Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện gia lâm, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.72 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MẠNH THẮNG

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
Mã số: 8.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

GS.TS. HỒ TRỌNG NGŨ

HÀ NỘI, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ
Luật học “Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác
trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đều được
ghi rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Mạnh Thắng



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội

1
9

phạm
1.1 Khái niệm, nguyên tắc, mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình

9

hình tội phạm
1.2 Cơ chế phòng ngừa tình hình tội phạm

24

Chƣơng 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa

37

bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội
2.1 Phần hiện của tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm

37

thành phố Hà Nội
2.2 Thực tiễn công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn


44

huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội
Chƣơng 3: Các biện pháp tăng cƣờng phòng ngừa tình hình tội

54

phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội trong thời
gian tới
3.1 Tăng cường nhận thức về phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa

54

bàn huyện Gia Lâm
3.2 Tăng cường biện pháp kinh tế - xã hội

55

3.3 Tăng cường biện pháp về văn hóa – giáo dục

57

3.4 Tăng cường biện pháp về tổ chức, quản lý xã hội

59

3.5 Tăng cường chất lượng hoạt động phát hiện tội phạm

60


3.6 Tăng cường biện pháp tự phòng ngừa tội phạm từ trong nhân dân

63

T LUẬN
ANH MỤC T I LIỆU THAM HẢO
PHỤ LỤC

69
71


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Gia Lâm – một huyện ngoại thành, là vùng đất địa linh nhân kiệt, nằm ở
cửa ngõ phía Đông của thủ đô Hà Nội, ngàn năm văn hiến, nơi giao thương
của dòng văn hóa Thăng Long là Kinh Bắc, trước năm 1945, huyện Gia Lâm
thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Vị trí địa lý huyện Gia Lâm, phía Bắc
là quận Long Biên, phía Tây nam là địa giới giáp sông hồng, bên kia bờ là
huyện Thanh Trì và quận Hoàng Mai, phía Đông Bắc và Đông giáp các huyện
Từ Sơn, Tiên Du, Thuận Thành của tỉnh Bắc Ninh, phía Nam giáp với huyện
Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, đặc biệt hơn nữa là con đường huyết mạch – đường
Nguyễn Văn Linh, nối thủ đô Hà Nội tới các tỉnh Hưng Yên, Hải Phòng, Thái
Bình, Quảng Ninh, nhánh khác rẽ sang tỉnh Nam Định.
Huyện Gia Lâm có bề dầy truyền thống văn hóa và lịch sử, nơi đây gắn
liền với tên tuổi của Chử Đồng Tử, Nguyên Phi Ỷ Lan, Ngọc Hân Công chúa,
Cao Bá Quát…huyện Gia Lâm có diện tích 114,79 km2 dân số gần 243.957
người, với 180 thôn, làng, tổ dân phố, cụm dân cư thuộc 22 xã, thị trấn. Trên
địa bàn có nhiều khu đô thị, khu công nghiệp và các khu trung tâm thương
mại được hình thành.

Trong những năm qua huyện Gia Lâm đẩy mạnh phát triển mọi mặt của
đời sống xã hội như, kinh tế chính trị, văn hóa – xã hội cùng với đó là xu
hướng hội nhập khu vực và quốc tế khiến đời sống nhân dân, từng bước được
nâng cao. GPD huyện Gia Lâm đạt mức 32,7 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo
có xu hướng giảm và nay chỉ còn 1,3%; giáo dục được nâng cao; tỷ lệ mù chữ
chỉ còn 0,09%; tỷ lệ thất nghiệp chỉ còn 2,44% theo số liệu thống kê năm
2015.
Trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội, tình hình tội phạm diễn
ra hết sức phức tạp, nguy hiểm và có chiều hướng gia tăng. Trước đây một số
1


loại tội phạm chưa từng xảy ra thì trong những năm gần đây đã phát sinh như:
môi giới mại dâm, tội chống người thi hành công vụ, tổ chức đánh bạc,… Tội
phạm cố ý gây thương tích, đánh bạc, vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ, giết người chiếm số lượng tương đối lớn trong cơ
cấu tội phạm trên địa bàn (Biểu 4.2 – phần Phụ lục).
Thực tiễn đấu tranh của các lực lượng phòng, chống tội phạm đã đạt
được những kết quả nhất định, tuy vậy, do còn nhiều hạn chế, bất cập trong
công tác này nên tình hình tội phạm trên địa bàn vẫn diễn biễn phức tạp, một
số vụ án, số bị can không giảm, tính chất nguy hiểm của tội phạm ngày càng
nghiêm trọng hơn.
Vì vậy, công tác phòng chống tội phạm hình sự cần phải được tập trung
cao độ, đổi mới phương thức, nội dung đấu tranh, từng bước đẩy lùi tội phạm.
Đây thật sự là vấn đề bức xúc, cấp bách nhất của xã hội hiện nay. Do đó việc
nghiên cứu về tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà
Nội dưới góc độ tội phạm là rất cần thiết.
Với cách nhìn nhận như trên đồng thời trong thời gian làm công tác
thực tiễn, tôi đã chọn đề tài “Phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội” đề nghiên cứu và thực hiện luận văn

thạc sĩ Luật học nhằm góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội.
2 Tình hình nghiên cứu:
Trong những năm qua, tình hình tội phạm ở nước ta diễn biến hết sức
phức tạp, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm là nhiệm vụ của tất cả các
ngành, các cấp và của toàn xã hội. Do đó, nghiên cứu tình hình tội phạm,
nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa đã luôn được chú trọng, trong mỗi công
trình nghiên cứu đều có những đóng góp nhất định cho công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm nói chung hoặc cũng có thể chỉ rõ phương pháp
2


