Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.39 MB, 33 trang )

PHÒNG GD & ĐT THÀNH PHỐ BẮC GIANG
TRƯỜNG THCS LÝ TỰ TRỌNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG
DẠY – HỌC NGỮ VĂN LỚP 9”

Người thực hiện: Trương Thị Tình
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Lý Tự Trọng

Năm học: 2017 - 2018
1


MỤC LỤC
Nội dung
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tầm quan trọng của vấn đề
1.2. Thực trạng của vấn đề
1.3. Lý do chọn đề tài
1.4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lí luận
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.3. Các cách sử dụng SĐTD trong dạy học Ngữ văn
2.3.1. Sơ đồ tư duy - khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình
tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp và những tiện ích
2.3.2. Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy
học


2.4. Hiệu quả của việc sử dụng SĐTD trong dạy học Ngữ văn
3. KẾT LUẬN
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
5. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ

Trang
1
1
1
2
2
2
2
3
5
5
9
28
29
31
32

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tầm quan trọng của vấn đề
Trong những năm qua, cùng với việc thực hiện một cách đồng bộ đổi mới nội
dung, chương trình, sách giáo khoa, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
(PPDH) nói chung, trong đó có đổi mới PPDH môn Ngữ văn luôn được các nhà
khoa học giáo dục đầu ngành của nước ta quan tâm, nghiên cứu và tìm cách cải
tiến. Có thể nói, đây là một bước đột phá của ngành Giáo dục nước nhà. Vì vậy,
vấn đề này đã được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Thực hiện nghiêm túc

tinh thần Nghị quyết 40/2000-QH10 của Quốc hội khóa 10 và Chỉ thị
số14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD&ĐT đã đặc biệt chú trọng
đến việc bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên từng bước nâng cao trình độ, đổi mới
PPDH, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; xem đây là một
nhiệm vụ vừa bức thiết lại vừa trọng tâm xuyên suốt cả quá trình đổi mới.
1.2. Thực trạng của vấn đề

2


Những năm gần đây, hầu hết đội ngũ giáo viên THCS trong cả nước đã được
tham dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về đổi mới PPDH
do Sở, Phòng GD&ĐT tổ chức, nội dung triển khai một số phương pháp, kĩ
thuật dạy học mới. Trong đó có việc sử dụng sơ đồ tư duy (SĐTD). Có thể
khẳng định rằng đây là một trong những PPDH rất quan trọng, đang được nhiều
nước trên thế giới áp dụng. Qua việc tìm hiểu và vận dụng PPDH bằng SĐTD
trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy PPDH này đã thật sự đem lại “luồng sinh
khí mới” cho học sinh trong quá trình dạy học bộ môn Ngữ văn. Bước đầu đã
giảm bớt được tâm lý chán học Văn, khơi gợi trong học sinh tình yêu đối với
môn học, đồng thời đem đến cho các em cái nhìn mới, cách tư duy mới, sự hưng
phấn, lôi cuốn đối với môn học Ngữ văn.
Tuy nhiên, việc ứng dụng SĐTD trong quá trình dạy học là vấn đề vẫn còn
khó khăn, lúng túng đối với nhiều giáo viên, trong đó có giáo viên dạy môn Ngữ
văn. Họ tỏ ra băn khoăn không biết sử dụng SĐTD vào khâu nào trong quá trình
dạy học? Phương pháp thiết kế SĐTD, hướng dẫn cách thức sử dụng cho học
sinh ra sao?...Nhất là đối với những giáo viên cao tuổi và những giáo viên chưa
quen với việc ứng dụng Công nghệ thông tin, trình độ Tin học còn hạn chế.
1.3. Lý do chọn đề tài
Bản thân tôi thật sự tâm đắc với phương pháp Sử dụng SĐTD trong quá trình
dạy học. Bởi vì không chỉ lôi cuốn, hấp dẫn với học sinh, mà nó còn là một

PPDH rất hiệu quả, rất khoa học, rất dễ sử dụng và có thể sử dụng rộng rãi ở tất
cả các khâu trong quá trình dạy học, mà nhất là rất cần thiết trong việc giảng dạy
môn Ngữ văn. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học
Ngữ văn lớp 9”.
1.4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
Việc ứng dụng SĐTD trong quá trình dạy - học môn Ngữ văn ở lớp 9.
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1. Cơ sở lí luận

