Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

BÁO CÁO THU HOẠCH CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN THCS MODUL 14, 18, 22, 20

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.07 KB, 55 trang )

BÁO CÁO THU HOẠCH
CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC
I. Thông tin cá nhân
1. Họ và tên: ........................
Giới tính: Nữ
2. Ngày tháng năm sinh: ........................ Năm vào ngành giáo dục................
3. Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Văn –Sử
4. Tổ chuyên môn: Khoa học xã hội
Môn dạy: Lịch sử khối 6 – 7 – 8 - 9; GDCD 8.
5. Trình độ ngoại ngữ: Chứng chỉ B
Trình độ tin học: Chứng chỉ B
6. Chức vụ: Giáo viên
Nội dung bồi dưỡng 2: Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên. Các
nội dung về đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục địa phương
theo năm học
Chuyên đề : Sử dụng di sản văn hoá trong dạy học lịch sử ở trường THCS
Phần 1.Nhận thức việc tiếp thu nội dung kiến thức và kỹ năng
1.1. Những nội dung cơ bản về di sản
1.1.1. Khái niệm về di sản
Di sản văn hoá Việt Nam bao gồm di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể
bao gồm di sản văn hoá và di sản thiên nhiên là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị
lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
1.1.2. Đặc điểm của di sản văn hoá Việt Nam
Di sản văn hoá Việt Nam là những giá trị kết tinh từ sự sáng tạo văn hoá của cộng đồng
các dân tộc anh em, trải qua một quá trình lịch sử lâu đời, được lưu truyền, kế thừa, tái
sáng tạo từ nhiều thế hệ cho tới ngày nay, là bức tranh đa dạng văn hoá, là tài sản quý
báu của dân tộc.
Di sản văn hoá Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu và kế thừa
từ các nền văn hoá và văn minh của nhân loại.
1.1.3. Phân loại di sản


Di sản văn hoá Việt Nam bao gồm hai loại: di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá
vật thể. Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, khoa học, bao gồm
di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, bảo vật quốc gia... Di sản văn hoá vật thể
bao gồm : di tích lịch sử - văn hoá ; danh lam thắng cảnh; di vật; cổ vật; Bảo vật quốc
gia. Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng, cá nhân,
không gian văn hoá liên quan, có giá trị lịch sử, khoa học, thể hiện sâu sắc của cộng
đồng, không ngừng được tái tạo, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền
miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Di sản văn hoá phi vật thể bao
1


gồm như tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian gồm sử thi, ca dao, dân ca, truyện cổ
tích, truyện cười...; nghệ thuật trình diễn dân gian như âm nhạc, múa hát; tập quán xã
hội; lễ hội; nghề thủ công truyền thống; trí thức dân gian;
1.2. Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học, giáo dục
Di sản là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan quý giá trong dạy học
nói riêng, giáo dục nói chung. Vì vậy, sử dụng di sản trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông có ý nghĩa quan trọng.
+ Góp phần đẩy mạnh hướng hoạt động nhận thức của học sinh.
+ Giúp học sinh phát triển kỹ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức.
+Kích thích sự hứng thú học tập của học sinh.
+ Phát triển trí tuệ của học sinh.
+ Giáo dục nhân cách cho học sinh.
+ Góp phần phát triển một số kỹ năng sống ở học sinh: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nghe
chú ý, tích cực, kỹ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng, kỹ năng tư duy phê phán; kỹ năng
nhận trách nhiệm; kỹ năng đặt mục tiêu; kỹ năng tìm hiểu, xử lý thông tin; kỹ năng
quản lí thời gian.
+ Tạo điều kiện tổ chức quá trình hoạt động của giáo viên và học sinh một cách hợp lý.
1.3. Sử dụng di sản trong dạy học tích cực
1.3.1. Những yêu cầu về sử dụng di sản trong dạy học tích cực:

- Sử dụng di sản phải đảm bảo chương trìnhgiáo dục phổ thông và mục tiêu giáo
dục di sản.
- Xác định nội dung và thực hiện các bước chuẩn bị chu đáo: Công việc chuẩn bị
( Nội dung, phương tiện, thời gian); Tiến hành hoạt động đối với di sản ( Ghi chép, quan
sát..); Kết thúc hoạt động; Đánh giá hoạt động;
- Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, tạo điều kiện để học sinh được
trải nghiệm.
- Kết hợp đa dạng các hình thức thể hiện.
1.3.2. Một số phương pháp dạy học tích cực sử dụng di sản:
- Một số phương pháp truyền thống theo tinh thần đổi mới bao gồm trình bày
miệng, sử dụng đồ dùng trực quan.
- Sử dụng phương pháp, phương tiện dạy học hiện đại bao gồm dạy học nêu vấn đề,
dạy học theo dự án, dạy học ứng dụng công nghệ thông tin.
1.3.3. Cách hình thức dạy học, tổ chức hoạt động giáo dục đối với di sản:
1.3.3.1. Khai thác sử dụng tài liệu về di sản để tiến hành bài học ở trường phổ thông.
1.3.3.2. Tiến hành bài học tại nơi có di sản
*Để tiến hành bài học tại nơi có di sản, giáo viên cần đảm bảo các yêu cầu sau:

2


- Thứ nhất: Đảm bảo tốt công tác chuẩn bị( nội dung, địa diểm, kế hoạch...
- Thứ hai: Nội dung bài học tại di sản phải đảm bảo tính chính xác, bám sát
nội dung mà di sản phản ánh.
- Thứ ba: Bài học tại địa điểm có di sản phải phải phát triển được các hoạt động
nhận thức tích cực, độc lập óc quan sát, đặc biệt là tư duy độc lập của học sinh.
- Thứ tư: Bài học tại di sản phải giúp học sinh “ trực quan sinh động” các
chứng tích, hiện vật, phản ánh các kiến thức của môn học mà các em đang tìm hiểu.
- Thứ năm: Phải tổ chức cho học sinh tự học trong và sau giờ học.
* Các bước tiến hành bài học tại di sản

- GV giới thiệu những nét cơ bản về nội dung kiến thức có liên quan đến di sản.
- Có thể mời 1 cán bộ địa phương,.... trình bày nội dung phù hợp với bài học.
- GV chốt lại những vấn đề chủ yếu, nhất là những vấn đề chủ yếu trong
chương
trình
học.
- Tổ chức tham quan học tập tại nơi có di sản phải được tổ chức chặt chẽ.
- Tổ chức tham quan ngoại khóa - trải nghiệm di sản.
- Sử dụng di sản để tổ chức các hoạt động ngoại khóa.
* Kiểm tra đánh giá việc sử dụng di sản trong dạy học
- Có thể trình bày miệng, hoặc trình bày 1 sản phẩm trên giấy, một bài báo cáo...
- Trong các bài kiểm tra định kỳ, thường xuyên nên thiết kế 1 câu hỏi liên quan...
- Trong quá trình dạy học với di sản, GV có thể hướng dẫn học sinh tự đánh
giá kết quả học tập của mình. GV nên làm mẫu nhận xét. HS có thể bắt đầu bằng
cách viết những suy xét của mình ra giấy hoặc nói với những bạn khác. Sau đó có
thể giúp học sinh tiến tới những hình thức đánh giá phức tạp hơn bằng cách GV
đưa ra những câu hỏi như:
+ Có thể cho tôi biết em đã làm gì khi tiến hành bài học tại địa điểm có di sản?
+ Ấn tượng lớn nhất trong em là gì?
* Quy trình thực hiện một bài học tại di sản
Quy trình được xây dựng trên cơ sở các bước, nội dung và hoạt động của mỗi
bước này hoàn toàn phụ thuộc vào sự sáng tạo của giáo viên. Các hoạt động cần linh
hoạt, không rập khuôn, máy móc. Quy trình này đặc biệt nhấn mạnh vào việc tổ chức
cho học sinh học tập tại di sản, có thể ứng dụng cho các giờ học trên lớp trong điều
kiện giáo viên có sự chuẩn bị tốt về nội dung di sản mình định sử dụng trong tiết học.
+ Bước chuẩn bị cho bài học tại di sản
Học sinh: Tự sưu tầm các tư liệu thông tin liên quan đến chuyên đề dưới sự hướng
dẫn của giáo viên : Hiện vật, ảnh, bài báo, các đoạn văn trong sách.
Sưu tầm trên mạng có kiểm chứng.Hỏi chuyện cha mẹ, anh chị, hàng xóm,... Học sinh
3



