Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Khảo sát lỗi sử dụng tiếng việt trên báo hà nội mới điện tử năm 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (855.15 KB, 114 trang )

IH
TRƢỜN



QU
O

GI H N I
Ọ XÃ

Ộ VÀ N ÂN VĂN

-----------------------

LÊ T Ị TUYÊN

ẢO SÁT LỖ SỬ DỤN
TRÊN BÁO

À NỘ MỚ

LUẬN VĂN T

T ẾN

V ỆT

ỆN TỬ NĂM 2016




NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC

à Nội – 11/ 2017


IH
TRƢỜN



QU
O

GI H N I
Ọ XÃ

Ộ VÀ N ÂN VĂN

-----------------------

LÊ T Ị TUYÊN

ẢO SÁT LỖ SỬ DỤN
TRÊN BÁO

À NỘ MỚ

LUẬN VĂN T


T ẾN

V ỆT

ỆN TỬ NĂM 2016



NGÀNH NGÔN NGỮ HỌC
MÃ NGÀNH: 60.22.02.40
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS. TS. Trịnh Cẩm Lan

à Nội – 11/ 2017


LỜ

ẢM ƠN

Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tới
P S.TS.Trịnh

ẩm Lan, người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá

trình thực hiện luận văn này.
Em xin gửi lời cám ơn chân thành tới các thầy, cô giáo đã giảng dạy
tại khoa ngôn ngữ học trong suốt 4 năm đại học và 2 năm cao học vừa qua.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, song luận văn không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các
anh chị.



MỤ LỤ
LỜ

ẢM ƠN

MỞ ẦU ...................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................ 4
5. ối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 4
5.1 Đối tượng của đề tài................................................................................ 4
5.2 Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 4
6 Bố cục ........................................................................................................ 5
ƢƠN

1: Ơ SỞ LÝ T UYẾT .......................................................... 6

1.1. ặc điểm ngôn ngữ báo chí ................................................................. 6
1.1.1 Tính chính xác, cụ thể .......................................................................... 7
1.1.2 Tính đại chúng...................................................................................... 8
1.1.3. Tính ngắn gọn và biểu cảm ................................................................. 8
1.1.4. Tính thẩm mỹ và giáo dục ................................................................... 9
1.2. huẩn mực ngôn ngữ......................................................................... 10
1.2.1. Quan niệm về chuẩn mực ngôn ngữ.................................................. 10
1.2.2. Một số vấn đề chuẩn hóa tiếng Việt hiện nay ................................... 12
1.3. Lỗi ngôn ngữ ....................................................................................... 14
1.3.1. Quan niệm về lỗi ngôn ngữ ............................................................... 14

1.3.2. Một số lỗi thường gặp trong sử dụng tiếng Việt hiện nay ................ 16
1.4 Tiểu kết ................................................................................................. 19
ƢƠN
NỘ MỚ

2:

Á

LỖ TỪ VỰN

T ƢỜN

ẶPTRÊN BÁO HÀ

ỆN TỬ NĂM 2016 .............................................................. 21

2.1. Lỗi lặp từ / ngữ đoạn .......................................................................... 22
2.2. Lỗi thừa từ .......................................................................................... 24
2.3. Lỗi thiếu từ.......................................................................................... 25


2.4. Lỗi dùng từ không đúng nghĩa.......................................................... 26
2.5. Lỗi sử dụng từ sai phong cách .......................................................... 28
2.6. Nhận xét .............................................................................................. 30
2.7. Tiểu kết ................................................................................................ 33
ƢƠN
MỚ

3:


Á

LỖ

ÂU T ƢỜN

ẶPTRÊN BÁO

À NỘ

ỆN TỬ NĂM 2016 ........................................................................ 35

3.1. ác lỗi về cấu tạo câu ......................................................................... 36
3.1.1. Thiếu thành phần câu ........................................................................ 36
3.1.2. Câu sắp xếp sai trật tự từ .................................................................. 39
3.2. ác lỗi về dấu câu ............................................................................... 40
3.2.1.Ngắt câu sai quy tắc ........................................................................... 42
3.2.2 Vi phạm quy tắc ngắt các bộ phận của câu ...................................... 43
3.2.4. Thiếu dấu câu .................................................................................... 47
3.3. Lỗi về quan hệ ngữ nghĩa trong câu ................................................. 48
3.3.1 Câu sai hiện thực khách quan ............................................................ 49
3.3.2. Câu có quan hệ giữa các thành phần, các vế câu không logic......... 49
3.4. Nhận xét .............................................................................................. 50
3.5. Tiểu kết ................................................................................................ 52
ẾT LUẬN ................................................................................................ 54
TÀ L ỆU T
P Ụ LỤ

M


ẢO ........................................................................ 57


D N
Bảng 2.1.

MỤ BẢN

ác loại lỗi từ vựng thường gặp trên báo Hà Nội mới điện tử

năm 2016 ..................................................................................................... 21
Bảng 3.1.

ác loại lỗi câu thường gặp trên báo Hà Nội mới điện tử năm

2016 ............................................................................................................. 35
Bảng 3.2. ác lỗi về dấu câu trên báo Hà Nội mới điện tử năm 2016 ....... 41


D N

MỤ

ÌN

Biểu đồ 2.1. ác lỗi từ vựng thường gặp trên báo Hà Nội mới điện tử năm
2016 ............................................................................................................. 30
Biểu đồ 3.1. ác lỗi câu thường gặp trên báo Hà Nội mới điện tử năm 2016
..................................................................................................................... 50



MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại hiện nay, báo chí tồn tại dưới nhiều loại hình, mỗi
loại hình báo chí đưa đến cho công chúng một cách tiếp nhận thông tin
khác nhau: Báo in đưa thông tin và hình ảnh trên mặt giấy; báo phát thanh
đưa thông tin đến công chúng bằng âm thanh giọng điệu; báo truyền hình
đưa thông tin bằng hình ảnh và âm thanh; còn báo mạng đưa thông tin bằng
cả chữ viết, âm thanh, hình ảnh tĩnh và động nhờ vào sự phát triển của công
nghệ đặc biệt là internet… Mỗi thể loại đưa thông tin đến cho công chúng
qua ngôn ngữ báo chí một cách khách quan, chân thật, dễ hiểu.
Do vậy, tiếng Việt được sử dụng trên báo chí chuẩn mực, trong sáng
sẽ có ảnh hưởng tích cực đến công chúng. Tuy nhiên, trên báo chí hiện nay
vẫn còn tồn tại rất nhiều “hạt sạn” về ngôn ngữ.

