Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Tìm hiểu về lễ hội chùa Thầy, Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 48 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt đề tài Nghiên cứu khoa học ngoài sự nỗ lực của cá nhân,
em cảm ơn trường Đại học Nội vụ Hà Nội, Khoa Hành Chính Học đã tạo điều kiện
cho em được học môn Phương pháp nghiên cứu khoa học để em có cơ hội học tập
và tham gia bài nghiên cứu này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên … người đã trực tiếp
giảng dạy và hướng dẫn tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong quá trình
thực hiện đề tài.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn bài nghiên cứu khoa học của
em còn có rất nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo, cô
giáo và các bạn.
Em xin chân thành cám ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các nội dung
nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ
hình thức nào trước đây. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm về nội dung bài nghiên cứu khoa học của tôi.


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................
LỜI CAM ĐOAN..................................................................................................
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT................................................................................
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Lịch sử tình hình nghiên cứu.........................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................2
4. Giả thiết nghiên cứu......................................................................................2
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu................................................................2


6. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................3
7. Bố cục............................................................................................................3
Chương 1 CƠ SỞ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÍ, BẢO TỒN DI TÍCH VÀ
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN QUỐC OAI – THÀNH PHỐ HÀ NỘI................4
1.1. Cơ sở pháp lý..............................................................................................4
1.1.1. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.....................................4


1.1.2. Các văn bản pháp lí.............................................................................5
1.2. Cơ sở thực tiễn............................................................................................5
1.3. Khái quát về huyện Quốc Oai – Thành phố Hà Nội...................................6
Tiểu kết chương 1................................................................................................7
Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ BẢO TỒN DI TÍCH CHÙA
THẦY TẠI HUYỆN QUỐC OAI THÀNH PHỐ HÀ NỘI..............................8
2.1. Lịch sử khởi dựng di tích chùa Thầy..........................................................8
2.2. Những giá trị nổi bật của di tích chùa Thầy................................................8
2.2.1. Giá trị về cảnh quan, kiến trúc.............................................................8
2.2.2. Hệ thống tượng thờ.............................................................................11
2.2.3. Di tích chùa Thầy trong văn hóa dân gian.........................................12
2.2.4. Giá trị trong đời sống sinh hoạt tâm linh...........................................13
2.3. Đánh giá thực trạng di tích chùa Thầy......................................................15
2.3.1. Cảnh quan kiến trúc...........................................................................15
2.3.2. Văn hóa đi lễ của khách thập phương đến chùa Thầy.......................15
2.3.3. Tình trạng lừa đảo xung quanh lễ hội chùa Thầy.............................17


Tiểu kết chương 2..............................................................................................19
Chương 3 GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
CHÙA THẦY TẠI HUYỆN QUỐC OAI THÀNH PHỐ HÀ NỘI...............20
3.1. Xây dựng kiện toàn hệ thống văn bản luật...............................................20

3.2. Tổ chức bảo vệ và trùng tu, tôn tạo di tích chùa Thầy..............................20
3.3. Tuyên truyền nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích chùa Thầy...........21
3.4. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ văn hóa quản lý di tích.....................22
Tiểu kết chương 3..............................................................................................23
KẾT LUẬN........................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................25
PHỤ LỤC...............................................................................................................


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
UBND: Ủy ban nhân dân
DSVH: Di sản văn hóa
Bộ VHTT&DL: Bộ văn hóa Thông tin và Du lịch


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên
nhiên tương đối phong phú, đa dạng. Thời xa xưa, người Việt sống chủ yếu dựa
vào việc khai thác tự nhiên. Vì vậy, việc thờ cúng các vị thần tự nhiên đã sớm
gần gũi với họ. Hơn nữa, Việt Nam lại là ngã ba đường nơi giao lưu của nhiều
tộc người, của nhiều luồng văn minh. Hai yếu tố đó làm cho Việt Nam trở thành
một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng.
Cũng chính vì tính hỗn dung tôn giáo ấy mà người Việt thể hiện sự bàng
bạc trong niềm tin tôn giáo. Đa số người Việt đều có nhu cầu tôn giáo, tuy nhiên,
phần đông trong số đó không là tín đồ thành kính của riêng một tôn giáo nào.
Một người vừa có thể đến chùa, vừa có thể đến phủ miễn là việc làm ấy mang lại
sự thanh thản về tinh thần cho họ, có thể thoả mãn điều họ cầu xin.
Ngày mồng một và ngày mười lăm âm lịch hàng tháng thường có tục thắp
hương và đi lễ ở đình, chùa, miếu, phủ để cầu an và cầu lộc. Ngoài việc đi lễ

