Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

SKKN: Một số thủ thuật giúp học sinh nhớ từ vựng môn tiếng Anh bậc tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.59 KB, 20 trang )

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
I. Cơ sở lý luận
Tiếng Anh là một trong những ngôn ngữ quốc tế thông dụng nhất hiện
nay. Ngày nay, tiếng Anh được sử dụng ở hầu hết mọi lĩnh vực trong cuộc sống.
Vì thế, việc học và sử dụng tiếng Anh ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết.
Ở Việt Nam, những năm gần đây Tiếng Anh được đưa vào học trong chương
trình bậc tiểu học và đang dần trở thành môn học bắt buộc và bước đầu đã thu
được những kết quả đáng mừng. Vì vậy, nhiệm vụ giáo dục của các cấp giáo dục
và đào tạo trong năm học 2017-2018 đều nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng dạy
học ngoại ngữ, Tin học, đặc biệt là Tiếng Anh, chuẩn bị tốt cho việc triển khai
các môn học này trong Chương trình giáo dục phổ thông mới.” Học tiếng Anh
ở tiểu học giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp bằng tiếng
Anh thông qua các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Đồng thời, việc học tiếng Anh là
một trong những điểm khởi đầu góp phần cho việc hình thành và phát triển kĩ
năng học tập suốt đời; năng lực làm việc trong tương lai và khả năng tham gia
các hoạt động văn hóa, xã hội. Hơn nữa, học tiếng Anh ở tiểu học còn tạo nền
tảng cho việc tiếp tục học tiếng Anh ở các bậc học tiếp theo cũng như học các
ngôn ngữ cần thiết khác trong tương lai. Do vậy, việc học Tiếng Anh ở bậc tiểu
học rất đáng được coi trọng.
Tuy nhiên, để việc sử dụng ngôn ngữ Tiếng Anh như một công cụ giao
tiếp hiệu quả thì đòi hỏi phải có vốn từ vựng phong phú. Học từ vựng đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong quá trình học ngoại ngữ. Theo Wilkins (1972), nếu
người học không học ngữ pháp thì họ chỉ có thể truyền đạt được rất ít ý tưởng
của mình. Nhưng nếu họ không có vốn từ vựng nhất định, họ hoàn toàn không
thể diễn tả được điều gì trong giao tiếp. Như vậy, từ vựng là công cụ giúp người
học có thể tiến hành giao tiếp thành công. Ngoài ra, từ vựng là nền tảng để phát
triển các kỹ năng ngôn ngữ khác như: đọc hiểu, nghe hiểu, nói, viết...Nhận thức
được tầm quan trọng này, ngày nay tất cả các phương pháp áp dụng trong giảng
dạy đều chú trọng đến việc dạy từ vựng. Và việc bắt đầu học tiếng Anh luôn gắn
liền với việc học từ vựng.
Vì từ vựng là một ngôn ngữ nên nó được thể hiện giữa hai hình thức: Lời


nói và chữ viết. Muốn sử dụng được ngôn ngữ đó tức là phải nắm vững hình
thức biểu đạt của từ bằng lời nói hay chữ viết. Song do có mối liên quan của từ
vựng với các yếu tố khác trong ngôn ngữ (ngữ pháp, ngữ âm, ngữ điệu…) hoặc
trong tình huống giao tiếp cụ thể, ta thấy từ vựng là các “viên gạch” còn ngữ
pháp và các yếu tố ngôn ngữ khác được coi như những “mạch vữa” để xây lên
thành môt ngôi nhà “ngôn ngữ”. Từ vựng là nền tảng để vận dụng và thực hành
các kỹ năng ngôn ngữ khác trong giao tiếp. Cho nên việc học từ vựng là một yếu
tố quan trọng trong việc học Tiếng Anh. Tuy nhiên, đa phần học sinh chưa thấy
được tầm quan trọng của từ vựng, chỉ học qua loa rồi không biết vận dụng tốt
vốn từ, học thuộc lòng một cách chống đối, chưa chưa chịu ghi nhớ và phát huy
vốn từ một cách hiệu quả.
Hiện nay tình trạng xao lãng việc học, học sinh học đối phó, học vẹt mà
không biết tự học, học sinh yếu kém khá nhiều. Làm thế nào để khắc phục tình

1


trạng này, làm thế nào để thu hút học sinh chú tâm vào việc học là vấn đề đòi hỏi
người làm giáo dục, các thầy cô tâm huyết với nghề, hội đồng sư phạm nhà
trường quan tâm hàng đầu, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình, hình thức,
cải tiến phương pháp để dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả
giáo dục.
Ở lứa tuổi tiểu học, học sinh rất hào hứng, thích tìm tòi, khám phá những
điều mới lạ nhất là những hình ảnh gây ấn tượng và cảm xúc mạnh, xong các em
lại nhanh chán. Do vậy, giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, vận dụng
đa dạng các phương pháp, đổi mới trong thiết kế hoạt động dạy môn Tiếng Anh
nói chung và kỹ năng dạy từ vựng nói riêng để giúp học sinh hứng thú trong
việc học, từ đó khắc sâu và ghi nhớ từ vựng tốt hơn.
Do đặc thù riêng của bộ môn Tiếng Anh học sinh rất khó nhận được sự
kèm cặp, hỗ trợ thêm từ gia đình ngoài các giờ học trên lớp. Nhất là ở vùng

nông thôn, khi đa phần gia đình học sinh đều thuần nông, phụ huynh khó có khả
năng để hỗ trợ con em mình trong việc học Tiếng Anh. Nên các em học sinh ít
có cơ hội thực hành để nhớ được vốn từ và rèn luyện vốn từ ấy.
Xuất phát từ những trăn trở trên, là một giáo viên dạy Tiếng Anh ở trường
tiểu học Vũ Yển, một xã nông thôn thuộc huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, nơi mà
học sinh mới có cơ hội được tiếp cận với môn học này; học sinh không có nhiều
tài liệu để tự tìm tòi, học hỏi nâng cao vốn từ vựng của mình nên tôi lựa chọn đề
tài “Một số thủ thuật giúp học sinh nhớ từ vựng môn Tiếng Anh ở bậc tiểu
học” để từ vựng không còn là nỗi khó khăn của học sinh khi học Tiếng Anh
nữa.
II. Phương pháp tiếp cận tạo ra sáng kiến
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra giáo dục.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
III. Mục tiêu
Trong môn học Tiếng Anh, từ vựng có ở tất cả các tiết học, các đơn vị bài
học và các kĩ năng. Vì vậy, giúp học sinh học từ, nhớ từ vựng Tiếng Anh là một
hoạt động không thể thiếu trong một tiết học nào. Việc học từ và nhớ từ không
chỉ đơn thuần là việc giúp học sinh nhớ nghĩa của từ mà còn là việc giúp các em
nghe từ, phát âm từ một cách chính xác và áp dụng từ trong giao tiếp bằng Tiếng
Anh. Do đó, việc tìm ra những cách thức giúp các em học từ và nhớ từ lâu là
nhiệm vụ của mỗi giáo viên với mục đích giúp học sinh hiểu từ, sử dụng được từ
vào trong câu theo từng ngữ cảnh và nhớ được từ lâu.
Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập
thì chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động
của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến
thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em
phải tự học bằng chính các hoạt động của mình.
2