ác lỗi ngôn ngữ có tác

động tới việc sử dụng tiếng Việt của người dân vô cùng sâu rộng. hính vì
thế, việc nghiên cứu, xác định và hệ thống hóa các lỗi trên báo chí để làm
cơ sở cho việc khắc phục chúng một cách triệt để là một đòi hỏi cấp thiết
được đặt ra trong bối cảnh phát triển như “vũ bão” của báo chí Việt Nam
hiện nay.
Ngày nay, báo chí tác động mạnh mẽ đến mọi mặt đời sống của con
người, là động lực quan trọng cho sự phát triển của xã hội. Với lượng
truyền tải thông tin lớn hàng ngày, người đọc báo có thể tiếp nhận tin tức,
bắt chước, làm theo trào lưu trên báo chí. Vì vậy, việc sử dụng ngôn từ trên
báo chí cần được chú trọng, chính xác, chuẩn mực.
Vậy liệu việc sử dụng tiếng Việt trên báo chí hiện nay đã chuẩn mực
chưa? Nếu chưa, điều này có ảnh hưởng như thế nào đến khả năng truyền

đạt tư tưởng và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt? Ngôn ngữ báo chí tác
động như thế nào đến việc sử dụng ngôn từ trong cuộc sống hiện nay?

ặc

biệt, đối với người dân trên toàn đất nước Việt Nam nói chung và những
người đang sống, làm việc tại Hà Nội nói riêng có tác dụng như thế nào qua
1


tờ báo – đươc coi là ơ quan của thành ủy ảng cộng sản Việt Nam thành
phố Hà Nội, Tiếng nói của ảng bộ, chính quyền, nhân dân thủ đô?
Tất cả những lí do trên, những câu hỏi trên đã thôi thúc chúng tôi tìm
hiểu và nghiên cứu đề tài “ hảo sát lỗi sử dụng tiếng Việt trên báo

à

Nội mới điện tử năm 2016”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Vấn đề lỗi sử dụng ngôn ngữ trên báo chí vẫn rất được quan tâm và
trở thành đề tài trong các hội thảo, hội nghị nghiên cứu khoa học cũng như
trong các luận án, luận văn và khóa luận tốt nghiệp của nhiều nhà ngôn ngữ
học.
ác công trình nghiên cứu về chuẩn ngôn ngữ cũng như liên quan đến
lỗi ngôn ngữ có các tác phẩm như “Tiếng Việt thực hành” của tác giả
Nguyễn Hữu

ạt [8]; “Tiếng Việt thực hành” của nhóm tác giả Bùi Minh

Toán, Lê


ỗ Việt Hùng [30]; công trình “Tiếng Việt thực hành” của

,

nhóm tác giả Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp [28]. Tác giả Hà
Quang Năng với công trình nghiên cứu “Từ điển lỗi dùng từ” [25]; tác giả
ao Xuân Hạo với “Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục” [12]. Nhóm tác giả
Hồ Lê, Trần Thị Ngọc Lang, Tô

ình Nghĩa đã nêu lên “Lỗi từ vựng và

cách khắc phục” [21]; tác giả Lê Trung Hoa với “Lỗi chính tả và cách khắc
phục” [15]. Tuy còn nhiều điểm khác biệt giữa các quan điểm của các tác
giả khác nhau nhưng những công trình này là nguồn tài liệu quý báu cho
việc nghiên cứu lỗi sử dụng tiếng Việt trên báo chí hiện nay.
Bên cạnh đó, luận án tiến sĩ của Nguyễn Thiện Nam về “Khảo sát lỗi
ngữ pháp tiếng Việt của người nước ngoài và những vấn đề liên quan” [24]
đã nêu lên những lỗi ngữ pháp mà người nước ngoài học tiếng Việt mắc
phải. Nguyễn Linh

hi cũng có công trình tìm hiểu “Lỗi ngôn ngữ của

người nước ngoài học tiếng Việt” [2].
ác công trình đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề lí luận của báo chí
nhìn từ góc độ ngôn ngữ chưa xuất hiện nhiều. hẳng hạn, “Tác phẩm báo
2


chí” của Nguyễn Văn Dũng [6] đề cập đến lỗi ngôn ngữ, đặc điểm về ngôn

ngữ trong từng thể loại báo chí. ác tác giả như inh Văn Hường với công
trình “ ác thể loại báo chí thông tấn” [17]; Trần Quang với “ ác tác phẩm
báo chí chính luận” [27] đều có nhắc đến việc sử dụng từ ngữ trong thể loại
báo chí nhưng không đi sâu. ông trình “Ngôn ngữ báo chí” của Vũ Quang
Hào [14] và “Ngôn ngữ báo chí – những vấn đề cơ bản” của Nguyễn

ức

Dân [4] nghiên cứu tương đối trọn vẹn về vấn đề ngôn ngữ báo chí.
Tác phẩm “Ngôn ngữ báo chí” của Vũ Quang Hào [14] đã tìm hiểu
những vấn đề cụ thể như: Ngôn ngữ chuẩn mực của báo chí; ngôn ngữ các
phong cách báo chí; ngôn ngữ của thuật ngữ khoa học; kí hiệu khoa học;
ngôn ngữ tít báo… [14;5]. ông trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn

ức

Dân đề cập đến những nội dung cơ bản của ngôn ngữ báo chí như: đặc
điểm ngôn ngữ báo chí, thông tin chìm trong báo chí và kĩ thuật xây dựng
thông tin chìm bằng các thao tác ngôn ngữ cụ thể, ngôn từ của nhà báo và
các yêu cầu về logic diễn đạt trong báo chí. Ngoài ra, chuyên luận còn đi
sâu vào tìm hiểu đặc điểm và khả năng hoạt động của tiếng Việt trên báo
chí, chỉ ra những kĩ năng sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả [14;3].
Tuy nhiên, việc xem xét những vấn đề về lỗi dùng từ, câu trên báo chí
như đối tượng trung tâm thì chưa được các nhà khoa học, các nhà nghiên
cứu quan tâm nhiều. Vì vậy, luận văn này trên cơ sở những công trình đã
được công bố và quan điểm chủ quan, chúng tôi sẽ cố gắng làm nổi bật các
lỗi về từ vựng, ngữ pháp trên báo Hà Nội mới điện tử.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm khảo sát các lỗi và những hiện tượng chưa thống nhất
trong cách sử dụng tiếng Việt trên một tờ báo cự thể để chỉ ra tại sao một số

chỗ sai sót khiến cho bài báo trở nên khó hiểu hoặc có phần hiều nhầm, từ
đó gợi ý một số biện pháp khắc phục.
Thông qua việc khảo sát các lỗi trên trang báo Hà Nội mới điện tử, hệ
thống hóa các lỗi về sử dụng tiếng Việt trên báo chí hiện nay, giúp người
3


viết và người đọc nhận diện, khắc phục những lỗi này để sử dụng tiếng Việt
đúng hơn, hay hơn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các lý luận về chuẩn hóa ngôn ngữ và lỗi ngôn ngữ để
làm cơ sở lý luận cho đề tài luận văn.
-

ung cấp một cái nhìn khái quát về hệ thống lỗi sử dụng tiếng Việt

trên phương diện từ vựng, câu.
-

Tìm hiểu thực trạng lỗi sử dụng tiếng Việt trên báo Hà Nội mới

điện tử năm 2016.
-

Phân tích, cố gắng tìm ra những nguyên nhân và đề nghị một số

giải pháp để khắc phục từng loại lỗi.
5.

ối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

5.1 Đối tượng của đề tài
ối tượng nghiên cứu của đề tài là các lỗi sử dụng tiếng Việt (lỗi từ

vựng, lỗi câu) trên các số báo Hà Nội mới điện tử, không phân biệt chuyên
mục cũng như thể loại.
Báo Hà Nội mới điện tử gồm các chuyên mục và tiểu mục sau: Xã
hội (giới trẻ, giao thông, chuyện bốn phương), chính trị (đối ngoại, nhân sự,
xây dựng đảng), kinh tế (tài chính, nhà đất, quốc tế), thế giới (bình luận, hồ
sơ, quân sự), văn hóa (âm nhạc, phim, thời trang, hậu trường, sách), thể
thao (bóng đá Việt Nam, bóng đá quốc tế, quần vợt, hậu trường), pháp luật
(pháp đình, tư vấn), khoa học (thế giới số, sản phẩm số), đời sống (gia đình,
sức khỏe, làm đẹp), du lịch, ô tô- xe máy.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn về mặt thời gian cũng như dung lượng của luận văn,
chúng tôi tiến hành khảo sát lỗi về sử dụng tiếng Việt trên báo Hà Nội mới
với tư liệu 128 số báo trong năm 2016 ( ác số báo này được chúng tôi lựa
chọn ngẫu nhiêu và phân bố đồng đều cho 12 tháng).

4


Mỗi số báo chúng tôi khảo sát trên tất cả các chuyên mục: Xã hội,
chính trị, kinh tế, thế giới, văn hóa, thể thao, pháp luật, khoa học, đời sống,
du lịch, ô tô- xe máy. Trung bình mỗi số báo có khoảng 60 – 68 bài. Có
những chuyên mục ra nhiều bài một số như: xã hội, kinh tế, chính trị, thể
thao, văn hóa,… nhưng cũng có những chuyên mục nhiều ngày mới ra một
bài như: ô tô – xe máy.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê, phân loại: để thống kê các lỗi sử dụng ngôn
ngữ tìm được trên báo Hà Nội mới điện tử năm 2016. Từ kết quả thống

kê, chúng tôi tiến hành phân loại thành các loại lỗi cụ thể để dễ dàng phân
tích, miêu tả và nhận xét.
Phương pháp miêu tả được chúng tôi áp dụng vào việc nhận diện,
phân tích, xử lý tư liệu, miêu tả các lỗi ngôn ngữ khảo sát được.
húng tôi áp dụng phương pháp phân tích để phân tích đặc điểm của
từng loại lỗi, trên cơ sở đó đưa ra các nhận xét lỗi cụ thể.
Thủ pháp cải biên được áp dụng để sửa lỗi sai tìm được.
uối cùng, chúng tôi vận dụng thủ pháp thống kê toán học để định
lượng các loại lỗi và thống kê các số liệu cụ thể
7. Bố cục
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương như sau:
hương 1: ơ sở lý thuyết
hương 2: ác lỗi từ vựng thường gặp
hương 3: ác lỗi câu thường gặp

