Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Đề tài Mục tiêu và sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.88 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC ĐỐI NGOẠI....................3
1.1. Thế và lực của Mỹ.......................................................................................3
1.2. Những xu thế quốc tế chủ yếu tác động đến chiến lược đối ngoại của Mỹ 6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA
MỸ.........................................................................................................................8
2.1. Mục tiêu và trọng điểm chiến lược.............................................................8
2.2. Nội dung và những hướng chiến lược cơ bản...........................................10
2.3. Chủ trương chiến lược của Mỹ đối với thế giới hiện nay.........................12
2.4. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ sau sự kiện 11-9..................13
KẾT LUẬN..............................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................21


LỜI MỞ ĐẦU
Bước vào thập kỷ 90, tình hình thế giới có những thay đổi nhanh chóng,
phức tạp và có những yếu tố khó lường . Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và Đông Âu kéo theo đối đầu với hai cực Xô- Mỹ cũng chấm dứt. Duy chì hoà bình
ổn định trong môi trường quốc tế mới và tìm kiếm vị trí có lợi nhất trong đó đang
là mục tiêu chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Được đánh giá là một siêu cường còn lại duy nhất sau chiến tranh lạnh, bên
cạnh những cơ hội, Mỹ cũng đang phải đối mặt với những thách thức mới. Vì thế
để phù hợp với tình hình, tiếp tục triển khai và giành thắng lợi trong chiến lược
toàn cầu của mình, Hoa Kỳ đã có sự điều chỉnh đáng kể trong chiến lược toàn cầu
của mình. Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ đã ảnh hưởng toàn diện tới chiến lược
toàn diện của các nước đặc biệt tới các nước lớn, buộc họ cũng phải thay đổi đường
lối cho phù hợp với tình hình mới.
Xét trên nhiều góc độ, sự điều chỉnh của Mỹ sau chiến tranh lạnh đã tạo ra
nhưng thay đổi to lớn mang tính toàn cầu, tác động, mạnh mẽ đến hệ thống quan
hệ quốc tế bởi vậy việc nghiên cứu chính sách đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh


lạnh, Mục tiêu và sự điều chỉnh có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về lý luận và thực
tiễn trong hoạc định đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam hiện nay.
Với lý do đó, tôi đã chọn đề tài “ Mục tiêu và sự điều chỉnh chính sách đối
ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh” làm nội dung tiểu luận.
Tiểu luận gồm Phần mởi đầu, 02 chương, kết luận danh mục tài liệu tham
khảo.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC ĐỐI NGOẠI
1.1. Thế và lực của Mỹ
Thế và lực của Mỹ là yếu tố quan trọng hàng đầu, chi phối chiến lược đối
ngoại của Mỹ,
Mỹ hiện là nền kinh tế lớn nhất thế giới, với 4,7% dân số thế giới, GDP của
Mỹ chiếm 31,2 % GDP toàn cầu. GDP năm 200 đạt 9.996,2 tỷ USD, lớn gần gấp
đôi so vói nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới là Nhật Bản là 4.619,8 Tỷ, và gấp 10 lần so
với nền kinh tế đang trỗi dậy của Trung Quốc 1.070,7 tỷ tính theo cân bằng sức
mua (PPP). Như vậy phải mất 30 năm nữa với tốc độ tăng trưởng như hiện nay,
kinh tế Trung Quốc mới đạt mức của Mỹ hiện nay và tổng thu nhập quốc dân tình
theo đàu người và thấp hơn nhiều. Hơn nữa, thập kỷ đầu của thời kỳ sau chiến
tranh lạnh lại chứng kiến một thơig kỳ phát trển dài lâu nhất trong lịch sử của nước
Mỹ khoảng cách giữa Mỹ và các đối thủ đặc biệt như Nhật Bản và EU vành được
mở rộng và sự trờnh lệch lớn trong tộc độ phát triển kinh tế. Từ năm 1990 đến
1998, kinh tế mỹ tăng đến 27 % gấn như gấp đôi so với EU 15% và Nhật Bản 9%.
Mỹ có khả năng duy trì được vị trí siêu cường của mình ít nhất trong nhiều thập kỷ
tới . Nền kinh tế Mỹ vẫn là nền kinh tế có sức cạnh tranh mạnh nhất trên thế giới .
Mỹ giữ vai trò chủ đạo trong các tổ chức tài chính, thương mại thế giới như,MF,
WTO, WB, ….Nền kinh tế Mỹ là nền kinh tế có sức cạnh tranh mạnh nhất trên thế
giới. Mỹ cũng là nước đi đầu trong lĩnh vực tài chính và tiền tệ đồng đô la Mỹ
chiếm hơn 60 % giao dịch thương mại toàn cầu . Đồng đụla cũng là đồng tiền dự

trữ của hầu hết các nước trên thế giới.Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
tiềm lực kinh tế của Mỹ vô cùng to lớn . Những yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
dưới tác động của thành tựu khoa học công nghệ toàn cầu hoá và chính sách kinh
tế và vĩ mô có hiệu quả làm cho chu kỳ tăng trưởng kinh tế của mỹ kéo dài và bền
vững hơn chù kỳ suy thoái giảm hơn một cách đáng kể như thời gần đây kéo dài


chỉ khoảng 2 quý, ngay cả duúi tác động của vụ khủng bố 11-9. Đăc biệt công nghệ
tin học và ứng dụng của nó dã góp phần tăng lăng suất lao động đáng kể và làm
cho “nền kinh tế mới” của Mỹ duy trì đươc tăng trưởng trong khi một loạt các nền
kinh tế ở châu Á Thái Bình Dương lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Căn cứ vào
mức tăng trưởng hiện nay khoảng 3% và dự báo trong thời gian tới 4% Mỹ vẫn tiếp
tục là nễn kinh tế lớn nhất thế giới trong vòng mấy thập kỷ tới .
Sức mạnh quân sự của Mỹ đứng đầu trên thế giới. Theo Josph Nye, giáo sư
trường Đại Học Haward và nguyên trợ lý bộ trưởng quốc phòng Mỹ, về măt quân
sự, có thể nói thế giới là đơn cực vì Mỹ là nước duy nhất có cả vũ khí hạt nhân
xuyên lục địa cũng như sức manh vô địch,về không quân, hải quân và bộ binh. Chỉ
tiêu quân sư chiếm 37% chỉ tiêu quân sự toàn cầu năm 20005. Do mức giảm chi
ngân sách quân sự của mỹ thấp hơn so với các nước khác thời kỳ, sau chiến tranh
lạnh kết thúc với khoảng 80% toàn bộ chi phí trên thế giới dành cho nghiên cứu và
phát triển quân sự, Mỹ là cường quốc duy nhất có một quân sự ở cả năm châu lục
và có tầu ngầm nguyên tử và tầu sân bay ở cả ba đại dương. Kho vũ khi hạt nhân
lớn nhất của Mỹ trên thế giới Mỹ cũng là nước lãnh đạo các liên minh quân sự
xuyên Đại Tây Dương, NaTo và qua đó duy trì sự phụ thuộc của các nước Tây Âu
vào Mỹ về mặt chính trị và quân sự. Ở châu Á hệ thống Sanfransisco do Mỹ thành
lập từ sau chiến tranh lạnh đến nay vẫn được duy trì và củng cố về tiềm năng khoa
học công nghệ: sức sáng tạo khoa học kỹ thuật cua mỹ chiếm 40,6% của tổng chi
phÝ toàn cầu là 652,7 tỷ USD. Chi phí cho nghiờn cứu và phát triển khoa học công
nghệ của các tập đoàn, công ty Mỹ lên tới 200 tỷ đô la, nhiều hơn ngân sách của
toàn bộ các nước còn lại trên thế giới. Bằng phát minh khoa học của mỹ chiếm hơn