theo tín niệm, tâm linh người ta còn đi lễ để ngắm cảnh, làm cho tâm hồn thư
thái, thanh sạch.
Mỗi một ngôi chùa hay đền, miếu…lại có những nét kiến trúc, nét đẹp
riêng biệt, qua đó thể hiện sự thông minh, khéo léo của trí tuệ cũng như sự sáng
tạo tài hoa của đôi bàn tay con người đã tạo tác nên những công trình kiến trúc
mang dấu ấn của từng thời kì lịch sử và trở thành những di tích lịch sử - văn hóa
mà ngàn đời sau biết đến.
Trong số những thắng cảnh nổi tiếng của đất kinh kì Thăng Long xưa nói
chung và huyện Quốc Oai nói riêng, không ai là không biết tới chùa Thầy, một
1


di tích không chỉ nổi bật với giá trị vật thể mà còn có ý nghĩa rất lớn về mặt tín
ngưỡng, tâm linh đối với người dân từ xưa tới nay.
Là sinh viên học chuyên ngành Quản lý nhà nước tại trường Đại học Nội
vụ Hà Nội, qua được học môn “Phương pháp nghiên cứu khoa học” với lòng
yêu nghề, muốn vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tôi đã quyết định chọn
đề tài “Tìm hiểu giá trị di tích chùa Thầy tại huyện Quốc Oai –Thành phố Hà
Nội” để làm đề tài nghiên cứu, qua đó nhằm tìm ra những giải pháp, hướng đi
mới để góp phần vào công tác quản lý, bảo tồn và phát huy những giá trị nổi bật
của di tích văn hóa nổi tiếng này.
2. Lịch sử tình hình nghiên cứu
Chùa Thầy là một trong số những ngôi chùa nổi tiếng nhất Hà Nội, vì vậy
đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về chùa Thầy như:
Đề tài “Chùa Thầy một kiến trức độc đáo của xứ Đoài, Hà Nội” [1]
Đề tài “Chùa Thầy – Hà Tây” [6]
Đề tài “Tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ tại Chùa Thầy”[2]
Và nhiều đề tài khác, bài viết có đề cập đến di tích Chùa Thầy, tuy nhiên,
cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu về “Bảo tồn và phát huy giá trị di
tích chùa Thầy tại huyện Quốc Oai – Thành phố Hà Nội. Nhưng những tài liệu

trên sẽ là cơ sở giúp chúng em trong quá trình nghiên cứu đề tài.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
2


Di tích chùa Thầy tại huyện Quốc Oai – Thành phố Hà Nội
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát, mô tả lại di tích chùa Thầy ở các khía cạnh: di vật, công trình
kiến trúc, nghệ thuật, tín ngưỡng và sinh hoạt văn hoá dân gian.
4. Giả thiết nghiên cứu
- Di tích chùa Thầy có giá trị nổi bật về vật thể và có ý nghĩa lớn về mặt
tín ngưỡng, tâm linh
- Việc nghiên cứu sẽ nhằm quảng bá, giới thiệu di tích chùa Thầy đến
khách thập phương
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di tích chùa Thầy
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát hệ thống hóa lý luận về di sản văn hóa
- Phân tích giá trị, mô tả đặc điểm di tích chùa Thầy tại huyện Quốc Oai –
Thành phố Hà Nội
- Đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích chùa Thầy