5


ƢƠN

1: Ơ SỞ LÝ T UYẾT

Ngôn ngữ báo chí là kiểu diễn đạt trên báo, đài để thông báo tin tức
thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận
quần chúng nhằm thúc đẩy tiến bộ của xã hội.
Ngôn ngữ báo chí được sử dụng ở nhiều loại, có thể quy về ba kiểu
văn bản: văn bản cung cấp tin tức, văn bản phản ánh công luận và văn bản
thông tin quảng cáo. Phong cách này tồn tại ở hai dạng là dạng nói và dạng
viết. Mục đích của văn bản báo chí là nhằm thông báo kịp thời những thông

tin cần thiết.
Ngôn ngữ báo chí không phải là một vấn đề mới, nó đã được đào sâu
nghiên cứu theo từng góc cạnh, từng thời kỳ phát triển. Nhưng trong thời
đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, đây lại là một vấn đề nóng
cần có sự quan tâm của toàn xã hội. Tiếng Việt đang dần bị ăn mòn bởi thứ
ngôn ngữ lai căng, thiếu trong sáng, pha tạp của một bộ phận giới trẻ. Do
đó, báo chí phải đóng vai trò như một người dẫn đường trong công cuộc
bảo tồn vào phát triển tiếng Việt ngày càng giàu đẹp hơn.
Vấn đề sử dụng ngôn ngữ báo chí có tác dụng trực tiếp và quyết định
tới hiệu quả của thông tin báo chí, do vậy ngôn ngữ báo chí trước hết là
một thứ ngôn ngữ văn hóa chuẩn mực. Vì thế mà sự chuẩn mực trong ngôn
ngữ báo chí làm sắc bén thêm ý nghĩa của sự kiện. Ngôn ngữ báo chí thể
hiện phong cách của nhà báo một cách rõ rệt nhất nên cần được quan tâm,
phát triển một cách đúng hướng…
1.1.

ặc điểm ngôn ngữ báo chí
Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tác phẩm báo chí. Ngôn

ngữ là phương tiện chuyển tải nội dung các tác phẩm báo chí. Sự tác động
hay hiệu quả của báo chí đều không thể tách rời khả năng sử dụng ngôn
ngữ.

6


Ngôn ngữ báo chí tồn tại và vận động như một loại hình phong cách
ngôn ngữ xã hội. Với cách hiểu “Phong cách là những khuôn mẫu trong
hoạt động lời nói, được hình thành từ những thói quen sử dụng ngôn ngữ có
tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây dựng các lớp văn bản

tiêu biểu” [7] thì ngôn ngữ báo chí có những nét riêng biệt cho phép nó có
vị thế ngang hàng với các chức năng khác của ngôn ngữ. Theo
PGS.TS.Nguyễn Hữu

ạt đặc điểm về ngôn ngữ của phong cách báo chí

gồm có 8 đặc điểm. Tuy nhiên, chúng tôi xin phép được liệt kê một số đặc
điểm nổi bật sau:
1.1.1 Tính chính xác, cụ thể
ây là đặc trưng cơ bản đầu tiên của ngôn ngữ báo chí. Báo chí ra đời
trước hết là do nhu cầu thông tin. Qua báo chí, người ta có thể nhanh chóng
tiếp cận được các vấn đề mà họ quan tâm. Thông qua việc phản ánh thông
tin về các sự kiện, hiện tượng, báo chí tác động vào ý thức con người nhằm
tạo ra những vận động xã hội theo mục đích đã định. Trong phong cách báo
chí, chức năng tác động luôn được thực hiện hóa cùng các chức năng thông
báo thuần túy.

ể thực hiện chức năng này, ngôn ngữ phải đảm bảo tính

chính xác, khách quan trong việc phản ánh, nhằm đưa đến những thông tin
lành mạnh, giúp cho con người mở rộng tầm hiểu biết và phát triển theo
khuynh hướng tích cực. Ngôn ngữ chuyển tải thông tin sự kiện càng chính
xác, khách quan thì càng tăng hiệu quả của tác phẩm báo chí.
ể thực hiện tính chính xác, khách quan của của ngôn ngữ báo chí,
người viết phải sử dụng ngôn ngữ một cách rõ ràng, trong sáng làm cho
người tiếp nhận thông tin hình dung đúng về sự kiện, tính chất và chiều
hướng vận động của nó.

7



1.1.2 Tính đại chúng
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng.

ối tượng thông tin của

báo chí là toàn xã hội. Báo chí có chức năng hướng dẫn và tác động dư
luận. Như thế có nghĩa là nó tự quy tụ bạn đọc về phía mình. Sự thu hút của
báo chí đã tạo ra khả năng tập hợp và thu hút quần chúng. Vì vậy, ngôn ngữ
báo chí phải là ngôn ngữ dành cho tất cả mọi người, phù hợp với trình độ
chug của quần chúng và đảm bảo cho việc đôc giả tiếp nhận thông tin một
cách thuận lợi nhất.
Khi thực hiện chức năng hướng dẫn và tác động dư luận, các bài báo
thường sử dụng câu hỏi tu từ. òn khi thực hiện chức năng tập hợp và tổ
chức quần chúng, ngôn ngữ báo chí thường thiên về các câu mệnh lệnh,
kêu gọi. Trong các tác phẩm báo chí, người ta ít dùng các thuật ngữ chuyên
ngành hẹp, các từ ngữ địa phương, tiếng lóng, cũng như các từ ngữ vay
mượn từ tiếng nước ngoài.
1.1.3. Tính ngắn gọn và biểu cảm
Tính ngắn gọn của ngôn ngữ báo chí là yêu cầu mang tính tất yếu xuất
phát từ chức năng cơ bản của báo chí là thông tin nhanh. Báo chí luôn tồn
tại mẫu thuẫn giữa lượng thông tin khách quan lớn với giới hạn của bài
viết, trang báo, số báo, cũng như điều kiện tiếp nhận thông tin của xã hội.
Sự dài dòng có thể làm loãng thông tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận
của người đọc. ặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, người ta
luôn cố gắng thu được càng nhiều thông tin trong một đơn vị thời gian càng
tốt.
Trong báo chí, mức độ ngắn gọn của ngôn ngữ được xét ở mọi cấp độ,
từ việc sử dụng từ ngữ đến các câu, đoạn văn và toàn bộ văn bản. Muốn
đảm bảo sự ngắn gọn về ngôn ngữ trong tác phẩm báo chí, người viết cần

phải chú ý thích đáng đến sự bố trí, sắp xếp, quan hệ qua lại giữa các bộ
phận, các chi tiết, và đặc biệt là việc sử dụng từ ngữ, chính tả chính xác, kết
cấu hợp lý. Người viết phải loại bỏ tất cả những cách diễn đạt dài dòng
8