60% toàn bộ số bằng phát minh khoa học trên thế giới. Mỹ đi đầu ở 20 trong tổng
số 29 ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn trên thế giới, đặc biệt là trong lĩnh
vực công nghệ tin học. Mỹ nắm giữ vai trò chủ đạo trong các thiết chế tài chính
thương mại thế giới như IMF. WTO, WB… Xét về tổng thể, Mỹ đang là siêu cường


duy nhất ưu thế vượt trội của Mỹ đươc thể hiện rõ nét trong lĩnh vực như kinh tế,
quân sự khoa học và công nghệ. Hơn thế nữa, phạm vi và sức mạnh Mỹ cã thể
vươn tới là phạm vi toàn cầu, khả năng khống chế toàn cầu của Mỹ thông qua sức
mạnh áp đảo được thúc đẩy bởi một thế giới toàn cầu hoá và ngày càng phụ thuộc
lẫn nhau. Tuy nhiên, ưu thế của Mỹ nằm trong một thế tương quan lực lượng khác
biệt về cơ bản so vơi thời kỳ sau chiến tranh thÕ giới thứ hai, hơn thế nữa, cho dù
sức mạnh áp đảo nhưng pham vi triển khai sức mạnh trên toàn cầu của nước Mỹ
ngày nay đang phải đương đầu với những thách thức phi truyền thống, những mối
đe doạ không cân sức mà trong cuộc chơi đó sức mạnh áp đảo của Mỹ chưa hẳn là
nhân tố quyết định thắng lợi bởi những lý do sau :
Thứ 1: Nước Mỹ không còn ở thế độc quyền vũ khí nguyên tử, kho vũ khí
hạt nhân của Nga vẫn đứng vị trí thứ 2 thế giới, cho dù mối đe đoạ hạt nhân từ Nga
giảm đi đáng kể . Kho vũ khí hạt nhân của Nga tuy đã giảm đáng kế nhưng vẫn còn
đủ sức tiêu diệt 10 lần nước Mỹ. Ngoài và còn phải kể dến cường quốc hạt nhân
khác .
Thứ 2: Những trung tâm quyền lực khỏc đó mạnh lên tương đối so với mỹ và
khả năng thách thức vị trí của mỹ trong tương lai sau chiến tranh thế giới thứ 2 tổng
thu nhập quốc nội (GDP)của Mỹ chiếm khoảng 30% (GDP) toàn cầu. Sức mạnh
kinh tế không còn áp đảo như trước những trung tâm kinh tế như EU, Nhật bản đã
nổi nên cạnh tranh gay gắt .
Thứ 3: Sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau trong kỷ nguyên toàn cầu hoá không
mang tính chất một chiều. Sự thịnh vượng kinh tế Mỹ phụ thuộc vào một phần vào
buôn bán, đầu tư với các nước khỏc trờn thế giới . Vì vậy lợi ích của Mỹ trong quan
hệ kinh tế với các nước khác đòi hỏi của Mỹ cũng phải hợp tác tính đến lợi ích của

các đối tác khác chứ không thể chỉ có thể áp đặt những điều kiện của mình.
Thứ 4: Những mối đe doạ không cân xứng là một trong những thách thức và
hạn chế to lớn đối với sức mạnh của Mỹ. Sự biểu dương sức mạnh của Mỹ trong


cuộc chiến tranh vùng vịnh năm 1991 cuộc không kích Kosovo năm 1999 và cuộc
chiến tranh Afghamstan là những bức thông điệp mạnh mẽ về “sự vô địch” của Mỹ
trong cuộc chiến tranh thông thường, chính vì vậy, kẻ thù của Mỹ sẽ sử dụng những
phương tiện phi truyền thống như khủng bố đe doạ hạt nhân hay vũ khí hoá học
chiến tranh tin học hay phá hoại môi trường, đây là mối đe doạ không cân xứng với
Mỹ .
Thứ 5: Tuy là siêu cường duy nhất còn lại sau khi liờn xụ sụp đổ nhưng nước
Mỹ ngày nay không có đủ ý chí và khả năng lãnh đạo thế giới theo kiểu chả bất cứ
lúc nào, đi bất cứ nơi đâu, chống lại bất cứ kẻ thù nào và bảo vệ bất cứ người bạn
nào. Nói một cách khác sự thiếu nhất chí trong nội bộ của Mỹ về vai trò của trong
một thế giới mới với những thách thức đa dạng và phức tạp là một trong những hạn
chế cơ bản đối với khả năng thiết lập bản quyền của Mỹ trên toàn thế giới. Henoi
Kissilger cho rằng mâu thuẫn giũa ba cách tiếp cận khác biệt của ba thế hệ khác
nhau là nguyên nhân sâu xa. Tại sao nước Mỹ không đưa ra một chiến lược đối
ngoại gắn liền với nhất quán trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh? Thế hệ của các cựu
chiến binh trong chiến tranh lạnh nhìn thế giới với lăng kính của chủ nghĩa hiện
thực mà cân bằng quyền lực là khái niệm chủ đạo và đối phó với mối đe doạ tiềm
tàng là nhiệm vụ hành đầu của chiến lược đối ngoại hành đàu của mỹ. Thế hệ của
những người phải đối cuộc chiến tranh ở Viờt Nam mà Clinton là đại diện tiếp cận
thế giới với lăng kính của chủ nghĩa lý tưởng thế giới quan của thế hệ sau chiến
tranh lạnh thiên về chủ nghĩa toàn cầu kinh tế mà việc theo đuổi lợi ích kinh tế của
Mỹ tất yếu sẽ dẫn đến hoà bình và dân chủ trên thế giới.
1.2. Những xu thế quốc tế chủ yếu tác động đến chiến lược đối ngoại của
Mỹ
Một là: xu thế khách quan về sự phát triển về khoa học công nghệ các ngành

công nghệ cao phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử tin học, truyền
thông. Để giữ được hàng đầu trong việc chạy đua này nước Mỹ sẽ buộc phải chạy