đấu tranh phòng chống đối với một số tội, nhóm tội đặc thù trên phạm vi toàn
quốc.Những đóng góp to lớn đó, phải nói đến những công trình nghiên cứu về
tình hình tội phạm của các tác giả có tên tuổi như GS.TSKH Đào Trí Úc,
GS.TS Võ Khánh Vinh, PGS.TS Lê Cảm, PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng,
PGS.TS Phạm Hồng Hải, PGS.TS Phạm Văn Tỉnh trong cuốn “Tội phạm học,
luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, năm
1994. Đây là cuốn sách đầu tiên đặt nền móng cho sự nhận thức biện chứng
về các vấn đề cơ bản của tội phạm học, trong đó có tình hình tội phạm.
Trong số các công trình nghiên cứu, không thể không kể đến sự đóng
góp đáng kể của bộ sách “Khoa học hình sự Việt Nam” do GS.TS Nguyễn
Xuân Yêm – Giám đốc học viện cảnh sát nhân dân đã chủ trì nghiên cứu biên
soạn, phát hành. Quá trình nghiên cứu về tình hình tội phạm, tác giả còn thấy
các công trình như:
- Đặc điểm của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay, PGS.TS Phạm
Văn Tỉnh, 2004;
- Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam, PGS.TS
Phạm Văn Tỉnh, NXB Tư pháp, 2007;
- Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam, PGS.TS Trần

Hữu Tráng, Tạp chí Luật học, số 3, 2000;
- Tội phạm ở Việt Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, tác giả
Lê Thế Tiệm, Phạm Tự Phả (chủ biên) 1994;
Một số bài viết khác nghiên cứu về thông tin tội phạm học của tác giả
Dương Tuyết Miên như: Quan điểm của Tội phạm học nước ngoài về một số
vấn đề của Tội phạm học, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7, 2007, Bàn về tình
hình tội phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12, 2007;
Luận văn còn sử dụng một số giáo trình, tài liệu có liên quan thể hiện ở các
bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành như: Giáo trình Tội phạm học của
3


Trung tâm đào tạo từ xa Đại học Huế (1999), tác giả GS.TS Võ Khánh Vinh;
Giáo trình tội phạm học của trường Đại học Công an nhân dân, Học viện
Cảnh sát nhân dân (2002), sách chuyên khảo Tội phạm học và phòng ngừa tội
phạm (GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, 2001); Tác giả PGS.TS Hồ Sỹ Sơn các giai
đoạn thực hiện tội phạm nhìn từ góc độ so sánh pháp luật hình sự của một số
nước trên thế gới. Tạp chí nhà nước và pháp luật. Tác giả Hồ Sỹ Sơn. Các
nhân tố quyết định nhu cầu và mức độ quy định tội phạm trong Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự năm 2009. Một số vấn đề cơ bản về
chính sách hình sự dưới ánh sáng nghị quyết đại hội IX của Đảng (PGS.TS
Hồ Trọng Ngũ, 2002), giáo trình Đặc diểm tội phạm học tội phạm kinh tế và
các biện pháp phòng ngừa (GS.TS Hồ Trọng Ngũ, 2010), Tạp chí Tòa án, Tạp
chí Luật học, Tạp chí Kiểm sát… Trên phạm vi địa phương, có các công trình
nghiên cứu như công trình nghiên cứu của tác giả Luận văn thạc sĩ luật học:
-Đặng Thị Bích Nga( 2011) “ Đấu tranh phòng, chống tội đánh bạc và
tổ chức đánh bạc trên địa bàn huyện Gia Lâm- Luận văn thạc sỹ luật học, Học
viện Khoa học xã hội;
- Trần Minh Sơn (2011) “Phòng ngừa tội đào ngũ trên địa bàn quân khu
7” – Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật TP.Hồ Chí Minh;

-Nguyễn Thế Nam( 2012) “ Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy,
theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay- Luận văn thạc sỹ luật học, Học
viện Khoa học xã hội;
- Lê Hữu Nhân( 2014) “ Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi – Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Trần Thị Phương Thảo( 2015) “ Phòng ngừa tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Nam ĐịnhLuận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;

4


- Nông Thanh Huyền( 2015) “ Tội phạm trên địa bàn tỉnh Lào Cai: tình
hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” Luận văn thạc sỹ luật học, Học
viện Khoa học xã hội;
- Cao Thu Trang ( 2017) “Tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em
ở Việt Nam hiện nay – Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
Các công trình nghiên cứu kể trên đều rất có giá trị để Luận văn kế
thừa, đặc biệt là những tư duy lý luận về tội phạm và tình hình tội phạm nói
chung, từ đó, luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp nhằm
đảm bảo việc nghiên cứu đúng phạm vi, trong thời hạn đã được xác định. Mặt
khác, với mỗi công trình nghiên cứu khoa học như đã đề cập thì mỗi tác giả có
cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu khác nhau nhằm đạt được mục đích
nghiên cứu của mình. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tình
hình tội phạm, trên phạm vi của chuyên ngành hình sự. Các luận văn, các
công trình nghiên cứu này được thực hiện ở các tỉnh, địa bàn khác nhau, các
giai đoạn, các góc độ, khía cạnh khác nhau nên có giá trị tham khảo cho việc
thực hiện đề tài luận văn của học viên vẫn không bị trùng lặp.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1Mục đích nghiên cứu.
Luận văn nghiên cứu nhằm đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả

phòng ngừa tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, từ đó đề
xuất các giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác phòng
ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm trong thời gian tới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có một số nhiệm
vụ cụ thể như sau:
- Tổng hợp những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm nói
chung và những vấn đề lý luận về phòng ngừa nhóm tội phạm cụ thể.
5


- Đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện
Gia Lâm, cụ thể là tổ chức phòng ngừa và thực trạng áp dụng các biện pháp
phòng ngừa tình hình tội xâm phạm các nhóm tội trên địa bàn huyện Gia
Lâm.
- Phân tích các thông số về tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia
Lâm giai đoạn 2013 – 2017.
- Trên cơ sở dự báo hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa
bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
-Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình các
nhóm tội trên địa bàn huyện Gia Lâm- thành phố Hà Nội.
4.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quan điểm khoa học về
phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, phòng ngừa tình hình tội phạm nói
riêng và thực tiễn trong phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội.
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và có sử
dụng ở mức độ nhất địnhkiến thức của khoa học luật hình sự khi phân tích các

khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của các nhóm tội trên địa bàn huyện Gia
Lâm, theo pháp luật hình sự Việt Nam. Các số liệu trình bầy trong luận văn
được thu thập từ kết quả xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án huyện Gia Lâm
trong thời gian từ năm 2013 đến năm 2017
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:Đề tài luận văn được nghiên cứu trên cơ sở
phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mac- Lenin, các

6


quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tội
phạm và hình phạt, về phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác
giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng trong việc
thống kê số vụ phạm tội, số người phạm tội, thống kê một số đặc điểm nhân
thân người phạm tội, thống kê các hình phạt được Tòa án áp dụng, thống kê
thiệt hại do các tội phạm này gây ra tại chương 2 của luận văn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng khi tác giả nghiên
cứu mức độ, cơ cấu của tình hình tội phạm trong những gai đoạn khác nhau.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa Lý luận:
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, học tập và
nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự. Kết quả nghiên có thể
làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn
huyện Gia Lâm. Bên cạnh đó, luận văn còn góp phần làm rõ hơn lý luận về
phòng ngừa tình hình tội phạm trên một địa bàn cụ thể.
6.2Ý nghĩa thực tiễn:

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được nghiên cứu, sử dụng
trong thực tiễn chỉ đạo và tiến hành hoạt động đấu tranh, phòng chống tội
phạm trên địa bàn huyện Gia Lâm, đặc biệt những hạn chế còn tồn tại đã làm
ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động này trong thời gian qua, luận văn còn
là tài liệu tham khảo, các chủ thể phòng ngừa tội phạm tham khảo, rút kinh
nghiệm nhằm nâng cáo hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
trên địa bàn huyện Gia Lâm, đặc biệt là trong hoạt động của các cơ quan đấu
tranh phòng chống tội phạm (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án).
7


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể là:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm.
Chƣơng 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa bàn
huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội
Chƣơng 3: Các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm
trên địa bàn huyện Gia Lâm thành phố Hà Nội trong thời gian tới.

8


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẮN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
1.1 Khái niệm, nguyên tắc, mục đích ý nghĩa của phòng ngừa tình
hình tội phạm
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của tình hình tội phạm
Tội phạm phát sinh luôn gây ra những tác hại to lớn đối với xã hội, con

người. Do vậy các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam đều kiên quyết
đấu tranh phòng ngừa tội phạm.Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ đều xây
dựng những đạo luật khác nhau để đấu tranh, xử lý và ngăn chặn tội phạm.
Trong giai đoạn hiện nay, tội phạm ngày càng gia tăng cả về số vụ và tính chất
phức tạp cũng như mức độ tinh vi và phương thức, thủ đoạn.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 8 của BLHS năm 2015 thì: “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự xã hội chủ nghĩa
mà theo quy định của Bộ luật này phải xử lý hình sự.

Phòng ngừa chính là phát hiện những nhân tố nguyên nhân, điều kiện
dẫn đến tội phạm áp dụng các biện pháp cần thiết để loại trừ những nguyên
nhân, điều kiện hoặc hạn chế tác hại những hành vi phạm tội do các nguyên
nhân điều kiện đó gây ra.
Về tình hình tội phạm: Tình hình tội phạm là khái niệm cơ bản đầu tiên
của khoa học tội phạm học. Đây là một thuật ngữ khoa học, nhưng đồng thời
9


cũng là một thuật ngữ thường được dùng trong ngôn ngữ thông dụng, đời
thường. Có rất nhiều những quan điểm về định nghĩa của tình hình tội phạm
nhưng nhìn chung nhất thì:
“Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý - hình sự được
thay đổi về mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất
các loại tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong

một thời gian nhất định” [56, Tr.10]
Từ khái niệm tình hình tội phạm nói trên, ta có thể thấy một số đặc
điểm của phòng ngừa tình hình tội phạm như sau:
Thứ nhất,phòng ngừa nói chung, theo từ điển bách khoa:“ là một cái gì
đó trước khi sự việc hiện tượng diễn ra nhằm ngăn chặn không để xẩy ra hậu
qủa“. Quan điểm này thường được áp dụng đối với các hiện tượng xấu, phức
tạp, ảnh hưởng tới cuộc sống con người và xã hội.tình hình tội phạm là hiện
tượng xã hội tiêu cực, nên tương tự tình hình tội phạm cần phải được phòng
ngừa, ngăn chặn hay nói cách khác, phòng ngừa tình hình tội phạm là hoạt
động mang tính tất yếu. ( 37, Tr328)
Thứ hai,Phòng ngừatình hình tội phạm là đối tượng nghiên cứu của tội phạm
học và cũng là mục đích cuối cùng của tội phạm học. Tội phạm nghiên cứu
tình hình tội phạm, nguyên nhân điều kiện của tình hình tội phạm, nhân thân
người phạm tội..phát hiện quy luật phát sinh, tồn tại và vận động của tình hình
tội phạm để tìm ra các biện pháp tác động vào quy luật đó nhằm mục đích
cuối cùng là không để tội phạm xẩy ra.
Thứ ba,Tội phạm học có mục đích đưa ra những kiến nghị về các giải pháp
nhằm tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm ..“. Do đó, mục
đích cuối cùng và quan trọng nhất của ngành khao học này là tìm ra được
những biện pháp tác động vào quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển của tội

10


phạm, đồng thời khắc phục được những nguyên nhân và điều kiện tội phạm.
( Trịnh Tiến Việt Tr47)
Thứ tư,chủ nghĩa Mác –Lenin cho rằng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa,
tội phạm phát sinh và tồn tại là do những nguyên nhân và điều kiện khác
nhau, xong“ với bản chất tốt đẹp của mình, Nhà nước xã hội chủ nghĩa hoàn
toàn có khả năng tiến hành cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm có kết quả.

Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm phải
được coi là một bộ phậm của cuộc đấu tranh giai cấp và trong cuộc đấu tranh
đó, phải đặc biệt quan tâm đến công tác phòng ngừa tội phạm..“. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói „ Xét xử là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng
tốt hơn ’’. Câu nói này của Người đã thể hiện phương châm rất quan trọng
trong đường lối xử lý của nhà nước ta – lấy giáo dục, phòng ngừa là chính,
phòng ngừa tốt cũng chính là chống tội phạm tốt.( 47).
Thứ năm,theo GS.TS. Nguyễn Xuân Yên:“ phòng ngừa tội phạm là
tổng hợp các biện pháp có quan hệ tác động lẫn nhau, được tiến hành bởi các
cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm và
hạn chế, loại trừ những nguyên nhân sinh ra tội phạm( 47)
Thứ sáu,GS.TS. Đỗ Quang Lại chỉ ra phòng ngừa tội phạm theo hai
nghĩa: Theo nghĩa rộng, phòng ngừa tội phạm bao hàm, một mặt không để
cho tội phạm xẩy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Mặt khác,
bằng mọi cách để ngăn chăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý
nghiêm minh các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người
phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có ích cho xã hội; theo nghĩa hẹp,
phòng ngừa tội phạm là không để cho tội phạm xẩy ra, không để cho tội phạm
gây hậu quả cho xã hội, không để cho thành viên của xã hội phải chịu hình
phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nướctrong
công tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội“ ( 47).
11


Thứ bẩy: PGS.TS Nguyễn Chí Dũng và tập thể tác giả định nghĩa:“
Phòng ngừa tội phạm là sử dụng các phương pháp, chiến thuật, biện pháp,
phương tiện nghiệp vụ cần thiết, với sự tham gia của các lực lượng nhằm khắc
phục mọi nguyên nhân, điều kiện không để tội phạm phát sinh, phát triển’’
( 47)
Thứ tám: Theo GS.TS Võ Khánh “ Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ

thống nhiều mức độ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà
nước- xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
hoặc làm vô hiệu hóa ( làm yếu, hạn chế) chúng bằng cách đó làm giảm và
dần dần loại bỏ tình hình tội phạm.{49,tr154}.
Thứ chín: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa đã đưa ra khái niệm này dưới góc
độ tội phạm học: Phòng ngừa tội phạm là hoạt động của các cơ quan, tổ chức
và công dân thực hiện tổng thể các biện pháp tác động trực tiếp vào các nhóm
nguyên nhân của tội phạm để kiểm soát, hạn chế tác dụng và laoij trừ dần
những nhóm nguyên nhân này...{47}.
Thứ mười: theo từ điển Luật học định nghĩa: ’’ Phòng ngừa tội phạm là
ngăm ngừa tội phạm và loại trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn
bộ những biện pháp liên quan với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã
hội tiến hành’’.
Trên cơ sở tổng hợp các các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với
thực tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm ở nước ta trong thời gian vừa
qua, dưới góc độ tội phạm học, có thể định nghĩa khái niệm phòng ngừa tình
hình tội phạm là hoạt động của tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật như Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội
và mọi công dân trong xã hội áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp
khác nhau hướng vào thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng
như loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành tất
12


cả nhân tố tiêu cực, đồng thời từng bước hạn chế, đẩy luaif và tiến tới loại bỏ
tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Nói một cách ngắn gọn khác, phòng ngừa
tội phạm là một bộ phận cấu thành của lý luận tội phạm học, đồng thời là hoạt
động của toàn xã hội trong việc tìm ra các nguyên nhân phát sinh tội phạm,
khắc phục cũng như để ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khởi
đời sống xã hội{ 47}