tự đánh giá, phân tích các tư liệu đó bằng cách chia sẽ các thông
tin theo nhóm, lớp .
Giáo viên: Đọc và nghiên cứu trước tài liệu về di sản. Soát xét các kiến thức học sinh
đã có liên quan đến bài học. Xem xét học sinh mong muốn gì với bài học. Liên hệ và
phối hợp với các cán bộ phụ trách di sản.
+ Tổ chức hoạt động dạy học: Không bắt học sinh nghe quá nhiều hoặc chỉ thụ động trả
lời câu hỏi của giáo viên. Hãy để học sinh xem, tiếp cận, trải nghiệm cùng di sản.
Tổ chức các hoạt động cho học sinh làm việc nhóm, các hoạt động cần gắn
liền với chủ đề bài học, mục đích bài học và lứa tuổi học sinh.
+ Các hoạt động cụ thể gồm:
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài học thông qua các di sản đã
được lựa chọn để học sinh được trải nghiệm và hưởng thụ
- Giao nhiệm vụ, bài tập thông qua các hoạt động cho từng học sinh hoặc
theo nhóm.
- Giao nhiệm vụ cho học sinh xem, khảo sát,tìm hiểu, hiểu đúng ý nghĩa, giá
trị của di sản, tìm kiếm đúng các thông tin để điền vào phiếu học tập theo chủ đề
bài học đã được soạn sẵn.
- Học sinh có thể ghi lại cảm nhận riêng của mình trong quá trình xem với
từng hiện vật hoặc từng nhóm hiện vật một cách ngắn gọn vào sổ cảm tưởng hoặc
vở của mình.
- Các nhóm học sinh thảo luận và chia sẽ với nhau thông tin, kiến thức mới
và cảm xúc của mình theo những vấn đề mà giáo viên hướng dẫn.
+ Báo cáo kết quả sau khi học tập: Cho học sinh tự trình bày thu hoạch nhóm của mình
Khuyến khích làm việc theo nhóm. Các hoạt động cụ thể bao gồm. Tổ chức thảo luận,
chia sẻ giữa các nhóm trong lớp về những thông tin thuđược trước và trong quá trình đi
thăm di sản. So sánh, liên hệ, đánh giá các nguồn thông tin khác nhau... Mỗi học sinh
tự viết thu hoạch, cảm nhận riêng của mình... Giáo viên chọn ra những bài hay nhất cho
học sinh trình bày. Cho học sinh tự tổ chức trưng bày các sản phẩm làm ra trong cả hai

hoạt động như trên: Các tư liệu, hiện vật sưu tầm được, các sản phẩm thủ công, các bài
thu hoạch, gắn với nội dung trưng bày vừa được xem.
Phần 2. Việc vận dụng kiến thức, kỹ năng đã được bồi dưỡng vào hoạt động nghề
nghiệp thông qua các hoạt động dạy học và giáo dục
Việc tìm hiểu những nội dung về di sản, tầm quan trọng của việc sử dụng di sản, bản
thân cơ bản nắm được có 11 di sản lịch sử ở tỉnh Quảng Bình đem vào giảng dạy trong
chương trình học đó là Di tích khảo cổ Bàu Tró nằm phía bắc thành phố Đồng Hới; Di chỉ
Cồn Nền thuộc thôn Pháp Kệ, xã Quảng Phương, huyện Quảng
Trạch.; Di tích lịch sử thành Lồi Cao Lao Hạ còn gọi là thành khu Túc nằm ở bờ nam
4


sông Gianh, thuộc địa phận làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch.; Di tích thành
nhà Ngo ở xã Uẩn Áo, huyện Lệ Thuỷ; Di tích Hồ Cưỡng ở Nhân Trạch, Bố Trạch; Di
tích Lăng mộ Hoàng Hối Khanh nằm trên một khu đất bằng phẳng, non nước
hữu tình, gần núi An Mã, thuộc thôn Đại Giang, xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy.
Di tích Điện Thành Hoàng Vĩnh Lộc thuộc xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch. Điện thờ
Thượng thư Đại Hành khiển Trần Bang Cẩn ở xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch; Di tích
thành Đồng Hới ở phường Hải Đình, trung tâm thành phố Đồng Hới; Luỹ Trường Dục ở
xã Hiền Ninh, huyện Quảng Ninh; Luỹ Nhật Lệ từ chân núi Đầu Mâu kéo dài đến sông
Nhật Lệ cách Luỹ Trường Dục 10km về phía Bắc; Di tích làng gốm Mĩ Cương ở thành
phố Đồng Hới; Đền Truy Viễn Đường ở xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch; Di tích đền
mẫu Liễu Hạnh nằm dưới chân núi Đèo Ngang, thuộc xã Quảng Đông, Quảng Trạch; Di
tích Đình Làng Thuận Bài ở xã Quảng Thuận; Di tích đình làng Thọ Linh ở thị xã Ba Đồn;
Di tích lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh ở xã Trường Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ; Di tích Đại đội nữ
pháo binh anh hùng ở xã Ngư Thuỷ Trung, huyện Lệ Thuỷ.
Việc tìm hiểu cách thức tiến hành các bài học có sử dụng di sản trong hoạt động
dạy học và giáo dục, đặc biệt trong môn Lịch sử, giúp bản thân có những kỹ năng, hiểu
biết cơ bản để lựa chọn, xây dựng, thiết kế một bài dạy có sử dụng di sản để giúp bài dạy
thêm hiệu quả.Bản thân cũng nắm được các di sản có thể dụng trong quá trình giảng dạy

lịch sử bao gồm
Giáo án minh hoạ có sử dụng lồng ghép di sản trong dạy học
Môn: Lịch sử 9
Tiết theo PPCT: Tiết 44: Bài 29: CẢ NƯỚC TRỰC TIẾP CHIẾN ĐẤU CHỐNG MĨ
CỨU NƯỚC (1965-1973) (MỤC II.2,3; MỤC III.1,2)
I. Mục tiêu bài học
1. Kiến thức
- Cuối 1964->1965, đế quốc Mĩ đã gây chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, nhằm chặn
đứng từ gốc những đòn tấn công của ta ở miền Nam, nhưng với nỗ lực cao nhất, quân và
dân ta đánh trả quyết liệt, buộc đế quốc Mĩ phải tuyên bố ngừng ném bom vô điều kiện
miền Bắc (1/11/1968)
- Miền Bắc thực sự là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn.
- Âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mĩ trong “Việt Nam hoá chiến tranh” buộc đế quốc Mĩ
phải kí Hiệp định Pari(17/1/1973), chấm dứt về danh nghĩa cuộc chiến tranh xâm lược
VN.
- Nhân dân Quảng Bình cũng có những đóng góp to lớn trong cuộc chiến đấu chống Mĩ.
Đặc biệt nhân dân xã Ngư Thuỷ Trung, huyện Lệ Thuỷ với đại đội nữ pháo binh đã bắn
5


rơi nhiều máy bay và phương tiện của chúng khi chúng thực hiện cuộc tiến công bằng
không quân và hải quân.
2. Kĩ năng
- Rèn luyện cho HS kĩ năng phân tích, nhận định, đánh giá các sự kiện lịch sử.
- Kỹ năng tìm kiếm tư liệu, tranh ảnh.
3. Về tư tưởng
- Giáo dục cho HS lòng yêu nước, quyết tâm phấn đấu cho độc lập dân tộc.
- Khâm phục tinh thần chiến đấu ngoan cường của quân và dân ta để bảo vệ độclập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
- Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

- Giáo dục học sinh lòng biết ơn và tự hào về truyền thống anh hùng của quê hương.
II. Chuẩn bị:
1. Chuẩn bị của giáo viên
- Máy chiếu, SGK, SGV, bài soạn.
- Tư liệu về đại đội nữ pháo binh Ngư Thuỷ.
2. Chuẩn bị của học sinh
- Nghiên cứu bài học.
- Bảng nhóm.
- Chuẩn bị hình ảnh, tài liệu về đại đội nữ pháo binh Ngư Thuỷ.
III. Tiến trình bài dạy:
1. Ổn định tổ chức lớp: (1 phút)Kiểm tra sĩ số, sự chuẩn bị của học sinh
2. Kiểm tra bài cũ: (5 phút)
(?) Đế quốc Mĩ đề ra chiến lược chiến tranh cục bộ trong hoàn cảnh nào? Âm mưu mới
và thủ đoạn của đế quốc Mĩ trong “Chiến tranh cục bộ là gì”?
3.Bài mới: (36 phút)
a.Giới thiệu bài: (1 phút)
Trong điều kiện cả nước có chiến tranh, miền Nam vừa giành chiến thắng trong việc
đánh bại chiến tranh cục bộ của Mĩ, thì Mĩ thực hiện chiến tranh không quân và hải quân
bắn phá miền Bắc. Với những nổ lực cao nhất, nhân dân miền Bắc đã chiến đấu quyết
liệt buộc Mĩ ngừng ném bom không điều kiện miền Bắc. Miền Bắc lại trở thành hậu
phương lớn cho miền Nam chiến đấu trong chiến lược mới của Mĩ. Trong khi cả nước
cùng kháng chiến chống Mĩ, nhân dân Quảng Bình nói chung và nhân dân Ngư Thuỷ
6


