ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------o0o--------------------------
ĐOÀN THỊ THU NINH
KỸ NĂNG TÁC NGHIỆP CỦA NHÀ BÁO VỀ
VẤN ĐỀ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ
Hà Nội - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------o0o--------------------------
ĐOÀN THỊ THU NINH
KỸ NĂNG TÁC NGHIỆP CỦA NHÀ BÁO VỀ
VẤN ĐỀ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đinh Văn Hƣờng
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về vấn
đề an ninh phi truyền thống” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu, khảo sát, số liệu công bố trong luận văn là hoàn toàn chính xác
và trung thực, không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào đã công bố
trong và ngoài nước, nếu sai phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 06 tháng 12 năm 2017
Tác giả
Đoàn Thị Thu Ninh
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn thạc sĩ báo chí với đề tài “Kỹ năng
tác nghiệp của nhà báo về vấn đề an ninh phi truyền thống”, tôi đã nhận được
rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đinh Văn
Hường đã tận tình dìu dắt và có những hướng dẫn, ý kiến góp ý chân thành
cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Báo chí và
Truyền thông, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội cùng các thầy cô giáo giảng dạy các bộ môn đã chỉ bảo và tạo điều
kiện cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu. Đồng thời, tôi cũng xin
được gửi lời cám ơn các anh, chị đồng nghiệp, phóng viên, biên tập viên của
các tòa soạn báo; các bạn học viên, sinh viên báo chí đã cung cấp cho tôi
những thông tin cần thiết phục vụ trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến gia đình,
bạn bè, những người luôn ủng hộ, động viên tôi nỗ lực để hoàn thành tốt luận
văn này. Mặc dù có nhiều cố gắng song luận văn không tránh khỏi còn những
thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ của các thầy cô, bạn
bè, đồng nghiệp... để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 06 tháng 12 năm 2017
Tác giả luận văn
Đoàn Thị Thu Ninh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU ............................................................................................... 15
1.1 Một số quan niệm về An ninh phi truyền thống ....................................... 15
1.2 Vai trò của báo chí với vấn đề an ninh phi truyền thống .......................... 28
1.3 Kỹ năng và kỹ năng tác nghiệp của Nhà báo về ANPTT ......................... 34
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 41
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG KỸ NĂNG TÁC NGHIỆP CỦA NHÀ
BÁO VỀ VẤN ĐỀ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG ............................. 42
2.1 Khái quát về các tờ báo được khảo sát...................................................... 42
2.2 Khảo sát thực trạng kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về vấn đề An ninh phi
truyền thống..................................................................................................... 44
2.3 Đánh giá chung về kỹ năng tác nghiệp của Nhà báo về vấn đề An ninh phi
truyền thống..................................................................................................... 72
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 78
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG TÁC NGHIỆP CỦA
NHÀ BÁO VỀ VẤN ĐỀ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG ................... 79
3.1 Một số vấn đề đặt ra hiện nay ................................................................... 79
3.2 Các giải pháp chung .................................................................................. 85
3.3 Các giải pháp cụ thể .................................................................................. 89
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 98
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 103
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 108
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANPTT
: An ninh phi truyền thống
ANQG
: An ninh quốc gia
CTV
: Cộng tác viên
TTV
: Thông tin viên
2
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1 Số lượng tác phẩm báo chí về vấn đề “Tội phạm công nghệ cao và an
ninh mạng” và “An ninh tài chính” trên báo An ninh Hải Phòng năm 2016 .......45
Bảng 2.2 Tỷ lệ các tác phẩm báo chí về vấn đề “Tội phạm công nghệ cao và
an ninh mạng” và “An ninh tài chính” so với các tác phẩm báo chí khác về đề
tài An ninh trật tự trên báo An ninh Hải Phòng năm 2016 ............................. 45
Bảng 2.3 Số lượng tác phẩm báo chí về vấn đề “Tội phạm công nghệ cao và
an ninh mạng” và “An ninh tài chính” trên báo Vnexpress năm 2016 ........... 47
Bảng 2.4: Tỷ lệ các tác phẩm báo chí về vấn đề “Tội phạm công nghệ cao và
an ninh mạng” và “An ninh tài chính” so với các tác phẩm báo chí khác về đề
tài An ninh trật tự trên báo VnExpress năm 2016........................................... 47
Bảng 2.5 Tần suất tác phẩm sử dụng ý kiến chuyên gia trên Báo An ninh Hải
Phòng năm 2016 .............................................................................................. 60
Bảng 2.6 Tần suất tác phẩm sử dụng ý kiến chuyên gia trên Báo VnExpress
năm 2016 ......................................................................................................... 61
3
DANH MỤC ẢNH
Ảnh 2.1 Vnexpress đã kịp thời đính chính thông tin và xin lỗi độc giả về việc
đăng tin sai sự thật........................................................................................... 55
Ảnh 2.2: Các bài viết trên Vnexpress về sự kiện mã độc tống tiền WannaCry đều
sử dụng ảnh minh họa là màn hình máy tính bị nhiễm mã độc ........................... 68
Ảnh 2.3: Hình ảnh mà nhà báo Khánh Chi sử dụng trong bài báo “Làm rõ vụ việc
sinh viên Đại học ở Hải Phòng điều hành trang tin điện tử trái phép” ................... 69
Ảnh 2.4 Bài “Đường thất thoát 9.000 tỷ trong đại án Phạm Công Danh”dưới
hình thức thông tin đồ họa .............................................................................. 71
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, "An ninh phi
truyền thống" là một cụm từ mới và được xuất hiện chính thức trong “Tuyên bố
chung ASEAN - Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực An ninh phi truyền thống"
thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 6, giữa các nước thuộc Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc tại Phnôm Pênh (Campuchia)
năm 2002. Đó là những vấn đề về các loại tội phạm xuyên quốc gia, đặc biệt là
tội phạm khủng bố và ma túy đe dọa an ninh khu vực và thế giới, đồng thời tạo
ra những thách thức mới đối với hòa bình, ổn định trong và ngoài khu vực.