1.1.2 Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm
Khoa học nghiên cứuvề tội phạm học của Việt Nam hiện nay, các nhà
khoa học sử dụng hai thuật ngữ là “phòng ngừa tội phạm” và “phòng ngừa
tình hình tội phạm”. “Phòng ngừa tội phạm” không chỉ là phòng ngừa tội
phạm cụ thể (cái riêng) và “Phòng ngừa tình hình tội phạm” cũng không chỉ
giới hạn ở mức độ phòng ngừa toàn bộ tình hình tội phạm (cái chung) mà
không kết hợp với phòng ngừa tội cụ thể. Thực chất, về mặt nội hàm thì cả hai
thuật ngữ trên đều thể hiện phòng ngừa tội phạm ở tất cả các mức độ: tình
hình tội phạm là của chung, tội phạm là chung.
Tình hình tội phạm chỉ có thể biểu hiện nó diễn ra, hàng trăm ngàn lần,
sau đó mới đi tìm quy luật của nó.
Phòng ngừa tình hình tội phạm được hiểu theo hai quan điểm. Quan
điểm thứ nhất cho rằng phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm cả hoạt động
phòng và chống tội phạm. Quan điểm thứ hai coi phòng ngừa tình hình tội
phạm chỉ bao gồm hoạt động tác động và nguyên nhân và điều kiện của tội
phạm nhằm ngăn ngừa trước không cho tội phạm xảy ra. Theo PGS.TS. Võ
Khánh Vinh thì:
Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ các biện
pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội, và Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục
các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu,
hạn

13


chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm.
[46, tr.154]
Phòng ngừa tình hình tội phạm được thực hiện thông qua hoạt động
phối hợp, sự tác động lẫn nhau, sự giúp đỡ lẫn nhau của các chủ thể phòng
ngừa. Phòng ngừa tình hình tội phạm là một công tác phức tạp, khó khăn đòi

hỏi phải có sự quan tâm thực hiện của tất cả các cấp chính quyền một cách
khoa học, chính xác mới có thể phát huy hiệu quả. Tính hệ thống, kết cấu chặt
chẽ của công tác phòng ngừa tình hình tội phạm quyết định mật thiết đến hiệu
quả của công tác phòng ngừa tội phạm trên địa bàn thực hiện.
1.1.3 Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm
Tội phạm như là một hiện tượng xã hội, xã hội tự nhiên, hiện tượng
pháp lý. Theo xã hội học để nghiên cứu tội phạm trước hết nghiên cứu con
người phạm tội ở môi trường được sống và tự sống.
Tội phạm hay phạm tội như một nghiên cứu xã hội luật hình sự. Tội
phạm không mặc nhiên sinh ra. Nên không được xem nó như là một hiện
tượng trừu tượng.
Xét về thực chất tội phạm là chính sản phẩm của cá nhân tội phạm, vì
vậy tính chất của tình hình tội phạm phù hợp với đặc điểm nhân thân người
phạm tội, phù hợp vào đặc điểm nhân thân, nơi điều kiện người phạm tội sinh
sống.
Đánh giá tội phạm: cân nhắc nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh người
phạm tội. Tội phạm đi ra từ hành vi con người.
Phòng ngừa tình hình tội phạm là một hoạt động thực tiễn xã hội, có
những đặc điểm đặc thù của mình. Cách thức tổ chức và hoạt động của hệ
thống đó phải được xây dựng theo những nguyên tắc nhất định.
Hoạt động trong đó được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc
cơ bản sau: pháp chế xã hội chủ nghĩa; dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân đạo;
14


khoa học và tiến bộ; phối hợp chặt chẽ hoạt động phòng ngừa giữa các chủ thể
phòng ngừa, phân hóa trong phòng ngừa
Từ việc hiểu như trên có các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm
như sau:
Nguyên tắc pháp chế: thể hiện ở chỗ hoạt động phòng ngừa tình hình

tội phạm nói chung và việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa phải có cơ sở
pháp luật, phải phù hợp với các quy định của pháp luật. Trong quá trình tiến
hành hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm, các chủ thể tuân thủ nghiêm
chỉnh, nhất quán các quy định của pháp luật về hoạt động đó. Cụ thể trong
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử phải đảm bảo quy định của BLTTHS.
Mặc dù mục đích của hoạt động phòng ngừa là bảo vệ Đảng, bảo vệ chế
độ, bảo vệ thành quả của cách mạng và tài sản hợp pháp của nhân
dân….nhưng không phải vì thế mà hoạt động phòng ngừa tội phạm được phép
làm bừa, làm ẩu, không tuân thủ pháp luật. Do đó hoạt động phòng ngừa tội
phạm phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình tuyên truyền về nhóm tội nhóm tội phạm về ma túy.
Nhóm xâm phạm sở hữu: Cướp giật tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Trộm cắp tài
sản. Nhóm trật tự xã hội: Giết người, Gây thương tích, Đánh bạc, các cơ quan
hải quan, kiểm lâm, Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, UBND các cấp đến các
tuyên truyền viên có tuyên truyền không
Như tội phạm về Ma túyxảy ra là tất yếu, có cả nguyên nhân và điều
kiện – Tính quyết định luận của nó.
Nó là sản phẩm tiêu cực của xã hội hay xã hội không mong muốn. Từ
nhóm tội này nó làm ảnh hưởng đến nhóm tội khác, dẫn đến không có tiền hút
chích, dẫn đến trộm cắp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, gây thương tích, cờ bạc để
có tiền hút chích, và dẫn đến hành động giết người để có tiền sử dụng ma túy.

