MỞ ĐẦU
Địa tô đã xuất hiện từ khi có quyền tư hữu về ruộng đất và là hình thức bóc
lột chủ yếu trong xã hội phong kiến. Trong xã hội phong kiến, địa tô ban đầu là
tô lao dịch, sau đó là tô hiện vật và khi kinh tế hàng hóa phát triển thì xuất hiện
tô tiền - là khoản tiền mà người thuê đất phải trả cho người chủ đất để được
quyền sử dụng ruộng đất trong một khoảng thời gian nhất định.
Trong chủ nghĩa tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện tuy
muộn hơn trong thương nghiệp và công nghiệp nhưng thực tế cho thấy nó đã
không ngừng phát triển và ngày càng chiếm vị trí thống trị trong lĩnh vực nông
nghiệp. Quan hệ đất đai dưới chủ nghĩa tư bản bao gồm ba thành phần cơ bản:
người sở hữu ruộng đất, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp, người công nhân
lao động. Trong đó, người thực sự canh tác ruộng đất là những người lao động
làm thuê, nhà tư bản thuê đất của địa chủ để kinh doanh, coi nông nghiệp là một
lĩnh vực đầu tư kinh doanh. Số tiền mà nhà tư bản phải trả cho địa chủ - kẻ sở
hữu ruộng đất theo hợp đồng - để được sử dụng ruộng đất trong một thời gian
nhất định là địa tô tư bản chủ nghĩa.
Lý luận về địa tô, cũng như địa tô chênh lệch theo quan điểm của C.Mác
không chỉ vạch ra bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông
nghiệp mà còn là cơ sở khoa học để nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng Luật
đất đai và các chính sách giá cả cho nông sản, thuế nông nghiệp và các ngành
khác liên quan đến đất đai, làm cho việc sử dụng đất có hiệu quả hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nghiên cứu về địa tô, cũng như
địa tô chênh lệch, em tập trung nghiên cứu nội dung "Khái niệm chung về địa
tô chênh lệch theo quan điểm của C.Mác. Ý nghĩa" làm Đề tài tiểu luận môn
Quá trình sản xuất và lưu thông tư bản chủ nghĩa.
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm
Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch do công nhân lao
động làm thuê trong nông nghiệp làm ra (tức là một phần của giá trị thặng dư
sau khi trừ lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư vào nông nghiệp) mà các nhà
tư bản kinh doanh trong nông nghiệp phải nộp cho người sở hữu ruộng đất.
Vấn đề đặt ra là: Vì sao tư bản nông nghiệp lại có thể thu được phần lợi
nhuận siêu ngạch để nộp cho địa chủ? Nghiên cứu bản chất và các hình thức địa
tô tư bản chủ nghĩa, nhất là địa tô chênh lệch sẽ giúp chúng ta giải thích rõ điều
này.
2. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa
Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thuê ruộng đất của địa chủ và
thuê công nhân để tiến hành sản xuất. Do đó nhà tư bản phải trích một phần giá
trị thặng dư do công nhân tạo ra để trả cho địa chủ dưới hình thức địa tô.
Như vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là một bộ phận lợi nhuận siêu ngạch
ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư trong nông nghiệp do công nhân
nông nghiệp tạo ra mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ
với tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất.
3. Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa
3.1. Địa tô chênh lệch
Trong nông nghiệp cũng như trong công nghiệp cũng đều phải có lợi
nhuận siêu ngạch. Nhưng trong công nghiệp lợi nhuận siêu ngạch chỉ là một
hiện tượng tạm thời đối với nhà tư bản nào có được điều kiện sản xuất tốt hơn.
Còn trong nông nghiệp thì ít nhiều có khác, lợi nhuận siêu ngạch hình thành và
tồn tại một cách tương đối lâu dài. Vì một mặt không thể tự tạo thêm ruộng đất
tốt hơn, gần nơi tiêu thụ nhưng có thể xây dựng được thêm nhiều nhà máy tối
tân hơn trong công nghiệp, mặt khác diện tích ruộng đất có hạn và toàn bộ đất
đai trồng trọt được đã bị tư nhân chiếm đoạt hết, và cũng có nghĩa là đã có độc
quyền kinh doanh những thửa ruộng màu mỡ, có vị trí thuận lợi thì thu được lợi
nhuận siêu ngạch một cách lâu dài.
Nhưng có phải chỉ có ruộng đất tốt hay ít nhất là ruộng đất trên mức
trung bình mới thu được lợi nhuận siêu ngạch không?