Cũng trong Tuyên bố trên, các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã bày tỏ
"sự quan ngại về những vấn đề ANPTT ngày càng gia tăng như buôn lậu, ma
túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, cướp biển, khủng bố, buôn lậu vũ khí, rửa tiền,
tội phạm kinh tế quốc tế và tội phạm công nghệ cao".
Có thể thấy mối đe dọa ANPTT đã trở thành vấn đề toàn cầu, mang tính
nguy hiểm cao, có sức ảnh hưởng lớn, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay. Đặc biệt, Việt Nam cũng không nằm ngoài các quốc gia chịu tác
động rất nặng nề từ vấn đề ANPTT, nhất là những mối hiểm họa từ thiên tai,
bão lụt, sự biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, các loại dịch bệnh (SARS,
cúm gia cầm H5N1, AIDS…). Cùng với đó, những vấn đề về buôn lậu, vận
chuyển trái phép vũ khí, ma túy, cướp biển, tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia, khủng bố, nhập cư và di cư trái pháp luật, ô nhiễm môi trường, tội phạm
công nghệ cao và an ninh mạng, tội phạm trong lĩnh vực an ninh tài chính…
đã và đang tác động mạnh mẽ đến an ninh của Việt Nam. Cụ thể, chỉ tính
riêng năm 2015, Việt Nam phát hiện 8.900 vụ vi phạm môi trường với hơn
1.200 tập thể cá nhân vi phạm. Tội phạm ngân hàng ngày càng phức tạp có
thể gây thiệt hại hàng chục ngàn tỷ đồng, và nguy hiểm hơn là gây thiệt hại về
5
lòng tin, mối quan hệ quốc tế trong hợp tác kinh doanh. Tội phạm xuyên quốc
gia cũng đang có xu hướng gia tăng, cụ thể là buôn người và buôn bán nội
tạng. Các loại tội phạm lợi dụng công nghệ cao cũng đang nổi lên tại Việt
Nam, với các hành vi chiếm đoạt tiền trong tài khoản, dùng thẻ ngân hàng giả
để rút tiền trong cây ATM, tấn công để lấy cắp các tài liệu mật của Đảng và
Nhà nước, hoặc vụ tấn công mạng tại sân bay nghiêm trọng xảy ra ở Việt
Nam hồi giữa năm 2016 vừa qua... Những vụ lợi dụng công nghệ cao để tấn
công và những vụ án kinh tế với số tiền lên tới hàng ngàn tỷ đồng đang có xu
hướng phát triển nhanh rất nguy hiểm, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình
ANQG, trật tự an toàn xã hội.
Trước những tác động mạnh mẽ của vấn đề ANPTT hiện nay đối với
toàn xã hội, báo chí Việt Nam với sứ mệnh là vũ khí sắc bén, là công cụ đắc
lực của Đảng trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, là diễn đàn của quần chúng
nhân dân lại càng phải tập trung vào nhiệm vụ tuyên truyền, phản ánh, thông
tin một cách toàn diện về những vấn đề ANPTT trên báo chí. Trên cơ sở đó,
báo chí sẽ là cầu nối quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức và ý thức trách
nhiệm xã hội, trách nhiệm cộng đồng của chính quyền các cấp, của các tổ
chức chính trị - xã hội, các đoàn thể và ý thức trách nhiệm của mọi tầng lớp
nhân dân trong đối phó với các mối đe dọa ANPTT, góp phần thực hiện mục
tiêu quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Theo TS.Phạm Thị Thanh Tịnh, trong bài “Vấn đề ANPTT và vai trò
của báo chí truyền thông nước ta hiện nay” đăng trên Tạp chí Lý luận chính
trị số 9-2016, có chỉ ra rằng: “Báo chí truyền thông hiện nay đã thông tin một
cách toàn diện về mọi lĩnh vực của cuộc sống, kể cả những vấn đề mới nảy
sinh như ANPTT. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng như hiện nay, cuộc chiến tranh thông tin đang là một thách thức đối
với các quốc gia, khi người dân đang từng giờ, từng phút tiếp nhận nhiều
6
luồng thông tin khác nhau trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang
mạng xã hội. Vì vậy, báo chí cần bảo đảm cung cấp thông tin kịp thời, đa
dạng, nhiều chiều, bảo đảm tính định hướng để công chúng nhận diện rõ bản
chất, tính chất, tác động của vấn đề ANPTT đối với sự phát triển đất nước.
Thông tin trên báo chí cần bảo đảm nguyên tắc tôn trọng sự thật, chia sẻ để
tạo dựng niềm tin, tạo ra môi trường trao đổi thông tin lành mạnh để ở đó
công chúng, độc giả được tiếp cận thông tin một cách đầy đủ.”
