Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.39 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HƢƠNG

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC
THUHỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ BÌNH,
TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ HƢƠNG

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC
THUHỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ BÌNH,
TỈNH THÁI NGUYÊN

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS THÁI VĨNH THẮNG



HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các thông tin, số liệu, kết quả nghiên cứu, ví dụ trình bày trong luận văn là
trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông
tin, tư liệu, trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận văn

TRẦN THỊ HƢƠNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH VÀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU
HỒI ĐẤT .......................................................................................................... 7
1.1 Khái niệm và sự cần thiết thu hồi đất.......................................................... 7
1.2 Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất .........12
1.3 Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái địnhcư khi
nhà nước thu hồi đất ........................................................................................ 21
1.4 Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất ............................................................................. 28
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG LĨNH VỰC BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ

KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ
BÌNH TỈNH THÁI NGUYÊN ...................................................................... 40
2.1 Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ
thực tiễn huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên................................................... 40
2.2 Khái quát tình hình thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và những
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi thường hỗ trợ, tái địnhcư khi nhà
nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên ........................ 46
2.3 Khái quát tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn Huyện
Phú Bình tỉnh Thái Nguyên............................................................................. 48
2.4 Đánh giá thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện
Phú Bình tỉnh Thái Nguyên............................................................................. 52


Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BỒI
THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI
ĐẤT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÚ BÌNH TỈNH THÁI NGUYÊN..... 56
3.1 Quan điểm nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái
Nguyên ............................................................................................................ 56
3.2 Các giải pháp chống vi phạm hành chính và nâng cao hiệu quả xử lý
vi phạm hành chính về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ở huyện Phú Bình,
tỉnh Thái Nguyên hiện nay. ............................................................................. 57
KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68



DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Bảng thống kê số vụ vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
thuộc thẩm quyền cấp huyện xử lý, huyện Phú Bình, tỉnh Thái
Nguyên từ năm 2013 đến năm 2017 ..................................................... 45
Bảng 2.2: Bảng thống kê số vụ vi phạm hành chính trong quá trình bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên ........... 47
Bảng 2.3: Bảng thống kê số liệu về xử lý vi phạm hành chính trong quá
trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. ..................................................... 49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai đã được khẳng định là một tài nguyên vô cùng quý giá, là tư
liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn vốn vô cùng to lớn của đất nước ta, là thành
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là nơi ở các khu dân cư, xây
dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng. Đưa đất đai
vào sử dụng với mục đích quốc phòng, an ninh, đem lại tích cực cho quốc gia,
để thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước, trong đó là các dự án xây dựng đô
thị, dự án sản xuất kinh doanh để phát triển kinh tế là nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng trong công cuộc phát triển công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Trong đó có được diện tích để tiến hành các dự án, Nhà nước phải thu hồi đất
của người dân, cùng với đó là tiến hành chi trả bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
cho các hộ dân.
Trong những năm qua, nhằm đáp ứng yêu cầu về chủ trương đổi mới và
hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước đã và đang tiến hành quy hoạch và thực
hiện đầu tư nhiều công trình xây dựng cơ bản phục vụ cho việc: xây dựng
mạng lưới cơ sở hạ tầng như giao thông, điện, nước; các công trình phục vụ
lợi ích công cộng như : bệnh viện, trường học, khu dân cư tập trung, khu giải
trí; các công trình phát triển kinh tế như các khu công nghiệp, cụm công

nghiệp; các công trình lợi ích quốc gia như các công trình thủy lợi, sân golf…
Để thực hiện được điều này thì công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư đóng vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
khác nhau như: tình trạng quy hoạch treo, giá đất chưa sát với thị trường…
mà quá trình thực hiện công tác này vẫn gặp phải những khó khăn, vướng
mắc, chậm trễ, phát sinh nhiều khiếu nại, khiếu kiện. Một trong những
nguyên nhân xuất phát từ phía người dân gây khó khăn không nhỏ đến quá
trình thu hồi đất là tình trạng vi phạm của người dân như: trồng cây, xây dựng
trái phép trên đất quy hoạch làm cản trở tiến độ thi công các công trình, giảm
1


hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước, từ nguồn vốn đầu tư của nước
ngoài và của các doanh nghiệp trong nước. Mặc dù có rất nhiều văn bản xử
phạt hành chính được ban hành để thay thế cho phù hợp với tình trạng mới
nhưng việc xử phạt vẫn không hiệu quả. Do vậy, đòi hỏi thiết yếu phải có một
công cụ quản lý nhà nước thật hữu hiệu, đặc biệt phải đảm bảo cân bằng hài
hòa giữa lợi ích công cộng và lợi ích của tập thể, của cá nhân.
Để các quy định trên vào cuộc sống, Nhà nước đã ban hành văn bản
dưới Hiến pháp với nhưng quy định cụ thể hơn. Chẳng hạn, trên cơ sở quy
định được ghi nhận trong chương VI của Luật đất đai năm 2013, ngày 15-52014 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Cũng như các chính
quyền địa phương khác trên phạm vi cả nước với xu hướng nâng cao việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất và ràng buộc trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước, đồng thời qua đó nâng cao chất lượng công
việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Ngày 22-82014, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã ban hành Quyết định số
31/2014/QĐ-UBND quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất; ngày 6-7-2016, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã ban hành
Quyết định số 20/2016/QĐ-UBND về việc sửa đổi, bổ sung một số điều tại
quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên bịa

bàn tỉnh Thái Nguyên cho phù hợp với tình hình mới.
Vì thế, việc nghiên cứu một cách toàn diện, cả về cơ sở khoa học và
thực tiễn về xử lý vi phạm hành chính về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất; bảo đảm cho các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất được thực hiện đúng pháp luật là cấp thiết,
có ý nghĩa khoa học, có tính thực tiễn và có tính thời sự.
Xuất phát từ thực tiễn trên,tôi chọn đề tài “Xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ
2


thực tiễn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên” làm luận văn thạc sĩ Luật
Hiến pháp và luật hành chính, mã số 8 38 01 02.
2. Tình hình nghiên cứu
Có rất nhiều đề tài nghiên cứu có liên quan đến lĩnh vực bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Tiêu biểu có một số công trình
nghiên cứu của các tác giả như sau:
Nhóm các đề tài nghiên cứu khoa học và nghiên cứu sinh:
Đề tài nghiên cứu khoa học về: “Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất – thực trạng và hướng hoàn thiện” của TS.
Nguyễn Thị Nga được nghiên cứu vào năm 2013[12].
Tác giả đã đưa ra những vụ việc phát sinh trong thực tế, nêu ra những
vướng mắc, những câu hỏi mà bản thân pháp luật hiện hành chưa có lời giải.
Trong bài cũng được phân tích và làm rõ quá trình thực thi pháp luật trong
quá trình nghiên cứu.
Luận án tiến sĩ “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
ở Việt Nam”, của Phạm Thu Thủy, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2014 [12].
Tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá
nhân ở Việt Nam, mà không nghiên cứu các vấn đề tái định cư.

Nhóm các đề tài Luận văn Thạc sĩ:
Luận văn: “Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư người có đất bị thu hồi trong
giải phóng mặt bằng – thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, của Đỗ Phương
Linh, năm 2012 [12].
Luận văn: “Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất giải phóng mặt bằng ở quận Thanh Xuân, thành phố Hà
Nội”, của Đỗ Quang Dương, năm 2013 [12].
Luận văn: “Thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay”, của Trần Cao Hải
Yến, Đại học Luật Hà Nội, năm 2014 [12].
3


Luận văn:“Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất thực
tiễn thi hành tại Thành phố Hà Nội của Nguyễn Vĩnh Diện, năm 2012 [14].
Luận văn: “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An”, của
Hoàng Thị Thu Trang, năm 2012 [11].
Các luận văn đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của việc bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất; đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nói chung trên phạm vi cả nước, hay trên ở một địa bàn cụ
thể là ở Hà Nội; kiến nghị góp phần hoàn thiện và thực thi có hiệu quả pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên cơ sở Luật Đất đai năm 2003
và Luật Đất đai năm 2013.
Ngoài ra, cũng có một số luận văn khác nghiên cứu về cấp giấy chứng
nhận Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất, về
chính sách thu tiền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, về giải pháp giải quyết việc
làm cho người lao động có đất nông nghiệp bị thu hồi… Những vấn đề này có
liên quan chặt chẽ đến công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất.

Tuy nhiên, dưới góc độ chuyên ngành luật hiến pháp và luật hành chính,
điều tiết hài hòa lợi ích giữa nhà đầu tư, Nhà nước, người dân và đối tượng
thu hồi đất một cách khoa học, tính đến nay chưa có công trình nào nghiên
cứu chuyên sâu về đề tài “Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên”, đặc biệt là trên góc độ cơ sở khoa học và thực tiễn
tại địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích đưa ra giải pháp bảo đảm xử lý vi phạm hành
chính trong quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số cơ sở lý luận về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Phân tích, đánh giá thực trạng xử lý vi phạm hành chính về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên hiện nay.
Đưa ra quan điểm và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao bảo đảm
xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu đánh giá thực thi pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính trong quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất.
Tìm hiểu trực trạng về xử lý vi phạm hành chính trong quá trình bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, trong quá trình thực hiện luận văn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp luận nghiên cứu
Khoa học của Chủ nghĩa Mác – Lênin, phương pháp duy vật biện chứng lịch
sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về
xây dựng Nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường. Các phương
pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng: Tổng hợp,thống kê, so sánh, phân tích
nguồn tài liệu từ giáo tình, sách, tạp chí,…; kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
phương pháp lịch sử cụ thể, lý thuyết hệ thống…
5