2
Về mặt này nông nghiệp cũng khác công nghiệp. Trong công nghiệp giá
trị hay giá cả sản xuất háng hoá là do những điều kiện sản xuất trung bình quyết
định. Còn trong nông nghiệp, giá cả hay giá trị sản xuất của nông phẩm lại do
những điều kiện sản xuất xấu nhất quyết định. Đó là vì nếu chỉ canh tác những
ruộng đất tốt và trung bình, thì không đủ nông phẩm để thoả mãn nhu cầu của
xã hội nên phải canh tác cả những ruộng đất xấu và do đó cũng phải bảo đảm
cho những nhà tư bản đầu tư trên những ruộng đất này có được lợi nhuận bình
quân.
Như vậy giá cả sản xuất của nông phẩm trên những ruộng đất có điều kiện
sản xuất xấu là giá cả sản xuất chung của xã hội nên nhà tư bản kinh doanh trên
những ruộng đất trung bình cũng thu được lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận
bình quân. Thực chất thì địa tô chênh lệch cũng chính là lợi nhuận siêu ngạch,
hay giá trị thặng dư siêu ngạch .
Vậy địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân,
thu được trên những điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch giữa
giá cả chung của nông phẩm được quyết định bỏi điều kiện sản xuất trên ruộng
đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất trung bình và tốt. Nó sinh
ra là do có độc quyền kinh doanh ruộng đất nhưng bên cạnh đó lại có độc quyền
chiếm hữu ruộng đất, nên cuối cùng nó vẫn lọt vào tay chủ ruộng đất.
Cũng cần chú ý rằng không phải địa tô chênh lệch là sản phẩm do độ màu
mỡ ruộng đất sinh ra. Địa tô chênh lệch cũng như toàn bộ giá trị thặng dư trong
nông nghiệp là do lao động thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra. Màu mỡ
ruộng đất chỉ là điều kiện tự nhiên hay cơ sở tự nhiên làm cho lao động của
nông dân có năng suất cao hơn và là điều kiện không thể thiếu được để cho lợi
nhuận siêu ngạch hình thành, cũng như địa tô nói chung, không phải là do ruộng
đất mà ra, nó là do lao động đã bỏ vào ruộng đất và do giá cả của sản phẩm lao
động của nông phẩm, chứ không phải do bản thân ruộng đất.
C.Mác nói: "Lực lượng tự nhiên ấy không phải là nguồn gốc sinh ra lợi
nhuận siêu ngạch, mà chỉ là cơ sở tự nhiên khiến có thể đặc biệt nâng cao năng
suất lao động lên”.
Sở dĩ C.Mác nói như vậy là vì nếu không có bàn tay con người, không có
sức lao động thì với điều kiện tự nhiên tốt cũng không thể tạo ra được nhiều lợi
nhuận nhưng với sức lao động có hạn của con người, nếu điều kiện tự nhiên tốt
sẽ thúc đẩy sản xuất nâng cao lợi nhuận siêu ngạch.
3
Chính lao động với năng suất cao đã làm cho nông phẩm thu được trên
một diện tích canh tác tăng lên và giá cả sản xuất chung của một đơn vị nông
phẩm hạ xuống so với giá cả sản xuất chung của nông phẩm, do đó mà có lợi
nhuận siêu ngạch. Sự hình thành của lợi nhuận siêu ngạch mà từ đó của địa tô
chênh lệch, được minh hoạ sau đây.
3.2. Địa tô chênh lệch có hai loại địa tô: Địa tô chênh lệch I và Địa tô
chênh lệch II.
a. Địa tô chênh lệch I:
Địa tô chênh lệch I là địa tô thu được trên cơ sở ruộng đất màu mỡ. Ngoài
ra, ruộng đất có vị trí thuận lợi như ở gần nơi tiêu thụ hay đường giao thông
thuận tiện cũng đem lại địa tô chênh lệch I, bởi vì ở gần nơi tiêu thụ như thành
phố, khu công nghiệp hay đường giao thông vận tải thuận tiện, sẽ tiết kiệm
được một phần lớn chi phí lưu thông khi bán cùng một giá; những người phải
chi phí vận tải ít hơn đương nhiên được hưởng một khoản lợi nhuận siêu ngạch
so với những người phải chi phí vận tải nhiều hơn, do đó mà có địa tô chênh
lệch.
Ví dụ 1: Sự hình thành địa tô chênh lệch I trên đất tốt, trung bình
(Giả sử: P'=20%)
Giá cả sản
Giá cả sản
Tư
Sản
xuất cá biệt
xuất chung
Loại
bản
P'
lượng
ruộng
Tổng
Tổng
đầu tư
(tạ)
1 tạ
1 tạ
SP
SP
và xấu
Địa tô
chênh
lệch I
Tốt
100
20
6
20
120
30
180
60
T.bình
100
20
5
24
120
30
150
30
Xấu
100
20
4
30
120
30
120
0
Ví dụ 2: Sự hình thành địa tô chênh lệch I trên đất có vị trí thuận lợi.