Trung, huyện Lệ Thuỷ cũng đã có những đóng góp to lớn trong việc bắn rơi máy bay
Mĩ. Để hiểu được những vấn đề trên, cô trò mình cùng tìm hiểu tiếp Bài 29.
b.Nội dung
Hoạt động của GV


Hoạt động của HS

Nội dung ghi bảng
II.Miền Bắc vừa chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại
lần thứ nhất của Mĩ, vừa sản
xuất(1965 – 1968)

Hoạt động 1 : Tìm hiểu
nhân dân miền Bắc vừa
chiến đấu vừa chống
chiến tranh phá hoại,
vừa sản xuất (17 phút)

1. Mĩ tiến hành chiến tranh
không quân và hải quân phá
hoại miền Bắc.
2.Miền Bắc vừa chiến đấu
chống chiến tranh phá hoại,
vừa sản xuất

Hình thức : Cá nhân,
nhóm lớn

*Chủ trương
(?)Miền Bắc đã có những
chủ trương gì trong việc HS Yếu tìm thông -Chuyển mọi hoạt động sang
thời chiến.
thực hiện nhiệm vụ vừa tin trả lời
sản xuất, vừa chiến đấu?

-Thực hiện quân sự hóa toàn
dân.
GV chiếu Slide câu hỏi
Thảo luận nhóm lớn ( 6
phút)
(?)Miền Bắc đã đạt được
những thành tựu gì trong
việc thực hiện nhiệm vụ
vừa sản xuất vừa chiến
đấu ?

-Chuyển kinh tế sang thời
HS làm việc cá nhân chiến.
rồi thảo luận nhóm
làm vào bảng phụ.
Cử đại diện trình
bày. Các nhóm khác
theo dõi, bổ sung
*Thành tích chiến đấu

- Thành tích trong chiến
đấu?

-Bắn rơi nhiều máy bay, loại
khỏi vòng chiến đấu hàng
nghìn giặc lái, bắn chìm 143
tàu chiến.

-Thành tích trong sản
xuất?

GV thu kết quả bảng
nhóm, cho các nhóm đổi
chéo chấm bài với nhau.

->1/11/1968, Mĩ ngừng ném
bom miền Bắc.
*Thành tích sản xuất
7


GV lấy kết quả hai nhóm
đính lên bảng. HS cùng Cả lớp lắng nghe, bổ
nhận xét. GV chiếu kết sung
quả hướng dẫn.

+Nông nghiệp với khẩu hiệu
phấn đấu đạt “Ba mục tiêu “,
diện tích canh tác mở rộng, sản
lượng ngày càng tăng.

GV chiếu các kênh hình
thành tích trong sản xuất,
Cả lớp quan sát
chiến đấu

+Công nghiệp đã kịp thời sơ
tán và ổn định sản xuất.
+Giao thông vận tải

GV giảng : Khi cả nước

trực tiếp chiến đấu chống
Mĩ, nhân dân QB cũng
tham gia, trong đó có Cả lớp quan sát, lắng
nhân dân xã Ngư Thuỷ nghe
Trung mình với đại đội nữ
pháo binh Ngư Thuỷ.
GV chiếu tư liệu về đại
đội nữ pháo binh Ngư
Thuỷ.
GV tích hợp vấn đề môi
trường tình trạng học sinh
ăn quà vặt xả rác trước Cả lớp lắng nghe
tượng đài.
( ?) Các em phải làm gì để
biết ơn những người anh Cá nhân HS Yếu,
hùng đó ? (tích hợp HS Trung bình trả
GDCD)
lời
Hoạt động 3: Tìm hiểu
3.Miền Bắc thực hiện nghĩa
miền Bắc thực hiện
vụ hậu phương lớn
nghĩa vụ hậu phương
lớn (7 phút)
Hình thức: Cá nhân
(?)Miền Bắc đã thực hiện
nghĩa vụ hậu phương lớn
-Chi viện sức người sức của
đối với miền Nam như thế HS Trung bình trả
cho miền Nam

nào?Bằng con đường lời
-Khai thông đường HCM trên
nào?
bộ và trên biển.
GV chiếu tranh Hình 70
8


và giới thiệu
GV giảng: Miền Bắc là Cả lớp quan sát, lắng
hậu phương lớn, luôn chi nghe
viện đầy đử sức người,
sức của cho CM miền
Nam. “Thóc không thiếu
một cân, quân không
thiếu một người”. Tuyến
đường vận chuyển bắc
Nam mang tên Hồ Chí
Minh trên bộ, trên biển
bắt đầu khai thông từ
thàng 5/1959.
GV chiếu slide kênh hình
con đường mòn Trường
Sơn lịch sử và giới thiệu

(?) Các em biết được có Cả lớp quan sát, lắng
những bài thơ nào nói về nghe
Đường Trường Sơn? (tích HS Khá nêu
hợp môn Văn)
GV cho học sinh nghe bài

hát “ Đường Trường Sơn
xe anh qua”, nhạc sĩ Văn
Dũng (tích hợp môn Âm
nhạc)
III. Chiến đấu chống chiến
lược “ Việt Nam hoá chiến
tranh” và “ Đông Dương hoá
chiến tranh”của Mĩ (19691973)

Hoạt động 3: Hướng dẫn
học sinh tìm hiểu âm
mưu, thủ đoạn của Mĩ
khi thực hiện chiến lược
“Việt Nam hóa chiến
tranh” và “Đông Dương
hóa chiến tranh” và
nhân dân chiến đấu
chống lại chiến lược này
(14 phút)

1.Chiến lược “ Việt Nam hoá
chiến tranh”và “ Đông
Dương hoá chiến tranh”của


Hình thức: Cá nhân, cặp
9


đôi, nhóm lớn


HS Yếu nêu

*Hoàn cảnh

(?) Mĩ tiến hành chiến
lược “Việt Nam hoá chiến
tranh” trong hoàn cảnh
nào?

-Mĩ thất bại trong chiến lược
“Chiến tranh cục bộ”.

->Chiến lược “Việt Nam hoá
HS thảo luận cặp chiến tranh” gồm chủ lực nguỵ
đôi. Cử một cặp đôi +Cố vấn+hoả lực
Thảo luận cặp đôi ( 4 trình bày
- Quân đội nguỵ Sài Gòn được
phút)
sử dụng như lực lượng xung
kích ở Đông Dương xâm lược
(?) Mĩ đã thực hiện âm
Lào, Campuchia.
mưu và thủ đoạn gì trong
việc tiến hành xâm lược
- Âm mưu: “Dùng người Đông
“VN hóa chiến tranh”
Dương đánh người ĐD”
1969 –1973?
2.Chiến đấu chống chiến lược

HS làm việc cá nhân “ Việt Nam hoá chiến tranh”
rồi thảo luận nhóm và “ Đông Dương hoá chiến
GV chiếu câu hỏi
vào bảng nhóm. Cử tranh”của Mĩ
Thảo luận nhóm lớn ( 5
đại diện trình bày.
*Thắng lợi chính trị
phút)
Các nhóm khác bổ - 6/6/1969 chính phủ CM lâm
(?) Em hãy trình bày
sung
thời Cộng hoà miền Nam VN
những thắng lợi chính trị
ra đời
của ta trong thời kì “VN
hoá chiến tranh”(1969 –
1973)?

- T4/1970, hội nghị cấp cao của
3 nước ĐD họp, thể hiện quyết
tâm đoàn kết chống Mĩ.

(?)Em hãy cho biết những
thắng lợi quân sự của ta
đã đạt được trong năm
1969 – 1973?
GV thu kết quả thảo luận,
lấy hai bài đính lên bảng
lớp, còn lại cho các nhóm
đổi chéo chấm


*Thắng lợi quân sự
Cả lớp lắng nghe

-Từ 30/4 ->30/6/1970, quân đội
ta kết hợp với ND Campuchia
lập nên chiến thắng đường lớn
ở Đông Bắc Campuchia.
- Từ 12/2 ->23/3/1971, chúng
ta lập nên chiến thắng đường 9
Nam Lào.