3


6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát điền dã, phỏng vấn (phỏng vấn người dân 10
người, ban quản lý chùa 1 người, chuyên viên phòng văn hóa 2 người, cán bộ

văn hóa xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội)
- Phương pháp quan sát (Quan sát cảnh quan chùa Thầy và lễ hội chùa
Thầy)
- Phương pháp thu thập tài liệu: Tài liệu chuyên ngành về lĩnh vực quản lý
di sản văn hóa, báo cáo tháng, qúy, năm, các văn bản chính sách của huyện
Quốc Oai về bảo tồn và phát huy giá trị di tích chùa Thầy, nguồn tài liệu mở:
internet, sách, báo, tạp chí…
7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì nội dung đề
tài gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác quản lý, bảo tồn di tích và khái quát
về huyện Quốc Oai – Thành phố Hà Nội
Chương 2: Thực trạng quản lý và bảo tồn di tích chùa Thầy tại huyện
Quốc Oai – Thành phố Hà Nội
Chương 3: Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di tich chùa Thầy tại
huyện Quốc Oai – Thành phố Hà Nội

4


Chương 1
CƠ SỞ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÍ, BẢO TỒN DI TÍCH VÀ KHÁI
QUÁT VỀ HUYỆN QUỐC OAI – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Cơ sở pháp lý
1.1.1. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao phát triển văn hóa, coi văn hóa là nền
tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đầu tư mọi nguồn lực
cho phát triển văn hóa, đưa ra nhiều đường lối chính sách trong từng giai đoạn
nhất định nhằm gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống;

tuyên truyền, quảng bá văn hóa dân tộc với bạn bè quốc tế…
+ Sắc lệnh số 65/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký. Sắc lệnh đã nghiêm cấm việc phá hủy đình, chùa, đền, miếu hoặc các nơi thờ
tự khác, cũng như cung điện, thành quách cùng lăng mộ, tất cả những di tích lịch
sử văn hóa đều phải được bảo tồn.
+ Nghị quyết TW 5 khóa VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng về
việc “Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc”
Chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc được thể
chế hóa trong các văn bảo quy phạm pháp luật như Pháp lệnh Bảo tàng, pháp
lệnh thư viện, Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam
thắng cảnh năm1984, và đặc biệt là Luật Di sản văn hóa năm 2001. Trong các
văn bản pháp luật này đều có những điều khoản quy định rõ ràng về việc bảo vệ
các di sản văn hóa vật thể, di sản văn hóa thành văn và di sản văn hóa phi vật
thể.
Mục tiêu chính của chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc
5


là sử dụng tối ưu các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực mà nhà nước và xã hội có
để không ngừng làm phong phú, giàu có thêm vốn di sản đồ sộ của dân tộc Việt
Nam, đáp ứng cao nhất nhu cầu văn hóa của nhân dân, đáp ứng nhu cầu phát
triển bền vững.
1.1.2. Các văn bản pháp lí
* Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng
cảnh [4]
* Luật Di sản Văn hóa [7]
1.2. Cơ sở thực tiễn
Di tích lịch sử văn hóa tồn tại và phát triển theo không gian và thời gian.
Nó gắn liền với những bước thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước của

dân tộc. Các di tích lịch sử văn hóa còn là minh chứng cho sự phát triển từng
giai đoạn, thời kỳ hưng thịnh của đất nước đồng thời cũng là sản phẩm sáng tạo
của bàn tay con người còn được gìn giữ và truyền lại cho đời sau. Di tích lịch sử
văn hóa có thể chỉ là một công trình nhỏ bé, đơn độc nhưng cũng có thể là một
quần thể gồm rất nhiều các công trình kiến trúc hợp thành. Nhưng dù di tích đó
lớn hay nhỏ thì cũng đều kết tinh trong đó bản sắc văn hóa dân tộc, những phong
tục tập quán cũng như nét nổi bật, màu sắc của một quốc gia có nền văn minh
trồng lúa nước lâu đời. Đồng thời còn là sự kết hợp hài hòa giữa văn hóa
phương Đông và phương Tây.
Chùa là một công trình kiến trúc phục vụ mục đích tín ngưỡng. Chùa
được xây dựng phổ biến ở các nước Đông Á và Đông Nam Á như Trung
Quốc, Nhật Bản, Việt Nam và thường là nơi thờ Phật. Tại nhiều nơi, chùa có
nhiều điểm giống với chùa tháp của Ấn Độ, vốn là nơi cất giữ Xá-lị và chôn
6