15


- Môi trường xã hội tác động đến từng lĩnh vực một, môi trường gia
đình không tốt, sẽ ảnh hưởng đến, sử dụng ma túy, trộm cắp…
- Tuyên truyền về tổ dân phố khác nhau, cũng dẫn đến con đường tệ
nạn xã hội.
Nguyên tắc phối hợp:Vì hoạt động phòng ngừa tội phạm bao giờ cũng

mang tính quốc gia và xã hội, nó là trách nhiệm của toàn xã hội, nhưng đồng
thời mỗi lực lượng, mỗi ngành, khác nhau, suy cho cùng đều nhằm mục đích
để phòng ngừa tình hình tội phạm. Do đó, trong hoạt động phòng ngừa tình
hình tội phạm nói chung, tình tội phạm về ma túy. Nhóm xâm phạm sở hữu:
Cướp giật tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản. Nhóm trật tự xã hội:
Giết người, Gây thương tích, Đánh bạc phải có sự phối hợp của nhiều ngành,
nhiều cấp, phải sử dụng tổng hợp sức mạnh của nhiều lực lượng, nhiều biện
pháp phương tiện.
Để có sự phối hợp, trước hết phải có sự lãnh đạo thống nhất từ một cơ
quan đầu mối chuyên trách, đồng thời có một cơ chế, phối hợp được định rõ
các chương trình, kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm. Ngoài vấn đề
trách nhiệm cá nhân của các chủ thể có nhiệm vụ phối hợp cũng được đề cao
nhằm ngăn ngừa tình trạng đùn đẩy, cản trở hoặc trì hoãn quá trình phối hợp.
Nếu như nguyên tắc này được tuân thủ, chắc chắn sẽ phát huy nhiều lợi thế
của các chủ thể và nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm trên địa
bàn huyện Gia Lâm.
Bên cạnh đó, đối với phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy. Nhóm
xâm phạm sở hữu: Cướp giật tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Trộm cắp tài sản.
Nhóm trật tự xã hội: Giết người, Gây thương tích, Đánh bạc, ngoài việc phối
hợp giữa các ngành, các cấp. Chủ thể phòng ngừa, nguyên tắc này còn được
thể hiện sự phối hợp, hợp tác trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội
phạm.
16


Nguyên tắc nhân đạo: Vì mục đích của phòng ngừa tội phạm là không
để cho tội phạm xảy ra, không để cho một công dân nào phải bị xử lý. Do đó,
nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc xuyên suốt quá trình và toàn bộ hoạt động
phòng ngừa tội phạm.
Đối với nhóm xâm phạm sở hữu là các biện pháp phòng ngừa các tội

phạm này không nhằm làm tổn thương con người, mà phải hướng con người
tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Con người được đề cập ở đây, có thể là bị can, bị
cáo, người liên quan chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người
phạm tội, những người khác chịu sự tác động từ các biện pháp phòng ngừa tội
phạm.
Xét cho cùng, mục đích của phòng ngừa tội phạm là nhằm bảo vệ con
người, chính vì vậy khi phòng ngừa tội phạm, các chủ thể phòng ngừa không
được sử dụng các biện pháp nhằm gây tổn thương đến con người. Khi trển
khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu, chủ thể
phòng ngừa tội phạm vì mục đích phòng ngừa tội phạm có thểsẽ áp dụng các
biện pháp vô tình gây tổn thương, đến bị can, bị cáo, người phạm tội, nạn
nhân trực tiếp và những người là nạn nhân gián tiếp của tội phạm.
Chính vì vậy, ngoài việc tuân thủ pháp luật, tiêu chí rất quan trọng để
các chủ thể quyết định áp dụng một biện pháp phòng ngừa tội phạm là cân
nhắc xem biện pháp đó có nguy cơ gây tổn thương đến đối tượng nào trong xã
hội hay không. Chính vì vậy, để nguyên tắc này được thực hiện trên thực tế thì
yêu cầu nội dung của nguyên tắc phải được thể hiện trong các văn bản pháp
luật về phòng ngừa các tội phạm xâm phạm sở hữu . Bên cạnh đó, các chủ thể
phòng ngừa tội phạm cần nắm rõ tinh thần nội dung của nguyên tắc nhân đạo
khi xây dựng chương trình phòng ngừa tội phạm, đặc biệt là khi xây dựng các
biện pháp phòng ngừa tội phạm. Các biện pháp này mặc dù hướng đến mục
đích cuối cùng là phòng ngừa tội phạm, nhưng nếu như các biện
17


pháp lại gây tổn thương cho con người, thì các biện pháp đó không được áp
dụng.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc nhân đạo trong hoạt động phòng ngừa
tội phạm có ý nghĩa bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của những người có liên
quan, bảo đảm tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa của nhà nước ta trong hoạt