mang tính hoa mỹ. Việc sử dụng ngôn ngữ phải đạt tới sự chắt lọc để thông
tin đến được với người đọc nhanh nhất và dễ hiểu nhất.
Mặc dù trong báo chí việc sử dụng ngôn ngữ phải đạt tới sự ngắn gọn,
tiết kiệm một cách tối ưu nhưng vẫn phải giữ được tính biểu cảm. Tính biểu
cảm của ngôn ngữ sẽ làm cho báo chí thực hiện tốt chức năng tác động và
tổ chức quần chúng. Tính biểu cảm làm cho nội dung thông tin của bài báo
đến được với độc giả một cách dễ dàng hơn.
Tính biểu cảm trong ngôn ngữ gắn liền với sức hấp dẫn và tính thuyết
phục của báo chí. Vì thế, ngôn ngữ trong văn bản báo chí phải có sức thu
hút, lôi cuốn người đọc. Người viết phải có khả năng sử dụng từ ngữ độc
đáo, kiến tạo được những kết hợp từ mới lạ, giàu hình ảnh, sinh động và ấn
tượng đối với độc giả. Báo chí Việt Nam phát huy tính hấp dẫn của ngôn
ngữ theo con đường lành mạnh và có định hướng.
1.1.4. Tính thẩm mỹ và giáo dục
Dù ở thể loại gì đi chăng nữa, ngôn ngữ báo chí vẫn phải đảm bảo
những nguyên tắc về thẩm mỹ. Muốn nội dung của bài viết thực sự tác
động đến độc giả và có khả năng làm thay đổi hành vi của độc giả theo
hướng tích cực thì người viết cần phải lựa chọn từ ngữ và tìm tòi những
kiểu kết cấu vừa hợp lý vừa sáng tạo. Ngôn ngữ đảm bảo được tính thẩm
mỹ thì bài báo mới có sức thuyết phục.
Nếu thực hiện được tính thẩm mỹ trong ngôn ngữ thì báo chí cũng
đồng thời thực hiện được tính giáo dục. Thực hiện được yêu cầu này thì
ngôn ngữ báo chí mới giúp cho người đọc nhận thức đúng về các sự kiện,
hiện tượng, vấn đề có ý nghĩa đối với xã hội được đề cập trên các bài báo.

Nó giúp cho con người nhận thức được chân – thiện – mỹ. Tính giáo dục
của ngôn ngữ báo chí thường không hiện lên trên bề mặt của văn bản mà ẩn
chìm sau lớp ngôn ngữ, thực chất là ý nghĩa loại suy từ nghĩa thông báo và
nghĩa tác động.

9


1.2.

huẩn mực ngôn ngữ
Phong cách báo chí là một phong cách chức năng được sử dụng hằng

ngày trên các báo, tạp chí ấn hành cho đông đảo bạn đọc. Báo chí có vai trò
hết sức quan trọng trong việc xác lập chuẩn mực ngôn ngữ cộng đồng.
Ngôn ngữ được coi là cốt lõi của báo chí. Vì vậy, việc quan niệm thế nào là
chuẩn mực ngôn ngữ thật sự cần thiết.
1.2.1. Quan niệm về chuẩn mực ngôn ngữ
Vậy chuẩn hóa ngôn ngữ là gì? ông việc này cần phải được tiến hành
như thế nào và bao gồm những yếu tố nào? Trước khi trả lời câu hỏi này,
chúng ta cần xác định rõ khái niệm “chuẩn mực” mà cụ thể hơn là khái
niệm “chuẩn mực ngôn ngữ”. Xoay quanh khái niệm này có rất nhiều ý
kiến khác nhau của các nhà ngôn ngữ học. Tại Việt Nam, chuẩn ngôn ngữ
cũng là một vấn đề được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm:
Tác giả Hoàng Tuệ trong bài tổng kết Hội nghị Giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt về mặt từ ngữ coi: “ huẩn mực, nói một cách khái quát, là
cái đúng.

ó là cái đúng có tính chất chung chung, tính chất bình thường,


được mọi người trong một cộng đồng ngôn ngữ chấp nhận ở một giai đoạn
lịch sử nhất định trong quá trình phát triển lịch sử của ngôn ngữ. ái đúng
ấy được xác định theo một tập hợp những quy tắc nhất định thuộc các phạm
vi phát âm, viết chữ, dùng từ, cấu tạo từ mới và đặt câu…” [29].
òn đối với Nguyễn Hữu

ạt: “ huẩn trước hết phải là những thói

quen giao tiếp ngôn ngữ được định hình về mặt xã hội và được chấp nhận
trong cảm thức của ngôn ngữ của người bản ngữ” [7;17]. Một quy định về
chuẩn ngôn ngữ dù ngặt nghèo đến đâu nhưng nếu không đi được vào ý
thức của cộng đồng, không đi vào những hoạt động thực tiễn thì không thể
trở thành chuẩn mực.
Vũ Quang Hào cho rằng: “ huẩn mực ngôn ngữ được xét trên hai
phương diện: chuẩn phải mang tính chất quy ước xã hội tức là phải được xã

10


hội chấp nhận và sử dụng. Mặt khác, chuẩn phải phù hợp với quy luật phát
triển nội tại của ngôn ngữ trong từng giai đoạn lịch sử” [14; 21].
ác quan điểm trên tuy có những đặc điểm khác nhau về câu chữ song
tựu trung lại thì chúng vẫn thống nhất với nhau ở hai điểm chính:
Thứ nhất, chuẩn mực ngôn ngữ là mẫu ngôn ngữ chung được cả cộng
đồng xã hội lựa chọn và sử dụng.

huẩn có tính chất xã hội nhưng cũng

chấp nhận tính cá nhân trong việc sử dụng ngôn ngữ. huẩn là sự khế ước,
là truyền thống nhưng cũng không loại trừ sự sáng tạo.