Để đạt được những mục tiêu trên, đội ngũ nhà báo trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay thường xuyên phải cập nhật tình hình, thông tin, trau dồi kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm trong quá trình tác nghiệp về vấn đề ANPTT, nhất
là khi đưa thông tin về những loại tội phạm mới nảy sinh… Theo kết quả khảo
sát nhanh của tác giả với 50 nhà báo đang công tác tại các tòa soạn báo in và
báo mạng điện tử hiện nay, chỉ có 19% số nhà báo được hỏi cho biết họ có hiểu
biết nhất định về vấn đề “ANPTT”; còn lại chiếm đến 66,7% số nhà báo được
hỏi cho biết họ đã từng nghe đến, biết đến cụm từ “ANPTT”, nhưng họ chưa
hiểu rõ nội hàm khái niệm này và những vấn đề liên quan. Và 14,3% số nhà
báo được hỏi cho biết họ chưa từng tiếp cận khái niệm “ANPTT”. Tuy nhiên
cũng theo kết quả cuộc khảo sát này, trong số các nhà báo nói rằng họ chưa
từng biết về “ANPTT” và biết đến nhưng chưa hiểu rõ thì bản thân họ ít nhất
đã từng tác nghiệp, viết báo về những thách thức ANPTT trên một số lĩnh vực
trọng yếu, ví dụ như tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh
tài chính, tội phạm ngân hàng, rửa tiền, tội phạm buôn bán người…
Như vậy thực tế trên đã chỉ ra rõ ràng việc nghiên cứu về kỹ năng tác
nghiệp của nhà báo về vấn đề ANPTT trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần
thiết, qua đó giúp các nhà báo chuyên nghiệp hiểu rõ hơn về vấn đề ANPTT,
không còn bị lúng túng, gặp hạn chế trong quá trình tác nghiệp. Hơn bao giờ
hết, kỹ năng tác nghiệp của nhà báo hiện nay sẽ không còn theo lối mòn mà
7
ngày càng phải chủ động đổi mới, sáng tạo, có những phương thức tiếp cận
vấn đề, giải quyết vấn đề khác biệt, phải có kiến thức sâu rộng về nội hàm
“ANPTT” mới có thể nhanh chóng bắt kịp những vấn đề mới nảy sinh này.
Bởi ANPTT là vấn đề phức tạp vẫn đang được các quốc gia, các học giả trên
thế giới tiếp tục nghiên cứu.
Thêm vào đó, các kỹ năng phát hiện đề tài, chủ đề, kỹ năng khai thác
thông tin, thu thập tư liệu, xử lý và thể hiện thông tin trên báo chí về vấn đề
ANPTT cũng cần phải được các nhà báo thay đổi, cải tiến để tác nghiệp hiệu
quả hơn.
Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Kỹ năng tác nghiệp của
nhà báo về vấn đề An ninh phi truyền thống” cho luận văn của mình, nhằm
phân tích, đánh giá thực trạng, chỉ ra thế mạnh, hạn chế của nhà báo khi tác
nghiệp về vấn đề ANPTT. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao kỹ năng tác nghiệp của nhà báo tác nghiệp về vấn đề ANPTT. Đây cũng
là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện
và khoa học về nội dung này.
2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài
Là một khái niệm, một thuật ngữ mới xuất hiện trong khoảng vài thập
niên gần đây nên số lượng công trình nghiên cứu khoa học tiếp cận những góc
cạnh khác nhau của vấn đề “An ninh phi truyền thống” không nhiều. Có thể
kể đến các công trình nghiên cứu sau:
- “Bàn về An ninh phi truyền thống” (Viện chiến lược và Khoa học Bộ
công an) của Lục Trung Vĩ (chủ biên) có trình bày khái quát về nhân tố
ANQG phi truyền thống thuộc các phạm trù: an ninh kinh tế, an ninh chính trị
và an ninh xã hội. Trong đó, những vấn đề như an ninh tiền tệ, an ninh năng
lượng, an ninh khoa học kỹ thuật, an ninh môi trường sinh thái đã ít nhiều liên
quan đến an ninh kinh tế. Những vấn đề chủ nghĩa chia rẽ dân tộc, chủ nghĩa
8
tôn giáo cực đoan và chủ nghĩa khủng bố thuộc về an ninh chính trị nhiều
hơn. Những vấn đề như bệnh dịch truyền nhiễm, buôn lậu ma túy, an ninh dân
số, cướp biển, hoạt động phạm tội có tổ chức về cơ bản thuộc vấn đề an ninh
xã hội. Những hoạt động phạm tội như phổ biến vũ khí hạt nhân, rửa tiền, tấn
công vào mạng tin học trên mức độ khác nhau mang đặc điểm hoạt động tội
phạm xuyên quốc gia.
- “Hội nhập kinh tế quốc tế: Những vấn đề đặt ra đối với công tác công
an” (NXB Công an nhân dân) của tác giả Phạm Ngọc Hiền đã trình bày khá
nhiều nghiên cứu của một số nước trên thế giới về ANPTT, đặc biệt là ở Mỹ,
Nhật Bản, Trung Quốc, từ đó nêu lên những vấn đề đặt ra đối với công tác công
an trong đối phó với mối đe dọa ANPTT và hợp tác quốc tế về vấn đề này.
- “An ninh quốc gia - Những vấn đề An ninh phi truyền thống” của tác
giả Tạ Ngọc Tấn, khai thác vấn đề ANPTT ở góc độ bối cảnh và nguyên nhân
xuất hiện, vị trí và đặc trưng trong thời đại mới, những biểu hiện và xu thế
phát triển, trên cơ sở đó có những biện pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả.