Giá cả sản
xuất cá biệt
Tổng
1 tạ
SP
Giá cả sản
xuất chung
Tổng
1 tạ
SP
5
120
24
27
135
15
5
135
27
27
135
0
Loại
ruộng
Tư
bản
đầu
tư
Phí
vận
chuyển
P'
Sản
lượng
(tạ)
Gần
100
0
20
Xa
100
15
20
4
Địa tô
chênh
lệch I
Vị trí thuận lợi sẽ giúp nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp tiết kiệm được
phần lớn chi phí lưu thông. Nhưng khi bán hàng thì cùng giá bán nên người nào
có chi phí vận chuyển ít hơn sẽ thu được một khoản lợi nhuận siêu ngạch so với
người khác, do đó họ thu được địa tô chênh lệch.
b. Địa tô chênh lệch II:
Là do thâm canh mà có. Muốn vậy phải đầu tư thêm tư liệu sản xuất và
lao động trên cùng một khoảng ruộng đất, phải cải tiến kĩ thuật, nâng cao chất
lượng canh tác để tăng độ màu mỡ trên mảnh ruộng đó, nâng cao sản lượng trên
một đơn vị diện tích.Ví dụ:
Loại
ruộng
Cùng
một
thửa
ruộng
Tư
Lần
bản
đầu
đầu
tư
tư
P'
Sản
lượng
(tạ)
Giá cả sản
xuất cá biệt
Tổng
1 tạ
SP
Giá cả sản
xuất chung
Tổng
1 tạ
SP
Địa tô
chênh
lệch II
1
100
20
4
30
120
30
120
0
2
100
20
6
20
120
30
180
60
3
100
20
8
15
120
30
240
120
Chừng nào thời hạn thuê đất vẫn còn thì nhà tư bản bỏ túi số lợi nhuận
siêu ngạch trên. Nhưng khi hết hạn hợp đồng thì chủ ruộng đất sẽ tìm cách nâng
mức địa tô lên để giành lấy lợi nhuận siêu ngạch đó, biến nó thành địa tô chênh
lệch.
Vì lẽ đó, chủ ruộng đất chỉ muốn cho thuê ruộng đất ngắn hạn còn nhà tư
bản lại muốn thuê dài hạn.
Cũng vì lẽ đó nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp không muốn bỏ
ra số vốn lớn hơn để cải tiến kĩ thuật, cải tạo đất đai, vì làm như vậy phải mất
nhiều thời gian mới thu hồi được vốn về. Và rốt cuộc chủ đất sẽ là kẻ hưởng hết
lợi ích của những cải tiến đó . Và nhà tư bản thuê ruộng đất vì vậy chỉ nghĩ làm
sao tận dụng hết màu mỡ của đất đai trong thời gian thuê ruộng đất. Mục đích
thâm canh của họ là nhằm thu được thật nhiều lợi nhuận trong thời gian kí kết
hợp đồng, nên họ ra sức bòn rút hết màu mỡ đất đai. C.Mác nói: “Mỗi bước tiến
của công nghiệp tư bản chủ nghĩa là một bước tiến không những trong nghệ
thuật bóc lột người lao động, mà còn là bước tiến trong nghệ thuật làm cho đất
đai ngày càng kiệt quệ; mỗi bước tiến trong nghệ thuật làm tăng màu mỡ cho
5
đất đai trong một thời gian là một bước tiến trong việc tàn phá những nguồn
màu mỡ lâu dài của đất đai”. Một ví dụ điển hình là ở Mỹ trước đây, chế độ
canh tác bất hợp lí đã làm cho 16 triệu ha ruộng đất vốn màu mỡ đã trở thành
bạc màu hoàn toàn.
3.3. Sự giống và khác nhau giữa địa tô chênh lệch I và địa tô chênh
lệch II
a. Sự giống nhau
Địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II có điểm giống nhau là: Đều là
lợi nhuận siêu ngạch, hình thành do hiệu quả đầu tư khác nhau của những tư
bản như nhau.
b. Sự khác nhau
Điểm khác nhau giữa hai loại địa tô là:
- Địa tô chênh lệch I là do hiệu quả đầu tư trên những thửa ruộng có điều
kiện khác nhau (quảng canh).
- Địa tô chênh lệch II là do hiệu quả những lần đầu tư khác nhau trên cùng
thửa ruộng (thâm canh).