cất các vị đại sư, thường có nhiều tháp bao xung quanh. Chùa là nơi tiêu
biểu cho Chân như, được nhân cách hóa bằng hình tượng một đức Phật
được thờ ngay giữa chùa. Nhiều chùa được thiết kế như một Man-đa-la, gồm
một trục ở giữa với các vị Phật ở bốn phương. Cũng có nhiều chùa có nhiều
tầng, đại diện cho Ba thế giới (tam giới), các cấp bậc tiêu biểu cho Thập địa
của Bồ Tát. Có nhiều chùa được xây tám mặt đại diện cho Pháp luân hoặc
Bát chính đạo.
Chùa còn là nơi tập trung của các sư, tăng, (hay ni nếu là chùa nữ) sinh
hoạt, tu hành, và thuyết giảng đạo Phật. Tại nơi này, mọi người kể cả tín đồ hay
người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành
các nghi lễ tôn giáo.[8]
"Chùa chiền" theo Hán-Việt còn có nghĩa là "tự viện", là một nơi an trí
tượng Phật và là chỗ cứ trú tu hành của các tăng ni. Ngày nay trong thực tế chùa
được gọi bằng cả từ Hán-Việt phổ thông như "Tự", "Quán", "Am".[5]

1.3. Khái quát về huyện Quốc Oai – Thành phố Hà Nội
Quốc Oai là một huyện phía Tây của thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thành
phố khoảng 20 km. Vào năm 2009, huyện Quốc Oai có diện tích 147 km². Dân
số 163.355 người.
Huyện Quốc Oai có 1 thị trấn Quốc Oai và 20 xã: Cấn Hữu, Cộng
Hòa, Đại Thành, Đồng Quang, Đông Xuân, Đông Yên, Hòa Thạch, Liệp
Tuyết, Nghĩa Hương, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Phú Cát, Phú Mãn, Phượng
Cách, Sài Sơn, Tân Hòa, Tân Phú, Thạch Thán, Tuyết Nghĩa, Yên Sơn, Cộng
Hòa.
Cảnh trí huyện Quốc Oai đẹp, bình yên và nên thơ, thể hiện trong thơ của
7


nhà thơ quê hương xứ Đoài - Quang Dũng:
Bao giờ trở lại đồng Bương, Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc
Sáo diều vi vút thổi đêm trăng...
Quốc Oai nổi tiếng với Chùa Thầy, nơi hàng năm có hàng ngàn du khách
khắp mọi nơi tới vãn cảnh, với câu nói "Chuông Cấn, Bút Than,Gan Dương
Cốc, Nón Mỹ" (Nghĩa là: Chuông lớn ở Chùa Cấn Hữu, học giỏi ở Ngọc Than,
anh hùng lì lợm ở Dương Cốc và nơi làm nón đẹp phải kể đến Phú Mỹ). Quốc
Oai có đình So là ngôi đình đẹp nhất xứ Đoài, thờ tam vị đại vương theo giúp
vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân.
Ở thế kỷ X, Quốc Oai vốn thuộc căn cứ Đỗ Động giang của tướng
quân Đỗ Cảnh Thạc thời 12 sứ quân trị vì. Hiện nay còn một số di tích thờ
phụng ông như đình Cổ Hiền, đền Tam Xã,...
Đình Cổ Hiền ở xã Tuyết Nghĩa, Quốc Oai. Đình nằm ở gần sông Tích,
được coi là vị trí trung tâm thành Quèn xưa của Đỗ Tướng Công. Đình là nơi thờ
thành hoàng làng Độc Nhĩ Vương Đỗ Cảnh Thạc, vị tướng nhà Ngô và một lãnh