- “An ninh phi truyền thống: Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn” của
nhóm tác giả GS.TS. Tạ Ngọc Tấn, PGS.TS. Phạm Thành Dung, PGS.TS.
Đoàn Minh Huấn (đồng chủ biên) đã giới thiệu tới độc giả về định nghĩa và
đặc trưng của ANPTT trên cơ sở tổng hợp các quan niệm lý thuyết và cách
tiếp cận đa tuyến, đồng thời nhận dạng một số mối đe dọa và đề xuất phương
hướng, giải pháp ở tầm chính sách nhằm ứng phó với các thách thức ANPTT
ở Việt Nam.
- Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII của Đảng có đề cập rằng “ANPTT là một khái niệm mới xuất hiện
trong vài thập niên gần đây và được sự quan tâm thu hút của dư luận quốc tế.
ANPTT có thể hiểu là một loại hình an ninh xuyên quốc gia do những yếu tố
phi chính trị và phi quân sự gây ra, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định,
9
phát triển và an ninh của mỗi nước, cả khu vực và cả toàn cầu..[…] Quá trình
toàn cầu hóa quốc tế càng phát triển thì theo đó, ANPTT càng lan rộng hơn và
đậm nét hơn…”
- “An ninh phi truyền thống và một số vấn đề Việt Nam cần quan tâm”
(Tạp chí quan hệ quốc phòng) của Hải Minh cho rằng sự thay đổi nhanh với
tốc độ nhiều khi không còn kiểm soát được của thế giới hiện đại đặt tất cả các
quốc gia, trong đó có Việt Nam trước thách thức an ninh hoàn toàn mới.
- “Mối đe dọa An ninh phi truyền thống và tác động của nó đến quan
hệ quốc tế hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Bộ của Học viện chính trị - hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh đề cập đến tác động của các mối đe dọa ANPTT
đến quan hệ quốc tế, cũng như chỉ ra một số kinh nghiệm của Việt Nam về
giải quyết các vấn đề ANPTT.
- “Những nội dung cơ bản của công tác bảo vệ ANQG theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI” của Tô Lâm (Tạp chí Công an nhân dân)
đã khẳng định tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung vào nghị
quyết về mục tiêu, nhiệm vụ của an ninh, quốc phòng là sẵn sàng ứng phó các
mối đe dọa ANPTT (khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ
cao, vũ khí hủy diệt hàng loạt, thảm họa môi trường, biến đổi khí hậu, tài
chính - tiền tệ…)
Bên cạnh đó, liên quan đến nhà báo và kỹ năng tác nghiệp của nhà báo
hiện nay có khá nhiều công trình nghiên cứu. Bao gồm:
- “Một số nội dung cơ bản về nghiệp vụ báo chí, xuất bản” của PGS.TS
Nguyễn Thị Trường Giang có đề cập tới 08 chuyên đề, trình bày về Đạo đức
nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội của nhà báo; Cơ sở lý luận báo chí, xuất
bản; Các loại hình báo chí; Các loại hình xuất bản; Lịch sử báo chí, xuất bản;
Tổ chức và hoạt động của cơ quan báo chí và nhà xuất bản; Ngôn ngữ báo
chí, biên tập ngôn ngữ báo chí, xuất bản; Tác phẩm báo chí, xuất bản…
10
- “Nghề làm báo” của tác giả Philippe Gaillard trình bày những nội
dung rất cơ bản của nghề làm báo bao gồm vai trò của báo chí; cơ cấu tổ chức
và hoạt động tác nghiệp của một doanh nghiệp báo chí; chức năng, nhiệm vụ
của các hãng thông tấn; phương thức thu thập, xử lý truyền tải thông tin; cách
làm phóng sự và viết tin; biên tập báo chí; trình bày maket và kỹ thuật in ấn...
-“Nhà báo: Bí quyết kỹ năng - nghề nghiệp, kinh nghiệm nghề nghiệp
của báo chí phương Tây” do tác giả Nguyễn Văn Dững, Hoàng Anh biên dịch
có trình bày một cách tỉ mỉ, sinh động các kinh nghiệm xử lý thông tin, xử lý
văn bản của nhà báo - phóng viên và người biên tập. Bên cạnh đó, cuốn sách
đưa ra những ví dụ rất cụ thể để đề cập đến những khía cạnh cụ thể hoạt động
nghề nghiệp như việc rút tít, đặt đầu đề, mào đầu cho tác phẩm, các nguyên
tắc và dạng thức rút ngắn tin tức, văn bản đến trách nhiệm, tính khách quan
của báo chí và nhà báo…
-“Làm báo: Lý thuyết và thực hành” của Trần Quang thì đề cập tới hai
nội dung gồm: lý thuyết và thực hành các thể loại thuộc nhóm nghệ thuật chính luận và trình bày một số quan điểm lý luận về báo chí hiện đại như
quan hệ giữa báo chí thực tiễn và báo chí học, đối tượng và phạm vi nghiên
cứu của báo chí học, vai trò của nhà báo trong xã hội hiện đại với tư cách là
nhà sư phạm và người mở đường, yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của giới
báo chí, những vấn đề cần chú ý trong sáng tạo tác phẩm, trách nhiệm chính
trị của nhà báo, sử dụng ngôn ngữ trên báo...
Tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, có một số luận văn thạc sĩ báo
chí nghiên cứu về kỹ năng tác nghiệp của nhà báo như: “Kỹ năng tác nghiệp
của nhà báo viết phóng sự ở các tờ báo địa phương miền Tây Nam Bộ hiện
nay” của Lê Ngọc Thúy; “Nghiên cứu quy trình và kỹ năng cơ bản trong sáng
tạo tác phẩm bình luận báo in ở Việt Nam hiện nay” của Trần Minh Tuấn…
Thông qua các công trình nghiên cứu kể trên, có thể thấy cho đến nay
vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu, đề cập đầy
đủ và toàn diện đến kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về vấn đề ANPTT. Do đó
11
đề tài Kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về vấn đề an ninh phi truyền thống
có nội dung nghiên cứu rõ ràng và độc lập, không trùng với bất kỳ công trình
nghiên cứu khoa học nào đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn là trên cơ sở các vấn đề lý luận liên quan, từ đó
khảo sát, nghiên cứu, đánh giá, phân tích thực trạng kỹ năng tác nghiệp của
nhà báo về vấn đề ANPTT; đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm cải thiện, nâng
cao kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về vấn đề ANPTT.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trên cơ sở những kiến thức đã học và qua trải nghiệm thực tiễn của bản
thân trong quá trình tác nghiệp báo chí, tác giả sẽ tập trung vào các nhiệm vụ
nghiên cứu như:
- Hệ thống hóa các dẫn liệu, tư liệu lên quan đến đề tài;
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan tới kỹ năng tác
nghiệp của nhà báo về vấn đề ANPTT;
- Thông qua phỏng vấn sâu các nhà báo và khảo sát nội dung báo chí
viết về ANPTT hiện nay, luận văn sẽ chỉ ra thực trạng về kỹ năng tác nghiệp
của nhà báo, phân tích những kỹ năng cần thiết khi tác nghiệp và những kinh
nghiệm mới mẻ mà nhà báo chia sẻ khi tác nghiệp về vấn đề ANPTT, đồng
thời phân tích khó khăn, hạn chế, nguyên nhân dẫn đến khó khăn hạn chế của
nhà báo trong quá trình tác nghiệp về vấn đề ANPTT;
- Từ đó đề xuất giải pháp nâng cao kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về
vấn đề ANPTT.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về
vấn đề ANPTT.
12
4.2 Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn khảo sát một số nhà báo chuyên tác nghiệp về vấn đề ANPTT
và các tác phẩm viết về đề tài ANPTT trên báo An ninh Hải Phòng và báo
Vnexpress năm 2016 và 2017.
Bên cạnh đó, để luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích được tối đa
kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về vấn đề ANPTT, tác giả sẽ chủ yếu đề cập
đến 2 lĩnh vực thuộc vấn đề ANPTT mà nhà báo thường xuyên tác nghiệp
nhiều trên báo chí, đó là vấn đề “tội phạm công nghệ cao và an ninh mạng”
và vấn đề “an ninh tài chính” .
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Phƣơng pháp luận
Dựa vào đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về báo
chí, hệ thống lý luận báo chí truyền thông và các lĩnh vực khác.
5.2 Phƣơng pháp cụ thể
- Phương pháp phỏng vấn sâu: đối tượng phỏng vấn gồm các giảng
viên báo chí, các nhà báo có chuyên môn sâu liên quan tới đề tài, lãnh đạo các
cơ quan báo chí. Mục đích nhằm có được những phản hồi, chia sẻ, ý kiến
khách quan về kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về vấn đề ANPTT.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu nhằm tìm, tập hợp, trích dẫn, phân
loại các tài liệu nhằm hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như
vấn đề ANPTT, về nhà báo và nghề báo, đặc điểm của lao động nhà báo; quy
trình sáng tạo tác phẩm báo chí, về kỹ năng tác nghiệp chung của nhà báo. Từ
đó xây dựng khung lý thuyết làm cơ sở lý luận phục vụ cho mục đích nghiên
cứu đề tài.
- Phương pháp điều tra xã hội học (bảng hỏi anket) nhằm đánh giá được
thực trạng khi sử dụng các kỹ năng tác nghiệp của các nhà báo về vấn đề
ANPTT. Mục đích là có những số liệu mang tính định lượng về vấn đề này.
13
- Phương pháp quan sát nhằm hệ thống hóa những kỹ năng tác nghiệp
cơ bản của nhà báo trong quá trình tác nghiệp hàng ngày, chỉ ra những nét
khác biệt khi nhà báo tác nghiệp về ANPTT so với các loại tội phạm truyền
thống khác.
Ngoài ra luận văn sẽ sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích,
nghiên cứu trường hợp…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận, luận văn bước đầu hệ thống hóa thêm khung lý luận về
Kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về vấn đề ANPTT.
Về mặt thực tiễn, luận văn đóng góp giá trị tham khảo cho các cơ quan
báo chí, nhà báo về kỹ năng tác nghiệp liên quan tới vấn đề ANPTT.
Luận văn có thể được sử dụng như nguồn tài liệu tham khảo phục vụ
công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập cũng như góp phần giúp các nhà báo
nâng cao tay nghề, kĩ năng khi tác nghiệp về vấn đề ANPTT.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
bao gồm 3 chương:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung của đề tài nghiên cứu
- Chương 2. Thực trạng kỹ năng tác nghiệp của Nhà báo về vấn đề An
ninh phi truyền thống
- Chương 3. Giải pháp nâng cao kỹ năng tác nghiệp của nhà báo về vấn
đề An ninh phi truyền thống
14
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU
1.1 Một số quan niệm về an ninh phi truyền thống
1.1.1 An ninh phi truyền thống
An ninh
An ninh là một khái niệm cơ bản thường được sử dụng trong ngôn ngữ
và thực tiễn chính trị quốc tế. An ninh là nhu cầu đầu tiên và thiết yếu của
mỗi con người, mỗi quốc gia và toàn nhân dân, đồng thời an ninh cũng là điều
kiện cơ bản và quan trọng số một đảm bảo cho sự phát triển của mỗi quốc gia.