Phương pháp chủ đạo trong dạy học ngoại ngữ của chúng ta là lồng ghép,
nghĩa là từ mới cần được dạy trong ngữ cảnh, ngữ cảnh có thể là một bài đọc,
một đoạn hội thoại hay một bài khoá. Tuy nhiên, nói đến cùng thì việc dạy và
học ngoại ngữ vẫn là việc dạy từ mới như thế nào, dạy cấu trúc câu mới như thế
nào để học sinh biết cách sử dụng từ mới và cấu trúc mới trong giao tiếp bằng
tiếng nước ngoài. Theo khảo sát cho thấy nếu chúng ta áp dụng phương pháp cũ
để giảng dạy từ mới học sinh tiếp thu bài chậm khả năng nhớ từ khó hơn và
chóng quên. Học sinh học một cách thụ động ép buộc không có hứng thú. Điều
này dẫn tới chất lượng giờ học không đảm bảo.
Ngay từ đầu, giáo viên cần xem xét các thủ thuật khác nhau cho từng
bước xử lý từ vựng trong các ngữ cảnh mới: gợi mở, dạy từ, kiểm tra và củng cố
từ vựng. Có nên dạy tất cả những từ mới không, dạy bao nhiêu từ trong một tiết
thì vừa. Dùng sẵn mẫu câu đã học hoặc sắp học để giới thiệu từ mới. Dùng tranh
ảnh, dụng cụ trực quan để giới thiệu từ mới. Đảm bảo cho học sinh nắm được
cấu trúc, vận dụng từ vựng vào cấu trúc để hoàn thiện chức năng giao tiếp, thiết
lập mối quan hệ giữa cấu trúc mới và vốn từ đã có. Khắc sâu vốn từ trong trí nhớ
của học sinh thông qua các mẫu câu và qua những bài tập thực hành.
Với mục tiêu giúp các em học sinh hình thành kĩ năng học từ vựng ngay
ở bậc tiểu học để các em có một vốn từ vựng phong phú, giúp các em học tốt
môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học, làm nền tảng cho môn học này ở các bậc học sau,
tôi đã nghiên cứu đề tài này với các nội dung cụ thể sau:
- Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học Tiếng Anh ở trường tiểu học trước
khi vận dụng đề tài.
- Tìm hiểu các thủ thuật giúp các em học tốt từ vựng môn Tiếng Anh:
+ Công tác chuẩn bị trước khi dạy từ.
+ Một số thủ thuật dạy từ vựng hiệu quả cho học sinh tiểu học.
+ Một số thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm tại các lớp áp dụng các thủ thuật dạy và

học từ vựng và so sánh với kết quả ban đầu.
- Rút ra bài học kinh nghiệm.
CHƯƠNG II: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
I. VẤN ĐỀ CỦA SÁNG KIẾN:
1. Thực trạng vấn đề;
Tiếng Anh là một môn học mới được đưa vào giảng dạy đại trà trong
những năm học gần đây ở huyện Thanh Ba nói chung và trường tiểu học Vũ Yển
nói riêng. Tuy nhiên, với bản chất tò mò, thích khám phá cái mới của các em học
sinh tiểu học, các em đã đón nhận và thích nghi với môn học này một cách
nhanh chóng. Song bên cạnh đó vẫn còn một số em học sinh gặp những khó
khăn trong khi học, nhất là việc học và nhớ từ vựng. Đối với các em học sinh
lớp 3, vì mới được tiếp cận với môn học nên các em còn nhiều bỡ ngỡ hơn. Thầy

3


cô, sách giáo khoa và phương pháp học đều mới với các em. Đối với các em học
sinh lớp 4 - 5, các em đã quen dần với việc học tiếng Anh. Song với lượng từ
mới ngày càng nhiều, các em chưa biết cách học cho khoa học để nhớ từ, để
dùng vốn từ vựng của mình phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Các em
học từ mới một cách máy móc, đối phó với thấy cô giáo, chưa có ý thức kiểm tra
lại mình nên hiệu quả không cao. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy và học từ
vựng trong các tiết học là rất cần thiết.
Phần lớn phụ huynh có sự quan tâm tới việc học tiếng Anh của con em
mình. Tuy nhiên, đa số phụ huynh trình độ tiếng Anh còn hạn chế nên không thể
hỗ trợ việc học ở nhà của con em mình. Các em học sinh cũng không có nhiều
cơ hội tiếp cận với các phương thức học tiếng Anh ngoài nhà trường như các
chương trình học tiếng Anh qua mạng Internet.
Về phía giáo viên: Tỷ lệ giáo viên tiếng Anh ở các trường tiểu học trong
huyên Thanh Ba nói chung còn thấp. Đa số mỗi trường chỉ có một giáo viên

tiếng Anh nên việc trao đổi các vấn đề về chuyên môn trực tiếp trong nhà trường
còn hạn chế. Thêm vào đó, các trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy chưa
nhiều. Muốn cho giờ học phong phú hơn, hiệu quả hơn, giáo viên phải tự làm
các đồ dùng dạy học.
Sau khi phân tích thực trạng của việc học tiếng Anh ở trường tiểu học Vũ
Yển, sau 2 tuần học đầu tiên, tôi đã khảo sát việc học từ vựng của học sinh khối
4 trường tiểu học Vũ Yển và thu được kết quả như sau:
TSHS
36

Khả năng nhớ từ
trên lớp
25

Khả năng vận dụng
từ vào kĩ năng nói
20

Khả năng vận dụng
từ vào kĩ năng viết
18

Qua kết quả khảo sát tôi nhận thấy rằng, việc dạy từ vựng với phương
pháp truyền thống dạy từ và nghĩa của từ sẽ làm cho học sinh khó có thể nhớ từ
ngay trên lớp, việc vận dụng từ vào các kĩ năng khác cũng bị hạn chế.
2. Tồn tại, hạn chế
Qua thực tế giảng dạy môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học trong những năm
qua, tôi nhận thấy chất lượng môn học này vẫn còn thấp. Qua quan sát, thực
nghiệm sư phạm và điều tra kết quả giáo dục, tôi nhận thấy một số nguyên nhân
của việc hạn chế như sau:

Trang thiết bị dạy học còn nhiều hạn chế: Với bản chất tò mò, ham học
hỏi, cùng với khả năng cảm nhận thế giới từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, tất cả học sinh cùng chung một ý kiến rằng các em rất thích giáo viên sử
dụng giáo cụ trực quan trong các giờ dạy Tiếng Anh. Nhưng trong thực tế giảng
dạy, một số tiết học cần đến vật thật hoặc tranh ảnh minh họa cho các em vẫn
còn nhiều hạn chế. Vì đây là lứa tuổi rất năng động, các em rất thích khám phá
đồ vật bằng mắt thấy, tai nghe nên đồ dùng trực quan ảnh hưởng rất lớn đến việc
học Tiếng Anh. Bên cạnh đó trường tôi vẫn chưa có phòng Lab, phòng nghenhìn dành riêng cho bộ môn Tiếng Anh. Việc mua sắm trang thiết bị gia đình

4


phục vụ công việc tự học Tiếng Anh tại gia đình của các em không phải ai cũng
có được.
Cơ hội thực hành Tiếng Anh ít: trường Tiểu học Vũ Yển đóng trên địa bàn
xã Vũ Yển, một xã nông thôn mới của huyện Thanh Ba. Học sinh ở đây chưa
được ứng dụng thực tế những gì mình học trong giao tiếp hằng ngày. Các em
không có cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài để có thể chào hỏi xã giao vài
câu Tiếng Anh. Phạm vi học và thực hành Tiếng Anh chỉ có được trong lớp học.
Chính vì thế mà học sinh cảm thấy học như bị bắt buộc, học để lấy điểm cao là
chủ yếu, các em chưa ý thức được học Tiếng Anh để có thể sử dụng làm phương
tiện giao tiếp sau này.
Hạn chế về thời gian và các hình thức trò chơi: Học sinh ở bậc tiểu học
còn nhỏ nên tốc độ viết của các em còn chậm. Đây là một lí do chủ yếu dẫn đến
việc hạn chế thời gian tổ chức các trò chơi. Bên cạnh đó các hình thức trò chơi
vẫn chưa được tổ chức phong phú. Đặc biệt là học sinh tiểu học rất thích học
Tiếng Anh có lồng ghép vào các trò chơi. Điều này là rất tốt vì phần nào giáo
viên đã làm được việc: Học mà chơi, chơi mà học.
Động cơ và ý thức học tập chưa cao: Môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học vẫn là
môn học tự chọn nên một số phụ huynh và học sinh chưa ý thức được tầm quan