3


Ngày 05/5/2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số
16/2006/BGDĐT nêu rõ những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục,
tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện việc đổi mới PPDH. Từ đó đến
nay, Bộ GD&ĐT đã trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện đổi mới PPDH, đổi mới
kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh. Trong đó, yêu cầu giáo viên tăng cường tổ chức các hoạt động nhận thức
cho học sinh, hướng dẫn phương pháp tự học cho các em.
Những năm qua, toàn ngành Giáo dục và Đào tạo tiếp tục nỗ lực đổi mới
phương pháp giảng dạy với mục đích để học sinh sẽ được hoạt động nhiều hơn,
thảo luận nhiều hơn và quan trọng là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường
chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Điều này, đòi hỏi mỗi giáo viên phải triệt để thực
hiện theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm nhằm phát huy tính chủ động,
tích cực, tự giác và sáng tạo của học sinh trong hoạt động dạy học.
Mặt khác, nói đến phương pháp dạy học là nói đến cách dạy của người thầy.
Trong chương trình giáo dục phổ thông, Ngữ văn là một môn học có vị trí quan
trọng - đây là môn học vừa mang tính công cụ, vừa mang tính nghệ thuật, lại là
môn học mang tính nhân văn rất cao. Bởi vậy, để học sinh học tốt môn Ngữ
Văn ở trường phổ thông nói chung, người giáo viên phải chú trọng đến phương

pháp dạy học, phải tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu và áp dụng những hình thức,
biện pháp tổ chức dạy học mới, hiện đại, sinh động, đưa học sinh đến với môn
học này một cách tự giác, bằng niềm say mê thật sự. Có như thế mới đáp ứng
được yêu cầu của môn học mang đậm tính nhân văn này.
SĐTD kế thừa, mở rộng hình thức ghi chép, sử dụng bảng biểu, sơ đồ nhưng
ở mức độ cao hơn. Nó là một công cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony Buzan
(người Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ biến rộng khắp trên thế giới. Có thể
khẳng định rằng PPDH bằng SĐTD là một trong những PPDH hiện đại. Nó giúp
học sinh dễ ghi nhớ, phát triển nhận thức, khả năng tư duy, óc tưởng tượng và
khả năng sáng tạo... Đây là một công cụ hữu hiệu trong quá trình dạy học hiện
nay.
4


2.2. Cơ sở thực tiễn
Lâu nay, trong quá trình dạy học, chúng ta vẫn thường sử dụng các mô hình,
sơ đồ, biểu đồ... để cô đọng, khái quát kiến thức cho học sinh, nhất là ở những
bài tổng kết các chương, các phần của môn học hay các bài ôn tập. Cách làm
này có thể nói đã đem lại những hiệu quả thiết thực nhất định trong việc ôn tập,
củng cố, hệ thống kiến thức cho học sinh bởi cách trình bày gọn, rõ, lô-gic. Thế
nhưng, bên cạnh những ưu điểm ấy, cách làm này vẫn còn những hạn chế nhất
định, bởi trước hết là cả lớp cùng có chung cách trình bày giống như cách của
giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phải do học sinh tự xây dựng theo cách
hiểu của mình. Các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường
nét. Cách làm này chưa thật sự phát huy được tư duy sáng tạo, chưa thật sự kích
thích, lôi cuốn được các em trong việc tích cực, chủ động tìm tòi, phát hiện và
chiếm lĩnh kiến thức của bài học. Hơn nữa, phạm vi sử dụng hẹp vì chúng ta chỉ
sử dụng chúng trong một số tiết dạy có tính chất tổng kết các chương, các phần,
các mảng kiến thức của môn học hay các bài ôn tập mà thôi chứ chúng không
được sử dụng đại trà cho tất cả các bài học, các giờ lên lớp cũng như các khâu

của tiến trình bài dạy.
Trong thời gian gần đây, chúng ta đã bước đầu được tiếp cận với những
phương pháp, kĩ thuật dạy học mới. Trong đó có việc sử dụng SĐTD. Có thể
nói, đây là một bước tiến đáng kể trong việc đổi mới PPDH hiện nay khi mà
khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại, nhất là sự bùng nổ của ngành
Công nghệ thông tin. Việc sử dụng SĐTD thay thế cho những mô hình, sơ đồ,
biểu đồ... đã lạc hậu, lỗi thời để khái quát, cô đọng kiến thức cho học sinh là
một sự tất yếu, bởi SĐTD có rất nhiều điểm ưu việt hơn. Do đó, việc ứng dụng
SĐTD vào trong quá trình dạy học môn Ngữ văn không chỉ lôi cuốn sự hứng
thú, làm “sống lại” niềm đam mê, yêu thích môn học ở các em học sinh mà còn
làm dấy lên một “phong trào” đưa SĐTD vào bài giảng ở giáo viên.
Tuy nhiên, hiện nay, việc đưa SĐTD vào ứng dụng trong quá trình dạy
học đối với môn học Ngữ văn còn là vấn đề gặp không ít khó khăn, trở ngại
5


