Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Kinh nghiệm dạy cảm thụ văn học trong môn tập đọc cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.46 KB, 23 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Khi đọc một văn bản văn học thì điều hết sức cần thiết là phải biết
cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Bởi vì, cảm thụ văn học là sự cảm
nhận những giá trị nổi bật, sâu sắc, tế nhị, đẹp đẽ của văn học thể hiện trong
văn bản.
Thế nhưng, việc dạy cảm thụ văn học trong phân môn Tập đọc ở lớp 5
chưa được chú trọng vì nhiều lí do: thời lượng một tiết tập đọc ngắn, giáo
viên thường chỉ tập trung rèn các em đọc trôi chảy và tìm hiểu nội dung bài
đọc. Học sinh hiện nay thích xem truyện tranh hơn đọc các sách văn học
thiếu nhi nên các em thiếu cái nền cơ bản khi cảm nhận cái hay, cái đẹp của
bài Tập đọc... Chính vì thế, tiết Tập đọc trở nên khô khan, nhàm chán và học
sinh, không phát huy được khả năng cảm thụ văn học của bản thân cũng như
sẽ gặp khó khăn khi học tìm hiểu văn bản ở bậc THCS. Do đó, việc dạy cảm
thụ văn học trong phân môn Tập đọc ở Tiểu học là điều cần phải thực hiện,
đặc biệt đối với học sinh lớp 5, các em chuẩn bị bước lên bậc THCS.
Dạy cảm thụ văn học trong phân môn Tập đọc nhằm giúp học sinh
cảm nhận được cái hay, cái đẹp, sự sâu sắc… ở ngôn từ, nghệ thuật viết, ở ý
nghĩa… của bài thơ, bài văn, khổ thơ, đoạn văn trong bài Tập đọc mà các em
được học. Giúp các em phát huy trí tưởng tượng, phân tích văn học… từ đó
yêu thích phân môn Tập đọc, yêu tiếng Việt hơn. Qua cảm thụ, học sinh tăng
cường vốn từ ngữ; biết sử dụng các phương pháp so sánh, nhân hóa, liên
tưởng, hoán dụ, ẩn dụ… trong bài Tập làm văn của mình. Ngoài ra còn phát
huy năng khiếu văn học cho học sinh, làm nền tảng cho học sinh học tốt
môn Ngữ văn ở bậc THCS và THPT. Qua sự cảm thụ sẽ bồi dưỡng học sinh
tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu hòa bình, yêu cái
đẹp… Từ đó góp phần giáo dục nhân cách học sinh.
Một học sinh có năng lực cảm thụ văn học tốt sẽ cảm nhận được nhiều
nét đẹp trong mỗi bài văn, bài thơ. Những nét đẹp đó được tích lũy dần dần


sẽ làm phong phú cho các em về cách nói Tiếng Việt sao cho thật trong sáng,


thật sinh động. Có năng lực cảm thụ văn học tốt còn giúp cho các em viết
văn tốt hơn, bài văn dễ đi sâu vào lòng người đọc.
Chính vì vậy, trong quá trình dạy học phân môn Tập đọc, việc giúp
cho các em nâng cao năng lực cảm thụ văn học là một việc làm không thể
thiếu được. Mặc dù còn ít tuổi, song các em vẫn có khả năng rèn luyện, trao
dồi để từng bước nâng cao khả năng cảm thụ văn học, giúp cho các em học
tập môn Tiếng Việt ngày càng tốt hơn. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài
“Biện pháp nâng cao năng lực cảm thụ văn học trong trong phân môn Tập
đọc lớp 5”.


B. NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ
TÀI:
1. Thuận lợi:
Trong lớp tôi chủ nhiệm, gần như 100% học sinh là người dân tộc
Kinh, các em có trình độ kiến thức đạt chuẩn, đọc thông, viết thạo Tiếng
Việt- đây là thuận lợi lớn trong việc dạy các môn học nói chung và dạy học
sinh cảm thụ văn học nói riêng.
Lớp học 2 buổi / ngày nên có điều kiện thuận lợi để bồi dưỡng, phụ
đạo và nâng cao kiến thức, trình độ cảm thụ văn cho các em ở tất cả các
phân môn của bộ môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn Tập đọc.
Trong lớp luôn có những cá nhân nổi trội, đòi hỏi giáo viên phải đầu
tư đặc biệt, các em mong muốn có những hiểu biết sâu sắc hơn, có nhu cầu
trình bày suy nghĩ, tình cảm của mình về bài văn, bài thơ; muốn trao đổi với
các bạn về suy nghĩ, tình cảm của mình đối với một bài vừa học. Một số học
sinh ham hiểu biết, luôn đặt câu hỏi về những kiến thức cao hơn chuẩn. Đó
chính là nguồn động viên cho tôi tìm tòi, sáng tạo thỏa mãn yêu cầu chính
đáng cho các em.
Được sự quan tâm của phụ huynh học sinh, luôn phối hợp với giáo

viên để phát hiện kịp thời những học sinh có năng khiếu cũng như học sinh
còn non yếu kiến thức để phối hợp bồi dưỡng cho các em.
Được sự quan tâm của BGH Nhà trường luôn động viên, khuyến
khích giáo viên và học sinh đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng
dạy học của lớp; có cơ sở vật chất đầy đủ, có nguồn sách tham khảo cần
thiết từ thư viện cũng như các đồ dùng thiết bị thiết yếu cho môn học.
2. Khó khăn:
- Học sinh khó hiểu bài vì không hiểu xuất xứ của tác phẩm. Một số
bài trong chương trình phân môn Tập đọc lớp Năm có xuất xứ đa dạng, từ