trọng của môn học này. Một số học sinh lên lớp là vì bắt buộc phải lên chứ các
em không có một động cơ học tập nào. Đối tượng học sinh yếu kém nên các em
này rất ngại thực hành giao tiếp. Vì khả năng tiếp thu chậm, sợ thực hành sai, sợ
những nhận xét không tốt của giáo viên. Một số ít khác là đối tượng khá, giỏi,
các em ngại giao tiếp không phải vì khả năng tiếp thu chậm mà các em bị hạn
chế về mặt tâm lí, ngại thực hành trước đám đông. Ở lứa tuổi này các em rất
ham chơi nên ý thức học tập chưa cao. Thêm vào đó các em rất ít chú trọng vào
việc học và rất lười học bài nhất là từ vựng Tiếng Anh.
3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Trước hết về phía người dạy: Giáo viên tuy có nhiều cố gắng trong việc
vận dụng phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực hóa các hoạt động của
học sinh, nhưng giáo viên chỉ có thể áp dụng được đối với một số bài, một số
tiết và một số bộ phận học sinh. Nguyên nhân một phần là do sĩ số học sinh
đông trong một lớp, một phần do một số giáo viên còn ít chịu khó đầu tư vào các
tiết dạy, chưa quan tâm tìm tòi những phương pháp giảng dạy phù hợp với từng
đối tượng học sinh nên chất lượng, hiệu quả dạy học của bộ môn này chưa thật
sự như mong muốn. Nhiều hoạt động dạy học tích cực chỉ mới được sử dụng có
tính hình thức, chưa được đầu tư, chuẩn bị đúng mức và triển khai đúng qui trình
nên chưa đạt hiệu quả cao. Ngoài ra: Chương trình, sách giáo khoa còn nặng, có
nhiều bài quá sức học sinh, nhất là đối với các khối 4, 5 trở lên. Vì vậy, để
truyền tải hết nội dung sách giáo khoa theo phân phối chương trình, giáo viên
không thể đi sâu giảng kỹ.
- Về phía học sinh: Bên cạnh những học sinh yêu thích học ngoại ngữ vẫn
còn không ít học sinh cảm thấy không thích học hoặc cảm thấy khó khăn trong

5


việc học bộ môn này. Đa phần học sinh ở nông thôn ít có điều kiện tiếp cận với
sách tham khảo, các phần mềm học tiếng Anh hay Internet để học Tiếng Anh tốt

hơn. Học sinh không có cơ hội vận dụng ngoại ngữ, thực hành vào các tình
huống giao tiếp hàng ngày, vì vậy học sinh không có điều kiện để rèn luyện các
kỹ năng.
- Sau cùng là trang thiết bị, đồ dùng dạy học: Thiết bị dạy học cần thiết
như băng, đĩa máy cassette hầu hết các trường đều có trang bị. Tuy nhiên còn rất
nhiều trường, máy casette quá cũ hoặc chất lượng sử dụng không tốt dẫn đến
việc giáo viên phải đọc cho học sinh. Sách tham khảo, các loại từ điển, tranh ảnh
và các đồ dùng khác còn hạn chế nhiều. Chưa có phòng học riêng theo đặc thù
của bộ môn này.
4. Tính cấp thiết cần tạo ra Sáng kiến.
Trước thực trạng trên, với vai trò là một giáo viên, tôi đã tự đặt ra cho
mình câu hỏi: Làm thế nào để học từ vựng không còn là một vấn đề khó đối với
học sinh? Làm thế nào để học sinh có thể nhớ từ vựng ngay trên lớp và áp dụng
từ vào phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết? Làm thế nào để các giờ học
tiếng Anh trở nên sôi nổi, không còn khô khan, cứng nhắc? Làm thế nào để các
em học sinh yêu thích môn học tiếng Anh?
Tôi đã tìm tòi, nghiên cứu áp dụng các kỹ năng dạy từ vựng, cụ thể là các
kỹ năng giới thiệu và kiểm tra từ vựng đối với học sinh sao cho phù hợp và có
hiệu quả tốt, cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích cực, phát huy tính
chủ động sáng tạo và năng lực tự học của học sinh để nâng cao chất lượng giáo
dục môn tiếng Anh nói riêng và chất lượng giáo dục của nhà trường nói chung.
Đó là lý do tôi chọn đề tài “Một số thủ thuật giúp học sinh nhớ từ vựng
môn Tiếng Anh ở bậc tiểu học” với hy vọng góp một phần nhỏ bé vào việc
nâng cao chất lượng học tập bộ môn Tiếng Anh cho các em học sinh tiểu học.
II. GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN
Từ thực tế việc dạy Tiếng Anh nói trên, tôi đưa ra một số thủ thuật giúp
học và nhớ từ cho học sinh ở bậc tiểu học. Các thủ thuật trong đề tài này cũng đã
được đề cập nhiều trong các tài liệu hướng dẫn giảng dạy ở bộ môn Tiếng Anh.
Tuy nhiên làm thế nào để áp dụng các thủ thuật đó một cách có hiệu quả thì đòi
hỏi giáo viên phải biết cách chọn lọc và tổ chức thực hiện các thủ thuật ấy một

cách linh hoạt. Có thể thủ thuật này phù hợp với bài dạy này nhưng lại không
hiệu quả đối với bài học khác. Để áp dụng vào thực tế cho phù hợp, sinh động
và hiệu quả cao thì còn tùy thuộc vào phương tiện giảng dạy của từng tiết học và
sự linh hoạt của giáo viên để biến mỗi hoạt động trở thành trò chơi lí thú, dễ lôi
cuốn học sinh, gây cho các em sự hứng thú học tập và nhớ từ. Một số thủ thuật,
trò chơi sẽ thuận tiện hơn và hấp dẫn hơn nếu giáo viên dạy có hỗ trợ của công
nghệ thông tin. Đối với các tiết dạy truyền thống thì giáo viên cần chuẩn bị
nhiều hơn bằng các giáo cụ trực quan như bảng phụ, vật thật, hình ảnh, mô
hình…. Mỗi thủ thuật có những thuận lợi khi được giáo viên vận dụng vào thực
tiễn. Sự chọn lọc các thủ thuật cho phù hợp từng mục đích dạy, từng bài dạy,
từng phương tiện đồ dùng dạy học, tránh việc nhàm chán trong hoạt động là một
nội dung quan trọng được đề cập đến trong đề tài này.
6


1. Một số thủ thuật giới thiệu từ vựng:
1.1. Công tác chuẩn bị trước khi dạy từ.
Để việc dạy từ và giúp học sinh nhớ từ lâu, giáo viên phải chuẩn bị những
việc sau đây:
Lập kế hoạch dạy từ vựng sẽ được học hoặc ôn tập theo đặc trưng của
từng tiết học.
Lựa chọn trò chơi và thủ thuật cho phù hợp theo từng nội dung bài.
Chuẩn bị một số đồ dùng dạy học (bảng phụ dạy từ, bút lông, tranh, vật
thật, thẻ bìa…..).
Chuẩn bị máy tính, đèn chiếu nếu tiết dạy có sự hỗ trợ của việc ứng dụng
công nghệ thông tin.
Chuẩn bị, sắp xếp lớp học để tổ chức cho học sinh một số trò chơi có hiệu
quả.
Trước mỗi bài học giáo viên cần chuẩn bị tranh ảnh liên quan đến từng bài
học lên tường hai bên phòng học để học sinh dễ nhìn và dễ nhận biết chúng đang