đối với giáo viên, cụ thể như trong việc tổ chức, thiết kế các hoạt động dạy
học với việc sử dụng SĐTD. Qua dự giờ, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn
đối với các đồng nghiệp trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo
viên mới chỉ dừng lại ở việc sử dụng SĐTD để hệ thống hóa kiến thức sau
mỗi bài học, hay mỗi bài ôn tập, tổng kết một phân môn, một mảng kiến
thức nào đó mà thôi. Họ chưa mạnh dạn đưa SĐTD vào tất cả các khâu trong
quá trình dạy học. Họ chưa phát huy được tính phổ biến và đa năng của
SĐTD. Do đó, chưa phát huy một cách đầy đủ công dụng của SĐTD trong
quá trình dạy học môn Ngữ văn.
2.3. Các cách sử dụng SĐTD trong dạy học Ngữ văn
2.3.1. Sơ đồ tư duy - khái niệm, cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức
hoạt động vẽ SĐTD trên lớp và những tiện ích
Để sử dụng một cách có hiệu quả SĐTD trong quá trình dạy học, trước hết, ta
cần nắm vững những tri thức về SĐTD.

a. Khái niệm
SĐTD hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là PPDH
chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào sâu,
mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,...bằng
cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với
sự tư duy tích cực. Đặc biệt, đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi
tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, các em có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi
em có thể vẽ một kiểu khác nhau, dùng những màu sắc, hình ảnh, chữ viết và
các cụm từ diễn đạt khác nhau,... Tuy cùng một chủ đề nhưng mỗi em có thể
“thể hiện” nó dưới dạng SĐTD theo cách riêng của mình. Do đó, việc lập SĐTD
phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.
b. Cấu tạo
- Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề.
- Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ
chủ đề.
6


- Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý
chính.
- Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm
thì ý càng cụ thể, chi tiết. Có thể nói, SĐTD là một bức tranh tổng thể, một
mạng lưới tổ chức, liên kết khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung,
một đơn vị kiến thức nào đó.

Ảnh minh họa cấu tạo Sơ đồ tư duy
c. Các bước thiết kế một SĐTD
Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy..., hay trên phần
mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
- Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình

ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được)
- Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ
chủ đề, thì ta đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính,
đặt tiêu đề các nhánh chính, nối chúng với trung tâm.

7


- Bước 3: Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm
rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai
thành mạng lưới liên kết chặt chẽ.
- Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý,
tạo tác động trực quan, dễ nhớ.
* Lưu ý:
- Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các nhánh
con.
- Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu hút sự
chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
- Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
- Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng
thời tạo sự cân đối, hài hòa cho sơ đồ.
- Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên dùng
các từ, cụm từ một cách ngắn gọn.
- Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần thiết
góp phần làm rõ các ý, chủ đề.
- Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.
- Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết, tô
màu...
- Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
- Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình.

d. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp
- Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý
của giáo viên.
- Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo,
thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.

8


- Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về
kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh
hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
- Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị
sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh
lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
e. Những tiện ích của việc sử dụng SĐTD trong dạy học Ngữ Văn
- Dạy học bằng SĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả.
Chúng ta biết rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn
thuần là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, chỉ đơn
thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc theo thói quen học vẹt, các em chưa
có ý thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài nào biết
bài ấy, nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến
thức với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn, vì vậy mà chưa phát triển
được tư duy lô-gic và tư duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất chăm chỉ
nhưng vẫn học kém. Vì học phần sau đã quên phần trước, không biết vận dụng
kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại có nhiều học sinh khi đọc
sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, hay
kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy, rèn luyện cho các em có
thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD trong quá trình dạy học sẽ

gúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động,
sáng tạo và phát triển tư duy.
- SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu
của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in
đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình.
Vì vậy sử dụng SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa
tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ SĐTD vừa lôi cuốn, hấp dẫn
các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi đó là “sản phẩm
9


kiến thức hội họa” do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy được tối đa khả
năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một cách máy móc
như khi lập các bảng biểu, sơ đồ, vì các em dễ dàng vẽ thêm các nhánh để phát
triển ý tưởng riêng của mình. Vì thế, tạo một không khí sôi nổi, hào hứng, say
mê cho học sinh trong học tập. Đây cũng là một trong những nội dung quan
trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” mà Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện.
- SĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các
nhánh). Do đó, chúng ta có thể vận dụng Sơ đồ tư duy vào tất cả các khâu trong
quá trình dạy học. Từ khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến thức mới, hay
khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau
mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút.
- SĐTD, một công cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được với bất kì
điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi vì ta có
thể thiết kế SĐTD trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút
chì màu, phấn màu, tẩy…hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm SĐTD (Mind
Map). Với những trường đủ điều kiện về cơ sở vật chất như máy chiếu Projecto,
phòng máy vi tính đảm bảo, chúng ta có thể sử dụng phần mềm (Mind Map) để
phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng CNTT.