Trong thời hạn hợp đồng thuê đất, phần lợi nhuận siêu ngạch thu được, do
việc nhà tư bản thuê đất đã thâm canh, thuộc về nhà tư bản. Chỉ đến khi hết thời
kỳ thuê đất, địa chủ mới tìm cách nâng giá thuê đất lên để chiếm lấy phần lợi
nhuận siêu ngạch đó, tức là nhằm biến lợi nhuận siêu ngạch do đầu thư thâm
canh (địa tô chênh lệch II) thành địa tô chênh lệch I. Điều này làm phát sinh
mâu thuẫn là, nhà tư bản thuê đất kéo dài thời hạn thuê đất, còn địa chủ lại
muốn rút ngắn thời hạn cho thuê. Do đó, trong thời hạn hợp đồng, nhà tư bản
tìm mọi cách quay vòng, tận dụng, vắt kiệt độ màu mỡ của đất đai.
3.4. Địa tô tuyệt đối
Ngoài địa tô chênh lêch địa chủ còn thu được địa tô tuyệt đối trong khi
cho thuê ruộng đất.
Phần trên, khi nghiên cứu địa tô chênh lệch chúng ta đã giả định là người
thuê đất xấu chỉ thu về chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân, và không
tính đến việc phải nộp địa tô. Thực ra không phải như vậy, người thuê ruộng đất
dù là đất tốt hay xấu đều phải nộp địa tô cho chủ đất. Địa tô mà các nhà tư bản
thuê ruộng đất nhất thiết phải nộp, “tuyệt đối” phải nộp dù ruộng đất tốt, xấu
6
như thế nào, là địa tô tuyệt đối. Vậy các nhà tư bản kinh doanh trên ruộng đất
lấy đâu mà nộp?
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nông nghiệp lạc hậu hơn công nghiệp, cả
về kinh tế lẫn kĩ thuật. Cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp vì vậy thấp
hơn trong công nghiệp. Cho nên nếu tỉ suất giá trị thặng dư tức là trình độ bóc
lột ngang nhau từ một tư bản ngang nhau sẽ sinh ra trong công nghiệp nhiều giá
trị thặng dư hơn trong nông nghiệp.
Ví dụ: có hai tư bản nông nghiệp và tư bản công nghiệp ngang nhau, đều
là 100 chẳng hạn; cấu tạo hữu cơ trong tư bản công nghiệp là 80c + 20v (4/1)
của tư bản nông nghiệp là 60c + 40v (3/2) nếu tỉ suất giá trị thặng dư đều là
100% thì sản phẩm và giá trị thặng dư sản xuất ra sẽ là:
Trong công nghiệp : 80c + 20v + 20m = 120
Trong nông nghiệp : 60c + 40v + 40m = 140
Giá trị thặng dư dôi ra trong nông nghiệp so với công nghiệp là 20m.
Nếu là trong công nghiệp thì số giá trị thặng dư này sẽ được đem chia
chung cho các nhà công nghiệp trong quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận.
Nhưng trong nông nghiệp điều đó không thể diễn ra được, đó là chế độ độc
quyền tư hữu ruộng đất không cho phép tư bản tự do di chuyển vào trong nông
nghiệp, do đó ngăn cản việc hình thành lợi nhuận bình quân chung giữa nông
nghiệp và công nghiệp. Và như vậy, phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận
bình quân (Nhờ cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp, bóc lột được
của công nhân nông nghiệp nhiều hơn) được giữ lại và dùng để nộp địa tô tuyệt
đối cho địa chủ.
Vậy địa tô chênh lệch tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch dôi
ra ngoài lợi nhuận bình quân, hình thành nên do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong
nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp mà bất cứ nhà tư bản thuê ruộng đất
nào cũng phải nộp cho địa chủ. Nó là số chênh lệch giữa giá trị nông phẩm và
giá cả thực tế hình thành nên do cạnh tranh trên thị trường.
Địa tô tuyệt đối gắn liền với độc quyền tư hữu ruộng đất. Chính độc
quyền tư hữu ruộng đất làm cho lợi nhuận siêu ngạch hình thành trong nông
nghiệp không bị đem chia đi và làm cho lợi nhuận siêu ngạch đó phải chuyển
hoá thành địa tô.
7
Về địa tô tuyệt đối, C.Mác nói: “... Bản chất của địa tô tuyệt đối là:
Những tư bản ngang nhau của chúng sinh sản những khối lượng giá trị thặng dư
khác nhau”.
Để minh hoạ cho những điều nói trên chúng ta có thể lấy ví dụ sau đây:
Do độc quyền về ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối, cho
nên nếu không có chế độ tư hữu về ruộng đất, không có giai cấp địa chủ, thì địa
tô tuyệt đối sẽ bị xoá bỏ, giá cả nông phẩm sẽ giảm xuống có lợi cho xã hội.
Tóm lại, nếu điều kiện sản xuất có lợi (điều kiện tự nhiên hoặc điều kiện
kinh tế do thâm canh đưa lại) là điều kiện hình thành địa tô chênh lệch và độc
quyền kinh doanh ruộng đất là nguyên nhân trực tiếp để tạo ra địa tô chênh lệch
ấy, thì điều kiện để hình thành địa tô tuyệt đối là cấu tạo hữu cơ của tư bản
trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, và nguyên nhân trực tiếp đẻ ra
địa tô tuyệt đối là độc quyền tư hữu về ruộng đất.
