạt động của Cục điều tra VKSND tối cao. Theo Quy chế trên, Cơ
quan điều tra VKSND tối cao được tổ chức thành 5 phòng nghiệp vụ và 2 Đại
diện thường trực Cơ quan điều tra VKSND tối cao tại các tỉnh miền Trung – Tây
Nguyên và miền Nam với tổng số 52 biên chế. Về cán bộ lãnh đạo Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao thời điểm này gồm có: Cục trưởng và 5 Phó
Cục trưởng; 5 Trưởng phòng, 8 Phó Trưởng phòng và 16 Đội Trưởng Đội
nghiệp vụ, trong đó có 33 Điều tra viên các cấp (15 Cao cấp, 16 Trung cấp và 2
Sơ cấp).
5. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay theo quy định của Luật Tổ chức
VKSND năm 2014, BLTTHS năm 2015 và Luật Tổ chức CQĐT
hình sự năm 2015
Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua BLTTHS
năm 2015, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Luật Tổ chức Cơ quan điều tra
hình sự năm 2015. Theo đó, Cơ quan điều tra VKSND có thẩm quyền điều tra
tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy
định tại Chương XXIII và Chương XXIV của Bộ luật Hình sự xảy ra trong hoạt
động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra,
Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt
động tư pháp (Điều 163 BLTTHS năm 2015, Điều 20 Luật Tổ chức VKSND
năm 2014, Điều 30 Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015).
Với quy định này, có thể thấy thẩm quyền điều tra, diện chủ thể của tội
phạm và địa bàn điều tra của Cơ quan điều tra VKSND đã được mở rộng hơn rất
10


nhiều so với quy định tại BLTTHS năm 2003, Luật Tổ chức VKSND năm 2002
và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004. Theo thống kê thì với quy định
mới như hiện nay, Cơ quan điều tra VKSND tối cao có thẩm quyền điều tra với
38 tội danh, bao gồm 24 tội danh thuộc chương các tội phạm xâm phạm hoạt
động tư pháp và 14 tội danh thuộc chương các tội phạm tham nhũng, chức vụ.

Theo quy định tại Điều 29 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015,
CQĐT VKSNDTC gồm có các phòng Điều tra và bộ máy giúp việc. Hiện nay,
CQĐT VKSNDTC được tổ chức ở cấp Trung ương, có trụ sở chính đặt tại thành
phố Hà Nội, được tổ chức thành 10 phòng nghiệp vụ:
 Phòng tiếp nhận và thu thập thông tin tội phạm (Phòng 1)
 Phòng Tham mưu tổng hợp (Phòng 2)
 Phòng điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh phía Bắc (Phòng 3)
 Phòng điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh miền Trung – Tây
Nguyên, đặt tại TP Đà Nẵng (Phòng 4)
 Phòng điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh miền Nam, đặt tại TP Hồ
Chí Minh (Phòng 5)
 Phòng điều tra tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động
tư pháp (Phòng 6)
 Phòng kỹ thuật hình sự (Phòng 7)
 Phòng điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh miền núi phía Bắc, đặt tại
tỉnh Yên Bái (Phòng 8)
 Phòng điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh Tây Nguyên, đặt tại tỉnh
Đắk Lắk (Phòng 9)
 Phòng điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh Tây Nam bộ, đặt tại TP
Cần Thơ (Phòng 10).
Trong các phòng có các đội nghiệp vụ do Thủ trưởng Cơ quan điều tra
quyết định. Việc thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể các phòng trực thuộc Cơ
quan điều tra do Viện trưởng VKSND tối cao quyết định trên cơ sở đề nghị của
Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ.
Ngoài ra, có hai Đại diện thường trực Cơ quan điều tra, gồm: Đại diện
thường trực Cơ quan điều tra tại các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên đặt tại thành
phố Đà Nẵng; Đại diện thường trực Cơ quan điều tra tại các tỉnh miền Nam đặt
11



tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong Đại diện thường trực Cơ quan điều tra có
Phòng Điều tra tội phạm xảy ra tại các tỉnh, thành phố theo địa bàn được phân
công.
Về cán bộ lãnh đạo Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao thời
điểm này gồm có: Thủ trưởng và 04 Phó Thủ trưởng; 10 Trưởng phòng.