đạo nổi tiếng thời 12 sứ quân. Đỗ Cảnh Thạc là một vị tướng có tài, ngoài những
chiến công hiển hách, ông còn là người giúp nhân dân trong "Nông – Trang –
Canh – Cửi" nên khi mất được người dân trong lãnh địa suy tôn là thành hoàng
làng.
Đền Tam Xã còn được gọi là quán Tam Xã, đền Trình hay đền thờ Đỗ
8


tướng công nằm ở trung tâm xã Sài Sơn. Xưa dân 3 làng Sài Khê, Thụy Khê, Đa
Phúc là 3 xã cùng chung một đền thờ. Nay tam xã hợp nhất vào Sài Sơn nhưng
mỗi làng đều xây dựng một ngôi đình để thờ vọng Đỗ tướng công. Vị trí xã Sài
Sơn tương truyền là nơi sứ quân Cảnh Thạc hóa.
Hiện nay, trên địa bàn huyện Quốc Oai đã và đang hình thành một số khu
đô thị cao cấp như khu đô thị Sunny Garden City (xã Sài Sơn), khu đô thị Tây
Quốc Oai (xã Ngọc Mỹ)...[9]

Tiểu kết chương 1
Chương 1 tôi đã nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác quản lý, bảo tồn di
tích của Đảng, Nhà nước, cơ sở thực tiễn và khái quát về huyện Quốc Oai –
Thành phố Hà Nội. Những nội dung trên là cơ sở để chúng tôi nghiên cứu
chuyên sâu về thực trạng quản lý và bảo tồn di tích chùa Thầy tại huyện Quốc
Oai – Thành phố Hà Nội.

9


Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ BẢO TỒN DI TÍCH CHÙA THẦY TẠI
HUYỆN QUỐC OAI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Lịch sử khởi dựng di tích chùa Thầy

Chùa Thầy là một ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà
Tây cũ, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội
khoảng 20 km về phía Tây nam, đi theo đường cao tốc Láng - Hòa Lạc. Sài Sơn
có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng
từ thời nhà Đinh. Đây từng là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này
núi Thầy còn gọi là núi Phật Tích.
Cùng với chùa Tây Phương và Chùa Hương, Chùa Thầy là một trong
những ngôi chùa nổi tiếng nhất Hà Nội. Nếu như Chùa Láng gắn liền với giai
đoạn đầu của cuộc đời Từ Đạo Hạnh, thì chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời
sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-niđa-lưu-chi này.
Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư
Từ Đạo Hạnh trụ trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa:
chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên chữ là Thiên
Phúc Tự). Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng
tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông.
Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng.
Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi
Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long
Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm
rồng. [Hình 1]
10


2.2. Những giá trị nổi bật của di tích chùa Thầy
2.2.1. Giá trị về cảnh quan, kiến trúc
Khu chính điện của Chùa là một khuôn viên hình chữ nhật rộng khoảng
40m dài khoảng 60m gồm ba toà nhà to, dài chạy song song hình chữ Tam, có 2
dãy hành lang chạy kèm 2 bên các đầu nhưng lạ thay cả ngôi bảo điện hình chữ
tam đồ sộ như thế mà chỉ có 36 lỗ đục còn gỗ được xếp chồng lên nhau nhưng
lại rất vững chắc. Hai bên tòa nhà là các chuông và các trống nhô cao lên khỏi 2

dãy hành lang, có thơ rằng:
“Lâu đài quảng tịch bên hồ nước
Chuông trống vang dền trong khói xương”
Toà ngoài gọi là nhà tiền tế hay chùa Hạ. Chùa Hạ chỉ dùng làm nơi lễ bái,
giảng đạo, rõ là:
“Gặp tăng trước điện nghe đàm đạo
Trong kiếp phù sinh được buổi nhàn”
Toà giữa là trung điện hay chùa Trung, là Đại Hùng Bảo Diện Tam bảo.
Toà trong cùng là thượng điện, thờ các hóa thân của Thiền sư Từ Đạo
Hạnh, diễn tả 3 "kiếp" của Từ Đạo Hạnh: Tăng, Phật và Đế Vương. Ban giữa
tượng Di Đà Tam Tôn ở trên, phía dưới là bệ đá trăm hoa bách hoa đài tạc từ
thời Trần trên để hòm sắc lịch chiều tôn phong của Thuyền sư Từ Đạo Hạnh,
phía dưới cùng là tượng sư nhập định trên tòa sen vàng. Gian bên trái thờ tượng
toàn thân Thuyền sư bằng gỗ đặt trong khám, khi xưa tương truyền mỗi lần mở
khám thì tượng từ từ đứng dậy, đóng cửa thì từ từ ngồi xuống, về sau Cao Sơn
11