Song dù là địa tô chênh lệch hay địa tô tuyệt đối, nguồn gốc và bản chất
của địa tô cũng chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư, do lao động không công
của công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra. Nói cách khác, địa tô chỉ là
một hình thái đặc thù của giá trị thặng dư mà thôi.
Địa tô cùng với lợi nhuận của nhà tư bản nông nghiệp chính là cái xác
định tính qui định về mặt xã hội của tư bản kinh doanh trong nông nghiệp, nói
lên tư bản nông nghiệp là mối quan hệ bóc lột, gắn liền với một quan hệ bóc lột
khác của địa chủ do quyền tư hữu về ruộng đất sinh ra.
3.5. Các loại địa tô khác
Ngoài những loại địa tô trên còn có các loại địa tô khác như địa tô về cây
đặc sản, địa tô về hầm mỏ, địa tô về các bãi cá, địa tô về đất rừng, thiên
nhiên…
a. Địa tô về cây đặc sản: Là địa tô thu được trên những đám đất trồng
những cây quí mà sản phẩm có thể bán với giá độc quyền, tức là giá cao hơn
giá trị. Người tiêu thụ những sản phẩm trên phải trả địa tô này.
b. Địa tô hầm mỏ: Đất hầm mỏ, đất có những khoáng sản được khai thác
cũng đem lại địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối cho người sở hữu đất đai ấy.
Địa tô hầm mỏ cũng hình thành và được quyết định như địa tô đất nông
nghiệp.
8
c. Địa tô đất xây dựng: Địa tô đất xây dựng về cơ bản được hình thành
như địa tô đất nông nghiệp.Nhưng nó cũng có những đặc trưng riêng:
+ Thứ nhất,trong việc hình thành địa tô xây dựng ,vị trí của đất đai là yếu
tố quyết định,còn độ màu mỡ và trạng tháI của đất đai không ảnh hưởng lớn.
+ Thứ hai,địa tô đất xây dựng tăng lên nhanh chóng do sự phát triển của
dân số, do nhu cầu về nhà ở tăng lên và do những tư bản cố định sát nhập vào
ruộng đất ngày càng tăng lên.
d. Địa tô độc quyền:
Địa tô luôn luôn gắn liền với độc quyền sở hữu ruộng đất, độc chiếm các
đIều kiện tự nhiên thuận lợi, cản trở sự cạnh tranh của tư bản, tạo nên giá cả
độc quyền của nông sản. Tuy nhiên,có những loại đất có thể trồng những loại
cây cho những sản phẩm quý hiếm, có giá trị cao (như những vườn nho có thể
cho những thứ rượu đặc biệt) hay có những khoáng sản đặc biệt có giá trị,thì
địa tô của những đất đai đó sẽ rất cao,có thể xem đó là địa tô độc quyền.
Nguồn gốc của địa tô độc quyền này cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả
độc quyền cao của sản phẩm thu được trên đất đai ấy mà nhà tư bản phải nộp
cho địa chủ - người sở hữu những đất đai đó.
Các địa tô như địa tô về đất xây dựng, địa tô địa tô về hầm mỏ, địa tô về
các bãi cá, địa tô về đất rừng thiên nhiên... tuy là địa tô thu được trên những
đám đất phi nông nghiệp nhưng đều dựa trên cơ sở của địa tô nông nghiệp theo
đúng nghĩa của từ này. Chúng bao gồm cả hai loại địa tô: địa tô tuyệt đối và địa
tô chênh lệch. C.Mác nói: "Bất kì ở đâu có những sức tự cho nhà công nghiệp
lợi dụng những sức tự nhiên ấy, chẳng kể đó là thác nước, là hầm mỏ giàu
khoáng sản, là những nơi nhiều cá hay là đất để xây dựng có vị trí tốt, thì số lợi
nhuận siêu ngạch đó của nhà tư bản hoạt động cũng đều bị kẻ có cái giấy chứng
nhận về quyền sở hữu những của cải tự nhiên ấy chiếm đoạt dưới hình thái địa
tô".
II. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VỀ ĐỊA TÔ CHÊNH LỆCH CỦA C.MÁC
ĐỐI VỚI NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Ý nghĩa lý luận
Lý luận về địa tô chênh lệch theo quan điểm của C.Mác không chỉ vạch ra
bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ
sở khoa học để nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng Luật đất đai và các chính
9
sách giá cả cho nông sản, thuế nông nghiệp và các ngành khác liên quan đến đất
đai, làm cho việc sử dụng đất có hiệu quả hơn.