đua kinh tế khoa học kỹ thuật bởi các trung tâm trên thế giới như Nhật Bản và EU
luôn có khả năng đuổi kịp và thách thức của mỹ, vì vậy Mỹ sẽ phải tiếp tục chính
sách ưu tiên phát trển kinh tế đầu tư mạnh mẽ vào khoa học kỹ thụõt để dảm bảo
trong cuộc chiến tranh này .
Hai là : Xu thế hoà bình hợp tác và phát triển đã trở thành su thế chủ đạo chi
phối quan hệ quốc tế thời kỳ sau chiến tranh lạnh tuy vậy ở nhiều khu vực trên thế
giới, xung đột cục bộ và tình trạng bất ổn định vẫn tiếp tục sảy ra. Xong chanh chấp
lãnh thổ xung đột cục bộ khó có khả năng lan rộng, kéo dài sự đối đầu trực tiếp của
các nước lớn và làm bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thư 3. Khả năng chiến tranh
thế giới khó có thể xảy ra vỡ cỏc nước lớn hiện nay khó có thề xảy ra vớ cỏc nước
lớn hiện nay có lợi ích lâu dài và cơ bản trong việc duy trì hòa bình để phát triển
kinh tế, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế cao tuy không trừ khả năng chiến tranh
nhưng có tác dụng giảm khả năng sung đột vì lợi ích đan xen, trồng chéo .
Ba là: Sự chuyển đổi công nghệ tới năm 70 và cuộc cách mạng mạnh mẽ tiến
trình toàn cầu hoá và khu vực hoá. Một mạng lưới toàn cầu về mậu dịch, sản xuất
thông tin dần được hình thành. Xu hướng toàn cầu hoá là một su thế khách quan
không thế đảo ngược. Song hành với xu thế toàn cầu hoá là xu thế khu vực hoá. Ở
Châu Âu về quá trình mở rộng của EU được tiến hành đồng thời với quá trình phát
triển về chiều sâu kinh tế. Ở châu Á Thái Bình Dương tiến trình tự do hoá thương
mại của APECH đang tiếp tục tiến triển. Liên kết tiểu khu vực cũng được thúc đẩy
toàn cầu hoá và khu vực hoá mà hệ quả trực tiếp là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế ngày càng tăng, là một EU thế giới quan trọng có tác động to lớn đến
việc hoạch định chính sách đối ngoại của các nước hiện nay trên thế giới.
Bốn là: xu thế đa cực hoỏ, Liờn Xụ tan rã Mỹ trở thành siêu cường duy nhất
trật tự thế giới hai cực sụp đổ. Thế giới đang chuyển tiếp sang một chật tự đa cực.
Dù là siêu cường duy nhất Mỹ không thể chi phối toàn bộ cộng việc của thế giới và

áp đặt ý chí của mình, những vẫn đề bức xúc đòi hỏi phải có sự hợp tác của các


nước trên thế giới. Sự trỗi dậy của Trung Quốc, sức mạnh còn lại và khả nnăng hồi
phục của Nga, tính độc lập ngày càng cao của Nhật Bản và EU cũng như sự lớn
mạnh của ấn độ đã làm cho Mỹ khó có thể thực hiện đựoc tham vọng bá chủ của
mình.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA MỸ
2.1. Mục tiêu và trọng điểm chiến lược
Mục tiêu chiến lược đối ngoại bao chùm của Mỹ là tập trung củng cố thực
lực và vị trí siêu cường duy nhất của Mỹ, thiết lập một trật tự thế giới mới do Mỹ
lãnh đạo mà ở đó giá trị của Mỹ được phổ biến, ngăn chặn không cho bất cứ nước
nào nổI lên đe doạ vị trí của mình. Mục tiêu chiến lược dài hạn bao trùm này tiếp
tục được thể hiện trong ba mục tiêu cơ bản: tăng cường an ninh, củng cố thịnh
vượng kinh tế và thúc đẩy dân chủ nhân quyền. mục tiêu chiến lược xuyên suốt và
dài hạn và những xu thế quốc tế chủ đạo phân tích ở trên sẽ tiếp tục chi phối đường
hướng chính sách đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh lạnh thúc đẩy kinh tế thị
trường, mở rộng tự do hoá thương mại can dự vào thế giới. Đú chớnh là những
nguyên tắc cơ bản định hình chính sách đối ngoại của Mỹ trong nửa thế kỷ qua và
những nguyên tắc này tiếp tục là cốt lõi cho chính sách đối ngoại của Mỹ sau này.
Sự kiện 11- 9 và cuộc chiến của mỹ ơ Afghamstan là một bước ngoặt quan
trọng mở ra một thời kì mới, thời kì hậu chiến tranh lạnh theo cách gọi của ngoại
trưỏng mỹ Colin Powel. Cuộc chiến chống khủng bố trở thành ưu tiên chiến lược
hàng đầu của Mỹ. Đối với Mỹ ở khía cạnh nào đó chống khủng bố đã thay thế mục
tiêu “chống cộng sản” thời kì chiến tranh lạnh và trở thành ngọn cờ tập hợp lực
lượng, và danh giới phân định bạn thù. Học thuyết bus “hoặc các bạn đứng về phía
chúng tôi, hoặc đứng về phía bộn khủng bố” là lời tuyên bố mạnh mẽ nhất về chính
sách của mỹ đối với các nước khỏc trờn thế giới trong cuộc chiến chống khủng bố.
Từ góc độ này có thể khẳng định trọng tâm chiến lược đối ngoại của Mỹ trong