học bài nào? Mục đích cũng làm tăng thêm sự chú ý cũng như không khí trong
lớp học thỏa mái dễ chịu.
Sắp xếp những học sinh nhút nhát ngồi phía bàn trên gần giáo viên để tiện
lắng nghe và tạo cơ hội động viên khích lệ trẻ.
Giáo viên phải nghiên cứu bài giảng trước khi lên lớp, viết tóm tắt định
hướng tiết dạy nhằm tìm ra mối liên quan giữa bài trước với bài sau, phần nào
nên dạy trước phần nào sẽ dạy sau trong tiết dạy để học sinh dễ hiểu bài.
Nếu dạy bằng máy giáo viên nên bấm máy chậm vừa đủ để hs nghe, hiểu
và đọc chính xác theo máy. Giáo viên không cần đọc mẫu, học sinh chỉ đọc khi
máy đã đọc xong. Giáo viên luôn chú ý luyện cho học sinh cách phát âm,đọc
đúng ngữ điệu theo máy và không được dạy mở rộng. GV không nên dịch tiếng
Việt khi dạy từ.
Trong tiết dạy giáo viên phải bám sát khung phân phân bổ chương
trình.Thực hiện đúng giáo học pháp qui định trong tài liệu hướng dẫn.
Sử dụng hiệu quả kỹ thuật giảng dạy và ghi điểm thi đua trong tiết học để
học sinh luôn phải chú ý hoà vào không khí học tập của lớp.Thực hiện mỗi học
sinh phải đọc cá nhân ít nhất 1 lần/ tiết và đọc nhiều lần theo nhóm trong một
tiết dạy, giúp học sinh nhớ ngay bài trên lớp. Đối tượng học là HS tiểu học nên
giáo viên cần phải dạy tỉ mỉ hơn.
Khi tổ chức chơi trò chơi trên lớp.GV phải chú ý hướng dẫn thật cụ thể và
rõ ràng luật chơi cho học sinh hiểu. Khen thưởng động viên kịp thời và công
bằng với mỗi học sinh.
1.2. Lựa chọn từ để dạy:
Ở môi trường phổ thông hiện nay, khi nói đến ngữ liệu mới là chủ yếu nói
đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng và ngữ pháp luôn có mối quan hệ khăng khít
với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và
giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất
hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để
chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề:
- Từ chủ động (active vocabulary)

7


- Từ bị động (passive vocabulary)
Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên
quan đến bốn kỹ năng (nghe - nói - đọc - viết). Đối với loại từ này giáo viên cần
đầu tư thời gian để giới thiệu và hướng dẫn học sinh luyện tập nhiều hơn.
Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư
thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định
xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động.
Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là:
+ Form. (Cấu tạo của từ)
+ Meaning. (Nghĩa của từ)
+ Use. (Cách sử dụng của từ)
Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ
điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên
cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm
đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ.
Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của
học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực
hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ.
Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau:
- Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không?
- Từ đó có khó so với trình độ học sinh không?
Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của
học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh. Nếu từ
đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó
không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học sinh hiểu
nghĩa từ đó ngay. Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng
không khó lắm thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán nghĩa của từ.

1.3. Các bước tiến hành giới thiệu từ vựng:
- Để giới thiệu từ mới, giáo viên dạy cho học sinh theo bốn kỹ năng :
+ Nghe: Giáo viên đọc mẫu, học sinh lắng nghe.
+ Nói: Giáo viên đọc từ, học sinh đọc lại.
+ Đọc: Giáo viên viết từ lên bảng, học sinh đọc từ bằng mắt, bằng miệng
+ Viết: Học sinh viết từ vào vở.
- Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ đề: đây là bước khá quan trọng trong
việc dạy từ vựng. Bước này sẽ quyết định sự thành công của tiết học, nó sẽ gợi
mở cho học sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm vừa mới được
giới thiệu. Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo
trình tự: nghe, nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động nào khác
“nghe”. Hãy nhớ lại quá trình học tiếng mẹ đẻ của chúng ta, bao giờ cũng bắt
đầu bằng nghe, bắt chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác. Hãy giúp
cho học sinh của bạn có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất.
- Bước 1: Nghe. Giáo viên cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu.
- Bước 2: Nói. Sau khi học sinh đã nghe được ba lần, giáo viên yêu cầu
học sinh nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại, giáo viên cần chú ý cho cả lớp nhắc
lại trước sau đó mới gọi cá nhân.
8


- Bước 3: Đọc.Giáo viên viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó
để đọc. Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một
chừng mực mà giáo viên cho là đạt yêu cầu.
- Bước 4: Viết. Sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi giáo
viên mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở.
- Bước 5: Giáo viên hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ đó không
và yêu cầu một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt.
- Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện
âm tiết có trọng âm và đánh dấu.

- Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới
học.
1.4. Một số thủ thuật dạy từ vựng hiệu quả cho học sinh tiểu học.
Giáo viên có thể dùng một số thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới, giúp các
em học sinh tiếp thu từ một cách chủ động như:
a. Visual (nhìn): Cho học sinh nhìn tranh ảnh hoặc vẽ phác hoạ cho các
em nhìn, giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chóng.
- Ví dụ: English 3 – Unit 16: Do you have any pets?
- Khi dạy từ mới về các con vật, giáo viên có thể phác họa hình ảnh con mèo
(cat), con chó (dog), con thỏ (rabbit)….hoặc dùng tranh để giới thiệu con cá
vàng (goldfish), parrot (con vẹt)….
b. Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ.
- Ví dụ: English 3 – Unit 18: What are you doing?
- Khi giáo viên dạy từ vựng về các từ chỉ hoạt động: sing, dance, skate, play the
piano…, giáo viên có thể dùng hành động để miêu tả các từ vựng này.
c. Realia (vật thật): Dùng những dụng cụ trực quan mà thực tế có được.
- Ví dụ: English 3 – Unit 8: This is my pen.
- Khi dạy từ vựng về các đồ dùng học tập như: pen (bút mực), pencil (bút chì),
school bag (cặp sách)…, giáo viên nên dùng các đồ dùng học tập có sẵn trong
lớp để dạy từ.
d. Situation/ Explanation: Dùng tình huống và giải thích để học sinh nắm
bắt từ mới một cách hiệu quả. Giáo viên có thể đưa ra một vài tình huống để học
sinh tự đoán nghĩa.
e. Example: Đưa ra các ví dụ cụ thể có liên quan đến từ sắp học tạo sự tò
mò và hấp dẫn học sinh.
f. Synonym\ antonym: (từ đồng nghĩa\ trái nghĩa: Giáo viên dùng những
từ đã học rồi có nghĩa tương đương để giúp học sinh nhận biết nghĩa của từ sắp
được học.
- Ví dụ: T asks: What’s another word for “nice” ?
Ss answer: pretty

- Hoặc giáo viên có thể dùng các từ trái nghĩa với từ học sinh sắp học như: tall/
short, thin/ fat, young/ old, pretty/ urly….
g. Translation (dịch): Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng
Việt để cung cấp nghĩa từ trong tiếng Anh.
Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không còn cách nào khác, thủ
thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để giải quyết một số
9


lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, giáo viên gợi ý học sinh tự dịch
từ đó.
h.True or False statements: Giáo viên cung cấp một số câu và yêu cầu
học sinh chọn lựa câu trả lời đúng nhất có liên quan đến từ sắp được học.
1.5. Hiệu quả khi áp dụng những thủ thuật dạy từ mới cho học sinh.
Sau khi áp dụng những thủ thuật trên vào các bài dạy từ mới cho học sinh,
tôi thấy kết quả học tập của các em có những tiến bộ rõ rệt. Các giờ học trở nên
sôi nổi và hiệu quả hơn. Học sinh hào hứng hơn với các giờ học tiếng Anh. Các
em có thể đọc từ và nhớ nghĩa của từ nhanh hơn.
Sau khi áp dụng những phương pháp trên vào dạy từ vựng cho học sinh,
tôi đã làm một cuộc điều tra nhỏ đối với học sinh lớp 4A để thăm dò ý kiến của
các em với phương pháp học mới và thu được kết quả như sau:
Tổng số HS
19