Trong giai đoạn hiện nay, lý luận trên vẫn còn mang ý nghĩa thời đại sâu
sắc trong việc liên hệ đối với những vấn đề ruộng đất ở nước ta hiện nay.
2. Vận dụng về địa tô chênh lệch theo quan điểm của C.Mác đối với
nước ta trong giai đoạn hiện nay
2.1. Vấn đề quyền sở hữu và sử dụng đất đai
Chế độ sở hữu đất đai là cơ sở của mọi quan hệ về đất đai, quyền sở hữu
đất đai là do người sở hữu đất đai nắm giữ, đây là quyền lợi đặc biệt không có
người thứ hai và được pháp luật nhà nước bảo hộ. Chế độ sở hữu đất đai có thể
chia thành hai loại lớn là chế độ công hữu đất đai và chế độ tư hữu đất đai. Có
một số nước, chế độ công hữu và chế độ tư hữu cùng tồn tại.
Quyền sở hữu đất đai có thể chia nhỏ ra thành các quyền năng: quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền thu lợi, quyền định đoạt. Những quyền năng
này thường là thống nhất, quy về một chủ thể, nhưng trong tình huống đặc biệt
cũng có thể bị phân ly.
Quyền sở hữu đất đai được nhà nước xác nhận bảo hộ, đều phải thông qua
một văn kiện pháp luật nhất định để thực hiện, đó là chứng thư về quyền sở hữu
đất đai. Khi chuyển dịch sở hữu đất đai - Bản khế ước bên mua và bên bán ký
kết với nhau (gọi là khế ước đất đai), sau khi thông qua đăng ký và chứng nhận
của nhà nước cũng được xem là bằng chứng pháp lý của quyền sở hữu đất đai.
Ở Việt Nam, từ khi tiến hành đổi mới đã có những văn bản pháp luật cơ
bản sau về đất đai:
Luật Đất đai năm 1987: Luật Đất đai được Quốc hội Nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29-12-1987 là một trong những luật
đầu tiên nhằm cụ thể hóa đường lối đổi mới của Đại hội VI của Đảng. Nội dung
đổi mới quan trọng được thể hiện trong Luật là: đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
Nhà nước thống nhất quản lý, giao quyền sử dụng cho các chủ cụ thể, xác định
chế độ quản lý, chế độ sử dụng đất đai, quyền lợi và nghĩa vụ của người sử
dụng đất. Những đổi mới đó đánh dấu một bước trưởng thành quan trọng của
việc quản lý nhà nước về đất đai.
Luật Đất đai năm 1993: Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa những chính
sách, chủ trương lớn của Đại hội VII của Đảng. Trên cơ sở Hiến pháp, Nhà
nước ban hành Luật Đất đai năm 1993 thay thế Luật Đất đai năm 1987 nhằm
10
tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, điều chỉnh các quan hệ kinh tế, tiếp tục
xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đáp ứng những yêu cầu cụ thể trong
phát triển kinh tế - xã hội.
Có một số nội dung đổi mới quan trọng. Một là, Nhà nước xác định giá
các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất hoặc
cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi thu
hồi đất. Hai là, Nhà nước giao đất trực tiếp cho hộ gia đình, cá nhân để sử dụng
vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối.
Ba là, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất. Bốn là, quy
định cụ thể về phân công, phân cấp giữa hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về
đất đai với hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước ở các lĩnh vực khác với tư
cách là “người sử dụng đất”. Mở rộng thẩm quyền về đất đai cho cơ quan hành
chính nhà nước cấp dưới, chú trọng vai trò của chính quyền cấp cơ sở và tổ
chức quần chúng để hòa giải các tranh chấp đất đai trong nội bộ nông dân, đồng
thời chuyển sang tòa án giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất. Năm là,
đổi mới chế độ sử dụng các loại đất, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu
tư để mở rộng thâm canh đất nông, lâm nghiệp; có chính sách ưu đãi sử dụng
đất đối với vùng sâu, vùng xa, nơi còn nhiều đất trống, đồi núi trọc; bảo vệ môi
trường...
Luật Đất đai năm 2003: Luật quy định về quyền hạn và trách nhiệm của
Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất
đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất.
- Về Sở hữu đất đai: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu.
- Nhà nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai như sau:
a) Quyết định mục đích sử dụng đất thông qua việc quyết định, xét duyệt
quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất (sau đây gọi chung là quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất);
b) Quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất;
c) Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục
đích sử dụng đất;
d) Định giá đất.
11
- Nhà nước thực hiện quyền điều tiết các nguồn lợi từ đất đai thông qua
các chính sách tài chính về đất đai như sau:
a) Thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất;
b) Thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất;
c) Điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử
dụng đất mang lại.
- Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình
thức giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử
dụng đất ổn định; quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Luật Đất đai năm 2013: Vận dụng những quan điểm của C.Mác về địa tô
chênh lệch, ngày 29/11/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai năm 2013.
So với Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 có 14 chương với 212
điều, tăng 7 chương và 66 điều, đã khắc phục, giải quyết được những tồn tại,
hạn chế phát sinh trong quá trình thi hành Luật đất đai năm 2003. Đây là đạo
luật quan trọng, có tác động sâu rộng đến chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước,
thu hút được sự quan tâm rộng rãi của nhân dân.
Luật quy định rõ hơn về chế độ sở hữu đất đai, quyền hạn và trách nhiệm
của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về
đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất đối với đất đai thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
- Về Sở hữu đất đai: Luật tiếp tục xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền
sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật.
- Về Người sử dụng đất: Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất theo
quy định.
Nhìn lại toàn bộ Luật Đất đai 2013, có thể thấy một số đổi mới quan trọng
bao gồm:
Thứ nhất, Luật Đất đai sửa đổi đã quy định cụ thể hóa các quyền nghĩa
vụ của Nhà nước đối với người sử dụng đất như: Quy định về những bảo đảm
của Nhà nước đối với người sử dụng đất; trách nhiệm của Nhà nước đối với
12
đồng bào dân tộc thiểu số, người trực tiếp sản xuất nông nghiệp; trách nhiệm
của Nhà nước trong việc cung cấp thông tin đất đai cho người dân.
Thứ hai, Luật đất đai năm 2013 quy định rõ nguyên tắc định giá đất phải
theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá, theo thời hạn sử
dụng đất. Bỏ việc công bố bảng giá đất vào ngày 1/1 hàng năm. Bảng giá đất
chỉ áp dụng đối với một số trường hợp thay cho việc áp dụng cho tất cả các mục
đích như quy định hiện hành. Bổ sung quy định về cơ quan xây dựng, cơ quan
thẩm định giá đất, vị trí của tư vấn giá đất trong việc xác định giá đất, thẩm định
giá đất và việc thuê tư vấn để xác định giá đất cụ thể.
Thứ ba, Luật thiết lập sự bình đẳng hơn trong việc tiếp cận đất đai giữa
nhà đầu tư trong và nước ngoài; quy định cụ thể điều kiện được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư nhằm lựa chọn được nhà đầu tư có
năng lực thực hiện dự án. Đặc biệt, Luật đã bổ sung quy định về điều kiện được
giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất có
rừng, dự án đầu tư tại khu vực biên giới, ven biển và hải đảo.
Thứ tư, một trong những điểm mới quan trọng của Luật Đất đai 2013 là
quy định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất. Luật bổ sung quy định về các trường hợp đăng ký lần
đầu, đăng ký biến động, đăng ký đất đai trên mạng; bổ sung quy định trường
hợp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là
tài sản chung của nhiều người thì cấp mỗi người một giấy chứng nhận, hoặc cấp
chung một sổ đỏ và trao cho người đại diện. Luật cũng quy định những trường
hợp có thể cấp giấy chứng nhận ngay cả khi không có giấy tờ về quyền sử dụng
đất.
Thứ năm, Luật quy định cụ thể và đầy đủ từ việc thu hồi đất, bồi thường,
hỗ trợ tái định cư đảm bảo một cách công khai, minh bạch và quyền lợi của
người có đất thu hồi đồng thời khắc phục một cách có hiệu quả những trường
hợp thu hồi đất mà không đưa vào sử dụng, gây lãng phí, tạo nên các dư luận
xấu trong xã hội. Đặc biệt, Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định chế tài mạnh
để xử lý đối với trường hợp không đưa đất đã được giao, cho thuê vào sử dụng
hoặc chậm đưa đất vào sử dụng; quy định đầy đủ, rõ ràng về những trường hợp
thật cần thiết mà Nhà nước phải thu hồi; quy định giá đất bồi thường không áp
dụng theo bảng giá đất mà áp dụng giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
Thứ sáu, Luật đất đai 2013 quy định hoàn chỉnh hơn các chính sách đất
đai đối với khu vực nông nghiệp; hoàn thiện hơn quy định về chế độ sử dụng đất
13
đối với sử dụng cho khu công nghiệp, khu công nghệ cao và khu kinh tế; bổ
sung quy định việc sử dụng đất để xây dựng công trình ngầm, đáp ứng yêu cầu
đặt ra của thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ bảy, Luật Đất đai năm 2013 đã bổ sung những nội dung cơ bản trong
việc điều tra, đánh giá về tài nguyên đất đai, nhằm khắc phục bất cập hiện nay
mà Luật Đất đai năm 2003 chưa có quy định cụ thể. Luật cũng bổ sung những
quy định quan trọng trong nguyên tắc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất,
nhằm khắc phục khó khăn khi lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; bổ sung và
quy định rõ quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của người dân trong vùng quy hoạch
đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, nhằm đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
2.2. Chính sách giao ruộng đất lâu dài cho nông dân
Để khuyến khích nông dân đầu tư thâm canh, ứng dụng công nghệ mới
nhằm thu địa tô chênh lệch II, cần trao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài.