tương lai ngắn đến trung hạn sẽ là cuộc chiến chống khủng bố. Mục tiêu này sẽ chi
phối và xác định những ưu tiên chính sách đối ngoại của Mỹ đối với từng vấn đề,
khu vực và đối tượng cụ thể. Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ thể hiện sự kế
thừa, hơn là thay đổi mục tiêu cơ bản then chốt nhất trong chính sách an ninh, đối
ngoại cuả Mỹ. Những mục tiêu cốt lỗi cho chính sách đối ngoại của Mỹ như duy trì
vị trí cường quốc số một trên thế giới, thiết lập một trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo.
Ngăn chặn không để cho bất kỳ một cường quốc thù địch nào nổi lên đe doạ vị trí
và vai trò của Mỹ, thúc đẩy một nền kinh tế mở toàn cầu , tự do hoá thương mại,
dân chủ và nhân quyền trên toàn thế giới.
Châu Âu tiếp tục là một hướng chiến lược quan trọng hàng đầu của Mỹ bởi
người Mỹ có những lợi ích sống còn ở khu vực này, do đó Mỹ sẽ tiếp tục tăng
cường can dự với Châu Âu , thúc đẩy quá trình NATO mở rộng, thúc đẩy cải cách
kinh tế , chính trị ở Nga và các nước Đông Âu và SNG, lôi kéo các nước này vào
một cơ cấu chính trị mới nhằm mục đích lâu dài là xây dựng một châu Âu không bị
chia cắt, hoà bình và đõn chủ.
So với Châu Âu, tình hình khu vực Châu Á còn nhiều yếu tố bất ổn định.
Các vấn đề an ninh khu vực có khả năng bùng nổ thành xung đột, chưa có dấu hiệu
được giải quyết. Trong các khu vực ở Châu Á chưa có một cơ chế hợp tác an ninh
hữu hiệu. Quan trọng hơn hết là sự trỗi dậy của Trung Quốc và khả năng của Trung
Quốc đang thách thức đến các lợi ích của Mỹ ở khu vực, cũng như vị trí siêu cường
duy nhất của Mỹ trên thế giới. Vì vậy, trọng tâm chiến lược an ninh cảu Mỹ đang
chuyển dịch về châu Á nhằm đối phó với những bất trắc trong môi trường an ninh
khu vực châu Á Thái Bình Dương. Sự chuyển dịch trọng tâm chiến lược đã bắt đầu
manh nha từ cuối nhiệm kỳ của BillClinton và dưới chính quyền Bush, nó đó được
tiếp tục thúc đẩy.


2.2. Nội dung và những hướng chiến lược cơ bản

Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến chính quyền G.W.Bush hiện nay, trải
qua nhiều đời tổng thống Mỹ, nước Mỹ đã có nhiều lần thay đổi chiến lược lớn,
chiến lược toàn cầu.
Vào năm 1989 G.H.Bush (Bush cha) lên làm tổng thống thay thế cho Rigõn.
Đứng trước sự thay đổi của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, G.H.Bush đã
nêu ra chiến lược “vượt trên ngăn chặn” nhằm mục tiêu tiến công toàn diện bằng
diễn biến hoà bình làm sụp đổ Liờn Xụ, Đông Âu và các nước XHCN khác, tiến tới
xây dựng trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh đạo. Chiến lược này được thực hiện trong
bốn năm (1989-1992) trong nhiệm kỳ của tổng thống G.H.Bush .
Đầu năm 1993 Billclinton nhận chức tổng thống thứ 42 của nước Mỹ, sau
nhiều lần điều chỉnh, bổ sung chính sách, đến năm 1995 Mỹ đã công bố chiến lược
an ninh quốc gia cam kết (dính líu) và mở rộng. Chiến lựơc này vừa có tính chất kế
thừa những ý tưởng của Busơ vừa điều chỉnh cho phù hợp thực tế nước Mỹ và tình
hình thế giới biến chuyển phức tạp trong thập niên cuối thế kỉ 20. Chiến lược này
nhằm mục tiêu: ra sức củng cố và phát huy sức mạnh mọi mặt của Mỹ ở trong
nước cũng như trên thế giới, tập trung chấn hưng nền kinh tế Mỹ, bảo vệ an ninh
và các lợi ích chiến lược của Mỹ, xây dựng trật tự thế giới và ngăn chặn không để
xuất hiện một đối thủ nào có khả năng tranh giành quyền bá chủ của Mỹ trong thời
kì hậu chiến tranh lạnh và đang còn những phức tạp mà Mỹ phải đối phó.
cuối năm 1998 chính quyền Billcliton công bố bản “chiến lược an ninh quốc
gia của Mỹ cho thế giới mới”. Đõy là bước điều chỉnh chính sách đối ngoại mang
tính chiến lược, đồng thời là nền tảng định hướng chiến lược đối ngoại của Mỹ
“chiến lược an ninh quốc gia cam kết và mở rộng” có điều chỉnh một số nội dung
mới: sau khi G.W.Bush lên thay Billclinton lắm chính quyền ( 2001) về cơ bản
chiến lược đối ngoại vẫn tiếp tục theo định hướng đã được xác lập dưới thời
Billclinton. Tuy nhiên chính sách đối ngoại trong giai đoạn trước sự kiện ngày 11/9


của chính quyền tổng thống G.W.Bush vẫn đang trong qua trình định hình và sẽ có
những điều chỉnh mới cho phù hợp với bối cảnh quốc tế trong giai đoạn hiện nay.

Những thách thức đối ngoại mà chính quyền G.W.Bush phải đối, mặt trải rộng từ
Châu Âu qua Trung Đông sang Châu Á, các vấn đề trong quan hệ quốc tế với các
cường quốc lớn như Mỹ -Nga; Mỹ- Trung Quốc và các đồng minh của Mỹ vẫn còn
tiềm ẩn nhiều khó khăn và phức tạp cũng như cựu tổng thống Billclinton, ông
G.W.Bush theo chủ nghĩa quốc tế. Nước Mỹ sẽ tiếp tục can dự tích cực vào công
việc quốc tế và trọng tâm chiến lược của Mỹ vẫn là châu Âu, Trung Đông, Châu Á,
đặc biệt là tăng cường quan hệ với các đồng minh chủ chốt của Mỹ, ủng hộ việc
triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa hạn chế trên mặt đất, trên biển và trên không.
Có thể khẳng định rằng dù đảng dân chủ hay đảng cộng hoà lắm chính quyền
cũng đều chủ trương một chính sách đối ngoại phục vụ mục tiêu chiến lược toàn
cầu của Mỹ là lãnh đạo thế giới. Nội dung chiến lược toàn cầu mới của Mỹ hiện
nay bao gồm những vấn đề chủ yếu sau:
- Thúc đẩy sự thịnh vượng ở nước Mỹ lấy đối ngoại phục vụ đối nội và bảo
đảm sức cạnh tranh cuả nền kinh tế Mỹ. chiến tranh lạnh đã làm cho nền kinh tế
Mỹ yếu đi so với các nước khác như Nhật Bản, Đức… chi phớ quỏ tốn kém cho
cuộc chạy đua vũ trang, ngân sách quân sự và chiến tranh khiến cho nền kinh tế Mỹ
lâm vào suy thoái, tài chính thâm hụt, nợ nần quốc gia tăng lên, cán cân ngoại
thương không cân bằng, các tệ nạn xã hội gia tăng. Sự khuyếch trương quá mức
của G.W.Bush trên trường quốc tế càng làm cho nền kinh tế Mỹ phải chịu gánh
nặng quá tải.
- Sau khi thắng cử tổng thống Billclinton đã đặt ưu tiên cho nhiệm vụ vực
dậy nền kinh tế Mỹ ụng núi “giỏi thì thế giới ngày nay, chính sách đối ngoại, chính
sách đối nội có quan hệ mật thiết với nhau không thể tách rời nhau nếu thực hư bên
trong của nước Mỹ không mạnh thì chúng ta không có cái nhìn để phát huy tác
dụng lãnh đạo và cống hiến to lớn với thế giới”. Nếu chúng ta thoái lưu ở các nơi