Theo nghĩa chung nhất của ngôn ngữ chính trị quốc tế và theo định nghĩa
trong Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, thì “An ninh” là khái niệm dùng
để chỉ “Trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy hiểm đe dọa sự
tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của từng tổ chức, của từng linh
vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội” [56; tr.25]. Mặt khác, nội hàm
của khái niệm an ninh không chỉ giới hạn ở tình trạng như đã nêu, mà còn bao
hàm cả những biện pháp để mang lại tình trạng đó, tức là hành động để thực
hiện an ninh.
An ninh quốc gia (national security):
Là sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ xã hội, độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quan trọng khác của một
quốc gia. Trong quan hệ quốc tế, khi phân loại khái niệm an ninh theo chủ thể
quốc gia và yếu tố thời gian, người ta chia thành An ninh truyền thống và An
ninh phi truyền thống - cũng chính là đối tượng chính mà luận văn nghiên cứu.
An ninh truyền thống (traditional security):
Lấy Nhà nước làm đơn vị (quốc gia) và chủ yếu đề cập đến những quan
hệ chính trị, tương quan sức mạnh quân sự giữa các quốc gia. Các lợi ích đều
phải đặt dưới lợi ích quốc gia. An ninh truyền thống là để bảo vệ toàn vẹn lãnh
15
thổ, chủ quyền, thể chế và giá trị của đất nước, trong đó cốt lõi là bảo vệ đất
nước trước các mối đe dọa từ bên ngoài bằng tấn công quân sự. Do đó, quốc
gia là chủ thể duy nhất đảm bảo sự sống còn của mình thông qua việc tăng
cường quyền lực quốc gia bằng sức mạnh quân sự và khả năng phòng thủ.
An ninh phi truyền thống (non-traditional security):
Bắt đầu được nhắc đến vào những năm 80 của thế kỷ XX và được sử
dụng nhiều trong thập niên đầu thế kỷ XXI, ANPTT trở thành một thuật ngữ
phổ biến trong các hội nghị, diễn đàn khu vực, quốc tế, hợp tác song phương,
đa phương giữa các quốc gia, các tổ chức. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay có
rất nhiều cách hiểu, quan niệm khác nhau về ANPTT. Giới nghiên cứu trong
nước và quốc tế hiện nay chưa thống nhất được một khái niệm hoàn chỉnh
xung quanh thuật ngữ này. Tùy thuộc vào cách nhìn nhận, góc độ, lĩnh vực
tiếp cận, hoàn cảnh cụ thể mà từng nhà nghiên cứu đưa ra quan niệm khác
nhau về ANPTT.
Theo các học giả trên thế giới, sau khi Chiến tranh Lạnh kế t thúc , đặc
biệt là thập niên đầu thế kỷ XXI, thế giới có nhi ều biến động phức tạp vượt
qua khuôn khổ dự báo của giới nghiên cứu về một thế giới hòa bình, ổn định
và thịnh vượng. Trong thế giới đương đại, bên cạnh mối đe dọa về quân sự,
vẫn tồn tại và xuất hiện nhiều yếu tố mới đe dọa đến an ninh con người,
ANQG như: khủng bố, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, ma túy, tội phạm xuyên
quốc gia... Trong bối cảnh đó, những nhận thức về an ninh cũng thay đổi
nhanh chóng. Bên cạnh những quan niệm đã và đang được sử dụng xung
quanh chủ đề này như: an ninh tập thể, an ninh chung, an ninh toàn diện..,
xuất hiện thuật ngữ ANPTT.
Đáng chú ý, có 3 sự kiện lớn xảy ra cuối những năm 1990 đến đầu thế
kỷ XXI, mức độ ảnh hưởng và sức tàn phá không kém các cuộc đối đầu quân
sự buộc các nước phải thay đổi nhận thức về ANQG, từ đó huy động tiềm lực
và hợp tác để đối phó.
16
Một là, khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 ở các quốc gia Châu
Á nhanh chóng lan sang Nga, Châu Mỹ Latinh, gây thiệt hại ước tính lớn hơn
hậu quả một cuộc chiến tranh. Hai là, khủng bố ngày 11-9-2001 tại Mỹ cho
thấy một siêu cường thế giới cũng dễ dàng bị thương tổn nặng bởi một cuộc
tấn công khủng bố có quy mô. Ba là, sự bùng nổ đại dịch Hội chứng hô hấp
cấp nặng (SARS) và sự lây lan nhanh chóng virus Corona SARS (2003) đã đe
dọa tính mạng của hàng chục triệu người… Ngoài ra, một số vấn đề cũng
đang tác động sâu sắc đến thay đổi nhận thức về ANQG như: số lượng vũ khí
hạt nhân hiện có trên thế giới nếu được sử dụng một phần cũng hủy diệt mọi
sự sống trên trái đất, xóa nhòa biên giới quốc gia và ANQG của bất kỳ nước
nào; xung đột sắc tộc, tôn giáo, chính trị trong nội bộ nhiều nước xảy ra còn
lớn hơn số lượng các cuộc chiến tranh; xung đột giữa các quốc gia và trả giá
cho nó chủ yếu là dân thường mà không phải là chủ quyền và ANQG.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các cường quốc sử dụng
sức mạnh mềm là kinh tế để mở rộng biên giới quốc gia (biên giới mềm),
khiến chủ quyền quốc gia và ANQG cũng trở nên mờ nhạt.