nhiều thời gian, hoàn cảnh lịch sử khác nhau; nội dung phản ánh những
phong tục, tập quán của các dân tộc khác nhau trên đất nước ta cũng như
một số nước khác trên thế giới. Vì vậy, đối với các em học sinh, vốn sống và
hiểu biết xã hội còn ít, các em khó để hiểu hết nội dung tác phẩm cũng như
cảm nhận những cái hay, cái đẹp của tác phẩm.
Ví dụ: Bài “Hạt gạo làng ta”, tác giả Trần Đăng Khoa, SGK Tiếng
Việt 5 tập 1/139. Nhiều em không hiểu hết cái khắc nghiệt của khí hậu miền
Bắc trong việc làm ra hạt gạo, các em không hiểu vì sao lại “Gửi gạo ra tiền
tuyến”, “Hạt gạo theo người đi xa”, “Băng đạn vàng như lúa đồng”… Vì
các em chưa từng đến miền Bắc, chưa hiểu hoàn cảnh lịch sử nước ta lúc
bấy giờ - khi tác giả sáng tác bài thơ.
- Một số học sinh vốn từ còn hạn chế nên việc nắm các từ “ khóa” để
hiểu nội dung và dùng từ vào diễn đạt suy nghĩ tình cảm của mình về tác
phẩm còn hạn chế. Bên cạnh đó các em ít chú ý đến cách dùng từ, đặt câu
của tác giả và những ẩn ý sau cách dùng từ đặt câu như thế.
Ví dụ: Bài “Mùa thảo quả”, tác giả Ma Văn Kháng, SGK Tiếng Việt 5,
tập 1/113. Đoạn văn thứ hai: “Gió tây lướt thướt bay qua rừng, quyến
hương thảo quả đi, rải theo triền núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng, thơm
nồng vào những thôn xóm Chin San. Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm.

Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm đậm ủ ấp trong từng nếp áo, nếp
khăn.” Học sinh khó cảm nhận hết hương thơm của thảo quả hòa quyện
trong gió như thế nào vì không chọn ra được từ dùng trong câu để phân tích.
Các em chưa cảm nhận mùi hương của thảo quả trong không gian cùng với
tác giả, nên khi diễn đạt bằng lời về sự cảm nhận của mình về mùi hương
thảo quả thì rất khó khăn.
- Học sinh chưa chủ động và chưa biết khai thác hết các biện pháp
nghệ thuật sử dụng trong các bài văn, bài thơ. Một số biện pháp tu từ như so
sánh, nhân hóa các em đã được học trong chương trình phân môn Luyện từ


và câu. Tuy nhiên các em mới chỉ nhận biết được hình ảnh sử dụng trong
câu chứ chưa đánh giá được tác dụng của nó trong việc biểu cảm. Ngoài ra
còn rất nhiều những biện pháp tu từ mà các em chưa được học song cũng có
mặt trong một vài tác phẩm trong chương trình. Đây là một nguyên nhân gây
cản trở việc cảm thụ văn của học sinh.
Ví dụ: “ Giữa ngút ngàn cây trái
Dọc vùng rừng nguyên sơ
Không biết thực hay mơ
Ráng chiều như hơi khói.…”
(Trước cổng trời - Nguyễn Đình Ảnh, TV5 tập 1/80)
Học sinh xác định được hình ảnh so sánh: “Ráng chiều như hơi khói.…”
nhưng các em không hiểu vì sao lại so ánh ráng chiều với hơi khói mà
không phải cái khác; so sánh như vậy có tác dụng gì và hình ảnh buổi chiều
miền núi đẹp như thế nào nhờ hình ảnh so sánh đó.
Ví dụ: Tìm nơi thăm thẳm rừng sâu
Bập bùng hoa chuối, trắng màu hoa ban.
Tìm nơi bờ biển sóng tràn
Hàng cây chắn bão dịu dàng mùa hoa.
Tìm nơi quần đảo khơi xa

Có loài hoa nở như là không tên…
(Hành trình của bầy ong- Nguyễn Đức Mậu. Tiếng Việt 5, tập 1/117.)
Ở khổ thơ này, học sinh không xác định được biện pháp tu từ là “Điệp từ”
tức là lặp lại một số từ vì các em chưa được học về biện pháp này. Chính vì
vậy các em không hiểu được vì sao tác giả lại lặp lại từ “tìm nơi” nhiều lần
như vậy, lặp nhằm mục đích gì? Vì không hiểu được nên một số em cho rằng
lặp lại như vậy gây nhàm chán.
- Ngoài những khó khăn trên, do ảnh hưởng của phương pháp dạy học
truyền thống nên một số em chưa chủ động, tích cực trong việc tìm tòi cái


hay, cái mới của bài; nhiều em còn ỷ lại, dựa vào sự gợi ý, phân tích của
giáo viên mới có thể có những phán đoán, phân tích, cảm nhận cái hay, cái
đẹp của bài tập đọc. Vì vậy nếu giáo viên không khéo léo phối hợp nhiều
biện pháp trong khi hướng dẫn học sinh thì việc cảm thụ văn của các em sẽ
phần nào bị hạn chế.
3. Chất lượng cảm thụ văn học trong phân môn Tập đọc đầu năm
TSHS

Chưa biết cảm thụ

Cảm thụ văn bản ở mức

Cảm thụ khá, tốt

trung bình.