Số HS thích
19

Số HS không thích
0


Tôi cũng có một bài kiểm tra nhỏ để kiểm tra lại từ vựng của các em học
sinh khối 4 sau khi áp dụng các thủ thuật trên vào dạy từ vựng. Tôi nhận thấy
rằng, khả năng đọc từ và nhớ nghĩa của từ của các em học sinh tăng lên rõ rệt.
Cụ thể như sau:
Tổng số HS
Đọc từ chính xác Nhớ nghĩa của từ
Trước khi áp dụng
36
32
30
Sau khi áp dụng
36
36
36
2. Kiểm tra và củng cố từ mới
Có nhiều cách giúp học sinh nhớ từ lâu. Tuy nhiên mỗi bài học có những
đặc trưng riêng. Tùy vào từng nội dung bài dạy mà giáo viên có thể lựa chọn
cách thức lựa chọn cho phù hợp. Giáo viên có thể thực hiện trong phần Warm
up, Free Practice hoặc ngay sau khi dạy xong từ vựng.
Giáo viên thực hiện các trò chơi hợp lý tạo không khí lớp học vui vẻ và
sinh động giúp cho học sinh có một tâm lý thoải mái để nhớ từ trong bài. Có thể
thực hiện dưới hình thức các trò chơi tập thể, nhóm, cặp hoặc cá nhân. Tuy
nhiên, dù thực hiện dưới hình thức nào, giáo viên cũng cần tổ chức cho tất cả
học sinh trong lớp theo dõi, nhận xét để các em cùng thực hiện.
Sau khi từ vựng đã được dạy giáo viên cần tổ chức cho học sinh thực
hành, ôn luyện thường xuyên các từ đã được học, đồng thời luôn có những hình
thức kiểm tra xem học sinh đã hiểu đúng chưa để kịp thời có những bài dạy bổ
sung. Quá trình này là quá trình thường xuyên và lâu dài, không nhất thiết phải
xảy ra trong một tiết dạy. Tuy nhiên cũng có những bài tập quá trú trọng riêng
cho phần học từ. có thể hình dung quá trình quá trình dạy và học từ qua 4 giai

đoạn sau:
- Giới thiệu từ
- Thực hành
- Kiểm tra
- Ôn luyện củng cố.
10


Chúng ta biết rằng chỉ giới thiệu từ mới thôi chưa đủ, mà chúng ta còn
phải thực hiện các bước kiểm tra và củng cố từ mới ngay tại lớp. Các thủ thuật
kiểm tra và củng cố sẽ khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn.
2.1. Một số thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới
a. Guess the picture:
Mục đích của trò chơi này giúp cho học sinh thực hành ôn và nói từ một
cách hiệu quả. Trò chơi này có thể thực hiện theo các bước sau:
+ Vẽ một số tranh đơn giản minh họa một số từ cần ôn tập trên giấy A4 và
xếp thành một chồng. (Có thể sử dụng những phiếu tranh dạy từ).
+ Cho một học sinh lên chọn một bức tranh (không cho những học sinh
khác nhìn thấy nội dung của tranh).
+ Những học sinh khác đoán xem đó là tranh gì bằng cách đặt câu hỏi: “
Is this a/an……….. ?” - Học sinh nào đoán đúng sẽ được khuyến khích bằng
điểm hoặc vỗ tay cổ vũ động viên.
Ví dụ: Ôn các từ về dụng cụ học tập. (English 3 - Unit 8)
S1: Is this a pen?
S1: Is this a rubber?
S2: Yes, it is.
S2: No, it isn’t. It’s a ruler.

b. Pair Race (Slap the board):
Mục đích của trò chơi này giúp học sinh thể hiện sự năng động, sử dụng

được trò chơi này giúp các em vừa nhớ được từ vừa giúp các em phát âm từ đó
một cách chính xác. Tùy vào số lượng học sinh của lớp, giáo viên có thể xếp học
sinh thành hai hàng. Đặt một số phiếu giáo viên lên rãnh phấn trên bảng. Giáo
viên đọc to một từ bất kỳ nào trong phiếu. Hai học sinh đứng đầu hai hàng chạy
đua lên bảng chạm tay vào phiếu có từ vừa gọi. Học sinh nào chạm tay vào
trước và nói đúng từ đó thì được một điểm cho đội của mình. Cứ như thế cho
đến học sinh cuối cùng của hàng.
Ví dụ: English 3 – Unit 7, ôn các từ: playground, gym, library, school….
c. Matching:
Mục đích giúp học sinh ôn từ khi kết hợp từ với tranh, từ với nghĩa, hoặc
từ với số…. Tùy vào mục đích của từng bài, giáo viên có thể thiết kế hoạt động
cho phù hợp. Có thể sử dụng trong phần dạy từ, hoặc trong trò chơi củng cố
từ…. Học sinh có thể sắp xếp lại bằng cách kẻ đường thẳng nối từ với từ, từ với
tranh… (hoặc đọc thứ tự kết nối). Học sinh có thể thực hiện theo nhóm, cặp
hoặc theo cá nhân trong trò chơi này.
11


Ví dụ: English 3 – Unit 8: This is my pen. Củng cố từ vựng của học sinh
bằng trò chơi Matching. Giáo viên yêu cầu học sinh nối các từ với tranh tương
ứng.
1. pencil case

a.

2. school bag

b.

3. notebook


c.

4. pencil

d.

d. Jumbled word: Mục đích của trò chơi này nhằm giúp học sinh thực
hành từ mới và chính tả của từ.
Giáo viên viết một số từ lên bảng hoặc vào tờ giấy A4 với các chữ cái xếp
không theo thứ tự nhau. Yêu cầu học sinh sắp xếp lại các chữ cái để tạo thành từ
có nghĩa. Học sinh có thể thực hiện thi đua giữa các nhóm, cặp hoặc cá nhân.
Sau đó giáo viên cho các em đọc lại các từ vừa sắp xếp.
Ví dụ: Sắp xếp lại các chữ cái sau thành từ có nghĩa.
1.
ootllaf (football)
3.
dbtaoinmn (badminton)
2.
ssehc (chess)
4.
gppisnki (skipping)
e. Chain game:
Trò chơi này nhằm luyện trí nhớ cho học sinh. Hoc sinh khi tham gia trò
chơi này phải thật sự tập trung qua đó giúp học sinh nhớ từ lâu hơn. Ngoài ra,
học sinh có cơ hội nói, phát âm rõ ràng các từ đã học.
Giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ ngồi quay mặt với nhau. Học
sinh đầu tiên trong nhóm lặp lại câu của giáo viên. Học sinh thứ 2 lặp lại câu của
học sinh thứ nhất và thêm vào từ khác. Học sinh thứ 3 lặp lại câu của học sinh
thứ nhất, thứ 2 và thêm vào một từ mới tiếp theo, cứ tiếp tục như vậy cho đến

khi trở lại với học sinh thứ nhất trong nhóm.
Ví dụ: English 4 – Unit 8: What subjects do you have today?
GV: Today we have English
HS 1: Today we have English, Maths.
HS 2: Today we have English, Maths, Science
HS 3: Today we have English, Maths, Science, Literature.
HS 4: Today we have English, Maths, Science, Literature, Music.
HS 1: Today we have English, Maths, Science, Literature, Music and Art.
f. What and Where:
Mục đích của trò chơi này giúp học sinh nhớ nghĩa và cách đọc của từ.
Thủ thuật này được áp dụng cho tất cả các từ có trong bài, thường là những từ
dài và khó đọc.