2.3.2. Cách sử dụng SĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học
a. Làm quen với SĐTD
* Đối với giáo viên
Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có
liên quan đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu
liên quan đến việc hướng dẫn sử dụng SĐTD và phần mềm vẽ SĐTD Mind Map
để có những tri thức cơ bản về nó (Hiểu biết về SĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích,
phương pháp tạo lập, thiết kế, việc sử dụng nó trong quá trình dạy học...); đồng
thời, giáo viên cần đầu tư thời gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên giấy và trên phần
mềm trong máy vi tính (Nhớ là phải nghiên cứu kĩ cách sử dụng phần mềm để
10


thực hiện thao tác cho nhanh nhẹn, thuần thục). Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về
vai trò, công dụng của SĐTD, sử dụng thành thạo phần mềm, nắm vững phương
pháp vẽ một SĐTD, thì việc ứng dụng nó vào quá trình dạy học là việc dễ dàng.
(Dĩ nhiên chuyện SĐTD đẹp hay xấu phụ thuộc vào sự tưởng tượng, liên tưởng,
óc sáng tạo và năng khiếu mỗi người).
* Đối với học sinh
Để có thể sử dụng tốt và phát huy một cách có hiệu quả SĐTD trong quá
trình dạy học, trước hết, chúng ta cần cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư
duy có sẵn. Đây là bước chuẩn bị hết sức quan trọng. Tuy nhiên, rất nhiều giáo
viên bỏ qua bước này hoặc giới thiệu một cách rất sơ sài, qua loa. Vì thế, học
sinh chưa hiểu biết cặn kẽ, cụ thể về nó, chưa nắm vững phương pháp tạo lập,
chưa có kĩ năng vẽ SĐTD nên dẫn đến nhiều tiết dạy không thành công do các
em mãi loay hoay với giấy bút mà không biết vẽ cái gì, vẽ như thế nào, bắt đầu
từ đâu,... Vì vậy, theo tôi, chúng ta cần dành thời gian hợp lý cho các em “làm
quen” với SĐTD, theo các bước sau:
Bước 1: “Làm quen”
- Giáo viên giới thiệu một số SĐTD vẽ sẵn cho học sinh làm quen. Nên chọn vẽ

SĐTD ở những bài đã học trong chương trình cho các em vừa tiện theo dõi, tiếp
thu tri thức về SĐTD, đồng thời vừa thuận lợi trong việc hệ thống hóa kiến thức,
học sinh sẽ nhanh tiếp thu hơn vì các em đã học. Giáo viên giới thiệu cấu trúc
SĐTD theo mạch kiến thức của bài học cho học sinh nắm, rồi hướng dẫn cách
vẽ một SĐTD (Cung cấp cho các em phương pháp vẽ SĐTD).
Bước 2: “Đọc hiểu”
- Giáo viên chọn những SĐTD có kết cấu đơn giản cho học sinh quan sát. Sau
đó, cho các em dựa vào SĐTD để thuyết trình nội dung bài học (kiến thức) được
vẽ trong sơ đồ. (Luyện cho các em tư duy lô-gic, tư duy hệ thống và kĩ năng
thuyết trình )
Bước 3: “Tập vẽ”

11


- Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn hình
(hoặc trên bảng đen). Ví dụ: Phương châm hội thoại, Chiến tranh hạt nhân, Từ
(xét về cấu tạo)... Cho học sinh thực hành vẽ SĐTD trên giấy hoặc bìa lịch hay
bảng phụ.
- Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1, cấp
2, cấp 3... (Luyện kĩ năng vẽ SĐTD)
* Lưu ý:
- Giáo viên nên chọn những bài các em đã học, có kiến thức đơn giản, dễ nhớ,
dễ vẽ.
- Giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh vẽ theo nhóm vào bìa lịch, vẽ cá nhân

vào giấy vở hoặc gọi 2-3 em lên bảng vẽ.
- Lưu ý các em không dùng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng những
cụm từ ngắn gọn.
Bước 4: “Trang trí”