Ts
1


41

TL
2.44%

Ts
15

TL
36.59%

Ts
25

TL
60.98%

Qua kết quả khảo sát đầu năm, vẫn còn nhiều em chỉ hiểu nội dung
văn bản ở mức độ trung bình, trả lời được các câu hỏi cuối bài theo chuẩn
kiến thức kĩ năng của phân môn quy định. Có nhiều em bước đầu cảm thụ
được bài tuy nhiên mức độ chưa cao, chưa phân tích được cái hay, cái đẹp
của những hình ảnh và câu từ trong bài. Việc trình bày suy nghĩ, tình cảm
của mình còn lúng túng. Một số em do không cảm thụ được tác phẩm nên
chán học Tập đọc, học miễn cưỡng hoặc chỉ đọc đối phó theo yêu cầu của
giáo viên.
Từ kết quả trên, làm thế nào để nâng cao chất lượng phân môn Tập
đọc nói chung và giúp các em biết cảm thụ bài văn, thấy được cái hay, cái
đẹp và tính nhân văn trong từng tác phẩm, cuốn hút các em vào từng bài học
luôn làm tôi trăn trở. Qua tìm tòi, học hỏi và vốn kinh nghiệm của bản thân,
tôi mạnh dạn áp dụng kinh nghiệm giúp học sinh có phương pháp và thói

quen cảm thụ văn học trong các tiết Tập đọc nhằm góp phần nâng cao chất
lượng môn học và chất lượng giáo dục chung của học sinh trong lớp.

II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:


1. Giúp học sinh nắm được hoàn cảnh sáng tác hoặc xuất xứ của
tác phẩm.
Trong chương trình phân môn Tập đọc lớp Năm, một số bài có phần
chú giải, nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Tuy nhiên, số lượng bài như
vậy còn ít và nội dung chú thích chỉ chung chung, khái quát. Nhiều tác
phẩm hoặc đoạn trích ra đời cách đây khá lâu, hoàn cảnh lịch sử và điều kiện
xã hội rất khác bây giờ. Vì vậy có một số bài văn và thơ trở nên xa lạ với
học sinh. Các em khó hình dung và nắm được hết những giá trị mà tác giả
muốn truyền tải trong tác phẩm. Một số học sinh ham hiểu biết và mạnh dạn
đã đưa ra những câu hỏi “Vì sao tác giả lại nói như vậy?, Vì sao lại có
chuyện xảy ra như thế, …”. Các em muốn hiểu cặn kẽ vấn đề được nói đến
trong văn bản nhưng thiếu tư liệu, thiếu dẫn chứng.
Trước những bài văn, bài thơ như vậy, bằng những vốn hiểu biết của
mình và qua tìm tòi thêm, tôi đã chuẩn bị sẵn một số tư liệu liên quan đến
bài để giới thiệu cho học sinh nghe trước khi vào bài mới hoặc trong lúc
giảng bài. Làm như vậy giúp học sinh hiểu sâu, nhớ kĩ và các em rất dễ nắm
bắt được các nội dung và các hình ảnh trong bài. Điều này hỗ trợ đắc lực cho
việc giúp học sinh cảm nhận những giá trị nổi bật, sâu sắc, tế nhị, đẹp đẽ của
văn học thể hiện trong văn bản.
Ví dụ 1: Dạy bài “Hạt gạo làng ta”, tác giả Trần Đăng Khoa, SGK
Tiếng Việt 5 tập 1/139. Trước khi vào bài mới, tôi giới thiệu với học sinh: “
Trần Đăng Khoa là một nhà thơ sinh ra và lớn lên ở miền Bắc, trong hoàn
cảnh nước nhà bị đế quốc Mĩ xâm lược. Đất nước tạm thời chia cắt hai
miền Nam và Bắc. Miền Nam là mặt trận kháng chiến chống giặc Mĩ, còn

miền Bắc là hậu phương lớn, lao động và sản xuất để xây dựng đất nước và
chi viện cho miền Nam mọi mặt từ lương thực, vũ khí, lực lượng để chống
kẻ thù. Trong hoàn cảnh như vậy, quê hương của tác giả cũng đang cùng với
cả miền Bắc tích cực lao động sản xuất để chi viện cho miền Nam, góp phần


vào chiến thắng chung của cả nước. Bài Hạt gạo làng ta sẽ giúp các em
hiểu một phần nào công việc làm ra hạt gạo của người nông dân miền Bắc
trong giai đoạn lịch sử này.”
2. Hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa một số từ, cách dùng từ, đặt câu
trong bài văn, thơ.
Thông thường bên dưới mỗi bài văn, bài thơ đều có phần chú giải, giải
nghĩa một số từ ngữ khó hiểu, xa lạ với học sinh xuất hiện trong bài đọc. Tuy
nhiên với vốn sống và vốn từ ngữ còn ít ỏi của học sinh, vẫn còn nhiều từ
ngữ các em không hiểu hoặc đã nghe quen nhưng không hiểu nghĩa. Điều
này gây cản trở việc nắm nội dung và cảm nhận của các em về bài học. Bên
cạnh đó, một số từ được dùng với nghĩa “đắt” nhất trong các từ cùng nghĩa
với nó, thể hiện đúng nhất nội dung, ý nghĩa và sắc thái biểu cảm cũng cần
cho học sinh phân tích để thấy được giá trị của nó trong câu văn. Ngoài ra,
các biện pháp tu từ dùng trong văn thơ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, thậm
sưng, điệp từ,…các em mới chỉ được học và tìm hiểu ở những dạng đơn giản
nhất; thậm chí vài biện pháp còn chưa được học. Vì vậy các em chưa thấy
hết được vai trò của chúng trong việc biểu cảm ngôn ngữ.
Để giải quyết những hạn chế trên, trong khi hướng dẫn học sinh tìm
hiểu bài, tôi lồng ghép giải nghĩa một số từ ngữ hỗ trợ cho học sinh nắm nội
dung bài. Những đoạn văn, đoạn thơ có cách dùng từ, đặt câu đặc biệt, tôi
huớng dẫn học sinh khai thác triệt để giúp các em cảm nhận được cái hay,
cái đẹp trong ngôn ngữ của Tiếng Việt và dụng ý của tác giả trong đoạn văn,
đoạn thơ đó.
Ví dụ: Dạy bài “Mùa thảo quả”, tác giả Ma Văn Kháng, SGK Tiếng