III. Thực tiễn hoạt động của CQĐT VKSNDTC hiện nay
Năm 2010, thực hiện Quy chế số 1169 của Viện trưởng VKSND tối cao,
Cơ quan điều tra đã tiếp nhận tổng số 497 tố giác, tin báo về tội phạm, tăng
14,5% so với năm 2009; đã phân loại xác định có 178 tố giác, tin báo liên quan
đến hoạt động tư pháp, tăng 89,36% so với cùng kỳ. Trong đó có 62 tố giác, tin
báo về tội phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSND tối
cao; đã kết thúc điều tra, xác minh 45 tố giác, tin báo về tội phạm, đạt tỷ lệ
72,58%. Khởi tố thụ lý, điều tra 21 vụ/42 bị can, tăng 110% so với năm 2009.
Thông qua công tác điều tra, xác minh các tố giác, tin báo về tội phạm và giải
quyết các vụ án thuộc thẩm quyền, Cơ quan điều tra rất chú trọng kiến nghị với
cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính và phòng ngừa vi phạm, tội phạm xảy
ra ở các lĩnh vực. Năm 2010, Cơ quan điều tra đã ban hành 25 văn bản kiến nghị
gửi tới các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Từ năm 2011 đến năm 2014, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã tiếp
nhận, thu thập 4.036 thông tin về tội phạm, đã nghiên cứu giải quyết 3.947 thông
tin (đạt 97,8%). Thụ lý giải quyết tổng số 448 tố giác, đã kết thúc kiểm tra, xác
minh, chuyển hồ sơ đến VKSND tối cao kiểm sát theo quy định 440 tố giác, tin
báo về tội phạm (đạt 98,2%). Khởi tố, thụ lý điều tra 153 vụ/160 bị can; trong
đó: Tội phạm về tham nhũng trong hoạt động tư pháp: 54 vụ/55 bị can (chiếm
35,3%); tội phạm về chức vụ trong hoạt động tư pháp: 22 vụ/20 bị can (chiếm
14,4%); tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp: 56 vụ/76 bị can (chiếm 36,6 %).
Đã kết thúc điều tra 141 vụ/153 bị can, đạt 92,1%.
Việc khắc phục, thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án tham
nhũng, chức vụ được Cơ quan điều tra VKSND tối cao chú trọng thực hiện. Tỷ

12


lệ thu hồi tiền, tài sản bị thiệt hại, chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng, chức
vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp trung bình đạt 55%.
Cùng với việc chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh các hành vi xâm
phạm hoạt động tư pháp, Cơ quan điều tra đã đặc biệt chú trọng và tích cực phát
hiện, xác định nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm, tội phạm để kiến nghị
đến các cơ quan hữu quan có biện pháp xử lý và phòng ngừa; đồng thời, xác
định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác điều tra. Trong
thời gian này, Cơ quan điều tra đã ban hành 296 kiến nghị gửi các cơ quan hữu
quan để kiến nghị xử lý và phòng ngừa vi phạm, tội phạm. Các kiến nghị trên
đều được các cơ quan nghiêm túc tiếp thu và có biện pháp khắc phục.
Trong giai đoạn này, Cơ quan điều tra VKSND tối cao đã phát hiện, khởi
tố, điều tra nhiều vụ án nghiêm trọng, phức tạp về tội phạm tham nhũng, chức
vụ trong hoạt động tư pháp cũng như làm rõ những vụ án oan, sai được dư luận
xã hội quan tâm, như:
Khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra lệnh bắt tạm giam đối với Lý Nguyên
Chung về tội “Giết người”, “Cướp tài sản” xảy ra tại thôn Me, xã Nghĩa Trung,
huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, là căn cứ quan trọng để VKSND tối cao kháng
nghị tái thẩm đối với vụ án Nguyễn Thanh Chấn về tội “Giết người”, Tòa án
nhân dân tối cao đã hủy bản án để điều tra lại, ông Nguyễn Thanh Chấn đã được
trả tự do sau hơn 10 năm bị giam giữ thi hành án oan, sai. Cơ quan điều tra
VKSND tối cao đã khởi tố bị can về tội làm sai lệch hồ sơ vụ án đối với Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đã tiến hành điều tra, truy tố, xét xử oan đối với
ông Chấn.
Vụ án Ngô Thanh Phong, Phạm Văn Út bị khởi tố về tội “Lợi dụng chức
vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, Nguyễn Tuyến Dũng về tội “Lạm
quyền trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
tỉnh Tiền Giang. Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang đã tuyên phạt bị cáo Ngô

Thanh Phong 03 năm tù giam; bị cáo Phạm Văn Út 01 năm tù giam về tội “Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, tuyên phạt Nguyễn Tuyến
Dũng 10 năm tù giam về tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ”.