GV chiếu đáp án hướng
dẫn
10


PHỤ LỤC : TƯ LIỆU VỀ ĐẠI ĐỘI NỮ PHÁO BINH ANH HÙNG ĐÁNH MÁY
BAY MĨ (1965 - 1968)
Từ đó đến nay, chiến công này luôn là một bí ẩn trong những luồng thông tin trái chiều...
Đại tá Trần Sự - nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự Quảng Bình, người khai
sinh ra đội nữ dân quân này là người nắm giữ bí ẩn ấy.
Đóa
hoa
mang
tên “Hung
thần
bên
biển”
Nắm giữ trọng trách Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự Quảng Bình (1954 - 1974), Đại

tá Trần Sự đã đi từ đầu đến cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ với bao trọng trách nặng
nề. Kỷ niệm đẹp nhất trong chiến tranh với ông luôn là đội nữ pháo binh Ngư Thủy anh
hùng do ông lập ra. Khi các nữ dân quân bắn cháy liên tiếp 3 tàu chiến Mỹ đầu năm
1968, rất hiếm người hiểu được chiến công này quan trọng đến thế nào. Đến thăm ông
tại nhà riêng (Đồng Hới, Quảng Bình) để nghe kỹ hơn chiến công lừng lẫy gần 50 năm
trước, ông hóm hỉnh: “Khi tôi xin phép cấp trên để thành lập đội nữ pháo binh Ngư
Thủy, các anh ấy đã gọi đùa tôi là ông Sự “văn nghệ”. Tôi nhủ thầm: Các anh sẽ biết cái
“văn nghệ” này lợi hại thế nào nhanh thôi…”.Năm 1965, Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh
phá hoại miền Bắc Việt Nam bằng không quân và hải quân. Các đơn vị pháo binh bờ
biển của ta khi đối đầu với tàu chiến Mỹ bị lép vế hoàn toàn. Pháo ta không chỉ có tầm
bắn ngắn hơn, mà cả tốc độ bắn và uy lực sát thương đều thua pháo của tàu địch. Loại
vũ khí hiệu quả nhất để tiêu diệt tàu chiến là tên lửa diệt hạm P-15 đến tận năm 1973
mới được Liên Xô viện trợ. Chính vì không có đối thủ trên biển, nên thời kỳ đầu chiến
tranh phá hoại, hải quân Mỹ đã tăng cường, ồ ạt bắn phá miền Bắc bằng hải pháo trên
hạm tàu hải quân. Miền Bắc với đường bờ biển dài đã chịu tổn thất khủng khiếp. Trước
tình hình đó, Bộ Tư lệnh Pháo binh và trường Sĩ quan Pháo binh đã nhận nhiệm vụ
nghiên cứu, thay đổi phương pháp bắn để pháo binh mặt đất có thể tiêu diệt tàu chiến.
Các giáo viên của trường Sĩ quan Pháo binh được chia về các đơn vị chiến đấu để thực
nghiệm phương pháp bắn tàu chiến địch. Sau hơn 2 năm bị tàu chiến Mỹ “vô tư” bắn
phá, đến 13/4/1967, tiểu đoàn 1, trung đoàn pháo binh 204 mới bắn cháy được tàu khu
trục USS Turner Joy (DD-951) của Mỹ tại vùng biển Thanh Hóa. Chiến công này lúc đó
được coi là “vượt sức tưởng tượng”, mà đến giờ vẫn là một mốc son của lịch sử Pháo
binh Việt Nam. Thế nhưng như thế chưa đủ để hải quân Mỹ thay đổi lịch trình.
Song đầu năm 1968, tại biển Quảng Bình, 3 tàu chiến Mỹ bị tiêu diệt chỉ trong vòng một
trăm ngày. Với quân đội Mỹ, đó là cú “sốc” vì theo thông tin trên Đài Tiếng nói Việt
Nam, 3 tàu chiến bất khả chiến bại trên biển Việt Nam bao năm nay bị diệt bởi đội dân
quân toàn con gái, không được đào tạo chính quy. Đến tận bây giờ, vẫn còn thông tin:
Pháo binh chính quy diệt tàu chiến Mỹ lúc đó. Thật ra nói thế cũng không sai, ông Sự
cho biết, không đào tạo chính quy nhưng đội nữ pháo binh Ngư Thủy được huấn luyện
rất đặc biệt, chỉ với mục đích: Bắn cháy tàu chiến Mỹ. Kỳ lạ một điều, bản thân các nữ

11


dân quân cũng không biết là mình được huấn luyện rất đặc biệt, họ cũng không ý thức
được tầm quan trọng của nhiệm vụ đang thực hiện. Có lẽ vì thế mà họ tránh được gánh
nặng tâm lý khi thực hiện nhiệm vụ. Suốt 2 năm phơi mình chịu trận sự bắn phá ác liệt,
dồn dập của tàu chiến Mỹ, những tổn thất của Quảng Bình vô cùng lớn. Đất Quảng Bình
hẹp, tàu chiến Mỹ áp sát bờ biển là gần như toàn bộ những nơi trọng yếu đều nằm trong
tầm ngắm. Cần một cú đánh mạnh, bất ngờ để đẩy những chiếc tàu chiến ra xa bờ biển,
việc này còn giúp cả miền Bắc tránh xa cự ly bắn phá của hải quân Mỹ. Trong điều kiện
khí tài, vũ khí rất “mỏng” lúc đó, nếu muốn một cú đánh “buộc” phải thành công, chỉ có
thể đánh vào điểm yếu là sự tự tin cao độ về sức mạnh của quân đội Mỹ. Đội nữ pháo
binh Ngư Thủy được sinh ra với mục đích đó. Năm 1967, ông Trần Sự đã xin ý kiến cấp
trên cho thành lập đội nữ pháo binh Ngư Thủy. Ông kể: “Sau nhiều lần chưa đồng ý, khi
tôi thuyết phục quá nhiều, được phê chuẩn rồi nhưng cấp trên vẫn coi đây là một quyết
định “văn nghệ”: Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, việc thành lập đội nữ pháo
binh còn thực hiện nhiệm vụ cũng rất quan trọng lúc ấy: Để đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, nêu cao khẩu hiệu “Cả nước cùng đánh Mỹ”. Riêng tôi lại muốn đội nữ pháo
binh
Ngư
Thủy
sẽ

quả
đấm
thép
với
hải
quân
Mỹ”.

Ngày 21/11/1967, Đội nữ pháo binh Ngư Thủy chính thức thành lập. Đại đội có 37 chị
em nữ tuổi từ 16 - 22, đại đội trưởng là chị Ngô Thị The, chính trị viên là chị Trần Thị
Thản, đơn vị chia làm 3 trung đội sử dụng 3 khẩu pháo (một khẩu bị hỏng). Ngay sau
khi thành lập, ông Sự đã lập tức giao cho pháo binh chính quy huấn luyện đơn vị. Để
chuẩn bị cho “cú đấm thép” này, ông Sự còn xin điều động một số chuyên gia quân sự
nước bạn tham gia huấn luyện cho chị em. Sau thời gian luyện tập tác chiến, những
điểm yếu của chị em là bé nhỏ lại trở thành những ưu điểm tuyệt vời. Các thao tác, di
chuyển trong phạm vi hẹp quanh khẩu pháo, trong lô cốt trở lên nhanh hơn bao giờ hết.
Suốt thời gian huấn luyện, không như pháo thủ chính quy, các cô gái chỉ thực hành bắn
mục tiêu di động. Áp Tết Mậu Thân, đích thân ông Sự xuống trận địa pháo của đội nữ
pháo binh truyền đạt trực tiếp mệnh lệnh: “Đại đội pháo binh nữ Ngư Thủy phải tổ chức
trận đánh mở màn thắng lợi, bắn cháy tàu chiến Mỹ”. Ngày 7/2/1968 (tức mùng 6 Tết
Mậu Thân), tin vui báo về Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình: Đội nữ pháo binh Ngư
Thủy đã bắn cháy tàu chiến Mỹ đầu tiên. Đúng như dự đoán, tính toán của ông Sự, sau
Tổng tấn công Tết Mậu Thân, tàu chiến Mỹ áp sát bờ biển hơn nữa nhằm bắn phá, cắt
đường chi viện của miền Bắc. Và chỉ trong thời điểm vàng ấy, những khẩu pháo 85 ly
Ngư Thủy mới nhả đạn chính xác, hoàn tất kế hoạch “nghi binh” kia.
Sau đó, liên tục trong các ngày 17/3 – 16/5/1968, đội nữ pháo binh tiếp tục bắn cháy 2
tàu chiến nữa của Mỹ. Như vậy chỉ trong khoảng
một trăm ngày, đội nữ binh đã bắn cháy 3 tàu chiến
của Mỹ. Thực ra với sức mạnh quân sự hàng đầu cùng máy móc do thám tinh vi, quân
12


đội Mỹ chắc chắn biết đến trận địa pháo tại Ngư Thủy từ trước đó rất lâu. Việc đơn vị
pháo chính quy rút đi, một đơn vị dân quân nữ tiếp quản 4 khẩu pháo 85 ly, chắc chắn
họ cũng biết. Đó là thứ hải quân Mỹ “không thèm” quan tâm. Kể cả tiểu đoàn 1, trung
đoàn pháo binh 204 lập chiến công bắn cháy tàu chiến Mỹ đầu tiên, cũng phải sử dụng 4
khẩu pháo 130 ly. Nếu không có việc “coi thường” này của phía Mỹ, đội nữ pháo binh
chắc chắn khó có thể lập công. Kế hoạch “nghi binh” rồi tung “quả đấm thép”, nhằm