Việt 5, tập 1/113. Đoạn văn thứ hai: “Gió tây lướt thướt bay qua rừng,
quyến hương thảo quả đi, rải theo triền núi, đưa hương thảo quả ngọt lựng,
thơm nồng vào những thôn xóm Chin San. Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời


thơm. Người đi từ rừng thảo quả về, hương thơm đậm ủ ấp trong từng nếp
áo, nếp khăn.”
Trong đoạn văn này, tôi hướng dẫn học sinh giải nghĩa từ “quyến”: từ
đồng nghĩa với “cuốn”, nhưng tác giả không dùng từ “cuốn” vì chỉ có từ
“quyến” mới thể hiện được hết điều tác giả muốn nói: mùi thơm của thảo
quả rất đậm nên hương thơm cũng chủ động hòa quyện vào trong gió, gió
và hương thơm hòa quyện vào nhau tạo thành những làn gió thơm, rải theo
khắp triền núi.
Tiếp theo, tôi cho học sinh phân tích cách dùng từ, đặt câu trong đoạn
văn trên. Từ “thơm” được lặp lại nhiều lần, có ba câu ngắn liên tiếp nhau:
“Gió thơm. Cây cỏ thơm. Đất trời thơm.” Cách dùng từ như vậy giúp ta cảm
nhận được hương thơm đặc biệt của thảo quả. Ba câu ngắn liền kề nhau mà
tại sao tác giả không tạo thành câu ghép? Đây là ba sự cảm nhận hoàn toàn
độc lập. Đọc xong mỗi câu văn, ta cũng muốn dừng lại để hít hà, thưởng
thức mùi thơm của thảo quả, chính vì vậy mà tác giả không ghép chúng lại
thành một câu ghép. Đọc các vế của câu ghép, ta phải nghỉ ngắn, lấy hơi
nhanh vì vậy mà “không kịp thưởng thức” mùi hương của thảo quả chăng?
Bên cạnh đó, các câu văn ngắn này còn giúp ta hình dung một không gian
rộng lớn, thấm đẫm mùi hương của thảo quả, mọi vật xung quanh dường
như cũng đang biến mình trong mùi thơm ấy.
3. Giúp học sinh khai thác các biện pháp nghệ thuật trong các bài
văn, bài thơ.
Như trên đã nói, các biện pháp tu từ là đặc trưng của văn học. Một
trong những biện pháp giúp cho các em có năng lực cảm thụ văn học tốt là
giúp cho học sinh nhận biết được các biện pháp nghệ thuật đó và tác dụng

của nó được tác giả sử dụng trong các bài văn, bài thơ.


Trong phân môn Luyện từ và câu, học sinh đã hiểu được thế nào là
biện pháp nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, lặp từ và đảo bộ phận,… Khi ứng
dụng để phân tích các biện pháp nghệ thuật này, tôi cho học sinh:
- Xác định đúng những biện pháp nghệ thuật trong bài văn, bài thơ.
- Xác định đúng những từ, cụm từ, hình ảnh( ngữ liệu) thể hiện biện
pháp nghệ thuật.
- Phân tích để cảm nhận được giá trị nghệ thuật làm tăng giá trị nội
dung, ý nghĩa của bài văn, bài thơ.
a . Biện pháp so sánh.
So sánh là việc đối chiếu hai hay nhiều sự vật, sự việc cùng có một nét
giống nhau nào đó, nhằm diễn tả một cách đầy đủ các hình ảnh, đặc điểm
của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: “ Giữa ngút ngàn cây trái
Dọc vùng rừng nguyên sơ
Không biết thực hay mơ
Ráng chiều như hơi khói.…”
(Trước cổng trời - Nguyễn Đình Ảnh TV5-tập 1/80)
Cho học sinh xác định được biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu
thơ trên là nghệ thuật so sánh. Hình ảnh so sánh : Ráng chiều (như) hơi
khói.
Tôi gợi ý để cho học sinh cảm nhận được: Ráng chiều, là hình ảnh
thiên nhiên quen thuộc, gần gũi mà các em vẫn thường nhìn thấy mỗi buổi
chiều. Qua hình ảnh so sánh với hơi khói, gợi cho người khách cảm nhận vẻ
đẹp có phần mở ảo, kèm theo làn sương mỏng phảng phất lãng đãng đã vẽ
lên một bức tranh của buổi chiều miền núi thật nhẹ nhàng, thanh bình và yên
ả.
b. Biện pháp nhân hóa.