trên thế giới, xã hội của chúng ta, sẽ bị tổn thất (Mỹ điều chỉnh lớn chiến lược toàn
cầu của Lý Thực Cốc, trang 31).
- Chính quyền Mỹ hiện nay nhận thức lợi ích an ninh và kinh tế của Mỹ là

không tách rời. Họ đã và đang ra sức thực hiện phương hướng tăng cường cạnh
tranh nền kinh tế, tăng cường thâm nhập thị trường nước ngoài, đảm bảo an ninh về
năng lượng, giảm thâm hụt ngân sách, đầu tư vàog khoa học kĩ thuật, chuyển một
phần kinh tế quân sự sang dân sự, cải thiện hệ thống thông tin, tăng cường giáo
dục, đào tạo… nhờ vậy Mỹ đã cải tạo lên kinh tế một phần. Mỹ có tham vọng về
kinh tế, dùng mô hình Mỹ để quy hoạch cục diện kinh tế thế giới.
- Mở rộng nguồn khai thác tài nguyên và thị trường ra toàn thế giới để có lợi
cho Mỹ với vai trò lãnh đạo nền kinh tế toàn cầu và chi phối cả EU và Nhật Bản.
ngày 18/1/1993 trong diễn văn nhận chức của tổng thống Billclinton nhấn mạnh
(chính sách quan trọng hàng đấu là coi sự an toàn kinh tế cảu Mỹ là mục tiêu chủ
yếu của chính sách đối ngoại và tìm cách xác định thương mại toàn thế giới) (Mỹ
thay đổi lớn chiến lược toàn cầu của Lý Thực Cốc trang 43) về chính trị, Mỹ dùng
quan điểm giá trị của mình để phổ biến và chi phối toàn thế giới. Từ trước tới nay
Mỹ luôn kiêu hãnh với truyền thúng dân chủ nhân quyền và tự do của mình, tôn thờ
như thánh thần chế độ đa nguyên, đa đảng và tam quyền nhân lập và coi chế độ
khác đều là những lý thuyết xa lạ .
2.3. Chủ trương chiến lược của Mỹ đối với thế giới hiện nay
Chiến lược “cam kết và mở rộng” của Mỹ với trụ cột như trên thực chất là
mưu đồ bá quyền của Mỹ nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân mới trên toàn cầu.
Chiến lược đó có tham vọng rất lớn khác hẳn với những tham vọng trước đây của
Mỹ. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Mỹ vươn lên lãnh đạo cá nước phương Tây,
cùng với các nước đồng minh Tư Bản chủ nghĩa bao vây và tiến công Liờn Xụ và
các nước XHCN, nay trong tình hình mới, Liên Xô tan rã, Mỹ không còn đối thủ,
và Mỹ đã trở thành đối thủ duy nhất, hy vọng vươn lên trở thành lãnh đạo toàn cầu


với nhiều thủ đoạn và biện pháp mới hòng .
_Thâu tóm trong tay và chi phối tất cả các khu vực trên thế giới .
_Tiếp tục tiến công nhằm xoá bỏ hết các nước XHCN còn lại .
_Vừa liên kết với các đồng minh tư bản chủ nghĩa, vừa kiềm chế cạnh tranh

với họ, ngăn cản không để Đức, Nhật Bản vươn lên ngang hang cũng như không để
nước lớn nào trở thành đối thủ nguy hiểm đối với Mỹ. Mỹ muốn xây dựng một trật
tự thế giới duy nhất một cực do Mỹ lãnh đạo, kiểm soát và khống chế toàn thế giới.
Trong chiến lược “cam kết mở rộng” Mỹ đã nói ra tham vọng đó, Mỹ cho
rằng “sự lãnh đạo của Mỹ đối với thế giới hiện nay là quan trọng và cần thiết hơn
bất kì thời kỳ nào trong quá khứ… nếu không có vai trò lãnh đạo và cam kết của
Mỹ , thì những mối đe doạ sẽ phát triển thành u nhọt và những cơ hội của Mỹ thu
hẹp lại. Mỹ có vai trò lãnh đạo toàn cầu để tạo các quan hệ chính trị ổn định và
thương mại mở cửa của Mỹ phải là cường quốc kinh tế và quân sự đứng đầu thế
giới. Chính sách đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh lạnh chứa đựng nhiều yếu tố mất
ổn định toàn cầu vì chính sách đối ngoại chủ quan, tự cho mình là nhất, tự mình áp
đặt các điều kiện cũng như tiến hành phát động chiến tranh đối với bất cứ nước nào
mà Mỹ muốn.
2.4. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ sau sự kiện 11-9
Sự kiện 11-9 tác động rất sâu sắc đến quan hệ quốc tế, làm tăng thêm những
nhân tố phức tạp, khó lường trong nền an ninh thế giới. Khủng bố quốc tế trở thành
mối đe doạ nghiêm trọng đối với hoà bình thế giới và ổn định khu vực. Khủng bố
và chống khủng bố trở thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh chính trị, quân sự thế
giới trong thế kỷ mới.
Đây cũng là bước ngoặt mới quan trọng trong quan hệ quốc tế bởi nó buộc
Mỹ phải điều chỉnh chính sách để ứng phó với tình hình mới, xác định lại các quan
hệ bạn thù, các tiêu chí tập hợp lực lượng cho phù hợp với thời cơ mới trên bàn cờ
chiến lược quốc tế. Các quốc gia khỏc trờn thế giới cũng lợi dụng cơ hội này để để


cải thiện quan hệ với Mỹ, ủng hộ cuộc chiến chống khủng bố để mặc cả có lợi cho
quốc gia mình. Một liên minh chông khủng bố do Mỹ cầm đầu đã được hình thành.
Các nước Tây Âu ủng hộ Mỹ để khẳng định lại quan hệ đồng minh chiến lược với
Mỹ vốn đã bị sứt mẻ trong thời gian gần đây và cũng nhân cơ hội này để mở rộng
ảnh hưởng. Nhật Bản nhân cơ hội này sửa lại hiến pháp cho phép lực lượng phòng