đẩy cự ly bắn phá của tàu chiến Mỹ ra xa bờ biển đã thành công. Trong suốt thời gian
chiến tranh phá hoại của Mỹ, miền Bắc với gần 1.000km bờ biển đã tránh đi được vô
vàn những tổn thất nhờ chiến công này. Gần 50 năm qua, hiếm người biết được việc
này.Ông Trần Sự sinh năm Mậu Thìn (1928), quê làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ
Thủy, tỉnh Quảng Bình (cùng làng với Đại tướng Võ Nguyên Giáp). Trong kháng chiến
chống Mỹ, ông là Tỉnh đội trưởng - Chỉ huy trưởng mặt trận Quảng Bình. Năm 1974,
ông được điều động làm Chủ tịch tỉnh Bình Trị Thiên. Ông nghỉ hưu tại Đồng Hới
(Quảng Bình). Gần 50 năm sau ngày ông Sự xuống trận địa ra mệnh lệnh “Phải bắn
cháy tàu chiến Mỹ”, hình ảnh khiến ông nhớ nhất vẫn là cành mai vàng cắm trong chiếc
lọ hoa làm bằng vỏ pháo 85 ly trên bàn thờ Tổ quốc tại đơn vị lúc ấy. Chắc hình ảnh đẹp
ấy vừa giống những chị em nữ pháo binh Ngư Thủy anh hùng, lại vừa giống kế hoạch
nhằm
diệt
tàu
chiến
Mỹ
hoàn
hảo
năm
xưa.
Ông là con người bình lặng trong đời sống, thế nên những bí ẩn tạo nên chiến công
mang ý nghĩa cực kỳ to lớn của đội nữ pháo binh Ngư Thủy chẳng mấy ai biết. Ông
cười khoan khoái: “Hết chiến tranh rồi, nói chuyện cấy cày thôi, nhắc tới “đánh đấm”
làm chi?”.
4.Củng cố : (3 phút) :
- GV chiếu một số câu hỏi củng cố bài học.
5.Dặn dò: (1 phút)
- Học bài cũ, nắm nội dung của bài.
-BTVN: So sánh điểm giống và khác nhau giữa chiến lược “Chiến tranh cục bộ”và “Việt
Nam hóa chiến tranh”.

- Nghiên cứu mục III, IV.
Phần 3. Tự nhận xét và đánh giá
+ Tiếp thu kiến thức và kỹ năng quy định trong mục đích, nội dung chương trình, tài liệu
BDTX (5 điểm);
Qua việc tìm hiểu những vấn đề chung về di sản, bản thân biết phân loại được các
loại di sản. Bản thân cũng hiểu rõ hơn tầm quan trọng của việc sử dụng di sản trong hoạt
động dạy học, giáo dục. Các di sản văn hoá rất phong phú nhưng chưa được chú trọng và
khai thác. Hơn nữa các di sản ở địa phương sẽ giúp bài dạy của giáo viên thêm hấp dẫn,
13


tăng sức thuyết phục. Còn đối với học sinh giúp các em phát triển tư duy sáng tạo, khả
năng quan sát, giáo dục được nhân cách, đạo đức, niềm tự hào về quê hương. Nhưng
phương pháp của mỗi bài dạy di sản cũng khác nhau.
+ Vận dụng kiến thức BDTX vào hoạt động nghề nghiệp thông qua các hoạt động dạy học
và giáo dục (5 điểm).
Việc sử dụng di sản có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động giáo dục cũng như dạy
học của giáo viên. Đặc biệt đối với bộ môn Lịch sử có thể nói là bộ môn mang tính đặc thù
nhất gắn với các sự kiện lịch sử. Sự kiện lịch sử sẽ được cụ thể hơn nếu giáo viên có thể sử
dụng linh hoạt các di sản trong các tiết dạy trên lớp. Từ việc nắm vững những kiến thức
đó, mà bản thân bước đầu tự thiết kế một giáo án có sử dụng di sản vào bài dạy. Việc sử
dụng giáo án đó, đã giúp cho học sinh yêu thích hơn và tò mò hơn về di sản tại quê hương
mình.
Tự chấm điểm nội dung bồi dưỡng 2
Bằng số: 9 điểm;
Bằng chữ: Chín điểm
Nội dung bồi dưỡng 3: Nội dung bồi dưỡng đáp ứng nhu cầu phát triển nghề
nghiệp liên tục của giáo viên ( 60 tiết/năm học/giáo viên)
Mô-đun TH14: Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp
Phần 1. Nhận thức việc tiếp thu nội dung kiến thức và kỹ năng

1.1. Dạy học tích hợp là gì?
DHTH được hiểu là quá trình dạy học sao cho trong đó toàn bộ các hoạt động học
tập góp phần hình thành ởHS những năng lực rõ ràng, có dự tính trước những điều cần
thiết cho HS, nhằm phục vụ các quá trình học tập tiếp theo và chuẩn bị cho HS bước vào
cuộc sổng lao động. Mục tiêu cơ bản của tư tưởng sư phạm tích hợp là nâng cao chất
lượng giáo dục học sinhphù hợp với các mục tiêu giáo dục toàn diện cửa nhà trường.
1.2. Đặc trưng của dạy học tích hợp
DHTH hướng tới việc tổ chức các hoạt động học tập, trong đó HS học cách sử dụng
phối hợp các kiến thức và kĩ năng trong những tình huống có ý nghĩa gần với cuộc sống.
Trong quá trình học tập như vậy, các kiến thức của HS từ các môn học khác nhau được
huy động và phối hợp với nhau, tạo thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các
mối liên hệ lí luận và thực tiến được đề cập trong các môn học đó. DHTH có các đặc
trưng chủ yếu sau: làm cho các quá trình học tập có ý nghĩa, bằng cách gắn quá trình
học tập với cuộc sống hằng ngày, không làm tách biệt thế giới nhà trường với thế giới
cuộc sổng; làm cho quá trình học tập mang tính mục đích rõ rệt; sử dụng kiến thức của
nhiều môn học và không chỉ dừng lại ở nội dung các môn học.
1.3. Kế hoạch dạy học là gì?
Kế hoạch dạy học là bản chương trình công tác do giáo viên soạn thảo ra bao gồm toàn
bộ công việc của thầy và trò trong suổt năm học, trong một học kì, đối với từng chương
hoặc một tiết học trên lớp.Ta có thể chia kế hoạch dạy học của giáo viên thành hai loại:
Kế hoạch năm học và kế hoạch bài học (còn gọi là giáo án hay bài soạn).
14


1.4. Các yêu cầu của kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp
Yêu cầu đổi với kế hoạch bài học gồm:
-Cấu trúc bài soạn phải bao quát đuợc tổng thể các phuơng pháp dạy học đa dạng
và nhiều chiều, tạo điều kiện vận dụng phối hợp những phương pháp dạy học mềm dẻo
về mức độ chi tiết để có thể thích ứng được với cả những giáo viên đã dày dặn kinh
nghiệm lẫn những giáo viên trẻ mới ra trường hay giáo sinh thực tập sư phạm. Đồng