Nhân hóa là sự diễn đạt bằng cách biến các sự vật không phải là
người thành những nhân vật mang tính chất như con người. Biện pháp nhân
hóa giúp các sự vật miêu tả trở nên gần gũi, đáng yêu hơn. Học sinh dễ hình
dung về các hoạt động của sự vật hơn.
Ví dụ : Đoạn thơ :
“ Lúc ấy
Cả công trường say ngủ cạnh dòng sông
Những tháp khoan nhô lên trời ngẫm nghĩ
Những xe ủi, xe ben sóng vai nhau nằm nghỉ
Chỉ còn tiếng đàn ngân nga
Với một dòng trăng lấp loáng sông Đà.”
(Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà- Quang Huy, Tiếng Việt tập 1/69)
Học sinh xác định được nghệ thuật được sử dụng là nhân hóa. Hình ảnh
nhân hóa: công trường say ngủ, tháp khoan ngẫm nghĩ ; xe ủi, xe ben
sóng vai nhau nằm nghỉ.
Ở phần này, tôi gợi mở, hướng dẫn học sinh cảm nhận được: Sự tĩnh
lặng về đêm của một công trường mà ban ngày rất ồn ào, náo nhiệt và rộn rã.
Nhờ sử dụng biện pháp nhân hóa mà những máy móc tưởng chừng rất khô
khan, cứng nhắc kia bỗng trở nên hiền lành, đáng yêu và gần gũi. Chúng biết
suy nghĩ, biết nghỉ ngơi và cũng cần có bạn như con người. Nhờ cách nhân
hóa như vậy, học sinh hình dung trước mắt là quang cảnh một công trường
ngổn ngang máy móc nhưng vẫn đẹp rất nên thơ. Yên lặng nhưng không bất
động, tất cả chỉ như những người lao động đang nghỉ ngơi để ngày mai lại
hòa vào nhịp sống hối hả của công trường, cùng nhau xây dựng một tương
lai sáng ngời cho đất nước. Từ đó tôi liên hệ giáo dục các em sự vật cũng
như con người, đã gắn bó, cùng với con người lao động vì mục đích tốt đẹp,
vì vậy máy móc cũng rất cần được quan tâm, chăm sóc và bảo vệ.



c. Nghệ thuật điệp ngữ (lặp từ ngữ.)
Điệp ngữ là cách diễn đạt một từ, một cụm từ được nhắc lại nhiều lần
nhằm mục đích nhấn mạnh ý, khẳng định, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra
những cảm xúc trong lòng người đọc, người nghe. Biện pháp này học sinh
chưa được học trong chương trình phân môn Luyện từ và câu nhưng nó lại
thường xuyên xuất hiện trong các bài tập đọc các em học. Vì vậy tôi chỉ giới
thiệu là biện pháp lặp lại các từ ngữ cho học sinh. Tùy trong mỗi văn cảnh
cụ thể, tôi hướng dẫn cho các em phân tích tác dụng của các từ được lặp lại
để các em cảm nhận hết sự phong phú và đa dạng trong cách biểu cảm của
tiếng Việt.
Trước tiên tôi cho học sinh xác định những từ ngữ được lặp lại, và
lặp lại như vậy nhằm mục đích gì. Học sinh thấy việc lặp từ ngữ nhưng đoạn
văn, đoạn thơ không hề nhàm chán, ngược lại, các hình ảnh đó như mạnh mẽ
hơn, thôi thúc hơn và bao giờ cũng muốn khẳng định một điều gần như là
bất biến.
Ví dụ:

Tìm nơi thăm thẳm rừng sâu
Bập bùng hoa chuối, trắng màu hoa ban.
Tìm nơi bờ biển sóng tràn
Hàng cây chắn bão dịu dàng mùa hoa.
Tìm nơi quần đảo khơi xa
Có loài hoa nở như là không tên…

(Hành trình của bầy ong- Nguyễn Đức Mậu. Tiếng Việt 5, tập 1/117.)
Tôi cho học sinh xác định các từ lặp lại trong đoạn thơ: “Tìm nơi”.
Tôi cho học sinh đọc nhiều lần khổ thơ. Gọi một số cá nhân phát biểu suy
nghĩ của mình về tác dụng của từ được lặp lại như vậy. Sau những ý kiến của
các em, tôi tổng hợp và kết luận: Từ “Tìm nơi” lặp lại như vậy nhưng đoạn

thơ vẫn rất hay, rất mới, không hề nhàm chán. Tác giả muốn khẳng định
công việc của bầy ong là một công việc đặc biệt, yêu cầu mỗi con ong phải


tự biết tìm tòi, sáng tạo. Những nơi ong đến không phải là nơi định trước
hay là có sẵn mà chúng phải tự khám phá. Từ này lặp lại còn mở ra cho các
em thấy, bầy ong đã tìm và sẽ còn tìm nhiều nơi khác nữa (những nơi chưa
được nhắc đến trong bài) cho dù ở đâu – nếu nơi đó có hoa nở.
Để giúp các em có thể vận dụng biện pháp này trong viết văn, tôi
hướng dẫn học sinh biết chọn lọc, sử dụng từ lặp lại đúng lúc sẽ có hiệu quả
cao. Ngược lại sẽ gây phản cảm, bài văn trở nên nhàm chán. Khi sử dụng
biện pháp này trong viết văn, cần tránh nhầm lẫn với trường hợp lặp từ.
3. Các biện pháp phối hợp trong khi hướng dẫn học sinh cảm thụ
văn học.
Ngoài các biện pháp như trên đã trình bày, để có thể dạy cho học sinh
cảm thụ văn học tốt qua phân môn Tập đọc, tôi đã phối hợp nhiều biện pháp
để đem lại hiệu quả tốt nhất. Các biện pháp dùng phối hợp là:
a) Tôi lựa chọn và sử dụng hệ thống câu hỏi gợi được cảm xúc, gợi
liên tưởng, phát huy trí tưởng tượng của học sinh. Những câu hỏi trong bài
chỉ giúp các em tìm hiểu nội dung bài, chưa giúp các em cảm thụ văn. Vì
vậy ngoài những câu hỏi đó, tôi đã thoát li khỏi các câu hỏi tìm hiểu bài
trong sách giáo khoa, chủ động sáng tạo, tìm tòi để đặt những câu hỏi khơi
gợi học sinh tìm hiểu về vần điệu, từ ngữ, hình ảnh, nhân vật, hành động…
trong bài Tập đọc.
Ví dụ: Dạy bài