Thứ hai, sự ổn định của chuẩn ngôn ngữ chỉ mang tính chất tương đối,
nghĩa là nó cũng có sự thay đổi nhất định tùy thuộc vào điều kiện không
gian, thời gian, phụ thuộc vào cả yếu tố nội tại bên trong ngôn ngữ và các
yếu tố bên ngoài ngôn ngữ (văn hóa, xã hội). Sự chuẩn mực này vừa có tính
kế thừa, vừa có tính phát triển nên không thể lấy cái chuẩn mực của quá
khứ để đánh giá, xem xét cái chuẩn của hiện tại. Nói theo một cách khái
quát hơn là không thể lấy cái chuẩn của thời đại này để áp dụng cho thời
đại khác, cũng như không thể lấy cái chuẩn của không gian này để áp dụng
cho không gian khác.
Như vậy, chuẩn ngôn ngữ chính là những quy ước hình thành một
cách tự nhiên và được đa số thành viên của cộng đồng tuân theo trong một
giai đoạn nhất định của lịch sử. Nó là biểu hiện của sự lựa chọn có ý thức
và có sự chế định của cộng đồng. Do vậy, chuẩn ngôn ngữ thường có tính
ổn định tương đối, tính lựa chọn và tính bắt buộc.
Việc sử dụng các phương tiện ngôn ngữ trong các phong cách chức
năng mới là cái mốc chuẩn cuối cùng. huẩn phong cách đòi hỏi một yêu
cầu cao hơn chuẩn ngữ pháp và chuẩn ngôn ngữ nói chung. Một hiện tượng
ngôn ngữ không chuẩn về ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, chính tả, tất nhiên
không thể coi là chuẩn phong cách được.

11


1.2.2. Một số vấn đề chuẩn hóa tiếng Việt hiện nay
Vấn đề chuẩn hóa là một trong những vấn đề được rất nhiều nhà ngôn
ngữ học quan tâm. ã có rất nhiều cuốn sách cũng như đề tài nghiên cứu về
một số vấn đề chuẩn hóa tiếng Việt hiện nay. Do hạn chế về mặt dung
lượng luận văn, nên trong đề tài này, chúng tôi chỉ hướng đến lỗi từ vựng
và lỗi câu. Vì vậy, trong phần cơ sở lý thuyết về chuẩn hóa tiếng Việt,
chúng tôi xin trình bày hai vấn đề cơ bản có liên quan là: chuẩn hóa từ

vựng và chuẩn hóa ngữ pháp
1.2.2.1 Chuẩn hóa từ vựng
huẩn hóa từ vựng là một trong những việc làm cần thiết hiện nay.
“Từ của tiếng Việt là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền
vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự
do trong lời nói để tạo câu” [3;13]
Trong Hội thảo khoa học Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên
các phương tiện thông tin đại chúng ngày 5-11-2016 , GS.Nguyễn Văn
Khang nói: “ ẩn trọng trong quy định về chuẩn hóa là điều cần thiết nhưng
không nên cẩn trọng đến mức không đưa ra quy định. Bởi chuẩn hóa ngôn
ngữ không phải là nhất thành bất biến mà chỉ mang tính giai đoạn với cách
nhìn “lỗi của hôm qua trở thành chuẩn hôm nay và lỗi hôm nay sẽ là chuẩn
của ngày mai” ( laude Hagirge). Thứ nữa, lý thuyết về chuẩn hóa ngôn
ngữ của ngôn ngữ học hiện đại đã thay đổi, chuẩn hóa quy phạm luận (bó
buộc vào các tiêu chuẩn cứng nhắc để cho là đúng hay sai) đã lùi về quá
khứ và được thay thế bằng chuẩn hóa theo hướng lựa chọn (sự lựa chọn của
những sự lựa chọn, trong khi còn có thể có những sự lựa chọn khác).”
Từ chẳng những là đơn vị cơ bản của từ vựng mà còn là đơn vị cơ bản
của ngôn ngữ nói chung. Khi nói hay viết người ta đều phải sử dụng từ
ngữ.

ể thể hiện ý tưởng của mình, mọi người có thể tự do vận dụng, lựa

chọn, sắp xếp các từ ngữ của bản thân đê tạo ra câu hay lời nói. Mặt khác,
giao tiếp là một hoạt động của xã hội phải tuân theo những yêu cầu chung.
12


Việc đáp ứng những nhu cầu chung của việc dung từ nói riêng và sử dụng
ngôn ngữ nói chung là sự tất yếu.

huẩn hỏa từ vựng tiếng Việt là những quy định về cách sử dụng sao
cho chính xác với tư duy của người Việt. Muốn làm được như vậy thì cách
dùng từ phải đảm bảo những yêu cầu sau đây:
- “Dùng từ phải đúng âm thanh và hình thức cấu tạo
- Dùng từ phải đúng về nghĩa
- Dùng từ phải đúng về quan hệ kết hợp
- Dùng từ phải đúng với phong cách ngôn ngữ của văn bản
- Dùng từ phải đảm bảo tính hệ thống của văn bản
- Dùng từ cần tránh hiện tượng lặp từ, thừa từ không cần thiết và bệnh
sáo rỗng công thưc [30]
ảm bảo được những yêu cầu này chính là tuân thủ những chuẩn mực
về sử dụng từ tiếng Việt.
1.2.2.2 Chuẩn ngữ pháp
Trong ngôn ngữ, ngữ pháp chiếm vị trí trung tâm nhưng luôn được
thể hiện một cách dán tiếp. Mối quan hệ giữa ngữ pháp với thực tế không
chỉ được thực hiện thông qua từ vựng. Muốn lĩnh hội ngữ pháp thì không
có con đường nào khác là phải thông qua ngữ âm. [9; 253-254]
a số các nhà ngôn ngữ học đều quan niệm ngữ pháp là những
nguyên tắc cấu tạo từ và câu trong một ngôn ngữ và ngữ pháp học là bộ
môn nghiên cứu những quy tắc cấu tạo từ và câu trong ngôn ngữ.
Như vậy, nếu tư duy một cách logic, ta sẽ thấy rằng việc chuẩn hóa
ngữ pháp trong tiếng Việt cũng cần được tiến hành trên hai bình diện từ và
cú pháp. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà một số người quan niệm rằng
đối với người Việt bản ngữ thì việc sử dụng sai từ pháp rất hy hữu, thậm
chí là không có. Vì thế, đối tượng chuẩn hóa ngữ pháp tiếng Việt cần được
thu gọn lại trong khuôn khổ cú pháp, tức là câu.