thời làm nổi bật hoạt động của học sinh như là thành phần cổt yếu.
-Bài soạn phải nêu được các mục tiêu của tiết học. Giáo viên cần phải xác định chính
xác trọng tâm kiến thức kĩ năng của bài dạy trên cơ sở đó có phương pháp dạy phù hợp.
Thông qua phương pháp dạy, cách hỏi, rèn kĩ năng mà thầy giáo có thể rèn luyện bồi
dưỡng phát triển tư duy, phát triển trí thông minh của học sinh. Mục đích yêu cầu sẽ chỉ
đạo toàn bộ nội dung kế hoạch thực hiện bài dạy và chính nội dung bài dạy quy định
mục đích yêu cầu. Chính vì vậy việc xác định mục đích yêu cầu là vấn đề hết sức quan
trọng đòi hỏi sự dụng công, đòi hỏi ý thức trách nhiệm cao của giáo viên lúc soạn bài.
- Bài soạn phải nêu được kết cấu và tiến trình của tiết học, bài soạn phải làm nổi
bật các vấn đề sau: Sự phát triển lô gic từ giai đoạn này đến giai đoạn khác, từ phần kiến
thúc này đến phần kiến thúc khác. Giảng dạy phù hợp với quy luật nhận thức, dẫn giải,
suy luận từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp một cách có hệ thống. Làm rõ sự phát
triển tất yếu từ kiến thức này đến kiến thức khác. Cụ thể là đảm bảo mối liên hệ lô gic
giữa các phần, bảo đảm bài dạy là một hệ toàn vẹn, mỗi phần là một phân hệ, các phân
hệ gắn bó chăt chẽ tạo nên một hệ toàn vẹn.
- Bài soạn phải xác định được nội dung, phương pháp làm việc của thầy và trò
trong cả tiết học: Đây là vấn đề hết sức quan trọng đối với một tiết học. Từ cho giáo
viên nắm vững nội dung kiến thức, vận dụng thành thạo kiến thức đến cho truyền thụ
cho được kiến thức đó đến học sinh, để họ nắm bắt và vận dụng được đòi hỏi ờ người
thầy sự động não, sử dụng công thực sự. Muốn như vậy thầy giáo phải lựa chọn được
phương pháp thích hợp ứng với từng giờ giảng và trong bài soạn phải nêu được một
cách cụ thể công việc của thầy và trò trong tiết học cụ thể. Xác định đồ dùng dạy học và
phương pháp sử dụng chúng.
1.5.Nguyên tắc dạy học theo hướng tích hợp
Việc đưa ra các kiến thức tích hợp vào kế hoạch dạy học cần dựa vào các nguyên
tắc sư phạm sau:
-Không ỉàm thay đổi tính đặc trưngg của môn học, như không biến bài dạy sinh học
thành bài giảng toán học, vật lí, hoá học hay thành bài giáo dục các vấn đề khác (môi
trường, dân số, sức khỏe sinh sản, phòng chổng HIV7 ADDS...). Nghĩa là, các kiến thức
được tích hợp vào phải được tiềm ẩn trong nội dung bài học, phải có mối quan hệ lô gic

chặt chẽ trong bài học.
-Khai thác nội dung cần tích hợp mộtcách có chọn lọc, có tính hệ thống, đặc trưng.
15


Theo nguyên tắc này, các kiến thức tích hợp được đưa vào bài học phải có hệ thống,
được sắp xếp hợp lí làm cho kiến thức môn học thêm phong phú, sát với thực tiễn, tránh
sự trùng lặp, không thích hợp với trình độ của HS, không gây quá tải, ảnh huớng đến
việc tiếp thu nội dung chính.
-Đảm bảo tính vừa sức: DHTH phải phát huy cao độ tính tích cực và vốn sống của
HS. Các kiến thức tích hợp đưa vào bài học phải làm cho bài học rõ ràng và bài học
tường minh hơn, đồng thời tạo hứng thú cho người học.
1.6. Mục tiêu, nội dung, phương pháp của kế hoạch dạy học tích hợp
1.6.1.Mục tiêu cơ bản của kế hoạch dạy học tích hợp
Kếhoạch dạy học tích hợp nhằm nhiều mục tiêu khác nhau, có thể xác định bốn mục
tiêu lớn sau:
-Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa hơn bằng cách đặt các quá trình học tập và
nhận thức trong hoàn cảnh có ý nghĩa đối với HS. Chính vì vậy, việc học tập không
tách rời cuộc sống hằng ngày mà thường xuyên được liên hệ và kết nối trong mối quan
hệ với các tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp trong thực tiễn, những tình huống có ý nghĩa
với HS. Nói một cách khác việc học ở nhà trường hòa nhập vào đời sống thường ngày
của học sinh. Để thực hiện điều này, các môn học học riêng rẽ không thể thực hiện được
vai trò trên mà cần phải có sự đóng góp của nhiều môn học, sự kết hợp của nhiều môn
học.
-Phân biệt cái cốt yếu với cái thứ yếu. Không thể dạy học một cách dàn trải, đồng
đều, các quá trình học tập ngang bằng với nhau. Bên cạnh những điều hữu ích, những
kiến thức và năng lực cơ bản cỏ những thứ được dạy chỉ là “lí thuyết", không thật hữu
ích. Trong khi đó, giờ học trên lớp là có hạn, nhiều kiến thức và năng lực cơ bản không
đủ thời gian cần thiết.Giáo viên nên nhấn mạnh những quá trình học tập cơ bản, chẳng
hạn như: là cơ sở của các quá trình học tập tiếp theo; là những kĩ năng quan trọng hoặc

chúng có ích trong cuộc sống hằng ngày...
-Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống. DHTH chú trọng tới việc thực hành, sử dụng
kiến thức mà HS đã lĩnh hội được, thay vì chỉ học tập lí thuyết mọi loại kiến thức. Mục
tiêu của DHTH là hướng tới việc giáo dục HS thành con người chủ động, sáng tạo, có
năng lực làm việc trong xã hội cũng như làm chủ cuộc sống của bản thân sau này.
-Lập mối liên hệ giữa các khái niệm đã học. Một trong bốn mục tiêu của DHTH là nhằm
thiết lập mối quan hệ giữa những khái niệm khác nhau của cùng một môn học cũng như
của những môn học khác nhau. Điều này sẽ giúp cho HS có năng lực giải quyết các
thách thức bất ngờ gặp trong cuộc sống, đòi hỏi người đối mặt phải biết huy động những
năng lực đã có không chỉ ở một khía cạnh mà nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết..
1.6.2.Các quan điểm trong nội dung dạy học tích hợp
Có bốn quan điểm khác nhau trong liên kết, tích hợp các môn học:
-Quan điểm trong “Nội bộ môn học". Theo quan điểm này chỉ tập trung chủ yếu
16


vào nội dung của môn học. Quan điểm này nhằm duy trì các môn học riêng rẽ.
-Quan điểm “đa môn". Quan điểm này theo định hướng: những tình huống, những
“đề tài", nội dung kiến thức nào đó được xem xét, nghiên cứu theo những quan điểm
khác nhau nghĩa là theo những môn học khác nhau. Ví dụ, nghiên cứu giải bài Toán theo
quan điểm Toán học, theo quan điểm Vật lí, Sinh học. Quan điểm này, những môn học
tiếp tục tiếp cận một cách riêng rẽ và chỉ gặp nhau ở một số thời điểm trong quá trình
nghiên cứu các đề tài. Như vậy, các môn học chưa thực sự được tích hợp.
-Quan điểm “liên môn", trong đó chúng ta đề xuất những tình huống chỉ có thể
được tiếp cận một cách hợp lí qua sự soi sáng của nhiều môn học. Ví dụ, câu hỏi “Tại
sao phải bảo vệ rừng?" chỉ có thể giải thích được dưới ánh sáng của nhiều môn học:
Sinh học, Địa lí, Toán học... Ở đây chứng ta nhấn mạnh đến sự liên kết giữa các môn
học, làm cho chúng tích hợp với nhau để giải quyết một tình huống cho trước: Các quá
trình học tập sẽ không được để cập một cách ròi rạc mà phải liên kết với nhau xung
quanh những vấn đề phải giải quyết.

-Quan điểm “xuyên môn", trong đó chúng ta chủ yếu phát triển những kĩ năng mà
học sinh có thể sử dụng trong tất cả các môn học, trong tất cả các tình huổng, chẳng hạn,
nêu một giả thiết, đọc thông tin, thông báo thông tin, giải một bài toán... Những kĩ năng
này chúng ta gọi là những kĩ năng xuyên môn, có thể lĩnh hội được những kĩ năng này
trong từng môn học hoặc nhân dịp có những hoạt động chung cho nhìỂu môn học.
Trong bốn quan điểm trên, mọi quan điểm có những mặt mạnh và khó khăn, vì vậy khi
áp dụng cần hết sức lưu ý tới những đặc điểm. Tuy nhiên yêu cầu của xã hội và dạy học
ngày nay đòi hỏi chúng ta phải hướng tới hai quan điểm liên môn và xuyên môn. Quan
điểm liên môn cho phép việc phối hợp kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học để nghiên
cứu và giải quyết một tình huống. Quan điểm xuyên môn cho phép phát triển ở học sinh
những kiến thức, kĩ năng xuyên môn để có thể áp dụng trong mọi tình huống, giải quyết
vấn đề.
1.6.3.Phương pháp dạy học tích hợp
Phương thức tích hợp đưa ra 2 dạng tích hợp cơ bản, mỗi một dạng lại đưa ra 2 cách
thức tích hợp, được thể hiện như sau:
Dạng tích hợp thứ nhất đưa ra những ứng dụng chung cho nhiều môn học (chẳng
hạn các vấn đề năng lượng, bảo vệ môi trường...). Dạng tích hợp này vẫn duy trì các
môn học riêng rẽ, trong khi các ứng dụng chung được tích hợp vào những thời điểm
thích hợp. Đây là cách tích hợp được vận dụng phổ biến.Các thời điểm để thực hiện đó
là:
Cách thứ nhất: Những ứng dụng chung cho nhiều môn học được thực hiện ở cuối
năm học hay cuối cấp học trong một bài học hoặc một bài tập tích hợp.
Cách thứ hai: Những ứng dụng chung cho nhiều môn học được thực hiện tương
đối đều đặn trong suốt năm học, trong các tình huống thích hợp.Với dạng tích hợp thứ
17