Về ngôi nhà đang xây ( Tác giả Đồng Xuân Lan,

SGK Tiếng Việt 5, tập 1/149)
Sau khi đã cho học sinh tìm hiểu bài, tôi sẽ đặt thêm câu hỏi để khơi

gợi trí tưởng tượng, rèn cách sử dụng từ ngữ và hình ảnh trong văn học của
các em như sau:
+ Dựa vào hình ảnh sẵn có trong bài sau, em có thể có cách liên tưởng
và dùng từ nào khác độc đáo hơn, thú vị hơn:
“ Bầy chim đi ăn về


Rót vào ô cửa chưa sơn vài nốt nhạc”.
Học sinh có nhiều em trả lời khác nhau rất thú vị như: “Bầy chim
đánh rơi vào ô cửa vài nốt nhạc”, “Bầy chim thả vào ô cửa vài nốt nhạc”…
+ Em có cách nói nào khác cách so sánh trong câu thơ: “ Ngôi nhà
như trẻ nhỏ, lớn lên với trời xanh”. Học sinh của tôi đã mạnh dạn nêu rằng:
“Ngôi nhà như búp măng, lớn lên cùng đất nước”, “ Ngôi nhà đang vươn
vai đứng dậy”, “Ngôi nhà như chiếc áo đang may”…
b) Gợi ý cho học sinh so sánh, chọn lựa, đánh giá, phân tích, có cách
hiểu khác, góc nhìn khác về bài Tập đọc đang học nhằm phát huy năng khiếu
văn học của các em.
Ví dụ bài:

Kì diệu rừng xanh (Tác giả Nguyễn Phan Hách, SGK

Tiếng Việt 5. tập 1/75).
Đoạn văn 2. Bài chỉ yêu cầu tìm hiểu đặc điểm của các loài muông thú
trong rừng. Tuy nhiên trong đoạn này có nhiều hình ảnh đẹp, dùng từ hay.
Để cho học sinh đánh giá, lựa chọn cách dùng từ trong hai câu: “Ánh nắng
lọt qua lá trong xanh. Chúng tôi đi đến đâu, rừng rào rào chuyển động đến
đấy.” tôi cho học sinh lựa chọn những từ khác có thể thay thế hai từ trong
xanh và rào rào chuyển động. Qua hiểu biết và sự tưởng tượng các em có
thể thay bằng các từ : Xanh như ngọc, xanh biếc,…( cho câu thứ nhất); như
được đánh thức, thức dậy, chuyển mình,… ( cho câu thứ hai).

c) Tôi thường đưa ra lời bình đủ và đúng thời điểm. Sau khi hướng
dẫn học sinh cảm thụ một đoạn văn, khổ thơ hoặc một hình ảnh; tôi có thể
cho học sinh nêu lên cảm nhận của mình rồi sau đó tôi mới đưa ra lời bình
của mình về bài tập đọc để học sinh so sánh, học tập đồng thời có sự giao
lưu tình cảm giữa cô và trò. (Cảm nhận của mọi người được bộc lộ ra một
cách gần gũi thân thiện). Tuy nhiên tôi không lạm dụng lời bình của mình
đưa ra, khéo léo để tránh tình trạng học sinh cảm thấy cảm nhận của mình
dở, không hay như cô từ đó các em ngại bộc lộ suy nghĩ của mình.


Ví dụ bài: Đất Cà Mau (SGK Tiếng Việt lớp 5 tập 1/89)
Đoạn văn cuối: “ Sống trên cái đất mà ngày xưa, dưới sông “sấu cản mũi
thuyền”, trên cạn “hổ rình xem hát” này, con người phải thông minh và
giàu nghị lực. Họ thích kể, thích nghe những huyền thoại về người vật hổ,
bắt cá sấu, bắt rắn hổ mây. Tinh thần thượng võ của cha ông được nung đúc
và lưu truyền để khai phá giữ gìn mũi đất tận cùng này của Tổ quốc.”
Trước tiên tôi cho học sinh nêu bình luận của mình về tính cách
người của Cà Mau. Mỗi em một ý nhưng chung quy lại các em đều đánh giá
người Cà Mau từ xưa rất dũng cảm, gan dạ và yêu thích võ nghệ. Sau đó tôi
đưa ra lời bình của mình để học sinh nhận xét, so sánh: Thiên nhiên Cà Mau
rất khắc nghiệt, con người luôn có rất nhiều mối hiểm nguy đe dọa và rình
rập đến mạng sống của mình ở khắp nơi như “Trên cạn, hổ rình xem hát ;
dưới sông, sấu cản mũi thuyền”. Tuy nói có quá hơn nhưng đó chính là
những khó khăn mà con người nơi đây đã trải qua để tồn tại, sống và bảo vệ
mảnh đất thân yêu của Tổ quốc, đó cũng chính là lòng yêu quê hương đất
nước của họ. Như vậy, người Cà Mau không những khí phách, gan dạ, dũng
cảm, thượng võ mà đáng quý hơn cả là tấm lòng yêu quê hương đất nước
của họ.
d) Giới thiệu cho học sinh những loại hình nghệ thuật khác liên quan
đến bài tập. Học sinh sẽ hết sức thích thú khi nghe bài hát được phổ từ bài