6. Ý nghĩa lý luận và thức tiễn của Luận văn
- Về phương diện lý luận: Kết quả nghiên cứu mới của luận văn góp
phần làm sáng tỏ, phong phú những vấn đề cơ sở khoa học về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
- Về phương diện thực tiễn: Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ
quan có thẩm quyền trong việc xử lý vi phạm hành chính về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Luận
văn cũng là tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu riêng về xử lý vi
phạm hành chính trong quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
7. Kết cấu của Luận văn
Kết cấu của Luận văn gồm 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần
kết luận. Phần nội dung chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vi phạm hành chính và xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trơ, tái định cư khi nhà nước

thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất từthực tiễn huyện Phú
Bình, tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất từ thực tiễn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ XỬ LÝ
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BỒI THƢỜNG, HỖ
TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1 Khái niệm và sự cần thiết thu hồi đất
1.1.1 Khái niệm thu hồi đất
Trong lịch sử lập pháp Việt Nam cho đến nay, thu hồi đất trong quy
hoạch mới được ghi vào Hiến pháp năm 2013 đánh dấu bước phát triển mới
về cơ sở pháp lý cho việc thu hồi đất. Lý do được viện dẫn để tiến hành thu
hồi đất trong Hiến pháp năm 2013 tại khoản 3 Điều 54 là Nhà nước thu hồi
đất trong trường hợp thật cần thiết để phục vụ quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng [23]. Thẩm quyền xác định sự
“thật cần thiết” được trao cho Quốc Hội, Thủ tướng Chính phủ và Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh. Phạm vi các dự án được áp dụng cơ chế Nhà nước thu hồi
đất so với pháp luật đất đai trước đó có thu hẹp hơn, không có hai loại dự án:
(i) các dự án có vốn đầu tư lớn thuộc nhóm A; (ii) các dự án đầu tư có 100%
vốn FDI. Ngoài ra, Luật Đất đai năm 2013 quy định kế hoạch sử dụng đất
hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt
là căn cứ để thu hồi đất cho các mục đích nói trên [27].

Cơ sở pháp lý của thu hồi đất chủ yếu được quy định chặt chẽ trong các
văn bản pháp luật về đất đai. Trong Luật đất đai qua từng thời kỳ, khi Hiến
pháp năm 1980 có hiệu lực cho đến nay, hoạt động thu hồi đất đều được quy
định như là một công cụ quản lý nhà nước và cũng nhằm để thực hiện quyền
đại diện chủ sở hữu của nhà nước đối với đất đai. Trong tình hình xã hội, các
điều kiện về phát triển kinh tế, thu hồi đất còn được xem như là một giai đoạn
của quá trình điều tiết, phân phối đất đai, tức là chuyển dịch quyền sử dụng
đất từ người này qua người khác để tạo ra giá trị đất đai cao hơn nhằm mục

7


đích phát triển kinh tế - xã hội ở mức cao hơn, hiện đại hơn [12, tr.9]. Song
song với quá trình phát triển của đất đai, chế định thu hồi đất cũng dần dần
được hoàn thiện hơn Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý về đất đai, có quyền thu hồi đất bằng một quyết định hành chính.
Quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là sự kiện pháp
lý làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai của người
được Nhà nước trao quyền sử dụng đất.
Trải qua nhiều năm đã có bốn Luật Đất đai (Luật Đất đai năm 1987,
1993, 2003, 2013) đều xác định có tính nguyên tắc “ đất đai thuộc sở hữu toàn
dân” do Nhà nước trao quyền sử dụng đất. Trước đó, Nhà nước thực hiện
những biện pháp hành chính để chuyển đổi đất đai từ sở hữu tư nhân sang sở
hữu toàn dân bằng các quy tắc, thể lệ, công văn hành chính.
Luật Đất đai năm 1987 và năm 1993, đã có quy định về thu hồi đất,
nhưng chưa đưa ra khái niệm rõ thế nào là thu hồi đất mà chỉ đưa ra các
trường hợp bị thu hồi đất (Điều 14 Luật Đất đai năm 1987 và Điều 26 Luật
Đất đai năm 1993).
Khi Luật Đất đai năm 2003 ra đời, thuật ngữ thu hồi đất được giải thích
tại khoản 5, Điều 4: “ Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính

để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này” [27].
Trong khi đã có những sự điều chỉnh và mở rộng ý nghĩa của vấn đề
thu hồi đất, song cách quy định này chưa thật sự cụ thể, bởi nó có thể dẫn đến
cách hiểu rằng, người sử dụng đất bị thu hồi chỉ là tổ chức hay Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn, trong khi theo quy định pháp luật, người sử dụng đất
bị thu hồi còn có thể là hộ gia đình, cá nhân sử đụng đất, và trên thực tế hộ gia
đình, cá nhân là chủ thể bị thu hồi đất phổ biến nhất [12, tr.10].
Trên cơ sở hiến định rõ ràng về thu hồi đất trong Hiến pháp năm 2013,
Luật Đất đai năm 2013, tại khoản 11, Điều 4 đã quy định: “Nhà nước thu hồi
8


đất là việc Nhà nước quyết định thu hồi lại quyền sử dụng đất của người được
Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi
phạm pháp luật về đất đai” [28].
Do đó, thu hồi đất sẽ đưa đến hậu quả pháp lý tước quyền sử dụng đất
của người sử dụng đất. Việc thu hồi đất có thể xuất phát từ những nguyên
nhân khác nhau nhưng đều hướng đến hai mục đích: Thứ nhất, thu hồi đất
nhằm bảo vệ quyền sở hữu đất đai của Nhà nước khi người sử dụng đất có
hành vi vi phạm pháp luật đất đai có khả năng gây tổn hại đến tài sản của Nhà
nước; Thứ hai, thu hồi đất để hỗ trợ cho quá trình điều phối đất đai khi Nhà
nước cần điều chỉnh lại việc sử dụng đất về mục đích, chủ thể sử dụng theo
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Ngày nay, có nhiều quan điểm liên quan khái niệm pháp lý về “ Nhà
nước thu hồi đất”.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, thuật ngữ “ Nhà nước thu hồi đất” nói
trên chỉ phù hợp đối với trường hợp thu lại đấ của người sử dụng đất vi phạm
pháp luật về đất đai hoặc do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự
nguyện trả lại đất, hoặc việc sử dụng mảnh đất có nguy cơ đe dọa tính mạng

con người. Còn đối với trường hợp thật cần thiết vì mục đích quốc phòng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng nên sử dụng
thuật ngữ “ trưng mua” hay “ trưng thu”. Xét khía cạnh pháp lý, việc thu hồi
quyền sử dụng đất, đặc biệt là các trường hợp gắn liền với nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất, gắn liền với thuật ngữ “ trưng mua” tài sản trong Hiến
pháp năm 1992 ( Điều 23) hay Hiến pháp năm 2013 ( Điểu 32). Bởi lẽ, đất
hay quyền sử dụng đất cũng đều là tài sản. Điều 163 Bộ Luật dân sự năm
2005 và khoản 1 Điểu 105 Bộ Luật dân sự năm 2015 đã liệt kê tài sản là “ Tài
sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản” [19]. Ngoài ra, Điều 115 Bộ
Luật dân sự năm 2015 đã khẳng định rằng quyền sử dụng đất chính là quyền
tài sản [19]. Theo quan điểm này thì các thuật ngữ nên dùng là: (i) Nhà nước
9


trưng thu quyền sử dụng đất có bồi thường đối với các dự án vì lợi ích quốc
phòng, an ninh và lợi ích công cộng không gắn với lợi ích của nhà đầu tư; (ii)
Nhà nước trưng mua quyền sử dụng đất đối với các dự án vì lợi ích công cộng
gắn với lợi ích của nhà đầu tư.
Quan điểm thứ hai cho rằng, về bản chất, quyền sử dụng đất mà các cá
nhân, tổ chức hiện nay phải nắm giữ nếu muốn tiếp cận, khai thác, sử dụng
trên một thửa đất, là quyền do Nhà nước trao cho họ bằng con đường chuyển
giao hoặc công nhận. Việc Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử
dụng không có nghĩa là Nhà nước hoàn toàn mất đi quyền này mà chỉ chuyển
giao hoặc thừa nhận việc người sử dụng đất có quyền khai thác, sử dụng đất
trong phạm vi trao quyền đã được giới hạn về không gian (diện tích sử dụng)
và thời gian (thời hạn sử dụng). Vì đó là một quyền được trao bởi Nhà nước
nên việc Nhà nước có thể lấy lại quyền này thông qua con đường thu hồi là
hoàn toàn hợp lý.
Từ những nghiên cứu trên,đưa ra khái niệm về thu hồi đất như sau: Thu
hồi đất là sự kiện pháp lý với việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu

lại đất và quyền sử dụng đất đã được Nhà nước trao cho các chủ thể sử dụng
đất theo quy định của pháp luật [12].
1.1.2 Sự cần thiết của việc thu hồi đất
Đất đai rất quan trọng, trong đó là tài sản, vừa là tư liệu sản xuất và là
tài nguyên đặc biệt, nguồn lực quan trọng để cùng đất nước phát triển, được
quản lý theo pháp luật hiện hành. Nó là tư liệu đầu vào không thể thiếu đối
với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của con người. Hơn nữa,
đây là loại tài sản bị hạn chế về nguồn cung nên việc phân phối, sử dụng phải
thực sự hợp lý mới có thể đáp ứng tốt nhu cầu của đời sống xã hội.
Nhà nước Việt Nam tuy là đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với toàn bộ
đất đai trong phạm vi cả nước, nhưng không trực tiếp khai thác, sử dụng đất
mà chuyển giao từng thửa đất nhất định cho người sử dụng đất phù hợp để
10


trực tiếp sử dụng. Việc chuyển giao này được thực hiện thông qua các hình
thức phân phối đất đai cụ thể được pháp luật quy định. Trong mỗi giai đoạn
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, Nhà nước có thể thực hiện những thay
đổi nhất định về mục đích sử dụng, về chủ thể sử dụng đất, về hình thức sử
dụng đất...để cho đất đai được sử dụng có hiệu quả, nhằm phục vụ lợi ích
chung cho xã hội.
Trong đó, thu hồi đất là một giai đoạn quan trọng của tiến trình điều
phối đất đai. Đất nước ta đang phát triển, việc chuyển dịch đất đai từ chủ thể
này sang chủ thể khác, từ mục đích này sang mục đích khác diễn ra rất nhiều.
Như vậy thu hồi đất là một hoạt động đem lại lợi ích, hỗ trợ nhanh nhất cho
Nhà nước để thực hiện một cách thuận lợi nhất quá trình này.
Bên cạnh sự cần thiết phải thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh;
phát triển kinh tế - xã hội ( Khoản 3 Điều 54 Hiến pháp năm 2013), Luật Đất
đai năm 2013 còn quy định sự cần thiết các trường hợp thu hồi đất do vi phạm
đất đai và trường hợp đe dọa tính mạng con người [28]. Cụ thể:

So với Luật Đất đai năm 2003 và các quy định thi hành ( Khoản 2, Điều
36 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, Điều 34 Nghị
định84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ) thì Luật Đất đai năm 2013
không cho phép được thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế nếu
như nó không gắn liền với “lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng” [28]. Sự thay đổi
này được cho là nhằm mục đích bảo vệ lợi ích chính đáng của những người sử
dụng đất trong các khu vực dược quy hoạch phát triển kinh tế, tránh việc thu hồi
đất tùy tiện làm phát sinh nhiều trường hợp khiếu nại, khiếu kiện phức tạp về đất
đai gây bất ổn cho đời sống kinh tế, chính trị, xã hội.
Cũng như khác với Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 quy
định các trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai theo hướng có
lợi hơn cho người sử dụng đất. Ngoài quy định phải căn cứ vào văn bản,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi vi phạm
11


pháp luật về đất đai, có những trường hợp Nhà nước chỉ thu hồi đất sau khi xử
lý vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất mà họ tiếp tục vi phạm pháp
luật [12]. Ngoài ra, đối với trường hợp thu hồi đất do nhà đầu tư không triển
khai dự án hoặc tiến độ dự án chậm so với quy định thì Luật Đất đai năm
2013 có quy định để tạo cơ hội cho nhà đầu tư sửa chữa sai lầm bằng cách gia
hạn sử dụng thêm 24 tháng. Tại trường hợp này, thì nhà đầu tư sẽ phải nộp
cho Nhà nước một khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê
đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này để rút
kinh nghiệm cho hành vi vi phạm của mình [12, tr.13].
Lần đầu tiên được đưa vào Luật Đất đai năm 2013 là các trường hợp
phải thu hồi đất đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có nguy cơ đe dọa
tính mạng con người và đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện
tượng thiên tai khác đe dọa tính mạng con người [28]. Quy định này hoàn
toàn phù hợp với thực tế cuộc sống nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài

sản của người sử dụng đất. Cùng với sự phát triển, nhu cầu sử dụng đất của
các chủ thể trong xã hội là nhu cầu mang tính tất yếu. Vì thế, trong quá trình
thực hiện quyền sở hữu đất đai, thực hiện chức năng quản lý nhà nước, Nhà
nước thu hồi đất để thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, việc dịch
chuyển quyền sử dụng đất không chỉ xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của Nhà
nước, mà còn vì lợi ích của người bị thu hồi đất và các chủ thể khác để cùng
hướng đến mục tiêu chung phát triển của toàn xã hội.
1.2

Khái niệm về bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi Nhà nƣớc

thu hồi đất
1.2.1 Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Theo Luật Đất đai năm 2003 (Khoản 6 Điều 4) cũng như Luật Đất đai năm
2013 (Khoản 12 Điều 3) đều quy định: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại
giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất" [28].
Liên quan đến khái niệm “bồi thường” nêu trên thì có hai quan điểm:

12


Quan điểm thứ nhất cho rằng: Khái niệm nêu trên chỉ xác định bồi
thường về đất, trong khi đó việc thu hồi đất không chỉ gây thiệt hại về đất, mà
còn là những thiệt hại liên quan đến quyền sử dụng đất, công trình xây dựng,
kiến trúc, cây trồng, vật nuôi trên đất, thậm chí là thiệt hại về sức khỏe do áp
lực căng thẳng, lo âu của người sử dụng đất. Khái niệm này chưa xác định hết
các thiệt hại trong quá trình thu hồi đất, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
tính công bằng, bình đẳng giữa thiệt hại và bồi thường thiệt hại. Quan điểm
này theo hướng cho rằng: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước trả lại cho người sử dụng đất và các chủ thể bị thiệt hại trong quá trình

thu hồi đất những thiệt hại về quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu, sử dụng
đối với công trình, vật kiến trúc, cây trồng, vật nuôi và những thiệt hại khác
do việc thu hồi đất gây ra [28].
Quan điểm thứ hai cho rằng: Nội hàm chính của thuật ngữ bồi thường
bao gồm hai lĩnh vực: Bồi thường về đất và bồi thường thiệt hại về tài sản trên
đất. Trong khi đó pháp luật hiện nay lại quy định bồi thường về đất; còn tài
sản trên đất lại được bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Lý giải về
vấn đề này, quan điểm này cho rằng, khi Nhà nước thu hồi đất có nghĩa là
người sử dụng đất phải chuyển giao quyền sử dụng đối với mảnh đất bị thu
hồi cho Nhà nước còn bản thân mảnh đất đó không bị mất đi, nó vẫn tồn tại
dưới hình thái vật chất và nằm cố định ở vị trí địa lí xác định. Các tài sản trên
những vùng đất sau khi bị thu hồi buộc phải di chuyển đến nơi mới. Tài sản
trên đất bị thay đổi sau khi Nhà nước thu hồi đất về vị trí địa lý. Đối với đất
đai, do người sử dụng đất đầu tư trong khi sử dụng nên họ chỉ tạo ra giá trị
tăng thêm cho đất đai, trong khi đó người sử dụng đất không tạo ra giá trị ban
đầu của đất đai. Trong khi đó, tài sản trên đất lại hoàn toàn do người sử dụng
đất tạo ra hoặc được nhận thừa kế, tặng cho hay nhận chuyển nhượng quyền
sở hữu [12, tr.17]. Vì vậy, quy định của pháp luật hiện hành về bồi thường về
đất và bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất là hợp lý. Hơn nữa, người bị
13


Nhà nước thu hồi đất không chỉ được bồi thường mà còn được hưởng các
chính sách hỗ trợ, tái định cư của Nhà nước. Đối với thuật ngữ đền bù thiệt
hại khi Nhà nước thu hồi đất, nội hàm của thuật ngữ này chỉ là việc Nhà nước
đền bù thiệt hại do hành vi thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất mà không
đi liền sau đó việc thực hiện các chính sách hỗ trợ, tái định cư. Thông thường
khi đề cập thuật ngữ đền bù khi Nhà nước thu hồi đất, người ta hay nghĩ tới
việc đền bù tương xứng giá trị của diện tích đất bị thu hồi. Điều này có nghĩa là
phải đền bù 100% giá trị của mảnh đất thu hồi. Trong khi đó, thuật ngữ bồi

thường lại cho thấy rằng Nhà nước chỉ bồi thường những giá trị, thiệt hại hợp lý
về đất và tài sản trên đất cho người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất.
Từ những nghiên cứu trên, có thể đưa ra khái niệm về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất như sau: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc
Nhà nước phải bồi thường những thiệt hại về đất và tài sản trên đất do hành
vi thu hồi đất gây ra, cho người sử dụng đất tuân theo những quy định của
pháp luật đất đai [12,28].
1.2.2 Khái niệm hỗ trợ
“Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị
thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để
di dời đến địa điểm mới” [27, Điều 4]. Trong khái niệm này thì chỉ liệt kê
những trường hợp được hỗ trợ nhưng chưa được đầy đủ. Hỗ trợ là một
phương án hỗ trợ cực kỳ mềm dẻo nên ngoài các trường hợp trên thì Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh còn quy định những trường hợp khác. Như vậy, khoản 14
Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 đã quy định ngắn gọn khái niệm về hỗ trợ như
sau: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người
có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”[28, Điều 3].
1.2.3 Khái niệm tái định cư
Trong pháp luật về đất đai hiện hành không giải thích định nghĩa tái
định cư, nhưng một số văn bản khác vẫn quy định về tái định cư. Có thể khái
14


quát rằng khi các cá nhân, hộ gia đình bị thu hồi đất mà không có chỗ ở buộc
phải di chuyển thì tái định cư là phương án bố trí chỗ ở mới ổn định nhất. Từ
đó, ta có thể hiểu tái định cư là một hoạt động bồi thường những thiệt hại về
đất, tài sản; người bị thu hồi đất thì được di chuyển đến chỗ ở mới để xây
dựng lại cuộc sống.Tái định cư là chính hoạt động giúp có xu hướng giảm
xuống những tác động tiêu cực về tình hình kinh tế và phát triển xã hội đối
với một bộ phận dân cư phải chịu đựng vì sự phát triển của đất nước