nhất này, định hướng vẫn là đa môn (các đơn nguyên tích hợp đòi hỏi sự đóng góp của
những môn học khác nhau) và liên môn (chúng ta xuất phát từ một tình huống tích hợp),
tuy nhiên vẫn chưa phải là xuyên môn bởi vì các đơn nguyên tích hợp chưa dựa trên sự

phát triển các kĩ năng xuyên môn: những ứng dụng vẫn phục vụ cho những môn học
khác nhau.
Dạng tích hợp thứ hai: Phối hợp các quá trình học tập của nhiều môn học khác
nhau. Dạng tích hợp thứ hai thường dẫn đến phải phối hợp quá trình dạy học của các
môn học. Dạng tích hợp này nhằm hợp nhất hai hay nhiều môn học thành một môn học
duy nhất. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu xây dựng chương trình và tài liệu học tập
phù hợp thườngphức tạp. Có thể nêu lên về nguyên tắc thứ hai cách tích hợp theo hướng
này như sau:
Cách thứ nhất: Phối hợp quá trình học tập những môn học khác nhau bằng đề tài tích
hợp. Theo đó người ta nhóm các nội dung có mục tiêu bổ sung cho nhau thành các đề tài
tích hợp, trong khi các môn học vẫn giữ nguyên những mục tiêu riêng;
Những giới hạn của cách tiếp cận bằng đề tài tích hợp:
+ Cũng như mọi phương pháp giảng dạy dựa trên sự phát triển các đề tài, cách tiếp cận
này không bao giờ đảm bảo rằng học sinh thực sựcó khả năng đối phó với một tình
huống thực tế. Cách tiếp cận này chủ yếu có giá trị trong giảng dạy ở tiểu học, ở đó
những vấn đề phải xử lí thường là tương đối giới hạn và đều có thể nêu trong những đề
tài đơn giản.Khó có thể tích hợp theo cách này những môn học đòi hỏi những sự phát
triển logic móc nối với nhau, như những giáo trình toán học, ngôn ngữ thứ hai, vật lí
hoặc hoá học (chủ yếu những giáo trình ở trung học), và trong đó không thể có “lỗ
hỏng", nghĩa là trong những môn học đó có những giai đoạn lô gic phải tôn trọng trong
quá trình học tập.
+ Cách tiếp cận này càng khó thực hiện hơn với những môn học trong đó những trường
khái niệm rất phức tạp, và mức độ tự do để đề cập các nội dung khác nhau theo cách này
hoặc cách khác là giới hạn (chẳng hạn những môn học ờ trung học nêu ở trên).
+ Những môn học do những chuyên gia giảng dạy (chẳng hạn môn Giáo dục sức khỏe
hay môn Đạo đức ở một số nước) cũng rất khó đưa vào cách tiếp cận này.
+Cuối cùng cách tiếp cận này chỉ đáng chú ý nếu chúng ta muốn phát triển những kĩ
năng xuyên môn thông qua các giáo trình: tìm thông tin, giải các bài toán, phát triển óc
phê phán... Nếu như đó là một giới hạn trong phạm vi một môn học, đó cũng là một
quan điểm mạnh khi sự phát triển các kĩ năng xuyên môn là cần cho việc giáo dục học

sinh.
Cách thứ hai: Phối hợp quá trình học tập những môn học khác nhau bằng
tình huống tích hợp, theo đó các môn học được tích hợp xung quanh những mục tiêu
chung. Những mục tiêu chung này gọi là các mục tiêu tích hợp. Dạng tích hợp này có
nhiều ưu điểm là nó dạy cho học sinh giải quyết các tình huống phức hợp bằng cách vận
18


dụng kiến thức từ nhiều môn học trong một tình huống gần với cuộc sống. Như vậy,
phương pháp chính của cách tích hợp này là tìm những mục tiêu chung cho các môn
học, đặt ra mục tiêu tích hợp giữa các môn học. Những tình huống tích hợp đòi hỏi học
sinh phải tìm cách giải quyết bằng sự phối hợp những kiến thức lĩnh hội được tù nhiều
môn học khác nhau. Đây là phương pháp điển hình cửa DHTH bời vì: Dạng tích hợp
này dạy cho học sinh giải quyết những tình huống phúc tạp, vận dụng nhiều môn học.
Tích hợp được nhiều kiến thức và kĩ năng cửa các môn học để đạt được mục tiêu tích
hợp cho những môn học đó.
Phần 2. Việc vận dụng kiến thức, kỹ năng đã được bồi dưỡng vào hoạt động nghề
nghiệp thông qua các hoạt động dạy học và giáo dục
Từ việc hiểu biết được những kiến thức của việc lập kế hoạch dạy học tích hợp đối với
hoạt động dạy và học hiện nay, bản thân cũng tự xây dựng cho mình một kế hoạch dạy học
cho bộ môn Lịch Sử mình đang trực tiếp giảng dạy.
Bản thân đã thực hiện được một kế hoạch dạy học tích hợp của một bài học trong chương
trình Lịch sử 9 tích hợp các môn: Âm nhạc, Giáo dục công dân, Địa lý, Văn học.
Tiết 36: Bài 27: CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM
LƯỢC KẾT THÚC (1953 - 1954) (Mục II.2, IV)
I. Mức độ cần đạt
1.Kiến thức: Qua bài học này, học sinh nắm được:
- Diễn biến, kết quả, ý nghĩa của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
- Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.
*Lưu ý: Mục III hướng dẫn đọc thêm, chỉ cho học sinh nắm nội dung, ý nghĩa của Hiệp

định Giơ – ne – vơ.
2. Kỹ năng
- Có kỹ năng sử dụng bản đồ, mô tả diễn biến chiến dịch trên lược đồ và phân tích, nhận
định tình hình qua lược đồ chiến dịch Điện Biên Phủ 1954.
-Xác định được vị trí địa lí của Điện Biên Phủ trên bản đồ và thấy được Điện Biên Phủ
có một vị trí chiến lược rất quan trọng với cả ta và Pháp.
- Sưu tầm tài liệu, liên hệ thực tiễn cuộc sống.
3.Thái độ:
-Qua chiến thắng của quân dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, bồi
dưỡng lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, tình đoàn kết dân tộc và niềm tin vào sự
lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, và niềm tự hào dân tộc.
- Giáo dục lòng tự hào về thắng lợi to lớn của địa phương từ đó thêm yêu quê hương, có
tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc trong địa phương.
19


- Có thái độ đúng đắn và có trách nhiệm trước vận mệnh to lớn của quê hương, đất
nước.
-Tích hợp kiến thức liên môn
*Môn Địa lý:
- Tích hợp với Tiết 19,20. Bài 17, 18: Vùng Trung Du và miền núi Bắc Bộ, trang 61, 67
để xác định vị trí, giới thiệu về Điện Biên Phủ.
*Môn GDCD:
- Tích hợp môn GDCD lớp 9: Tiết 31. Bài 17: Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. (Trang 61)
+ Trong chiến dịch Điện Biên Phủ có rất nhiều tấm gương anh dũng hi sinh vì tổ quốc.
Hãy kể tên các tấm gương anh hùng đó?
*Môn Âm nhạc:
- Học sinh kể tên một số ca khúc nói về Điện Biên như Hò kéo pháo của nhạc sĩ Hoàng
Vân, Giải phóng Điện Biên của nhạc sĩ Đỗ Nhuận.
*Môn Văn học:

- Học sinh kể tên được một số tác phẩm thơ nói về Điện Biên: Hoan hô chiến sỹ Điện
Biên của Tố Hữu, Một chiều hè lịch sử của Trần Đăng Khoa.
4. Ý nghĩa của bài học
Thông qua bài dạy này ngoài việc cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản theo
chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học,chúng tôi còn vận dụng việc dạy học tích hợp liên
môn để giúp học sinh giải quyết những tình huống có vấn đề của môn học. Việc tích hợp
các kiến thức Địa lý, GDCD, Âm nhạc, Văn học vào dạy “ Cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp kết thúc (TT)sẽ giúp các em hiểu được chiến thắng Điện Biên Phủ là
chiến thắng vĩ đại nhất trong về quân sự chống lại thực dân Pháp. Qua đó, học sinh càng
biết ơn công lao của các anh hùng liệt sỹ, phát huy được những truyền thống quý báu,
tốt đẹp của dân tộc ta.
5. Thiết bị dạy học, học liệu
* Giáo viên:
-SGK, SGV, Bài soạn, Tư liệu liên quan.
- Máy tính kết nối máy chiếu có loa kết nối.
- Giáo án.
- Bài giảng Powerpoint
- Phiếu khảo sát, đánh giá.
* Ứng dụng CNTT: Sử dụng phần mềm soạn giảng để trình chiếu các Slide minh hoạ
nội dung kiến thức từng phần cần truyền đạt cho học sinh
- Học liệu: SGK các môn học: L Địa lí lớp 9, GDCD9
* Học sinh:
- Nghiên cứu kĩ nội dung bài học.
- Bảng phụ, bút dạ.
20