13


Vụ Nguyễn Thành Đoàn, Thẩm phán, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh
Ninh Bình đã bị CQĐT VKSND tối cao khởi tố về tội “Ra bản án trái pháp luật”
do có hành vi cố ý bỏ qua các tình tiết tăng nặng, cố ý áp dụng các tình tiết giảm
nhẹ không có thực để ra bản án trái pháp luật trong quá trình xét xử vụ án “Tổ
chức đánh bạc” và “Đánh bạc” xảy ra tại thành phố Ninh Bình.

C. KẾT LUẬN
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và VKSND tối cao cùng
với sự phấn đấu không ngừng nghỉ của nhiều thế hệ cán bộ, Điều tra
viên, với sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ban, ngành, đoàn thể ở
Trung ương và địa phương, sự tin tưởng, ủng hộ của nhân dân. Cơ
quan điều tra VKSND tối cao đã không ngừng trưởng thành và lớn
mạnh, đạt được nhiều thành tích to lớn trong công cuộc đấu tranh
phòng, chống vi phạm, tội phạm thuộc thẩm quyền. Đây là cơ sở để
chúng ta tin tưởng rằng, trong thời gian tới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, sự quan tâm chỉ đạo của
VKSND tối cao, Cơ quan điều tra VKSND tối cao sẽ hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng một nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, củng cố và nâng cao sự tin tưởng của nhân dân đối
với hệ thống các cơ quan tư pháp nói riêng đối với các cơ quan nhà
nước nói chung.

14



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Tập bài giảng Lý luận chung về Viện kiểm
sát nhân dân, Hà Nội, 2018.
2) Hiến pháp 2013.
3) Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2015.
4) Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, Nxb Lao động, Hà Nội, 2015.
5) Luật Tổ chức cơ quan điều tra Hình sự 2015.
6) Quy chế tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra viện kiểm sát nhân dân
tối cao (Ban hành kèm theo Quyết định số 18/QĐ-VKSTC-C1 ngày
20/11/2015 của Viện trưởng VKSNDTC).
7) Quyết định số 1169/2010/VKSTC-C6 ngày 19/8/2010 của Viện trưởng
VKSNDTC.
8) Vũ Đăng Khoa, Cơ quan điều tra VKSNDTC 55 năm xây dựng và trưởng
thành, Tạp chí Kiểm Sát số 8/2017.
9) Hoàng Thị Quỳnh Chi, Hoạt động điều tra của CQĐT VKSNDTC theo yêu
cầu cải cách tư pháp, Cổng thông tin điện tử VKSNDTC, 22/9/2018.
10) Các website:
/>

/>

Thuật ngữ viết tắt trong bài
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
CQĐT: Cơ quan điều tra.
15



16


Mục Lục
A. MỞ ĐẦU........................................................................................................1
B. NỘI DUNG....................................................................................................2
I. Lý luận chung về Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao....2
1. Cơ sở của việc thành lập Cơ quan điều tra ở VKSND........................2
2. Thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSNDTC......................................3
3. Vị trí pháp lý của CQĐT VKSNDTC...................................................4
4. Nhiệm vụ của CQĐT VKSNDTC..........................................................4
5. Nguyên tắc làm việc của CQĐT VKSNDTC........................................5
II.

Tổ chức, hoạt động của CQĐT VKSNDTC..........................................6

1. Giai đoạn trước khi thành lập Viện kiểm sát nhân dân – từ năm
1945 đến năm 1959........................................................................................6
2. Giai đoạn 1960 – 1988 (trước khi ban hành BLTTHS năm 1988)......6
3. Giai đoạn 1988 – 2003 theo quy định của BLTTHS năm 1988 và
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 1989...........................................8
4. Giai đoạn từ năm 2003 – 2014 theo quy định của BLTTHS năm 2003
và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004......................................9
5. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay theo quy định của Luật Tổ chức
VKSND năm 2014, BLTTHS năm 2015 và Luật Tổ chức CQĐT hình sự
năm 2015......................................................................................................10
III. Thực tiễn hoạt động của CQĐT VKSNDTC hiện nay......................12
C. KẾT LUẬN..................................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................15

Thuật ngữ viết tắt trong bài.............................................................................16

17



×