- Sau khi các em vẽ xong sườn của SĐTD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ chèn
thêm những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý cho
các em chỉnh sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật mạng
lưới các ý trong sơ đồ.(Kĩ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng)
* Lưu ý:
- Giáo viên lưu ý học sinh khi vẽ SĐTD, các em nên kết hợp dùng màu sắc,
đường nét, ... ngay trong quá trình vẽ để tiết kiệm thời gian.
- Không nên dùng quá nhiều màu, không dùng những màu sắc quá sặc sỡ, không
quá chú trọng vào đường nét, hình ảnh làm lãng phí thời gian.
Bước 5: “Chia sẻ kinh nghiệm”
- Ở bước này, giáo viên thu một số SĐTD các em vừa vẽ theo từng loại (Sơ đồ
không triển khai đủ các ý chính, sơ đồ vẽ quá chi tiết đến vụn vặt, sơ đồ vẽ
không đúng trọng tâm kiến thức, sơ đồ dùng quá nhiều hình ảnh, màu sắc lòe
loẹt,... )
- Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung.
12


- Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung:
+ Như trên đã trình bày, SĐTD là một sơ đồ mở. Vì vậy, giáo viên cần tôn trọng
và phát huy sự sáng tạo của các em, bởi đây là “sản phẩm” của chính các em.
Giáo viên chỉ chỉnh sửa cho các em chủ yếu về mặt kiến thức. Mặt khác, giáo
viên cũng cần khuyến khích, biểu dương những SĐTD vẽ đảm bảo đầy đủ kiến
thức trọng tâm, đẹp, có cách trình bày khoa học, cân đối, hài hòa về đường nét,
màu sắc.
+ Nếu thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, ta có thể
hướng dẫn thêm cho các em cách gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi trong
đó. Đây là điều rất mới mẻ, sáng tạo và tiết kiệm rất nhiều thời gian.
+ Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập SĐTD
trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài trên lớp để

có điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì. Những gì mình còn sai
sót cần bổ sung, sửa chữa. Nếu làm được như vậy, chẳng những giúp các em
nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện cho các em phát triển năng lực tư duy (Tư
duy lô-gic, tư duy hệ thống...) rất tốt.
+ Nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các SĐTD lại để sau này tiện việc ôn
tập, hệ thống kiến thức.
Tóm lại, nếu giáo viên chuẩn bị thật kĩ lưỡng các bước trên cho các em, tôi
nghĩ rằng chắc chắn các em sẽ học tốt, làm tốt những yêu cầu giáo viên đặt ra
trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá có ứng dụng SĐTD.
b. Các hình thức sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học
b1. Sử dụng SĐTD trong các hình thức kiểm tra
Có thể nói, đây là việc làm rất đơn giản nhưng còn rất xa lạ, mới mẻ đối với
rất nhiều giáo viên. Qua dự giờ, góp ý, trao đổi kinh nghiệm cùng các đồng
nghiệp trong tổ, trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo viên rất băn khoăn khi
nghe đề nghị dùng SĐTD để kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút hay kiểm tra một
tiết. Sau đây là một vài kinh nghiệm xin chia sẻ cùng đồng nghiệp:
† Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra bài cũ
13


Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề
của kiến thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ SĐTD
thông qua câu hỏi gợi ý. Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết
hợp với câu hỏi định hướng của giáo viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định
hình được cách vẽ SĐTD theo yêu cầu.
* Ví dụ 1: Sau khi các em học xong “Các phương châm hội thoại”(Tiết 3,4
trong PPCT), trước khi tìm hiểu các kiến thức mở rộng có liên quan đến phương
châm hội thoại ở tiết sau (Tiết 13 trong PPCT), giáo viên kiểm tra bài cũ bằng
cách cho từ khóa “Phương châm hội thoại” rồi yêu cầu các em lập SĐTD để
củng cố, hệ thống kiến thức đã học ở hai tiết học trước thông qua câu hỏi sau: Ta

đã học qua những phương châm hội thoại nào? Em hãy lập SĐTD để hệ thống
kiến thức về chúng.
Dưới đây là SĐTD về các phương châm hội thoại có tính chất minh họa, các
em vẽ SĐTD đảm bảo các nội dung tương tự như sau là tốt:

Khi học sinh vẽ xong, giáo viên cho cả lớp quan sát, gọi một vài em nhận
xét, góp ý sơ đồ rồi giáo viên nhận xét và cho điểm.
* Ví dụ 2: Trước khi cho các em tìm hiểu tiết “Luyện tập liên kết câu và liên kết
đoạn văn” (Tiết 107 trong PPCT), ở khâu kiểm tra bài cũ, giáo viên cho học
14


sinh lập SĐTD để ôn lại lý thuyết với cụm từ khóa “Liên kết văn bản”. Sau đây
là SĐTD minh họa:

* Lưu ý:
- Giáo viên có thể cho cả lớp cùng lập SĐTD trên giấy theo cách hoạt động cá
nhân trong một thời gian nhất định để lôi cuốn tất cả học sinh vào việc ôn kiến
thức đồng thời rèn luyện kĩ năng tạo lập SĐTD và thói quen tư duy cho các em.
Hết thời gian quy định, giáo viên chọn sơ đồ của một vài em (có thể vẽ xong
trước, có thể cần lấy điểm,...), chấm, nhận xét và ghi điểm cho các em; biểu
dương, khen ngợi những em vẽ tốt để khích lệ các em nhằm tạo không khí học
tập sôi nổi. Đây là việc làm rất cần thiết của chúng ta.
- Giáo viên chỉ cần dựa vào SĐTD chấm và ghi nhận điểm cho học sinh mà
không cần phải yêu cầu gì thêm ở các em, vì ta đã chọn dạng đề khá đơn giản,
nên những gì cần trả lời, các em đã thể hiện trong SĐTD, hơn nữa thời gian
kiểm tra bài cũ có hạn.
† Sử dụng SĐTD trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết
Chúng ta cũng có thể dùng SĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy (15
phút, 1 tiết) một cách dễ dàng. Tuy nhiên, giáo viên nên chọn kiểm tra những

kiến thức có tính hệ thống, xâu chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống hóa bằng
SĐTD. Ví dụ: lập SĐTD về Từ loại (xét về cấu tạo, xét về ngữ pháp), về các
15


Phương châm hội thoại, về Trau dồi vốn từ, về Nghĩa của từ, Các cách phát triển
từ vựng, ...trong phân môn Tiếng Việt; lập SĐTD về hệ thống luận điểm, luận cứ
trong một văn bản nghị luận, về dàn ý của một kiểu văn bản nào đó...trong phân
môn Tập làm văn; hay lập SĐTD để khái quát, sơ đồ hóa kiến thức về một tác
giả, tác phẩm nào đó, về quá trình phát triển tính cách, tâm trạng...của một nhân
vật trong tác phẩm truyện hay mạch cảm xúc, trình tự kết cấu của một bài
thơ...đối với phân môn Văn học. Mặt khác, về yêu cầu của đề kiểm tra, giáo viên
cần đưa ra từ hay cụm từ khóa ngắn gọn, rõ ràng, cụ thể, khái quát được chủ đề
của phần kiến thức cần kiểm tra trong câu hỏi để định hướng, giúp học sinh dễ
dàng nắm bắt chính xác yêu cầu đề và có thể vẽ đúng SĐTD theo yêu cầu. Sau
đây là một số ví dụ minh họa các dạng đề kiểm tra viết yêu cầu học sinh lập
SĐTD.
* Ví dụ 1: Từ tiếng Việt (xét về mặt cấu tạo) gồm có những loại nào? Vẽ SĐTD
giới thiệu chi tiết về chúng.

* Ví dụ 2: Cho từ khóa Truyện Kiều. Em hãy vẽ SĐTD giới thiệu nguồn gốc,
thể loại và giá trị “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.

16


* Ví dụ 3: Có mấy cách phát triển của từ vựng? Em hãy lập SĐTD minh họa với
cụm từ khóa sau: “SỰ PHÁT TRIỂN TỪ VỰNG”.

17



* Lưu ý:
- Giáo viên có thể linh hoạt sử dụng các câu hỏi yêu cầu học sinh lập
SĐTD ở khâu kiểm tra bài cũ và kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết).
- Đối với kiểm tra miệng, 15 phút ta lấy thang điểm 10; còn đối với kiểm
tra 1 tiết thì tùy theo mức độ của từng câu hỏi, ta có thể cho từ 2 - 3 điểm (xem
như câu hỏi yêu cầu lập SĐTD là một phần trong đề kiểm tra).
b2. Sử dụng SĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng
Lâu nay, việc sử dụng SĐTD như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc dạy
học bài mới thì ít nhiều giáo viên chúng ta đã và đang ứng dụng. Tuy nhiên, việc
sử dụng SĐTD vừa để tổ chức, dẫn dắt cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá,
chiếm lĩnh kiến thức bài học lại vừa thay thế cho việc ghi bảng cô đọng kiến
thức tiết dạy, bài dạy của giáo viên thì quả là việc làm còn hết sức mới mẻ.
Nhiều thầy cô đều có chung quan niệm xem SĐTD là công cụ, phương tiện, là
một thứ “bảng phụ” hỗ trợ, minh họa cho tiết dạy mà thôi. Ai cũng cho rằng
không thể dùng SĐTD thay cho phần ghi bảng của giáo viên được. Thực ra thì ta
vẫn có thể thực hiện kết hợp chúng trong quá trình dạy học bài mới. Qua một
quá trình thử nghiệm chúng trong một số tiết dạy, tôi nhận thấy rõ ràng cách làm
này ta hoàn toàn có thể làm được. Không những thế, việc kết hợp sử dụng
SĐTD trong việc tổ chức dạy học bài mới với việc sử dụng nó để cô đọng kiến
18