Ở Việt Nam, sau khi đất nước độc lập, trước thời kỳ đổi mới, toàn bộ tư
liệu sản xuát của nông dân được tập thể hóa dưới danh nghĩa sở hữu tập thể.
Người đầu tư chính cho sản xuất là nhà nước, nông dân không có điều kiện đầu
tư và thực tế cũng không muốn đầu tư bởi ruộng đất không phải của họ.
Từ khi bắt đầu đổi mới, nhờ việc giao đất đến người lao động, làm cho
mỗi mảnh đất đã có chủ quản lý cụ thể, được sử dụng hợp lý và hiệu quả hơn.
Người lao động quan tâm hơn đến việc nâng cao và bồi dưỡng đất đai chứ
không chỉ khai thác làm cạn kệt độ màu mỡ của đất.
Luật đất đai năm 2013 mở rộng thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia
đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp. Cụ thể, nâng thời hạn giao đất nông nghiệp
trong hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân từ 20 năm lên 50 năm. Luật cũng
mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đáp
ứng yêu cầu tích tụ đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại
phù hợp với đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cho phép hộ gia đình,
cá nhân tích tụ với diện tích lớn hơn (không quá 10 lần hạn mức giao đất nông
nghiệp).
Giao ruộng đất ổn định lâu dài cho nông dân đã khơi dậy tính cần cù, chịu
khó và tăng sự gắn bó của nông dân với ruộng đất, khiến họ yên tâm đầu tư cho
sản xuất. Địa tô chênh lệch II trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng và chính nó
đảm bảo đất đâi được sử dụng hợp lý, có hiệu quả.
14
2.3. Chính sách khuyến khích đầu tư vào đất đai
Luật đất đai năm 2013 quy định: Nhà nước có chính sách khuyến khích
người sử dụng đất đầu tư lao động, vật tư tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa
học, công nghệ vào các việc sau đây:
- Bảo vệ, cải tạo, làm tăng độ màu mỡ của đất;
- Khai hoang, phục hóa, lấn biển, đưa diện tích đất trống, đồi núi trọc, đất
có mặt nước hoang hóa vào sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
- Phát triển kết cấu hạ tầng để làm tăng giá trị của đất.
2.4. Các khoản thu tài chính từ đất đai
Luật đất đai năm 2013 quy định: Các khoản thu tài chính từ đất đai bao
gồm:
- Tiền sử dụng đất khi được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất,
cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất mà phải
nộp tiền sử dụng đất;
- Tiền thuê đất khi được Nhà nước cho thuê;
- Thuế sử dụng đất;
- Thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất;
- Tiền thu từ việc xử phạt vi phạm pháp luật về đất đai;
- Tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng
đất đai;
- Phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai.
15
KẾT LUẬN
Đất đai là một tài nguyên vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống là địa bàn phân bố các
khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Đất đai xoay quanh nó nhiều vấn đề nổi cộm như: vấn đề giá trị, quyền sở hữu
đất đai, quyền sử dụng đất đai và các mối lợi thu từ việc sở hữu đất đai, đặc biệt
là địa tô.
Việc nghiên cứu địa tô chênh lệch tư bản chủ nghĩa theo quan điểm của
C.Mác, ngoài mục đích vạch rõ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, chúng ta còn
rút ra cơ sở lý luận để đề ra chủ trương, chính sách đối với đất đai.
Đề tài tiểu luận "Khái niệm chung về địa tô chênh lệch theo quan điểm
của C.Mác. Ý nghĩa" của môn Quá trình sản xuất và lưu thông tư bản chủ
nghĩa, cũng đã làm rõ cơ sở lý luận về địa tô tư bản chủ nghĩa, khái niệm, bản
chất và các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là địa tô chênh lệch. Ý
nghĩa lý luận và vận dụng đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, nhất là vấn
đề sở hữu và sử dụng đất đai và các nội dung khác được vận dụng, kế thừa trong
Luật đất đai năm 2013.
Tuy nhiên, do thời gian và năng lực nghiên cứu có hạn, Đề tài tiểu luận
không tránh khỏi những hạn chế; rất mong được sự giúp đỡ, chỉ bảo của thầy,
cô giáo.
NGƯỜI VIẾT TIỂU LUẬN
Nguyễn Văn Tuấn
16