vệ của mình được đưa quân ra hoạt động ở nước ngoài với danh nghĩa lực lượng
hoà bình của Liên Hợp Quốc, để tăng cường hiệp ước an ninh Mỹ -Nhật. Đối với
Nga về lợi ích chiến lược sâu xa, ủng hộ Mỹ là góp phần tiêu diệt Taliban mạng
lưới khủng bố An-ke-da. Đây là những thế lực có móc lối với phiến quân ở Tresnia
chống lại Nga.
Thấy rõ được tầm quan trọng của việc tập hợp lực lượng chống khủng bố,
Mỹ thực hiện một số điều chỉnh chớnh sỏch đối ngoại, nhấn mạnh hơn khÝa cạnh
hợp tác và lợi ích chung, tạm gác những bất đồng tranh chấp hình thành một “nền
ngoại giao chống khủng bố” theo đó Mỹ lấy thái độ khủng bố làm sự kiện 11-9 và
sự thay đổi mạnh mẽ trong chính sách đối ngoại của Mỹ sẽ vạch ra một đường phân
giới mới trong nền chính trị quốc tế .
Chiến dịch chống khủng bố cần có sự ủng hộ và phối hợp của nhiều nước vì
vậy để tập hợp lực lượng, Mỹ đó cú những điều chỉnh nhất định. Tăng cường quan
hệ với nhiều quốc gia theo hướng ổn định và hợp tác vụ khủng bố 11- 9 đã dẫn tới
việc xác định lại mối quan hệ giữa cường quốc số 1 của thế giới và một số nước
trong đó có nước Châu Âu. Mối quan hệ giữa Mỹ và Châu Âu có thể có những thay
đổi đáng kể do ảnh hưởng của sự kiện 11- 9. Một mặt cuộc chiến tranh ở Kasovo đã
khẳng định với bộ tham mưu liên quân Mỹ rằng NATO có thể là một trở ngại đối
với các chiến dịch quân sự do Mỹ chỉ huy vì cơ chế kiểm soát đa phương tỷ mỷ của
NATO đối với Mỹ. Mỹ thấy mình tự tiến hành một cuộc chiến tranh dưới chiêu bài
liên quân quốc tế và tự mình lựa chọn đồng minh cho mình trong các nước có thể
có ích thực sự đối với mình, tốt hơn là dựa vào bộ máy tập thể của NATO từ chỗ là


một tổ chức chính trị quân sự NATO đang dần trở thành một nguồn dự trữ các
phương tiện cho các nước thành viên.
Trước mắt, Mỹ kiềm chế đơn phương hành động và lỗ lực xấy dựng một liên
minh quốc tế chống khủng bố. Mỹ cải thiện quan hệ với một số nước trước đây đã
từng có quan hệ căng thẳng để đổi lấy sự ủng hộ chống khgủng bố, Mỹ đó xoỏ bỏ
trừng phạt đối với Pakixtan, Sudan, ẤN Độ cho Pakixtan, lôi kéo Pakixtan vào bàn

cờ lực lượng của Mỹ. Đối với các nước Arập, Mỹ hiểu rõ hơn ai hết chính sự ủng
hộ quan trọng của Mỹ đối với Isreal đã biến nước Mỹ thành kẻ thù cảu cả thế giới
Hồi Giáo. Vì vậy ngay sau sự kiện 11- 9 Mỹ đó cú những động thái tích cực đối với
tiến trình hoà bình ở Trung Đông. Nói tóm lại Mỹ đang và sẽ có những bước điều
chỉnh mạnh mẽ, về mặt an ninh và đối ngoại để tập trung sức cho cuộc chiến
chống khủng bố.
Có thể thấy, Mỹ đã có những điều chỉnh chính sách đối ngoại quan trọng.
Tuy nhiên, Mỹ sẽ khụng vỡ hợp tác quốc tế chống khủng bố mà hoàn thành thay
đổi chiến lược hiện có của mình. Tuy Mỹ tạm thời làm dịu mâu thuẫn với Nga,
Trung Quốc và thế giới thứ ba nhưng một khi cuộc đấu tranh chống khủng bố giành
được tiến triển nhất định thì những bất đồng này sẽ trở thành mâu thuẫn lớn trong
quan hệ quốc tế. Do đó những điều chỉnh chính sách nói trên mang tính chiến thuật
hơn là chiến lược.
Đối với châu Á , ngoại trưởng Mỹ Colinpowell đã đưa ra tuyên bố hoàn
chỉnh nhất về chính sách châu Á của chính quyền Bush và nhấn mạnh tầm quan
trọng của các mối quan hệ giữa Mỹ và các đồng minh Châu Á, thể hiện lập trường
tích cực hơn đối với quan hệ Mỹ - Trung và cũng đặt ra những điều kiện cụ thể cho
các cuộc đối thoại có thể có giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên.
Tầm quan trọng của các nước châu Á đối với Mỹ dựa trên các ưu tiên mới
của Mỹ tập trung vào nỗ lực chống khủng bố. Dưới con mắt của chính phủ Bush,
châu Á trở thành một mặt trận chống khủng bố, do đó Mỹ đã dần lỗ lực vào việc


củng cố quan hệ và tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực.
Trong quan hệ với các nước châu Á, đặc biệt là Đông Âu và Đông Nam Á,
các yếu tố quyết định chính sách của Mỹ trước ngày 11- 9 là vấn đề an ninh, quyền
lợi thương mại và các quan tâm nhân quyền. Nhưng bây giờ cuộc chiến chống
khủng bố là ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên Mỹ vẫn tiếp tục thảo luận về vấn đề nhân
quyền với các giới lãnh đạo Châu Á.
Tiếp tục chiến lược dựa vào đồng minh ở Châu Á vẫn là trọng tâm trong