động phòng ngừa tội phạm và nhằm hướng đến mục đích chung nhất là nâng
cao hiệu quảhoạt động phòng ngừa tội phạm, bảo vệ tối đa quyền lợi ích hợp
pháp của con người.
Nguyên tắc dân chủ:trong phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu được
thể hiện là hoạt động phòng ngừa phải có sự tham gia của các đoàn thể, các
tầng lớp, lực lượng trong xã hội, đặc biệt là quần chúng nhân dân. Phòng ngừa
tình hình phạm tội các tội xâm phạm sở hữu, thực chất là hoạt động quản lý
xã hội, mà hoạt động này muốn đạt hiệu quả cần phải có sự tham gia của toàn
xã hội.
Các tội phạm xâm phạm sở hữu hay tội phạm trật tự xã hội và tội phạm
về Ma túy có liên quan đến vấn đề đặc điểm về dân cư, văn hóa của từng khu
dân cư, chính vì vậy phòng ngừa các tội phạm này phải được sự hưởng ứng,
tham gia rộng rãi, từ phía người dân thì mới có thể đạt hiệu quả như mong
muốn.
Do đó. Để có nguyên tắc này được áp dụng trong thực tế thì cần thiết
phải có sự ghi nhận nội dung này trong các quy định của pháp luật về phòng
ngừa các tội xâm phạm sở hữu, bên cạnh đó cần phải nhận thức rằng, các chủ
thể phòng ngừa tội phạm là quần chúng nhân dân, là lực lượng đông đảo nhất,
nhưng không có công cụ, phương tiện nhằm đấu tranh trực tiếp với tội phạm
cho nên quần chúng nhân dân cần được sự hướng dẫn, tạo điều kiện từ các
chủ thể chuyên trách là cơ quan nhà nước trực tiếp áp dụng các biện pháp
phòng ngừa hay phát hiện, xử lý tội phạm. Sự hướng dẫn, tạo điều kiện cho
18


quần chúng nhân dân tham gia phòng ngừa tội phạm thể hiện ở nhiều hình
thức khác nhau như xây dựng, triển khai các trương trình phòng chống tội
phạm huy động sự tham gia của quần chúng nhân dân, tiếp nhận xử lý và có
hiệu quả các tin báo tố giác tội phạm từ quần chúng nhân dân, hướng dẫn
huấn luyện cho các tổ chức nhân dân tự quản các biện pháp cần thiết trong

việc phát hiện, xử lý các hành vi có dấu hiệu vi phạm.
Việc thực hiện, tuân thủ nguyên tắc dân chủ trong hoạt động phòng
ngừa các tội xâm phạm sở hữu nhằm phát huy trước hết sức mạnh của các
tầng lớp nhân dân trong xã hội, trong hoạt động phòng ngừa trước không để
cho tội phạm xảy ra và kịp thời phát hiện tội phạm, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động phòng ngừa tội phạm, nhằm phát huy được hết sức mạnh của
các tầng lớp nhân dân trong xã hội trong hoạt động phòng ngừa trước không
để cho tội phạm xảy ra và kịp thời phát hiện tội phạm, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động phòng ngừa tội phạm.
Nguyên tắc cụ thể hóa: trong hoạt động phòng ngừa tội phạm là xâm
phạm sở hữu trật tự xã hội hay ma túy được hiểu là phòng ngừa các tội phạm
này phải được tiến hành cụ thể, phù hợp với những đặc điểm nhân thân của
người chịu sự tác động bởi các biện pháp phòng ngừa, đặc biệt là phải tùy
thuộc vào khu vực địa lý, đặc điểm lịch sử, tự nhiên, xã hội, dân cư người đó
đang sinh sống. Nói cách khác, nguyên tắc này thể hiện ở hai khía cạnh:
Thứ nhất: phòng ngừa các loại tội này, được tiến hành cụ thể đối với
các đối tượng có nhân thân khác nhau. Tùy thuộc vào độ tuổi, trình độ học
vấn, nghề nghiệp, đặc biệt là đối với các đối tượng có nguy cơ phạm tội cao
như người chưa thành niên, người không có nghề nghiệp, người có nhân thân
xấu, người có tiền án, tiền sự, người nghiện ma túy…thì cần được áp dụng
những biện pháp phòng ngừa riêng biệt, khác với những người bình thường
trong xã hội.
19


Thứ hai: ở mỗi địa phương sẽ có thể tồn tại những đặc điểm đặc trưng
về tự nhiên, xã hội có ảnh hưởng đến tình hình các tội xâm phạm sở hữu, hay
trật tự xã hội. Nguyên nhân các điều kiện của tội phạm. Chính vì vậy, tương
ứng với những đặc điểmvề tự nhiên và xã hội này mà chủ thể phòng ngừa cần
thiết kế, áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm cho phù hợp, với hoàn

cảnh của mỗi địa phương, nói cách khác, phòng ngừa tội xâm phạm sở hữu
hay trật tự xã hội căn cứ vào thực tiễn tình hình tội phạm ( Trong đó có thực
tiễn nhân thân người phạm tội), thực tiễn tự nhiên ,xã hội( lịch sử, dân cư,
kinh tế, văn hóa, giáo dục) và thực tiễn khả năng của chủ thể phòng ngừa tình
hình tội phạm( trong đó có thực tiễn nhân thân người phạm tội), thực tiễn tự
nhiên, xã hội ( lịch sử, dân cư, kinh tế, văn hóa, giáo dục) và thực tiễn khả
năngcủa chủ thể phòng ngừa tội phạm.
Để áp dụng nguyên tắc này khi thiết kế các biện pháp phòng ngừa, các
chủ thể phòng ngừa sẽ nghiên cứu kỹ đối tượng chịu sự tác động cũng như
điều kiện xã hội như kinh tế, văn hóa, phong tục vùng miền mà đối tượng đó
đang sống để có các biện pháp tác động phù hợp. Ý nghĩa quan trọng nhất của
nguyên tắc này là nhằm bảo đảm hiệu quả cho hoạt động phòng ngừa tội
phạm.
Nguyên tắc khoa học và tiến bộ:Hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm ở lĩnh vực nhóm về Ma túy, nhóm về trật tự và xã hội là đánh bạc là
hoạt động của cả xã hội bao gồm nhiều lực lượng tham gia với rất nhiều các
biện pháp, do đó đòi hỏi hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nhóm về
ma túy, nhóm về trật tự và xã hội là đánh bạc, nhóm xâm phạm sở hữu,phải
được tiến hành một cách khoa học, luôn được cải tiến và áp dụng các thành
tựu khoa học kỹ thuật, làm cho phòng ngừa tình hình tội phạm ngày càng có
hiệu quả. Muốn vậy cần phải có nghiên cứu đưa ra được quy trình, phương
pháp trong phòng ngừa tình hình tội phạm làm sao cho việc điều hành, thực
20