Hiện nay ở nước ta, khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì
người sử dụng đất được bố trí tái định cư bằng một trong các hình thức sau:
- Bồi thường bằng nhà ở;
- Bồi thường bằng giao đất ở mới;
- Bồi thường bằng tiền để người dân tự lo chỗ ở [12, tr.18].
Theo quy định của pháp luật, khu tái định cư sẽ được bố trí toàn bộ cơ
sở hạ tầng để tạo điều kiện cho người di chuyển mới đến ở được sử dụng bằng
nơi ở cũ hoặc tốt hơn.Trong đó, tất cả các dự án đều được quan tâm thì dự án
tái định cư cũng phải được coi trọng và phải được xây dựng thực hiện như các
dự án lớn khác.
* Quy trình bồi thƣờng, hỗ trợ, tái định cƣ khi nhà nƣớc thu hồi đất
Theo Khoản 3, Điều 54, Hiến pháp năm 2013 “Nhà nước thu hồi đất
do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật
định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích
quốc gia, công cộng” [23], Luật Đất đai 2013 quy định 4 nhóm trường hợp
Nhà nước thực hiện thu hồi đất bao gồm: Thu hồi đất vì mục đích quốc
phòng, an ninh; thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng; thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai; thu hồi đất do chấm
dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa
tính mạng con người [28].

15


Trình tự, thủ tục thu hồi đất :
Bước 1: Ra thông báo
Trước khi có quyết định thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất
nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, bộ phận cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sẽ phải thông báo cho người có đất thu hồi nắm bắt được
[28]. Thông báo thu hồi đất phải có nội dung đầy đủ và rõ ràng những giấy tờ

cần được thông báo. Nội dung của thông báo đó sẽ được chuyển đến từng cá
nhân, tổ chức họp, cùng đó phải thông báo trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Tại Trụ sở của Uỷ ban nhân dân cấp xã, tại các khu dân cư sinh hoạt
chung phải được Niêm yết công khai [28].
Thủ tục thông báo đã hoàn tất , Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền có
thể ra Quyết định thu hồi đất và thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nếu
người sử dụng đất đồng ý ngay sẽ không cần chờ hết hạn thông báo [28].
Bước 2: Thu hồi đất
Về cơ bản, thẩm quyền thu hồi đất được quy định trong Luật đất đai
2013 trên cơ sở kế thừa quy định của Luật đất đai 2003. Theo đó, những quỹ
đất công ích của xã, phường, thị trấn; đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao,
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuộc thẩm quyền cấp tỉnh [28].
Đối với đất của hộ gia đình, cá nhân, khu dân cư; đất ở của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thuộc thẩm quyền của
Uỷ ban nhân dân cấp huyện [28].
Theo Điều 66 của Luật đất đai 2013 có sửa đổi thẩm quyền thu hồi đất
so với Luật đất đai cũ để cải cách hành chính khi thực hiện các dự án, cụ thể
là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định thu hồi đất đối với
trường hợp khu đất thu hồi có cả tổ chức và hộ gia đình, cá nhân đang sử
dụng đất [28, Điều 66].

16


Bước 3: Kiểm kê đất đai, tài sản có trên đất
Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm phối hợp với tổ chức thực hiện
việc bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi
đất sau khi có quyết định của cấp có thẩm quyền. Trong đó, người sử dụng
đất phải phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng

thực hiện việc thống kê nhà ở, tài sản gắn liền đất để lập phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư [28]. Khi đó có thể sẽ xảy ra trường hợp người sử
dụng đất không phối hợp thì Uỷ ban nhân dân cấp xã và Uỷ ban Mặt Trận Tổ
Quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi tham gia thuyết phục, vận động để
quá trình kiểm kê được thực hiện bằng sự nhất trí của người sử dụng đất.
Thời hạn được quy định là 10 ngày, sau 10 ngày mà người sử dụng đất
vẫn không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ, khi đó Uỷ ban nhân dân cấp
huyện sẽ ban hành quyết định kiểm điếm bắt buộc [28]. Người có đất thu hồi
có trách nhiệm thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc. Khi người có đất thu
hồi nhất định không chấp hành thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ban
hành quyết định cưỡng chế [28].
Cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc khi: Uỷ ban nhân
dân cấp xã và Uỷ ban Mặt Trận Tổ Quốc xã nơi đó và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ đã vận động thuyết phục mà người sử dụng đất không chấp hành; đã
Niêm yết Quyết định cưỡng chế tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp vã và nơi sinh
hoạt cụm dân cư; Quyết định đã có hiệu lực thi hành; Người sử dụng đất bị
cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế có hiệu lực thi hành [28].
Trong những trường hợp người có đất thu hồi bị cưỡng chế vẫn nhất quyết
không nhận quyết định hoặc cố tính vắng mặt khi giao quyết định cưỡng chế
thì Uỷ ban nhân dân cấp xã lập biên bản [28].
Khi thực hiện quyết định cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc thì được thực
hiện theo trình tự, thủ tục sau: Bước đầu tổ chức cưỡng chế phải thuyết phục,
vận động, đặc biệt là phải đối thoại với người có đất bị thu hồi; trong trường
hợp người bị cưỡng chế tuân thủ chấp hành quyết định đó thì tổ chức thực
17


hiện việc cưỡng chế sẽ lập lại biên bản đồng ý chấp hành và tiếp tục thực hiện
việc kiểm đếm [28]. Nếu đến cuối cùng cuộc đối thoại người bị cưỡng chế
vẫn không chấp hành thì tổ chức được giao làm nhiệm vụ cưỡng chế sẽ thi

hành quyết định cưỡng chế [28].
Bước 4: Đưa ra phương án thực hiện
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm
lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với từng tổ chức, cá nhân,
hộ gia định bị thu hồi đất, trên cơ sở tổng hợp số liệu kiểm kê, xử lý các thông
tin liên quan của từng trường hợp; áp giá tính giá trị bồi thường về đất, tài sản
trên đất [28].
Phương án tái định cư: Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp
huyện tổ chức lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất [28,39].
Khi xây dựng ra khu tái định cư thì phải xây dựng phù hợp với tập quán của
từng vùng, miền, phải đảm bảo quy chuẩn, xây dựng cơ sở đồng bộ. Tất cả
phải đảm bảo sẽ có nơi ở, đất ở trước khi cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất,
tạo điều kiện tốt nhất cho người có đất bị thu hồi, tạo môi trường sống và phát
triển. Tái định cư sẽ được bố trí nhiều cấp nhà khác nhau với nhiều mức diện
tích khác nhau vì khu tái định cư được lập cho một hoặc nhiều dự án trên cơ
sở phù hợp với mức bồi thường, khả năng chi trả của người ở đó [28].
Bước 5: Công khai dân chủ
Sau khi phương án chi tiết được lập, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường,
giải phóng mặt bằng có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi
có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến của nhân dân, nhất là các đối tượng bị thu
hồi đất [28]. Thực hiện phương thức công khai dân chủ, trước hết là niêm yết
công khai các phương án tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã, điểm sinh hoạt
cụm dân cư và tổ chức họp đối thoại với người dân nơi có đất thu hồi [28].
Khi lấy ý kiến phải lập biên bản có xác nhận của cấp xã có thẩm quyền,
cụ thể là Uỷ ban nhân dân và Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, cùng những người
đại biện có đất bị thu hồi [28].
18


Khi làm nhiệm vụ thì tổ chức đó phải tổng hợp ý kiến đóng góp bằng

văn bản, ghi rõ các ý kiến đồng ý hay không đồng ý hoặc có ý kiến khác, sau
đó phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp xã sẽ tiếp tục tổ chức đối thoại với
những trường hợp không đồng ý về các phương án. Tiếp theo, sẽ tổng hợp các
phương án và báo cáo lên cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Bước 6: Đưa ra phương án hoàn chỉnh
Tổ chức thực hiện việc bồi thường sẽ tiếp thu, tổng hợp lại các phương
án một cách chi tiết nhất từ những ý kiến đóng góp của người có đất bị thu
hồi, sau đó trình cơ quan chuyên môn và cấp có thẩm quyền xem xét phê
duyệt [28].
Bước 7: Phê duyệt phương án chi tiết và tổ chức triển khai thực hiện
Việc quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được quy định như sau: Uỷ ban nhân dân cấp
có thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật đất đai năm 2013 quyết định thu
hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong
cùng một ngày [28].
Tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã, điểm sinh hoạt cụm dân cư được
Niêm yết công khai quyết định được phê chuẩn phương án bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư; gửi đến từng người có đất bị thu hồi.
Tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư theo
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được phê duyệt; trường hợp
người có đất thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng thì Uỷ ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt Trận
Tổ Quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục cho người đó
thực hiện, trong trường hợp họ không chấp hành thì bị cưỡng chế.
Bước 8. Tổ chức chi trả bồi thường

19



×