chiến lược Đông Á của chính quyền G.W.Bush. Trong mối quan hệ ấy quân hệ
đồng minh Mỹ - Nhật Bản đã được ông Powell đánh giá cao. Mối quan hệ này
không chỉ đóng góp tích cực cho ổn định khu vực mà còn tạo khuôn khổ cho Nhật
Bản đóng góp nhiều hơn vào bảo vệ nền quốc phòng của chính mình cũng như nền
hoà bình và an ninh trên toàn thế giới. Như vậy Mỹ đang ủng hộ mong muốn và
khuyến khích Nhật Bản đóng vai trò to lớn trong khu vực.
Ông Powell cũng đánh giá cao nỗ lực của các đồng minh Châu Á – Thái
Bình Dương khác như Oxtralia, Newdilon, Korea và Philippin trong cuộc chiến
chống khủng bố. Tuy nhiên trong khi thừa nhận mối quan tâm của các nước Châu
Á có đông người Hồi giỏo sinh sống sẽ nguy hiểm hơn nếu các nước này bỏ qua
chủ nghĩa khủng bố và để cho các lực lượng thiểu sè thao túng nền chính trị trong
nước.
Đặt điều kiện cho việc cải thiện quan hệ Mỹ và CHDCND Triều Tiên, Mỹ có
thể duy trì chính sách là sắn sàng gặp CHDCND Triều Tiên vào bất cứ lúc nào và ở
đâu và không có điều kiện tiên quyết, nhưng rõ ràng Mỹ đã đặt cho những tiến bộ
có thể có trong quan hệ hai nước.
Mỹ yêu cầu và chỉ rõ rằng CHDCND Triều Tiên cần phải chấm dứt phổ biến
vũ khí và huỷ bỏ chương trình phát triển tên lửa tầm xa, phải nỗ lực hơn nữa trong
việc bảo đảm cuộc sống của người dân kể cả việc cho phép người nước ngoài giám
sát và tiếp cận… Điều này thể hiện lập trường cứng rắn hơn của Mỹ đối với các


cuộc thảo luận giữa Mỹ và CHDCND Triều Tiên.
Với Liên Bang Nga, Nga được hình thành là biểu hiện quan trọng của những
thay đổi và liên kết trong quan hệ quốc tế. Cuộc chiến chống khủng bố là trung tâm
của ngoại giao Mỹ và khiến Mỹ phải có những điều chỉnh nhất định trong quan hệ
với Nga. Những điều chỉnh đó bao gồm việc lôi kéo Nga tham gia vào liên minh
chống khủng bố của Mỹ. Đổi lại, Mỹ có lập trường mềm dẻo hơn đối với Nga trên
một số vấn đề như vấn đề Tresinia, tăng cường hợp tác kinh tế, cắt giảm vũ khí
chiến lược… Thực chất là nhân nhượng để đánh đổi sự ủng hộ của Nga.

Đối với Trung Quốc, hiện nay Mỹ đang tìm kiếm sự hợp tác trong các vấn đề
quốc tế quan trọng và các vấn đề an ninh khu vực đề phòng Trung Quốc có tiếng
nói chống đối Mỹ. Trung Quốc có sức mạnh kinh tế, quân sự và ảnh hưởng lớn đến
thế giới thứ ba. Điều này sẽ không có lợi cho lợi ích toàn cầu của Mỹ. Trung Quốc
là một trong năm nước lớn có vũ khí hạt nhân, là một trong số ít quốc gia trên thế
giới có khả năng gây ảnh hưởng đối với CHDCND Triều Tiên, Mianma và tham gia
vào hầu hết các cuộc tranh chấp lãnh thổ đã từng xảy ra hoặc tiềm ẩn trong khu vực
Đông Á.. Do đó Trung Quốc có ảnh hưởng lớn đến hoà bình ổn định khu vực và có
liên quan đến lợi ích của Mỹ. Sự hợp tác với Trung Quốc sẽ đảm bảo an ninh và ổn
định ở châu Á . Mặt khác thông qua việc mở rộng giao lưu và hợp tác quân sự giữa
hai nước là Mỹ muốn tìm hiểu, lắm ý đồ thực lực của Trung Quốc đồng thời tìm
cách ngăn cản Trung Quốc xuất khẩu vũ khí, đặc biệt là bán cho những nước bị Mỹ
coi là thù địch với họ.
Tóm lại từ sau sự kiện 11- 9 Mỹ đã bộc lộ là một siêu cường đầy tham vọng,
muốn nhanh chóng áp đặt sự thống trị “đơn cực” của Mỹ lên toàn thế giới, quốc
gia khác, công dân Mỹ được đặc biệt miễn trừ.
Quan điểm về vũ khí hạt nhân trong chiến lược an ninh quốc gia mới của Mỹ
cũng đã thay đổi cơ bản. Sử dụng vũ khí hạt nhân không còn là quân sự cuối cùng
khi bị tấn công bằng vũ khí hạt nhân, mà đã trở thành vũ khí tiến công chiến thuật


để đáp trả nguy cơ bị tấn công bằng các loại vũ khí khác như vũ khí sinh học và
hoá học. Các tổ chức khủng bố cũng đã trở thành mục tiêu tấn công của Mỹ bằng
vũ khí hạt nhân. Chính sách hạt nhân mới cuả Mỹ đã đi ngược với những quy định
cơ bản trong hiệp ước quốc tế về không phổ biến về vũ khí hạt nhân. Ngày 17-122002 tổng thống G.W.Bush còn tuyên bố bắt đầu triển khai các tên lửa đánh chặn
đầu tiên trong hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia NMD vào năm 2004. Những
thay đổi trong chiến lược an ninh của Mỹ trong năm 2002 đã tạo điều kiện cho
đảng cộng hoà của tổng thống Mỹ Bush giành thắng lợi trong cuộc bầu cử quốc hội
giữa nhiệm kỳ. Vỡ nó đỏnh đỳng tâm lý của cử tri Mỹ là “cần được bảo vệ bằng
mọi giỏ” nhưng cũng chính quan điểm an ninh mới này theo đó đánh động quyền

tự do bảo vệ với quyền tấn công nước khác, đồng thời đẩy mạnh an ninh và hoà
bình thế giới tới gianh giới nguy hiểm nhất. Nhưng cái cớ mà Mỹ không ngớt rêu
rao rằng : Iraq tích trữ vũ khí hủy diệt, đe doạ an ninh thế giới, rằng chính quyền
S.Hussen cấu kết với các tổ chức khủng bố như Al-Queda đã không hề thuyết phục
được hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc và hầu hết 200 quốc gia trong cộng đồng
quốc tế.Cuộc chiến tranh mà Mỹ đã tiến hành với Iraq nằm trong mục tiêu chiến
lược đã được xác lập: Khẳng định quyền bá chủ thế giới không ai có thể cạnh tranh
mà Mỹ đã làm, thiết lập trật tự tại Trung Đông theo sự sặp đặt của Mỹ, đồng thời là
đòn răn đe đối với bất cứ quốc gia nào không tuân theo cây gậy chỉ huy của “ siêu
cường”. Hiện nay, chi phí quân sự của Mỹ chiếm 40% ngân sách quân sự toàn thế
giới. Chiến tranh Iraq dự kiến Mỹ đã tiêu phí hết hơn 100 tỉ USD.
Theo các nguồn tin của Liên Hợp Quốc, các quan chức Mỹ và Liên Hợp
Quốc hiện nay đều cho rằng Mỹ đang phá hoại chế độ giải trừ quân bị quốc tế
thông qua việc trừ bỏ chế độ đa phương và theo đuổi chế độ đơn phương.
Được cổ vũ bởi thắng lợi quân sự trong cuộc chiến Iraq, Mỹ đã công khai
bác bỏ các cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế TAEA và uỷ ban giám sát kiểm
chứng và thanh tra của Liên Hợp Quốc (UNMOVIC) vốn là cơ quan hợp phát duy