hiện các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nhóm về Ma túy, nhóm về
trật tự và xã hội là đánh bạc, nhóm xâm phạm sở hữu được diễn ra phù hợp,
tiết kiệm hiệu quả.
1.1.4 Mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội
phạm - Mục đích của phòng ngừa tình hình tội phạm:

Mục đích chung của công tác phòng ngừa tình hình tội phạm là việc
không để hình thành và tồn tại các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, hạn chế,
cô lập, tiến tới loại trừ những nguyên nhân và điều kiện của tội phạm. Đây là
mục tiêu cao nhất của công tác phòng ngừa tội phạm và theo ý kiến chủ quan
của tác giả thì phải rất lâu nữa chúng ta mới đạt được mục tiêu này.
Phòng ngừa tình hình tội phạm là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức
tạp, tuy nhiên từ những lý luận của khoa học nghiên cứu về tội phạm học, từ
thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm tác giả tin tưởng rằng đất nước ta sẽ
đấu tranh thắng lợi với các loại tội phạm và dần dần loại bỏ được hiện tượng
tội phạm trong tương lai. Phòng ngừa tội phạm là yêu cầu tất yếu của đất nước
và mỗi người dân để đảm bảo cuộc yên bình, hạnh phúc.
Trong từng thời kỳ phát triển của xã hội, tùy thuộc vào điều kiện của
mỗi quốc gia. Trong tình hình hiện nay, Đảng ta đã ban hành Chỉ thị số
48/CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm trong tình hình mới” trong đó chỉ rõ “trong thời gian
tới, công tác phòng chống tội phạm phải kiềm chế, làm giảm các loại tội
phạm, nhất là các loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới, tạo môi trường
lành mạnh phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội bảo vệ cuộc
sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân”.
Như vậy, mục đích công tác phòng ngừa tình hình tội phạm trong thời
kỳ mới của chúng ta có những mục đích cụ thể sau:

21


- Hạn chế, xóa bỏ nguyên nhân điều kiện của tình hình tội phạm và các
vụ phạm tội đối với toàn bộ các tội phạm, đặc biệt là các loại tội phạm mới.
Đây cũng chính là nội hàm của công tác phòng ngừa chung đối với tội phạm.
Hệ thống các loại tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự của chúng ta
vô cùng đa dạng và phong phú, dựa vào động cơ, mục đích riêng biệt mà mỗi

loại tội phạm có nguyên nhân và điều kiện riêng. Để loại bỏ được nguyên
nhân chung của tất cả tội phạm thì không gì khác phải tạo môi trường xã hội
lành mạnh, người dân có đời sống vật chất và tinh thần cao từ đó tự động loại
bỏ những yếu tố tiêu cực gây nên việc phạm tội.
- Ngăn chặn kịp thời, không để xảy ra những hành vi tội phạm mới.
Việc ngăn chặn hành vi phạm tội chính là nội dung của phòng ngừa tình hình
tội phạm vì có sự tác động đến đối tượng trước khi thực hiệm hành vi phạm
tội làm cho tội phạm không xảy ra, không gây ra hậu quả, thiệt hại cho các
quan hệ xã hội. Ngăn chặn là hoạt động mang tính tức thời, cấp bách, khi đối
tượng đang có ý đồ, âm mưu và chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội.
- Phòng ngừa người phạm tội tái phạm: Những người đã từng phạm tội
là người có những điều kiện, hoàn cảnh, đặc điểm tâm lý phù hợp dẫn đến
việc thực hiện hành vi phạm tội, nếu không có biện pháp phòng ngừa hợp lý
thì sau khi bị xử lý về hình sự thì các đối tượng này rất dễ dàng thực hiện lại
hành vi phạm tội. Thậm chí hành vi tái phạm sẽ có tính chất nguy hiểm cho xã
hội nhiều hơn do đối tượng đã có kinh nghiệm trong việc phạm tội, những thủ
đoạn của đối tượng sẽ tinh vi, xảo quyệt hơn và cũng sẽ gây ra những thiệt hại
lớn hơn cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Để hạn chế việc tái
phạm của người phạm tội, Nhà nước đã có những chính sách như tạo công ăn
việc làm thuận lợi cho người phạm tội sau khi bị xử lý hình sự, nâng cao ý
thức, giáo dục pháp luật, yêu cầu gia đình, bạn bè thường xuyên động viên,
giúp đỡ, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, Ngoài ra, các
22


×