6. Tiến trình bài dạy:
a. Ổn định lớp: (1 phút):Kiểm tra sĩ số.
b. Kiểm tra bài cũ: (5 phút):

GV chiếu lược đồ cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954. Gọi 1 HS lên
bảng chỉ trên lược đồ diễn biến, kết quả của cuộc tiến công này?
GV nhận xét, chốt, cho điểm.
c. Bài mới: (36 phút)
*Giới thiệu bài mới (1 phút)
GV trình chiếu đoạn video.
(?) Đây là bài hát nào? Của ai sáng tác? Bài hát nói về cuộc chiến nào?
(tích hợp kiến thức Âm nhạc)
Chiến thắng Điện Biên Phủ là một thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta. Thắng lợi ấy đã được
ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa ở thế kỉ
XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống
nô dịch thuộc địa của Chủ nghĩa đế quốc. Hôm nay, chúng ta sẽ ngược dòng lịch sử để
cùng nhau ôn lại chiến công hiển hách ấy của cha ông ta và hiểu được ý nghĩa của cuộc
kháng chiến chống Pháp và nguyên nhân thắng lợi của nó qua tiết 36 - bài 27: “ Cuộc
kháng chiến toàn quốc chống Thực dân Pháp kết thúc...”
*Nội dung
Hoạt động của GV

Hoạt
động
Nội dung ghi bảng
của HS
I. Kế hoạch Na – va của Pháp Mĩ
II. Cuộc tiến công chiến lược
Đông Xuân 1953 – 1954 và chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ
1. Cuộc tấn công chiến lược Đông
- Xuân 1953 - 1954
2. Chiến dịch lịch sử Điện Biên


Hoạt động 1: Hướng dẫn
21


HS tìm hiểu hoàn cảnh,
diễn biến, kết quả chiến
dịch Điện Biên Phủ
(1954) (20 phút)

Phủ (1954)

Hình thức: Cá nhân, nhóm
lớn.

Cả lớp theo
GV trình chiếu lược đồ dõi
Việt Nam
HS Khá –
Gọi 1 HS lên xác định vị Giỏi xác định
trí của Điện Biên Phủ.
GV chốt và cung cấp
thông tin về Điện Biên
Phủ : Điện Biên Phủ là
một thung lũng rộng lớn ở
phía tây vùng rừng núi
Tây Bắc, có lòng chảo
Mường Thanh dài gần
20km, rộng từ 6 đến 8km,
cách Hà Nội khoảng
300km. Thung lũng này

nằm gần biên giới Việt Lào, trên một đầu mối
giao thông quan trọng, có
tuyến đường đi Lào. Dân
số Điện Biên Phủ ở thời
điểm năm 1954 khoảng 2
vạn người, thuộc 11 dân
tộc khác nhau.
(tích hợp kiến thức Địa lý)
(?) Sau thất bại trong
cuộc tiến công 1953 –
1954, Pháp – Mĩ có chủ
a. Âm mưu và hành động của Pháp
HSTrung bình – Mĩ:
trương gì?
nêu
- Xây dựng ĐBP → tập đoàn cứ
GV trình chiếu kênh hình
22


Tướng Đờ - Cát và Na - Cả lớp quan điểm mạnh nhất Đông Dương.
va xây dựng kế hoạch sát, lắng nghe
ĐBP
(?) Để xây dựng ĐBP
HS Yếu trả
thành tập đoàn cứ điểm
lời
mạnh nhất ở Đông Dương,
Pháp – Mĩ có hành động
gì?


- Tập trung lực lượng mạnh nhất
GV giải thích HS rõ Cả lớp quan gồm 16,200 quân, chia làm 49 cứ
điểm và 3 phân khu: Phân khu Bắc,
nguyên nhân thực dân sát
Phân khu Trung tâm, Phân khu
Pháp – Mĩ có sự chuẩn bị
Nam.
cho ĐBP.
(?) Em có nhận xét gì về
cứ điểm Điện Biên Phủ?
GV trình chiếu lược đồ HS Khá nhận
chiến dịch Điên Phủ và xét
giới thiệu.
Cả lớp quan Điện Biên Phủ là pháo đài bất khả
(?) Khi biết được Pháp sát, lắng nghe xâm phạm.
xây dựng cứ điểm Điện
Biên Phủ nhờ sự giúp đỡ
của Mĩ, ta có chủ trương, HS
Trung
mục đích như thế nào?
bình nêu
GV trình chiếu kênh hình
HCM giao quyền cho
đồng chí Võ Nguyên Giáp;
kênh hình Bộ chính Trị Cả lớp quan
b. Chủ trương, mục đích của ta:
Trung ương Đảng họp.
sát, lắng nghe
- Đầu 12/1953, ta quyết định mở

GV giảng: Để thực hiện
chiến dịch ĐBP → tiêu diệt địch,
tốt cuộc tấn công vào căn
giải phóng Tây Bắc, tạo điều kiện
cứ ĐBP, quân dân ta đã có
giải phóng Bắc Lào.
sự chuẩn bị về mọi mặt.
Cả lớp lắng
GV chiếu hình ảnh, video
nghe
bộ đội ta hành quân, vận
23


chuyển lương thực, thuốc
men bằng xe đạp thồ, bộ
đội ta kéo pháo vào trận
địa.
GV yêu cầu HS quan sát
lược đồ.
GV chiếu câu hỏi thảo
Cả lớp quan
luận nhóm lớn ( 7 phút)
sát
Chia lớp làm 5 nhóm
(?) Em hãy điền các thông
HS làm việc
tin còn lại vào mẫu dựa
cá nhân. Sau
vào thông tin SGK:

đó làm việc
nhóm.
(?) Chiến dịch Điện Biên theo
Phủ diễn ra qua mấy đợt? GV cho HS
Thời gian của từng đợt? cử thư ký, đại
Sự kiện trong từng đợt là diện trình bày.
gì?
GV theo dõi quá trình hoạt
động của các nhóm, kịp
thời hỗ trợ, nhắc nhở.
GV thu kết quả của các
nhóm. Sau đó thu kết quả
2 nhóm. Các nhóm còn lại
đổi chéo để đánh giá, cho
điểm cho nhóm bạn.

c. Diễn biến:
Đợt
Đợt 1

GV trình chiếu kết quả kết
hợp chỉ trên lược đồ.

Thời
gian
13/3
17/3

Cả lớp nghe,
quan sát

Đợt 2
24

30/3
26/4

Sự kiện lịch
sử
Ta tấn công
tiêu diệt cứ
điểm
Him
Lam và toàn
bộ phân khu
Bắc
Ta tấn công
phân
khu


Đợt 3

Thảo luận cặp đôi (4 phút)

(?) Em hãy nêu kết quả, ý
nghĩa của chiến dịch Điện
Biên Phủ ?
HS làm việc
cá nhân rồi
làm

theo
nhóm
đôi.
Gọi 1 nhóm
GV trình chiếu một số đôi trả lời
hình ảnh về kết quả của Cả lớp quan
chiến dịch
sát

1/57/5

Trung
tâm
Mường
Thanh, các
trận đánh ác
liệt tại đồi
A1, A2..
Ta tiêu diệt
các căn cứ
còn lại của
phân
khu
trung tâm và
phân
khu
Nam. Chiều
7/5/1954,
tướng
ĐờCát-Xtơ-ri

cùng toàn bộ
ban
tham
mưu xin hàng

* Kết quả: Loại khỏi vòng chiến
Cả lớp lắng
đấu 16.200 tên địch, phá huỷ 62
nghe, chuyển
máy bay và toàn bộ phương tiện
tải thông tin
chiến tranh.
GV cho HS xem vi deo bài vào vở.
hát: Giải phóng Điện Biên
* Ý nghĩa: Làm phá sản hoàn toàn
– Đỗ Nhuận. ( tích hợp
kế hoạch Na - va, buộc Pháp ký
môn Âm nhạc)
Cả lớp lắng hiệp định Giơ - ne - vơ về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hoà bình ở
(?) Chiến dịch ĐBP đã đi nghe
Đông Dương.
vào văn học VN như một
GV nhận xét, kết luận

đề tài hấp dẫn. Em hãy kể
cho cô biết một số tác
phẩm văn học viết về Điện HS Khá phát
Biên? (tích hợp môn Văn hiện, đọc
học)

(?) Trong trận đánh ĐBP
25


×