thức thay cho việc ghi bảng lại tiết kiệm được rất nhiều thời gian trên lớp, lại
vừa có tác dụng hình thành cho học sinh có thói quen ghi chép bằng SĐTD. Đây
cũng là việc làm rất cần thiết góp phần rèn luyện kĩ năng vẽ SĐTD cho các em,
nhất là những bài học nhằm giới thiệu, cung cấp kiến thức. Sau đây là một số ví
dụ minh họa.
* Ví dụ 1: Khi dạy bài giới thiệu về Truyện Kiều của Nguyễn Du (Tiết 25,26),

sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cụm từ khóa “TRUYỆN KIỀU (Nguyễn
Du)” lên trung tâm bảng đen. Sau đó, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi dẫn dắt
học sinh tìm hiểu bài học. Đầu tiên, ta cho các em tìm hiểu về tác giả bằng cách
vẽ nhánh chính thứ nhất đặt tiêu đề nhánh “I. TÁC GIẢ”. Rồi đưa ra các câu hỏi
gợi ý tìm hiểu về Tên hiệu, Xuất thân, Thời đại, Cuộc đời, Sự nghiệp văn học
của nhà thơ. Tìm hiểu đến đâu, giáo viên phát triển nhánh, cô đọng kiến thức
đến đó. Sau khi dẫn dắt các em tìm hiểu xong phần tác giả, giáo viên tiếp tục vẽ
nhánh thứ hai, đặt tiêu đề “II. TÁC PHẨM” đưa ra các câu hỏi gợi ý các em tìm
hiểu tác phẩm: Nguồn gốc, Thể loại, Kết cấu, Giá trị (nội dung, nghệ thuật) của
tác phẩm (cách làm tương tự như trên). Kết thúc 2 tiết học, ta có SĐTD giới
thiệu một cách cô đọng, khái quát, lô-gic những tri thức cơ bản về tác giả
Nguyễn Du và tác phẩm “Truyện Kiều” trên bảng đen như sau:

19


* Ví dụ 2:
Khi dạy bài Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống (Tiết 99), sau khi
giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cụm từ khóa “NGHỊ LUẬN SỰ VIỆC, HIỆN
TƯỢNG ĐỜI SỐNG” lên bảng, rồi bắt đầu tiết học với mục Tìm hiểu bài. Giáo
viên vẽ nhánh chính thứ nhất, ghi tiêu đề “I. TÌM HIỂU BÀI”. Sau đó, cho học
sinh đọc văn bản “Bệnh lề mề” – SGK, giáo viên đưa ra các câu hỏi dẫn dắt các
em lần lượt tìm hiểu: vấn đề nghị luận của bài viết, biểu hiện, nguyên nhân, tác
hại, hướng khắc phục. Sau khi tìm hiểu xong văn bản, giáo viên chuyển sang
bước hai: hình thành kiến thức. Giáo viên vẽ nhánh chính thứ hai, ghi tiêu đề “II.
BÀI HỌC” rồi dùng hệ thống câu hỏi dẫn dắt, phát triển các nhánh con: khái
niệm, yêu cầu về nội dung, yêu cầu về hình thức...tương tự như ở bước trên.
Cuối cùng là bước thứ ba “III. LUYỆN TẬP”, cách làm như trên. Kết thúc tiết
dạy, ta có: SĐTD:


20


* Ví dụ 3: Đối với phân môn Tiếng Việt thì sử dụng SĐTD kết hợp việc dạy học
bài mới với việc ghi bảng càng dễ dàng hơn. Ví dụ khi dạy bài Ôn tập Tiếng
Việt, học kỳ I (Tiết 74). Sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cum từ trung
tâm “ÔN TẬP TIẾNG VIỆT” lên giữa bảng đen. Sau đó, dẫn dắt học sinh lần
lượt đi vào tìm hiểu các nội dung ôn tập theo trình tự SGK. Bắt đầu với việc hệ
thống, củng cố kiến thức lý thuyết thông qua các câu hỏi:
Chúng ta đã học qua những phương châm hội thoại nào? Em hãy nhắc lại
nội dung mỗi phương châm? (vẽ nhánh, ghi chú)
Tiếng Việt có những loại từ ngữ nào thường dùng để xưng hô? Cho ví dụ
mỗi loại? (vẽ nhánh, ghi chú)
Em có nhận xét gì về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt? Khi sử dụng từ ngữ
xưng hô em cần lưu ý điều gì? (vẽ nhánh, ghi chú)
Có mấy cách dẫn lại lời nói, ý nghĩ của một người hay một nhân vật? Mỗi
cách dẫn ấy khác nhau như thế nào? (vẽ nhánh, ghi chú)
Ta kết hợp cho học sinh làm các bài tập trong mỗi nội dung ôn tập sau khi
lập SĐTD cho mỗi nhánh (nội dung). Cuối tiết ôn tập, ta có SĐTD:

21


Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng sử dụng SĐTD kết hợp trong việc
dạy học bài mới với dùng chính nó để cô đọng kiến thức của bài học cho học
sinh ghi. Việc sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học bài mới sẽ giúp học sinh
từng bước phát hiện, tiếp cận và chiếm lĩnh toàn bộ kiến thức bài học một cách
khoa học, có hệ thống, lô-gic. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ trung tâm thể
hiện trọng tâm kiến thức, thông qua sự định hướng dẫn dắt của giáo viên, các em
tự khám phá, tìm hiểu các đơn vị kiến thức của bài học (các ý lớn, nhỏ) một

cách liền mạch, có hệ thống, đến khi tiết học kết thúc cũng là lúc toàn bộ kiến
thức của bài học được cô đọng và trình bày một cách sinh động, khoa học và
sáng tạo trên bảng đen (hoặc trên màn hình). SĐTD ấy không chỉ cung cấp cho
các em “bức tranh tổng thể” về kiến thức của bài học mà nó còn giúp cho các
em dễ dàng nhận ra mạch lô-gic kiến thức của bài học. Do đó, chúng ta có thể
dùng nó như phần nội dung ghi bảng của giáo viên để học sinh ghi chép.
22


Tuy nhiên, chúng ta cần linh hoạt sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy thích hợp
chứ không nên lạm dụng SĐTD để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy. Mặt
khác, việc sử dụng kết hợp này càng thuận lợi hơn khi chúng ta sử dụng phần
mềm Mind Map và soạn giảng bằng bài giảng điện tử. Chúng ta cũng nên đánh
số thứ tự vào các khâu lên lớp (tìm hiểu bài, bài học, luyện tập), các ý chính
trong mỗi đơn vị kiến thức của bài học để học sinh thuận tiện trong việc theo
dõi, ghi chép vào vở. Giáo viên cũng cần dành ít phút cuối tiết học, cho học sinh
quan sát SĐTD và thuyết trình - “đọc hiểu” lại toàn bộ nội dung kiến thức của
bài học.
b3. Sử dụng SĐTD trong việc hệ thống, củng cố kiến thức sau mỗi bài học,
mỗi phần của bài học
Sau khi dạy xong mỗi phần (một đơn vị kiến thức) của bài học, hay mỗi bài
học, giáo viên cho học sinh hình dung, nhớ lại và vẽ SĐTD để củng cố, hệ thống
phần kiến thức đó, hoặc toàn bộ kiến thức của bài học.
* Ví dụ 1: Khi dạy tác phẩm truyện Chuyện người con gái Nam Xương của
Nguyễn Dữ, sau khi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu xong phần một “Vũ
Nương và câu chuyện oan khuất của nàng” giáo viên cho các em lập SĐTD về
nhân vật Vũ Nương thông qua câu hỏi sau: Như vậy, qua phần tìm hiểu trên, em
hãy lập SĐTD để chứng minh Vũ Nương là một người mẹ đảm đang, một người
vợ thủy chung, một người dâu hiền hiếu thảo. Sau đây là SĐTD minh họa:


23


* Ví dụ 2: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu xong luận cứ 3: “Những điểm
mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam trong bài Chuẩn bị hành trang vào thế
kỉ mới của Vũ Khoan, giáo viên cho học sinh lập SĐTD về đặc điểm của con
người Việt Nam. Các em sẽ nhớ lại những gì vừa được nghe, được thảo luận,
được ghi chép và vẽ SĐTD. Sau đây là SĐTD minh họa:

24


* Ví dụ 3: Sau khi hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu xong văn bản “Bàn về đọc
sách” (Tiết 91,92), giáo viên cho học sinh lập SĐTD hệ thống kiến thức của bài
học. Dưới đây là SĐTD củng cố, hệ thống kiến thức bài “Bàn về đọc sách":
b4. Sử dụng SĐTD trong việc ôn tập kiến thức

25


×