thơ mình vừa học như bài Hạt gạo làng ta… hay bài tập đọc của mình là
một tác phẩm văn học được dựng thành phim (bài Đất Cà Mau…).
Ví dụ: Sau khi học xong bài “Hạt gạo làng ta” của tác giả Trần Đăng
Khoa, tôi giới thiệu bài hát “Hạt gạo làng ta” được phổ nhạc từ chính bài
thơ các em vừa học và mở băng cho học sinh nghe bài hát này. Một số em
trong lớp cũng thuộc bài hát, các em mạnh dạn xung phong thể hiện bài hát
trước lớp rất tự nhiên và say sưa. Bằng cách này các em thuộc bài rất nhanh
và thể hiện rất rõ là các em yêu mến bài thơ.


d) Cho học sinh diễn đạt thành văn xuôi từ bài thơ vừa học. Một số
bài tập đọc dưới dạng thơ (văn vần), tôi có thể cho học sinh diễn đạt lại bằng
văn xuôi theo cảm nhận của các em về một đoạn thơ hay cả bài thơ. Vì có
cảm nhận hết cái hay của bài thơ các em mới có thể diễn đạt lại bằng văn
xuôi một cách mạch lạc, trôi chảy.
Ví dụ: Bài Sắc màu em yêu – Tiếng Việt 5, tập 1/19: Sau khi đã cho cả
lớp tìm hiểu nội dung bài, đọc diễn cảm; tôi cho học sinh nêu cảm nhận của
mình về một khổ em thích hoặc cả bài thơ bằng văn xuôi. Rất nhiều học
sinh đã trình bày cảm nhận của mình trước lớp, dưới đây là cảm nhận của
em Thúy Ngọc:
Trong cuộc sống quanh ta, có biết bao nhiêu màu sắc khác nhau, màu
nào cũng đẹp. Em yêu nhất là màu đỏ. Màu đỏ trước hết là màu máu đang
chảy trong tim của em và tất cả mọi người chúng ta. Màu đỏ còn là màu
của lá cờ Tổ quốc thiêng liêng, màu của chiếc khăn quàng mà ngày ngày
chúng em vẫn mang trên vai; màu đỏ ấy nhắc chúng em rằng đó là màu
máu của biết bao anh hùng đã hi sinh vì độc lập của Tổ quốc, cho hôm nay
chúng em được cắp sách đến trường. Em say mê trước màu đỏ tươi của
bông hồng nhung lóng lánh sương đêm dưới ánh nắng ban mai. Ôi màu đỏ
thật đẹp đẽ và cũng thật diệu kì.
e) Đọc diễn cảm: Là bước thể hiện sáng tạo bài Tập đọc bằng giọng

đọc, nhằm tác động đến người nghe. Vì qua thưởng thức giọng đọc, người
nghe sẽ sản sinh ra những ấn tượng, xúc động tự nhiên về bài Tập đọc.
Chính vì vậy, bằng giọng đọc diễn cảm của giáo viên sẽ tạo cho học sinh
những bất ngờ hứng thú dù các em đã đọc nhiều lần nhưng vẫn thấy mới lạ
khi nghe. Và khi cho học sinh đọc diễn cảm, đó chính là dịp các em bộc lộ
cảm xúc của bản thân qua cảm thụ của chính mình. Tôi lưu ý cho học sinh:
đọc diễn cảm không phải là khoe chất giọng mà là thể hiện xúc động từ trái


tim, từ cảm nhận chính mình. Bởi thế, tôi không gò ép học sinh đọc diễn
cảm y hệt giọng đọc của mình.
Trước mỗi bài học, tôi đều nghiên cứu bài rất kĩ, tìm cách đọc hay
nhất để đọc mẫu cho các em nghe. Sau tiết học, tôi luôn giành thời gian cho
học sinh luyện đọc diễn cảm. Tôi khuyến khích các cách đọc hay, thể hiện
mới. Kết quả rất bất ngờ, nhiều em thể hiện cách đọc rất riêng, rất mới, các
em hoàn toàn bộc lộ được cảm xúc độc lập của mình qua giọng đọc. Vì các
em thể hiện hết những khả năng đọc khác nhau nên bài Tập đọc trở nên rất
phong phú, nhiều sắc thái.
III: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
1. Kết quả:
Chất lượng cảm thụ văn học trong môn Tập đọc cuối học kì I:
TSHS

Chưa biết cảm thụ

Hiểu văn bản ở mức

Cảm thụ khá, tốt

trung bình.