13



“ âu trong tiếng Việt bị chi phối bởi hai loại quan hệ: Quan hệ hướng
nội là quan hệ giữa các yếu tố cấu thành câu và quan hệ hướng ngoại là
quan hệ giữa câ và các yếu tố khác ngoài câu (với câu khác hay với toàn bộ
văn bản)” [30; 148].

ối với từng mối quan hệ lại có những yêu cầu cần

tuân thủ trong quá trình tạo câu. iều này có thể xem như là những tiêu chí
quy định đối với việc sử dụng câu tiếng Việt một cách đúng đắn.
 Xét theo quan hệ hướng nội:
- âu phải viết đúng quy tắc ngữ pháp tiếng Việt.
- âu phải có quan hệ ngữ nghĩa phù hợp với tư duy của người Việt.
- âu phải có thông tin mới.
 Xét quan hệ hướng ngoại:
- âu đặt ra phải phục vụ cho mục đích giao tiếp của văn bản (có nội
dung phù hợp với nội dung chung của văn bản).
- âu đặt ra phải phù với với quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp.
- âu đặt ra phải phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. [30;148-156]
1.3. Lỗi ngôn ngữ
Việc xác định khái niệm lỗi ngôn ngữ là gì và những dạng lỗi ngôn
ngữ có trong tiếng Việt là điều kiện rất quan trọng để thực hiện mục tiêu
mà đề tài đã đặt ra.

ây chính là cơ sở lý thuyết cơ bản để chúng tôi tiến

hành đề tài nghiên cứu này.
1.3.1. Quan niệm về lỗi ngôn ngữ
Bất kỳ một ký hiệu ngôn ngữ nào đều mang tính lưỡng diện, tức là tồn
tại dưới dạng một tập hợp có hai mặt (cái biểu đạt và cái được biểu đạt). Sự
kết hợp giữa sở biểu và năng biểu tạo cho ký hiệu một ý nghĩa nào đó và

quá trình kết hợp đó được gọi là mã hóa và quá trình ngược lại là phân tích
ký hiệu để đọc được ký hiệu của nó, được gọi là giải mã.

14


Mã hóa

Người phát tin

Người nhận tin

Giải mã

ối với các ký hiệu nói chung thì sự tương ứng giữa sở biểu và năng
biểu là tương ứng 1 – 1, nhưng ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu đặc biệt
có tính đa trị, tức là một cái được biểu đạt có thể gắn với nhiều cách biểu
đạt. Vì vậy, quá trình giải mã sẽ phức tạp hơn nhiều so với quá trình mã
hóa. Mặt khác, ký hiệu ngôn ngữ hình thành từ sự thỏa thuận của cộng
đồng, tính quy ước rất cao nên để nó có giá trị thì nó cần phải được sự chấp
nhận và tiếp thu của cả cộng đồng.
Trong một số trường hợp, ký hiệu ngôn ngữ được mã hóa song do một
số nguyên nhân, quá trình giải mã gặp khó khăn, ảnh hưởng đến việc tri
nhận cái mà ký hiệu ngôn ngữ biểu đạt. Do đó, lỗi ngôn ngữ xuất hiện. ụ
thể hơn, theo Phạm Hồng Văn trong “Khảo sát các lỗi ngôn ngữ trên báo
Hà Nội Mới” (2005): lỗi ngôn ngữ là những thể hiện ngôn ngữ làm người
tiếp nhận thông tin sai, không hiểu hặc không chấp nhận, bởi vì nó không
phù hợp với chuẩn mực chung mà cộng đồng đã lựa chọn và chấp nhận”
[30;15].
Lỗi ngôn ngữ xuất hiện trên tất cả các bình diện của ngôn ngữ như

ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách, văn bản… Khi xác định lỗi, chúng
ta cần phải nắm rõ các chuẩn mực ngôn ngữ ở từng bình diện. Việc phát
hiện và xác định lỗi là việc đòi hỏi sự thận trọng, kĩ lưỡng nhưng không có
nghĩa là tuân theo quy tắc một cách rập khuôn, cứng nhắc. Hơn nữa, tính đa
trị của ngôn ngữ cho phép người sử dụng có thể sáng tạo mang dấu ấn,
15


phong cách cá nhân, mặc dù không phù hợp với yêu cầu chuẩn mực ngôn
ngữ. Nhưng hiện tượng này được coi là lệch chuẩn nhưng nó không được
xem là lỗi.
Ngôn ngữ luôn tồn tại trong hệ thống giá trị hữu hạn, nó có thể có giá
trị với cộng đồng này nhưng lại vô nghĩa trong cộng đồng khác. Vì thế,
luận văn của chúng tôi chỉ giới hạn trong khuôn khổ lỗi sử dụng tiếng Việt
trên bình diện sử dụng từ và bình diện sử dụng câu.
1.3.2. Một số lỗi thường gặp trong sử dụng tiếng Việt hiện nay
1.3.2.1. Lỗi từ vựng
GS.TS Nguyễn Văn Khang (Viện Ngôn ngữ học) dẫn chứng sự hào
phóng trong sử dụng ngôn ngữ dẫn đến làm sai lệch thông tin trên nhiều tờ
báo (nhất là báo mạng) trong Hội thảo khoa học Giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt trên các phương tiện thông tin đại chúng ngày 5-11-2016: “ hưa
bao giờ từ tuyệt vời được sử dụng với tần số cao như hiện nay. Trong tiếng
Việt, có 3 từ chỉ mức độ cao hay được sử dụng là rất, quá, lắm nhưng giờ
đây lại được cấp thêm những từ cực kì, cực, thậm chí còn có cả trên cả
tuyệt vời, bá đạo, vãi. Nếu theo truyền thống thì vua, vương, hoàng
hậu mỗi thời chỉ có một nhưng nay lại còn sử dụng như vua bóng đá, nữ
hoàng nhạc nhẹ, ông hoàng nhạc Pop…”.
Lỗi từ vưng là dạng lỗi sử dụng từ không đúng với chuẩn mực, không
đáp ứng những nhu cầu đặt ra khi dùng từ trong tiếng Việt.
Nghiên cứu về lỗi từ vựng đòi hỏi phải xem xét rất nhiều các phương