Như vậy có thể thấy ANPTT chỉ là cách tiếp cận mới về ANQG trong
điều kiện thế giới đã thay đổi. Đây không phải là vấn đề mới, mà là sự mở
rộng nội hàm khái niệm an ninh (theo cách tiếp cận truyền thống), nhằm giúp
các quốc gia trên thế giới nhận thức đúng về bản chất vấn đề an ninh trong bối
cảnh toàn cầu hóa, khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin
phát triển. Chủ thể an ninh được bổ sung thêm các chủ thể mới là con người,
kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo…Đối tượng bị thách thức về an ninh gồm cả
nhà nước và con người.
Theo Liên Hiệp Quốc, ANPTT bao gồm an ninh con người (cá nhân)
và an ninh cộng đồng. Trong báo cáo “Phát triển con người” năm 1994 của
Liên Hiệp Quốc (được đa phần các học giả và nghị sĩ Châu Âu đồng thuận),
thì các mối đe dọa an ninh con người bao gồm: thất nghiệp, nghiện ngập, tội
ác, ô nhiễm, vi phạm nhân quyền, lo lắng về chiến tranh và bạo lực có tổ
17
chức, v.v. Báo cáo này định nghĩa an ninh con người là “sự an toàn của con
người trước những mối đe doạ kinh niên như nghèo đói, bệnh tật và đàn áp,
và những sự cố bất ngờ, bất lợi trong đời sống hàng ngày” [66, tr.23]. Báo cáo
cũng đưa ra 7 nội dung chủ yếu của an ninh con người, gồm: (1) an ninh kinh
tế; (2) an ninh lương thực; (3) an ninh sức khoẻ; (4) an ninh môi trường; (5)
an ninh cá nhân; (6) an ninh cộng đồng; và (7) an ninh chính trị.
Với các nước phương Đông, nhận thức về ANPTT cũng có những sự
khác biệt nhất định. Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 6 giữa ASEAN
và Trung Quốc tại Phnôm Pênh (Campuchia) đã ra Tuyên bố chung ASEAN Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực ANPTT, xác định những vấn đề ANPTT
gồm: tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em,
buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm kinh tế quốc tế, tội phạm công nghệ cao.
Một số học giả châu Âu, châu Á khi nghiên cứu vấn đề này đã đề cập
thêm một số vấn đề như an ninh lương thực, an ninh kinh tế - tài chính, tội
phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao. Hội nghị Bộ trưởng các nước
ASEAN (ADMM+) tháng 10 năm 2010 tại Hà Nội đã xác định các mối nguy
cơ đe dọa ANPTT bao gồm: khủng bố, cướp biển, tội phạm xuyên quốc gia,
ma túy, buôn bán vũ khí, rửa tiền, kinh tế, công nghệ cao.
Hội nghị cấp cao ASEM tổ chức tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
tháng 10 năm 2012, đề xuất những biện pháp nhằm đối phó với các nguy cơ,
thách thức ANPTT bao gồm: biến đổi khí hậu, thiên tai, an ninh năng lượng,
an ninh hạt nhân, chống cướp biển, bảo vệ và sử dụng nguồn nước.
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2004 xác định: Những vấn đề
chưa được giải quyết, liên quan đến tranh chấp biên giới, lãnh thổ trên bộ,
trên biển cùng những vấn đề ANPTT khác như buôn bán và vận chuyển trái
phép vũ khí, ma túy, cướp biển, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, khủng
bố, nhập cư và di cư trái phép, suy thoái môi trường, sinh thái... cũng là
những mối quan tâm an ninh của Việt Nam [58, tr.11].
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng
sản Việt Nam nêu rõ: “Các yếu tố đe dọa ANPTT, tội phạm công nghệ cao
18
tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng
lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục
diễn biến phức tạp” và “Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai,
chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn
ra gay gắt; các yếu tố đe dọa ANPTT, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh
vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp
tục gia tăng”.
Các quan niệm nêu trên dù không hoàn toàn giống nhau, nhưng đã xác
định được các vấn đề cơ bản về ANPTT. Kế thừa những quan niệm nêu trên, với
cách tiếp cận tổng hợp và bám sát vào sự phát triển của vấn đề, luận văn đưa ra
khái niệm: ANPTT là khái niệm nhằm phân biệt với an ninh truyền thống, dùng
để chỉ các mối đe dọa phi truyền thống đối với ANQG, cuộc sống con người và
cộng đồng nhân loại, không xuất phát trực tiếp từ yếu tố quân sự mà nảy sinh từ
các yếu tố tự nhiên và xã hội, diễn ra và tác động trên nhiều lĩnh vực của đời
sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, thông tin, môi trường....
Khái niệm ANPTT nêu trên phản ánh những vấn đề cơ bản, từ nội
dung, nguồn gốc nảy sinh, tính chất và mối quan hệ giữa ANPTT với An ninh
truyền thống. ANPTT vừa là một bộ phận của ANQG vừa là sự mở rộng của
khái niệm ANQG. ANPTT theo các cách tiếp cận trên là xem xét nó với tư
cách là “các mối đe dọa”, “các nguy cơ đe dọa” đến con người, cộng đồng,
đến quốc gia dân tộc và toàn nhân loại. Nó bao gồm các vấn đề phát sinh từ tự
nhiên, bởi tự nhiên; và những vấn đề do con người gây nên, cũng như sự
“cộng hưởng” của cả tự nhiên và xã hội, có nội hàm rất phong phú, đa dạng.