12


Giáo viên viết một số từ lên bảng không theo một trật tự nào và khoanh
tròn chúng lại. Sau mỗi lần đọc giáo viên lại xóa đi một từ nhưng không xóa
vòng tròn. Cho học sinh lặp lại các từ kể cả từ bị xóa. Khi xóa hết từ, giáo viên
cho học sinh viết lại các từ vào đúng chỗ cũ. Nếu thực hiện dưới dạng thi đua
giữa các đội, giáo viên cần chuẩn bị bảng phụ có các vị trí giống bảng từ giáo
viên vừa xóa lên bảng và phát cho các nhóm có thể thực hiện trên bảng phụ.
g. Bingo: Đây là trò chơi nhằm giúp học sinh thực hành, ôn từ thông qua
việc kết nối âm vói cách viết của từ. 10 từ theo một chủ điểm nào đó.
Giáo viên viết một số từ đã học lên bảng. Mỗi học sinh chọn các từ bất kì
trong số các từ đó (số lượng tùy theo yêu cầu của giáo viên) và viết vào giấy.
Giáo viên đọc các từ trên bảng không theo trật tự. Học sinh đánh dấu “x” vào từ
đã chọn khi nghe giáo viên đọc từ đó. Học sinh nào tìm đủ từ theo yêu cầu và
viết đúng chính tả thì hô to “Bingo” và học sinh đó là người thắng cuộc.
h. Charades: Mục đích của trò chơi này giúp các em nhớ một số từ mang

tính chất miêu tả. Hoạt động này bao gồm nhiều dạng thức, nhưng tất cả đều
dùng cử chỉ để diễn tả nghĩa.
Giáo viên đặt một số phiếu từ hoặc phiếu tranh úp mặt xuống bàn. Một
học sinh nhặt một phiếu lên nhưng không báo cho cả lớp biết đó là từ gì. Học
sinh đó phải dùng cử chỉ hoặc điệu bộ thể hiện nghĩa của từ đó. Yêu cầu các học
sinh còn lại trong lớp đoán từ. Giáo viên có thể khuyến khích học sinh đoán
đúng từ bằng cách cho điểm. Cũng có cách đơn giản hơn là không dùng phiếu từ
hoăc phiếu tranh, mà giáo viên ghé tai nói thầm cho một học sinh một từ nào đó.
Học sinh ấy làm như trên.
Ví dụ: Ôn các từ: swimming, playing football, riding a bike … (English 4
– Unit 7).
i. Simon says: Mục đích của trò chơi này nhằm giúp học sinh nhớ từ và
thường được áp dụng cho câu mệnh lệnh ngắn.
Giáo viên hô to các mệnh lệnh. Học sinh chỉ làm theo các mệnh lệnh của
giáo viên nếu giáo viên đọc câu mệnh lệnh bắt đầu bằng câu “Simon says”. Giáo
viên đọc câu mệnh lệnh, không có câu “Simon says”. Học sinh không được thực
hiện mệnh lệnh đó. Nếu học sinh nào thực hiện sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi. Trò
chơi này được áp dụng cho cả lớp, không nên chia theo nhóm hoặc cặp.
Ví dụ: English 3 – Unit 6: Stand up! Giáo viên cho các em học sinh chơi
trò chơi này để ôn lại các câu mệnh lệnh trong bài: stand up, sit down, open your
book, close your book…
j. Group the words: Mục đích của trò chơi này giúp học sinh nhớ nghĩa
của từ và hiểu được thuộc tính của từ.
Giáo viên viết một số từ lên bảng. Học sinh làm việc theo nhóm để sắp
xếp các từ theo từng chủ điểm mà giáo viên đã yêu cầu. Trong khoảng thời gian
nhất định, nhóm nào sắp xếp nhanh và đúng nhất sẽ thắng cuộc.
Ví dụ: Sắp xếp các từ sau vào cột tương ứng: pencil sharpener, blue,
bookcase, black, book, orange, ruler, green, pencil. (English 3 – Unit 9)
School things
………………………..


Color
……………………….

13


k. Circle the words: Mục đích của trò chơi này giúp các em nhớ nghĩa của
từ và từ loại của từ.
Giáo viên viết từ theo hàng ngang có thể 3 hoặc 4 từ (trong đó có 1 từ
khác với các từ còn lại). Giáo viên yêu cầu học sinh khoanh tròn từ đó. Có thể tổ
chức trò chơi này theo nhóm, sử dụng bảng phụ để thực hiện trò chơi. Yêu cầu
cả lớp đọc lại tất cả các từ.
Ví dụ: English 4 – Unit 3, 4: Khoanh tròn từ khác loại với các từ còn lại.
1. May
July
Sunday
March
2. Monday
Thursday
Saturday
September
l. Noughts and cross: Ngoài việc ôn từ, trò chơi này còn giúp học sinh
hiểu và vận dụng từ mới vào trong câu.
Giáo viên vẽ 9 ô có các từ mới lên bảng hoặc chuẩn bị trên bảng phụ.
Chia học sinh thành 2 nhóm: một nhóm là “noughts” (o) và một nhóm là
“crosses” (x). Hai nhóm lần lược chọn các từ trong ô và đặt câu với từ đó.
Nhóm nào đặt câu đúng sẽ được một (o) hoặc một (x). - Nhóm nào có 3 (o) hoặc
(x) trên một hàng ngang, dọc hoặc chéo sẽ thắng cuộc.
Ví dụ: English 4 – Unit 5: Can you swim? Giáo viên chia lớp thành 2 đội

và yêu cầu các em đặt câu với các từ sau sử dụng can/ can’t.
swim
sing
play volleyball
play chess
dance
play the guitar
skip
skate
draw
m. Rub out and remember:
Mục đích của trò chơi này cũng giúp cho học sinh nhớ từ vựng lâu hơn,
cũng gần giống như “What and Where” tuy nhiên cần áp dụng thay thế cho nhau
để tránh sự nhàm chán cho học sinh.
Sau khi viết một số từ đã học trong bài và nghĩa của chúng lên bảng, giáo
viên cho học sinh lặp lại và xóa dần các từ Tiếng Việt hay Tiếng Anh. Chỉ vào
nghĩa Tiếng Việt yêu cầu học sinh nói lại từ bằng Tiếng Anh và ngược lại. Cho
học sinh viết lại từ Tiếng Anh bên cạnh nghĩa Tiếng Việt hoặc nghĩa Tiếng Việt
bên cạnh từ Tiếng Anh.
n. Relay Race: Cũng tương tự như “Pair Race”, nhưng trò chơi này mang
tính tập thể nhiều hơn.
Giáo viên chia lớp thành nhiều đội, mỗi đội ngồi theo một hàng ngang.
Cho học sinh ngồi đầu mỗi hàng một từ, nhóm từ, hoặc câu. Học sinh đó nói
thầm lại với người ngồi bên cạnh mình nghe. Cứ như thế cho đến khi từ đó đến
với học sinh ngồi cuối hàng. Khi nhận được từ, học sinh cuối cùng này đứng dậy
đọc to từ đó lên rồi chạy nhanh lên bảng viết từ đó lên bảng. Đội nào hoàn thành
trước sẽ thắng.
o. Dùng tranh nói từ: Mục đích của trò chơi này cũng nhằm giúp học
sinh ôn từ và ôn cả cách dùng từ như danh từ số ít hoặc danh từ số nhiều.
Giáo viên cho học sinh quan sát tranh và hỏi, đáp. Sử dụng mẫu câu hỏi

đáp: “What is this? – It’s a/an……….” hoặc “What are these? –
They’re………..”. Giáo viên đưa tranh và yêu cầu học sinh thực hiện theo cặp
Ví dụ: HS1: What are these?

HS1: What’s this?
14


HS2: They’re pencils.