nhất của Liên Hợp Quốc có quyền tuyên bố liệu Iraq có vũ khí giết người hàng loạt
hay không. Nhà trắng còn tuyên bố Mỹ chống lại việc thanh tra vũ khí của Liên
Hợp Quốc trở lại Iraq và khẳng định liên minh do Mỹ cầm đầu đảm nhiệm và giải
giáp vũ khí của Iraq thay cho Liên Hợp Quốc.
Khuynh hướng theo đuổi của chủ nghĩa đơn phương của Mỹ cũng thể hiện rõ
trong cách xử sự của Mỹ đối với các vấn đề quốc tế. Mỹ đơn phương rút khỏi



nghị định Kyoto” từ chối phê chuẩn “ Hiệp ước cấm thử hật nhân toàn cầu” và từ
chối tham gia đàm phán “ Nghi định thư công ước cấm vũ khí sinh học”.

Không có bất cứ thay đổi nào mà cũn cú những phát triển mới. Ví dụ : Bất
chấp sự phản đối rộng rãi của cộng đồng quốc tế, chính phủ Bush tuyên bố rút khỏi
“ Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo” năm 1972, từ chối tham gia hội nghị thúc đẩy
hiệu quả ‘hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện của Liên Hợp Quốc”.
Học thuyết quân sự của Mỹ tự cho mình có quyền tấn công phủ đầu các nước
có vũ khí giết người hàng loạt. Chính quyền G. W. Bush cũng núi công khai rằng
Mỹ đang xem các kế hoạch phát triển các vũ khí hạt nhân nhỏ và chính xác hơn có
khả năng phá huỷ các hầm ngầm nằm sâu trong lòng đất. Bình luận về vấn đề này,
nguyên cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Condonuza Rice nói rằng cách duy nhất đẻ
răng đe “cỏc nước cứng đầu cứng cổ’.
Không tuân theo chiếc gậy chỉ huy của Mỹ là sử dụng vũ khí huỷ diệt với
việc từ bỏ chế độ thanh sát vũ khí của Liên Hợp Quốc .
Chính quyền G.W Bush đã bỏ qua cơ chế an ninh tập thể và đã sử dụng sức
mạnh quân sự hùng mạnh của mình để tấn công các nước mà Mỹ cho là mối đe doạ
tiềm tàng. Chiến tranh Iraq đã tạo ra một tiền lệ nguy hiểm và mọi công thức sai
lầm khi xử lý các thách thức chung của toàn cầu.Với việc tự cho mình tự xâm lược
Iraq, Mỹ đã làm dấy lên lo ngại trong nước và nước ngoài rằng: Mỹ đã tự coi mình
đứng đầu trên pháp luật và các tiêu chuẩn và chi phối các quan hệ và cả quốc tế
cũng như các thế chế quốc tế.


KẾT LUẬN
Mỹ đã điều chỉnh chính sách đối ngoại từ đa phương đến chủ nghĩa đơn
phương cực quyền, điều này có thể thấy rõ trong bản thông điệp liên bang mà tổng
thống Mỹ đọc ngày 21-2-2002 trước lượng viện quốc hội nhân dân thế giới đang
phải đối mặt với chủ nghĩa đơn phương độc đoán kiểu Mỹ. Tự trao cho mình xứ
mệnh lãnh đạo thế giới, Mỹ đã và đang áp đặt các cách xử sự trong quan hệ quốc
tế. Nhìn một cách toàn cục, Mỹ dang ép buộc thế giới hướng theo giá trị Mỹ, sống
theo giá trị Mỹ. Nhờ có ưu thế quân sự và sức mạnh kinh tế vượt trội không ai có
thể so sánh nổi trong lịch sử hiện tại, Mỹ đang tìm cách vẽ lại bản đồ thế giới, phá

bỏ cấu trúc trật tự thế giới hiện hành. Việc Mỹ là siêu cường duy nhất còn lại sau
chiến tranh lạnh không phải là điều gì mới mẻ, cái đáng nói là họ đã tận dụng khá
tốt “ cơ hội vàng 11- 9” để áp đặt mọi thứ “dõn chủ cưỡng bức” nên phần còn lại là
của thế giới.
Vệc điều chỉnh chính sách đối ngoại, điều chỉnh chiến lược của chính quyền
G.W.Bush phải phản ánh địa vị, ưu thế siêu cường hiện nay của Mỹ là phục vụ cho
việc xây dựng trật tự mới do Mỹ lãnh đạo. Nhưng trong quá trình thực hiện kinh tế
mới này đó gõy nhiều ảnh hưởng đến quan hệ chính trị quốc tế làm nảy sinh nhiều
xung đột và mâu thuẫn mới, đe doạ nghiêm trọng đến an ninh và pháp luật cảu quốc
tế. Chính sách và hoạt động ấy đã vấp phải sự phản kháng quyết liệt không chỉ từ
phớa cỏc đối thủ mà cả từ phía không ít các đồng minh của Mỹ.
Hiện nay trên thế giới có xu thế mới nổi lên, đó là các nước đều lấy phát
triển kinh tế làm trọng tâm, cần có môi trường hoà bình, ổn định hoà hoãn, hoà dịu
trên thế giới. Các nước đều đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng xây
dựng đối tác bạn bè, một xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, với sự ra đời và lớn
mạnh của các tổ chức liên minh quốc tế, các tổ chức khu vực… tất cả đều nhằm
xây dựng và phát triển cho mỗi quốc gia thế kỷ 21, thế kỷ cảu hoà bình , phát triển
và hợp tác, phồn vinh.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau chiến tranh-Usforeign policy after
the cold war.
2. Lý thực cốc: Mỹ thay đổi chiến lược toàn cầu.
3. Thông tấn xã Việt Nam : Mỹ điều chỉnh trong chính sách đối ngoại phần I,
tài liệu tham khảo số 9/2002.
4. Thông tấn xã Việt Nam : Mỹ điều chỉnh trong chính sách đối ngoại phần
II, tài liệu tham khảo số 10/2002.




×