diện khác nhau của từ như: hình thức, âm thanh, ngữ nghĩa, khả năng kết
hợp, phong cách…
Vấn đề này nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Tìm hiểu về quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy sự tồn
tại xu hướng sau đây về việc xác định các lỗi sử dụng tiếng Việt:
Tác giả Nguyễn

ức Dân trong cuốn “Tiếng Việt (dùng cho đại học

đại cương)” [5] cho rằng lỗi về từ trong văn bản bao gồm hai dạng cơ bản:
16


Lỗi liên quan đến từ Hán Việt và lỗi từ đồng âm gây ra sự hiểu nhầm về
nghĩa. Theo chúng tôi, quan điểm này mới chỉ nêu lên hiện tượng bề nổi
chứ chưa đi sâu vào bản chất các lỗi để phân loại và hệ thống hóa các lỗi về
sử dụng tiếng Việt một cách đầy đủ.
ác tác giả Hồ Lê, Trần Thị Ngọc Lang, Tô

ình Nghĩa trong cuốn

sách “Lỗi từ vựng và cách khắc phục” [22] đưa ra một danh sách lỗi bao
gồm 9 lỗi: lỗi viết sai, lỗi hiểu sai, lỗi dùng sai chức năng ngữ pháp, lỗi
phối hợp không ăn khớp với các đơn vị từ vựng khác, lỗi về tu từ, lỗi về
phong cách, lỗi về ý – tình huống, lỗi về chuẩn đạo đức cho hành vi nói
năng. Mặc dù liệt kê ra rất nhiều thể loại nhưng danh sách lỗi của các tác
giả này đưa ra “vừa thiếu lại vừa thừa”. Nếu lấy đây là cơ sở nghiên cứu và
khảo sát lỗi sử dụng từ tiếng Việt thì kết quả thu được sẽ rất hạn chế.
Trong cuốn “Tiếng Việt thực hành” [30], các tác giả Bùi Minh Toán,
Lê , ỗ Việt Hùng đưa ra các lỗi về sử dụng tiếng Việt như sau: lỗi về âm

thanh và hình thức cấu tạo của từ, lỗi về nghĩa của từ, lỗi về sự kết hợp từ
và lỗi về phong cách khi dùng từ.
ũng bao gồm những lỗi tương tự như trên quan điểm của Hà Quang
Năng đưa tỏng cuốn “Từ điển lỗi dùng từ” [25] và Nguyễn Thị Kha Ly
trong cuốn “Dùng từ, viết câu và soạn thảo văn bản” [23] còn bổ sung thêm
lỗi lặp từ, thừa từ và thiếu từ để hoàn thiện hệ thống lỗi từ vựng tiếng Việt.
1.3.2.2. Lỗi câu
a. Tác giả Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp trong “Tiếng Việt
thực hành” [28] có nêu ra một số lỗi về câu khi tạo lập văn bản văn bản
như sau:
(i) ác lỗi về cấu tạo câu
- Thiếu các thành phần nòng cốt của câu: âu thiếu chủ ngữ, câu thiếu
vị ngữ, câu thiếu thiếu cả chủ ngữ lẫn vị ngữ, câu thiếu bổ ngữ bắt buộc.
- Thiếu một vế của câu ghép:
. Thiếu một vế của câu ghép có các vế nối với nhau bằng các hư từ.
17


. Tách những ý liên quan mật thiết với nhau thành các câu đơn trong
khi văn cảnh hoặc hoàn cảnh giao tiếp đòi hỏi trình bày những ý đó trong
một câu ghép.
- Thể hiện sai quan hệ ngữ nghĩa giữa các bộ phận trong câu: ác bộ
phận trong câu ở đây được hiểu là các thành phần trong câu hay các vế
trong một câu ghép. ác lỗi sai thường gặp là những lỗi về sử dụng cặp kết
từ không thể hiện đúng những quan hệ ngữ nghĩa có thể có giữa các vế câu
ghép.
- Sắp xếp sai trật tự từ: Sắp xếp sai trật tự từ thường làm cho câu phản
ánh sai lạc ý của người viết hoặc làm cho câu trở nên mơ hồ về nghĩa, tức
là hiểu theo cách nào cũng được.
- Thiết lập sai quan hệ ngữ pháp giữa các bộ phận trong câu: Thiết lập

sai quan hệ ngữ pháp giữa các bộ phận trong câu nghĩa là thiết lập quan hệ
ngữ pháp nhất định giữa những bộ phận không thể có kiểu quan hệ ấy,
khiến cho câu lủng củng, tối nghĩa.
(ii) ác lỗi về dấu câu
- Ngắt câu sai quy tắc:
. Không đánh dấu ngắt câu khi câu đó kết thúc
.

ánh dấu ngắt câu ở chỗ câu chưa kết thúc

- Vi phạm quy tắc ngắt các bộ phận của câu:
. Không đánh dấu cần thiết để ngắt các bộ phận của câu
. Ngắt sai quy tắc các bộ phận của câu
- Lẫn lộn chức năng của các dấu câu
b. ông trình nghiên cứu “Tiếng Việt thực hành” của nhóm các tác giả
Bùi Minh Toán, Lê

,

ỗ Việt Hùng [30] cũng có đề cập đến một số lỗi

thường mắc phải về câu như sau:
(i) Lỗi về cấu tạo ngữ pháp
- âu không đủ thành phần
- âu không phân định rõ các thành phần
18


×