Từ những khái niệm nêu trên chúng ta có thể hiểu: Mối đe dọa ANPTT là
những thách thức trên mọi lĩnh vực đối với không chỉ độc lập dân tộc,chủ
quyền quốc gia, mà còn đối với vận mệnh sống còn của loài người và môi
trường sống trên trái đất.
19
1.1.2 Đặc điểm của vấn đề An ninh phi truyền thống
Là một vấn đề phức tạp có nội hàm rộng, ANPTT cũng có một số đặc
điểm chủ yếu để phân biệt với An ninh truyền thống. Theo đó, các nghiên cứu
đã chỉ ra được 7 đặc điểm chủ yếu của ANPTT bao gồm:
- Các vấn đề an ninh phi truyền thống diễn ra ảnh hưởng trên phạm vi
khu vực hoặc toàn cầu, mang tính xuyên quốc gia, đa quốc gia. Nó có thể phát
sinh từ một quốc gia này nhưng có khả năng lan tỏa với tốc độ nhanh, phạm
vi rộng đến quốc gia khác (biến đổi khí hậu, tội phạm mạng, dịch bệnh lây lan
ở người, gia súc, cây trồng…)
- Các mối đe dọa ANPTT thường do các tác nhân tự nhiên hoặc do các
tổ chức ngoài nhà nước, nhóm người hoặc cá nhân tiến hành, còn an ninh
truyền thống là xung đột giữa quân đội các nhà nước.
- Các mối đe dọa ANPTT uy hiếp trực tiếp đến cá nhân con người hoặc
cộng đồng, rồi đến quốc gia, dân tộc. Trong khi đó an ninh truyền thống uy
hiếp trực tiếp đến chủ quyền lãnh thổ quốc gia, dân tộc.
- Các mối đe dọa ANPTT có cả những vấn đề mang tính phi bạo lực (kinh
tế, văn hóa, môi trường, an ninh mạng, dịch bệnh…) và những vấn đề mang tính
bạo lực, nhưng đó là bạo lực phi quân sự (khủng bố, tội phạm có tổ chức…)
- Giải quyết ANPTT nhấn mạnh đến hợp tác, sử dụng biện pháp ngoại
giao, kể cả ngoại giao giữa quân đội các nước. Còn an ninh truyền thống
thường lấy biện pháp vũ trang, quân sự là chính, ngoại giao là hỗ trợ.
- Về mặt thời gian, ANPTT xuất hiện muộn hơn an ninh truyền thống.
Tuy nhiên trên thực tế nhiều vấn đề ANPTT đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch
sử nhưng ở phạm vi nhỏ hẹp, quy mô chưa lớn, quyền con người chưa được
quan tâm nên ít hoặc không được chú ý. Ngày nay do tác động của toàn cầu
hóa và mặt trái của sử dụng thành tựu cách mạng khoa học – công nghệ, sự mở
20
rộng truyền thông đa phương tiện…các vấn đề ANPTT có điều kiện phát tác
nhanh, lan tỏa rộng, ảnh hưởng lớn, trở thành mối quan tâm toàn nhân loại.
- Các mối đe dọa ANPTT cũng hủy hoại ANQG dần dần và lâu dài hơn
so với các vấn đề an ninh truyền thống.
Từ những đặc điểm nêu trên, có thể thấy ANPTT có nhiều điểm khác
biệt so với an ninh truyền thống. Tuy nhiên sự phân biệt này chỉ tùy trong
từng trường hợp cụ thể và đôi khi cũng chỉ mang tính tương đối. Chúng có thể
chồng xếp, đan cài và chuyển hóa cho nhau. Như vậy, có thể nhận thấy
ANPTT là vấn đề mới và phức tạp, không hẳn đối lập với an ninh truyền
thống mà là một cách tiếp cận bổ sung thêm cách nhìn an ninh toàn diện.
1.1.3 Vấn đề tội phạm công nghệ cao và an ninh mạng
Ngày nay, sự phát triển công nghệ cao đem lại nhiều tiện ích, nhất là
những lợi ích mang lại từ mạng internet, máy tính, điện thoại di động…giúp
tìm kiếm, lưu giữ thông tin, kết nối liên lạc một cách nhanh chóng. Tuy nhiên,
cũng chính từ những ưu việt mà công nghệ cao mang lại cho con người, nó đã
trở thành mảnh đất màu mỡ cho các loại tội phạm công nghệ cao phát sinh.
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, nêu khái niệm
tội phạm công nghệ cao: “Là loại tội phạm sử dụng những thành tựu mới của
khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại làm công cụ, phương tiện để thực
hiện hành vi phạm tội một cách cố ý hoặc vô ý, gây nguy hiểm cho xã hội”.
Chủ thể của loại tội phạm này thường là những người có trình độ học vấn,
chuyên môn cao, có thủ đoạn rất tinh vi, khó phát hiện. Hậu quả do loại tội
phạm này gây ra không chỉ là những thiệt hại lớn về mặt kinh tế, xã hội mà nó
còn xâm hại tới ANQG. Một số nhóm tội phạm công nghệ cao phổ biến hiện
nay là: nhóm tội phạm tin học (hacker), nhóm tội phạm sử dụng phương tiện
điều khiển chính xác…
So với tội phạm thông thường, tội phạm công nghệ cao có nhiều điểm
khác biệt.
21