41

Ts
TL
Ts
TL
Ts
TL
1
2.44%
6
14.63%
34
82.93%
Qua thời gian dạy học sinh cảm thụ văn học ở phân môn Tập đọc,

tôi cảm thấy học sinh tỏ ra rất yêu thích giờ Tập đọc, tự tin phát biểu cảm
nhận của mình, tăng vốn hiểu biết về các biện pháp nghệ thuật được dùng
trong văn chương. Theo đó, học sinh làm bài Tập làm văn tốt hơn, chất
lượng môn Tiếng Việt của lớp cũng từ đó được cải thiện, và quan trọng nhất
là các em nhận ra được cái nổi bật, sâu sắc, đẹp đẽ của bài Tập đọc mình đã
học cũng như thể hiện rõ tình cảm của bản thân khi bộc lộ yêu ghét, đánh giá
hình ảnh, hành động, nhân vật,… có trong bài Tập đọc.
2. Bài học kinh nghiệm:
Trong quá trình bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp
5 theo các biện pháp trên, tôi có một số điều cần lưu ý như sau:
- Trang bị, bổ sung đầy đủ kiến thức về luyện từ và câu cho học sinh
đặc biệt là kiến thức về ngữ pháp như : từ vựng và các kiến thức về các biện
pháp tu từ…)



- Giúp học sinh phát hiện ra được các biện pháp nghệ thuật được tác
giả sử dụng trong tác phẩm và các ngữ liệu thể hiện biện pháp nghệ thuật.
Qua đó giúp các em cảm nhận nội dung, ý nghĩa của nghệ thuật làm tô đẹp
giá trị của tác phẩm.
- Giáo viên cần sáng tạo, động viên khuyến khích những cảm nhận
khác, mới của học sinh. Khuyến khích học sinh có cách đánh giá khác, cách
nhìn khác với một bài đã học.
- Trong giảng dạy phân môn Tập đọc, tôi luôn thực hiện nghiêm, tuyệt
đối theo thứ tự : đọc đúng – đọc hiểu – đọc diễn cảm ; trong đó đặc biệt lưu
ý rèn luyện đọc diễn cảm cho học sinh.
- Trong hoạt động tìm hiểu nội dung bài, tôi thường dẫn dắt học sinh
tìm hiểu tốt nội dung bài đọc. Đặc biệt trong hệ thống câu hỏi, cần có những
câu hỏi mang tính mở phù hợp với các đối tượng học sinh để các em phát
huy hết năng lực hiểu và cảm thụ văn của mình.
- Việc giải nghĩa từ : ngoài những từ mới trong SGK cung cấp. Giáo
viên cần mạnh dạn chọn những từ « chìa khóa » ( từ chứa đựng giá trị nội
dung và nghệ thuật) để giảng giải cho học sinh.
3. Ứng dụng :
- Với nội dung đề tài như tôi đã nói trên, có thể ứng dụng trong phần
lớn các tiết học Tập đọc của chương trình là các thể loại văn bản nghệ thuật
(ngoại trừ những bài thuộc thể loại văn bản hành chính như báo cáo thống
kê, làm biên bản sự việc...)
- Phương pháp này phù hợp với mọi đối tượng học sinh đặc biệt là học
sinh khá và giỏi. Đối với những học sinh trung bình vẫn có thể hướng dẫn
các em cảm thụ văn tuy nhiên mức độ khai thác ít hơn, vì tôi dành cho các
em luyện đọc và tìm hiểu nội dung bài nhiều hơn.
- Có thể vận dụng đề tài này vào trong dạy học phân môn Tập đọc ở
các khối lớp 2, 3, 4. Ở các lớp này giáo viên có thể dẫn dắt để các em làm



quen dần với cảm thụ văn qua mỗi bài Tập đọc, như vậy khi lên lớp 5 hoặc
các lớp lớn hơn việc cảm thụ văn của các em sẽ trở nên dễ dàng và hiệu quả
hơn.

C.KẾT LUẬN:


- Trong phương pháp dạy học phân môn Tập đọc hiện nay, phần cảm
thụ văn học chưa được chú trọng, đa số chỉ tập trung vào việc luyện đọc và
tìm hiểu nội dung bài. Vì vậy tôi mạnh dạn đưa hướng dẫn cảm thụ văn học
lồng ghép vào trong tiết Tập đọc là một biện pháp mới và có khả năng ứng
dụng cao.
- Như trên đã nói, việc hướng dẫn học sinh cảm thụ văn học là một
hoạt động cần thiết, giúp các em tăng cường vốn từ ngữ; biết sử dụng các
phương pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng, hoán dụ, ẩn dụ… trong bài Tập
làm văn của mình. Ngoài ra còn phát huy năng khiếu văn học cho học sinh,
làm nền tảng cho học sinh học tốt môn Ngữ văn ở bậc THCS và THPT. Qua
sự cảm thụ sẽ bồi dưỡng học sinh tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên, yêu
con người, yêu hòa bình, yêu cái đẹp… Từ đó góp phần giáo dục nhân cách
học sinh.
- Dựa vào thực tế vận dụng của mình và kết quả ở trên đã chứng minh,
đề tài rất có hiệu quả đối với học sinh. Tạo sự chuyển biến tích cực cả về
lượng và chất trong phân môn Tập đọc. Các em yêu thích giờ Tập đọc là một
hiệu quả dễ thấy và đáng mừng nhất.
Do thời gian vận dụng kinh nghiệm chưa dài nên chất lượng chung
môn Tiếng Việt của học sinh chưa cao như mong muốn, đồng thời còn do
nhiều yếu tố khác ảnh hưởng và chi phối. Nhưng khi áp dụng, kinh nghiệm
này đã thật sự được học sinh hưởng ứng, các em có sự chuyển biến tích cực

đối với phân môn Tập đọc.
Tuy nhiên trong quá trình vận dụng sẽ không tránh khỏi những hạn
chế và sai sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng Khoa học
cũng như các bạn đồng nghiệp để kinh nghiệm nhỏ này hoàn thiện hơn, góp
phần nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc nói riêng và môn Tiếng Việt
nói chung của học sinh.
Kon Dơng, tháng 1 năm 2012


Người thực hiện:

Lương Thị Kim Thỏa

PHẦN NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP.





×