HS2: It’s an eraser.

p. Networks: Mục đích của trò chơi này nhằm giúp học sinh ôn lại hệ
thống từ vựng. Ngoài ra còn đặt các từ trong những bài khác nhau vào trong một
ngữ cảnh giúp học sinh nhớ từ tốt hơn. Giáo viên cho chủ điểm và yêu cầu học
sinh viết từ tương ứng với chủ điểm đó. Trò chơi này được thực hiện theo nhóm.
Ví dụ: English 3 – Unit 8: This is my pen. Giáo viên yên cầu học sinh viết
các từ liên quan đến chủ đề “School things”.
School things

q. Draw pictures: Mục đích của hoạt động này ngoài việc ôn từ còn giúp
cho học sinh nghe từ và nhớ từ.
Giáo viên đọc, yêu cầu học sinh lắng nghe và vẽ lại. Học sinh ở bậc tiểu,
lượng từ vựng ít và khả năng nghe Tiếng Anh còn hạn chế nên giáo viên chỉ đọc
những câu đơn giản. Hoạt động này có thể thực hiện theo cá nhân, cặp hoặc
nhóm. Sau khi hoàn thành bức tranh, giáo viên kiểm tra lại tranh một số học sinh
để xem mức độ nghe và hiểu của các em như thế nào. Qua những hình vẽ ngộ
nghĩnh của các em giáo viên nhận xét, ôn bài sẽ tạo cho các em sự hứng thú
trong giờ học. Thủ thuật này rất thích hợp trong việc ôn lại các từ chỉ đồ vật
trong nhà và các giới từ.

r. Pass the card: Mục đích của thủ thuật này khích lệ khả năng nhớ từ của
học sinh.
Học sinh đứng thành nhiều hàng. Giáo viên đưa cho học sinh đứng đầu
mỗi hàng một phiếu tranh hoặc một đồ vật. Học sinh đó phải gọi tên đồ vật, rồi
chuyển phiếu hoặc đồ vật đó cho người đứng ngay sau mình. Học sinh cuối cùng
giơ cao phiếu tranh hoặc đồ vật và đọc to từ ấy lên.
2.2. Bài tập luyện nhớ từ.
Bên cạnh đó để giúp học sinh nhớ được từ lâu, giáo viên có thể dùng các
bài tập luyện nhớ từ như sau:
- Observe and remember: Giáo viên chuẩn bị một số vật khác nhau để trên
một cái khay hoặc một bức tranh gồm nhiều chi tiết khác nhau cho học sinh
quan sát từ 1 đến 2 phút. Sau đó không cho học sinh nhìn nữa và phải viết lại
những gì đã quan sát được.
Cùng với hiện vật này giáo viên có thể đổi vật, vị trí hoặc màu sắc. Sau đó
học sinh phải nói lại, phát hiện xem có những thay đổi gì.
- Kim’s game: Giáo viên đọc to hoăc viết lên bảng 10 từ thuộc các loại từ
khác nhau, sau đó xoá bảng , yêu cầu học sinh đếm từ 25 xuống 1, sau đó viết lại
10 từ đã nghe hoặc nhìn.
- Finding the right word. (Chọn từ đúng)
- Brainstorming (Thảo luận)

15


- Find things which / Find people who…. (Tìm vật hoặc người có đặc
điểm…)
- Gap- filling. (Điền từ vào chỗ trống)
- Matching. (Nối)
- Multiple choice. (Câu hỏi nhiều lựa chọn)
- Collocation grid (Xếp ô chữ)

2.3. Các trò chơi về từ vựng.
Để học từ, ngoài những bài tập luyện còn có những trò chơi để luyện từ
vựng. Sau đây là một số trò chơi phổ biến có thể dùng trong lớp học.
a. An ice breaker.
- Chia lớp thành hai nhóm nhỏ.
- Chọn một nhóm từ nào đó.
Eg: hungry, thirsty, hot, cold, cool…
-Yêu cầu học sinh tự giới thiệu tên mình và dùng một từ trong số đó để
đặt câu.
b. Life key words.
- Hỏi học sinh ngày của hôm nay.
Eg: What is the date today?
- Sau đó hỏi tiếp tục ngày của 7 năm trước.
Eg: What was the date 7 years ago?
- Ghi lên bảng câu trả lời.
- Bước tiếp theo, yêu cầu học sinh viết 10 từ tiêu biểu diễn tả cuộc sống 7
năm trước đây.
- Sau đó học sinh làm việc theo cặp, nhóm, giải thích cho bạn rõ ý nghĩa
của 10 từ đó.
Eg: now - then
c. Whose handbag/ pocket is it ?
Giáo viên yêu cầu học sinh tưởng tượng ra một nhân vật và ghi ra phiếu 5
đến 10 từ miêu tả nhân vật đó. Sau đó xáo trộn phiếu của học sinh, cho các em
bốc thăm và đoán xem nhân vật đó là ai.
Trò chơi này có thể hướng vào một số các nhân vật có nghề nghiệp đặc
trưng khác nhau, các nhân vật nổi tiếng với một số thói quen phổ biến, hay chính
các bạn trong lớp học mà mọi người cùng biết.
d. Words my neighbour knows.
- Giáo viên đề nghị học sinh viết ra 10 từ cho 3 loại sau:
+ Từ mình cho rằng bạn ngồi cạnh phải biết.

+ Từ mình cho rằng bạn phải biết nhưng bạn lại không biết
+ Từ chắc chắn bạn không biết.
- Sau đó làm việc theo cặp với bạn, kiểm tra xem mình có làm đúng
không.
e. Twenty questions.
Trò chơi này rất phổ biến, không chỉ có tác dụng học từ mà còn giúp học
sinh ôn luyên cách đặt câu hỏi và phản ứng nhanh.
- Một học sinh A sẽ nghĩ về một vật thuộc một trong 3 nhóm qui định:
+ Animals: người, động vật.
16


+ Minerals: vật dụng, nguyên liệu .
+ Vegetables: thực vật, rau quả.
- Cả lớp sẽ đoán vật đó bằng cách chỉ được hỏi bạn A các câu hỏi đúng sai
(yes/ no questions ). Tối đa là 20 câu hỏi để tìm câu trả lời.
2.4. Hiệu quả sau khi áp dụng
Sau khi áp dụng những thủ thuật trên vào việc kiểm tra từ vựng của học
sinh ngay tại lớp, tôi nhận thấy khả năng nhớ từ của các em tăng lên rõ rệt. Các
em hứng thú hơn và có thái độ tích cực hơn trong việc học từ. Sau khi nhớ từ
vựng, các em học sinh còn có thể vận dụng từ vựng vào thực hành các đoạn hội
thoại ngắn và viết các câu ngắn liên quan tới nội dung bài học. Kết quả cụ thể
sau khi khảo sát khả năng áp dụng từ vựng của học sinh lớp 4B như sau:
Tổng số HS
Trước khi áp dụng
Sau khi áp dụng

18
18


Dùng từ thực hành
hội thoại
14
18

Dùng từ viết câu
12
18

3. Hướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà:
Thời gian học ở trường rất ít, cho nên đa phần thời gian còn lại ở gia đình
các em phải tự tổ chức hoạt động học tập của mình. Vì thế, ngay từ đầu từ năm
học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách ôn tập từ mới ở nhà.
Ví dụ: Hôm nay GV hướng dần học sinh học 10 từ. Về nhà, ngày đầu tiên
HS học 5 từ, ngày thứ 2 học 5 từ cũ và 5 từ tiếp theo (ôn lại từ cũ) và cứ như vậy
ngày nào học sinh cũng ôn tập thì sẽ thuộc từ rất nhanh do vậy viêc học tập ở
nhà thật quan trọng.
Giáo viên cũng có thể hướng dẫn HS viết từ mới lên sticky note (giấy
nhớ) và yêu cầu HS dán lên những chỗ dễ nhìn, dễ thấy để có thể luyện từ một
cách thường xuyên hơn.
III. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG, NHÂN RỘNG
1. Kết quả cụ thể khi áp dụng sáng kiến
Qua một thời gian ứng dụng các thủ thuật trên vào thực tế giảng dạy tôi
nhận thấy kết quả như sau:
Giáo viên chủ động tìm hiểu những kiến thức chuyên sâu về tâm lí của
học sinh, từ đó có những cách thức lựa chọn trò chơi phù hợp từng đối tượng
học sinh và từng bài học, giúp nâng cao động lực học Tiếng Anh cho các em.
Các thủ thuật giúp học sinh nhớ từ trên đa số được thực hiện dưới dạng các trò
chơi nên không khí lớp học ít căng thẳng giúp cho tiết học sinh động và đạt hiệu
quả cao. Giáo viên vận dụng các thủ thuật trên giúp học sinh nhớ từ không

những ở trên lớp mà còn giúp học sinh nhớ từ khi ở nhà.
Đối với học sinh: Giúp các em có được động cơ học tập, tiếp thu bài tốt
và nâng cao chất lượng học tập môn Tiếng Anh của mình. Các em có sự hứng
thú cho môn học nhiều hơn, học được nhiều từ và nhớ từ hơn. Khả năng tư duy
của các em cũng tiến bộ hơn. Các em có học được từ, nắm được nghĩa và các sử
dụng vốn từ vựng trong thực hành giao tiếp. Như vậy các em sẽ có sự say mê

17


trong việc học bộ môn này, biết và vận dụng được một số cách học từ khi ở nhà.
Các em học sinh học yếu hơn không còn thấy lo sợ khi học môn Tiếng Anh nữa.
Hiệu quả của sáng kiến được chứng minh qua bảng so sánh sau:
*Kết quả vận dụng từ vựng cuối năm học 2017 - 2018 so với đầu năm
học:
TS Khả năng nhớ từ
Khả năng vận
Khả năng vận
HS
trên lớp
dụng từ vào kĩ
dụng từ vào kĩ
năng nói
năng viết
Đầu
36
25
20
18
NH 2017-2018

Cuối NH
36
36
32
30
2017-2018
*Kết quả tổng kết môn Tiếng Anh NH 2017-2018 so với NH 2016 - 2017
Năm học

Số học sinh Hoàn thành Hoàn thành Chưa hoàn
tốt
thành
NH 2016 - 2017
36
10
26
0
NH 2017 - 2018
36
16
20
0
Với kết quả cụ thể trên chúng ta đều thấy rằng sau khi áp dụng những
phương pháp trên vào dạy từ vựng cho học sinh, các em học sinh có thể nhớ từ
ngay tại lớp và đa số các em vận dụng thành thạo từ trong kĩ năng nói và viết.
Kết quả cuối năm học 2017-2018 cũng cao hơn hẳn so với năm học trước. Điều
đó cho thấy đề tài mà tôi đang nghiên cứu phần nào đã mang lại hiệu quả trong
quá trình giảng dạy thực tế.
2. Dự báo phạm vi, lĩnh vực và khả năng nhân rộng của sáng kiến.
Sáng kiến này được thực hiện và mang lại hiệu quả đáng kể, có sức lan

tỏa mạnh, ảnh hưởng tích cực tới đén tập thể giáo viên, học sinh và phụ huynh
học sinh trong nhà trường, góp phấn nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho
các em học sinh.
Tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu và bổ sung những thiếu sót, hoàn thiện hơn
những ưu điểm mà sáng kiến đã đạt được trong thời gian qua và có hướng phổ
biến sáng kiến kinh nghiệm này không chỉ ở khối lớp 4 của trường mà có thể áp
dụng cho các khối khác nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
IV. GIẢI PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Từ những kết quả đạt được nêu trên, tôi nhận thấy việc nhân rộng sáng
kiến ra các khối khác trong toàn trường là rất cần thiết. Tôi đã đề xuất với lãnh
đạo nhà trường trong việc tạo không gian lớp học sao cho phù hợp với việc tổ
chức các hoạt động, tạo không khí sôi nổi cho giờ học.
Bên cạnh đó, tôi phát động phong trào thi đua “Học nhiều từ mới” trong
các em học sinh. Khuyến khích các em tự mình tổ chức các trò chơi như:
Noughts and crosses, Slap the board, Pass the cards, Network….trong các giờ ra
chơi hay đầu các buổi học học để tự mình ôn lại từ vựng.
Tôi cũng đề xuất với lãnh đạo nhà trường trong việc tổ chức “Câu lạc bộ
tiếng Anh”. Mỗi lớp đều có các em học sinh tham gia trong câu lạc bộ của nhà
18


trường. Các em học sinh này có nhiệm vụ giúp đỡ các bạn trong lớp mình học
tiếng Anh, tổ chức các hoạt động để thúc đẩy phong trào học tập tiếng Anh ở lớp
mình. Khuyến khích các thầy cô giáo chủ nhiệm tham gia câu lạc bộ Tiếng Anh
cùng các em học sinh lớp mình, để cổ vũ, động viên tinh thần học tập cho các
em học sinh.
Hy vọng với sự tham gia của các thầy giáo, cô giáo và các em học sinh
trong toàn trường, môn học tiếng Anh sẽ trở thành môn học yêu thích. Chất
lượng giáo dục môn tiếng Anh nói riêng và của nhà trường nói chung sẽ được
nâng cao.

CHƯƠNG III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT/KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trên đây là phương pháp dạy học cùng với thực tế giảng dạy của bản
thân tôi. Tôi nhận thấy rằng trong quá trình dạy học, giáo viên cần cố gắng
áp dụng các phương pháp một cách linh hoạt sao cho phù hợp với nội dung
bài và phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần
khéo léo sử dụng các thủ thuật sư phạm nhằm kích thích hứng thú học tập
của học sinh và giúp cho các em học tập có kết quả.
Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong
học tập, thì chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực
hoá hoạt động của người học. Trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là
người truyền tải kiến thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những
kiến thức đó, thì các em phải tự học bằng chính các hoạt động của mình.
Để đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục ở cấp Tiểu
học, ngoài những yếu tố ngoại cảnh như chương trình, thời gian, trình độ
của học sinh, khả năng chuyên môn của giáo viên. Điều quan trọng nhất là
phương thức tổ chức của giáo viên trong một tiết dạy như thế nào để học
sinh có hứng thú.
Sau một thời gian vận dụng các thủ thuật giúp học sinh nhớ từ trong
các tiết học ở trường. Tôi nhận thấy rằng tiết học ngày càng sinh động
hơn, học sinh chủ động trong việc học nhờ vào lượng từ ngày càng được
gia tăng. Học sinh có thói quen chủ động tham gia vào các trò chơi, sử
dụng vốn từ vào giao tiếp thực tế có phần chuyển biến tốt hơn và đem lại
kết quả khả quan. Việc vận dụng chúng đòi hỏi sự linh hoạt và biết chọn
lọc của giáo viên để tránh sự nhàm chán cho học sinh và phù hợp cho từng
bài dạy. Tùy vào loại từ mà chọn các thủ thuật để đạt hiệu quả cao. Dưới
sự sáng tạo của giáo viên sẽ còn nhiều thủ thuật khác nữa cho giáo viên
vận dụng nhưng các thủ thuật trên theo tôi là phổ biến, dễ thực hiện nhất
và khả quan nhất.
2. Kiến nghị

Để hưởng ứng phong trào đổi mới phương pháp dạy học ở trường
Tiểu học với tư cách là một giáo viên dạy bộ môn ngoại ngữ tôi rất mong
muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình cùng với các thầy cô giáo và

19


các bạn đồng nghiệp xây dựng phương pháp dạy học mới ngày càng chuẩn
mực, có hiệu quả hơn giúp cho các em học sinh ngày càng thích học ngoại
ngữ, có thể học tập chủ động, giao tiếp tự tin bằng chính khả năng của
mình.
Để việc vận dụng các thủ thuật này thành công và hiệu quả hơn nữa
trong các tiết dạy, tôi rất mong các cấp chính quyền địa phương quan tâm
tới việc trang bị các trang thiết bị cho các trường như: Phòng Lab, phòng
nghe - nhìn. Việc áp dụng các thủ thuật dạy từ vựng kết hợp với sử dụng
các trang thiết bị dạy học sẽ làm chất lượng giáo dục môn Tiếng Anh ngày
càng được nâng cao.
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

20



×