Dục là Tuần phủ Sơn Tây (1841-1923) có bàn với các bô lão trong xã “Thánh thì
không phải chào người phàm để ngài phải đứng dậy mỗi lần mở cửa thì chúng ta
thất lễ” từ đó mới cắt dây máy để tượng ngồi luôn, bây giờ nếu có người nâng
tượng vẫn đứng dậy, ngồi xuống và duỗi tay, duỗi chân được…Gian bên phải là
tượng vua Lý Thần Tông là hậu thân của Thuyền sư đặt trên ngai vàng, tượng
tạc vào năm Thái hòa năm 1499 thời Lê Nhân Tông, đến niên hiệu Vĩnh Hựu
(1735-1740) vua Lê Ý Tông cho tạc them hia tượng vua Chiêm người phỗng và
đôi phượng gỗ trước tượng vua vì cho rằng tiền thân của vua Lê Thần Tông
cũng tức là vua Lý Thần Tông là Thuyền sư Từ Đạo Hạnh. Chính giữa là tượng
Thiền sư khi đã thành Phật, đội mũ hoa sen, tay chắp trước ngực, khoác áo cà sa
vóc vàng, đặt trên một bệ tượng bằng đá thời nhà Lý, có hình sư tử đội toà sen.
Bệ đá chạm những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có

hình thần điểu Garuda. Đây là di vật thời nhà Lý còn sót lại duy nhất ở chùa.
Bên phải là tượng Thiền sư sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền
Hầu và trở thành nhà vua Lý Thần Tông. Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình
thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai vàng.
Trước cửa chùa có một hồ nước rộng có tên là Long Chiểu (Ao Rồng).
Giữa hồ có một thuỷ đình nhỏ vuông vắn, dùng làm nơi diễn rối nước. Hai bên
chùa có hai chiếu cầu mái, do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật
Tiên ở bên trái, trông vào đền Tam Phủ xây trên một hòn đảo giữa hồ. Bên phải
là cầu Nguyệt Tiên, nối với con đường lên núi.[Hình 2,3]
“Hai vòng nhật nguyệt xuống ao này
Múa với hoa sen mới nở đầy”
Giữa hồ có nhà Thủy Đình là nơi biểu diễn trò múa rối nước trong ngày
hội:
“Ao sâu trong vắt ngư long hội
12


Núi bọc xung quanh tựa gấm thêu”
Trên núi có chùa Cao, vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự, là
nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh đến tu đầu tiên. Trên vách chùa còn khắc những bài
thơ tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn Thượng Hiền. Tương truyền rằng
động Thánh Hóa ở sau chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai làm
vua Lý Thần Tông.
“Chúa xưa nằm lẫn trong cây đá
Sư cụ nằm chung với khói mây”
Hang Thánh Hóa là một động nhỏ hẹp, lờ mờ vẻ huyền bí, nhìn kĩ vào
vách hang ta thấy những vết lõm ở vách đá, đó là dấu của vết chân và vết tay của
Thuyền sư tì vào lúc chút xác.[Hình 5]
Phía trên chùa Cao có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá
hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu,... trong đó có một phiến đá nhẵn lì được gọi

là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích tiên vẫn ngồi chơi cờ, uống
rượu, thưởng trăng và ngâm thơ.[Hình 6]
Từ chùa Cao, đi vòng ra phía sau là hang Cắc Cớ, là nơi tình tự của trai
gái ngày xưa trong những ngày hội hè. Tương truyền đây là nơi tuần tiết của
nghĩa quân họ Lã sau trận chống ngoại xâm thất bại.[Hình 7]
Đi ngược lên trên là đến đền Thượng. Đền Thượng được khởi dựng từ
thời Lê Trung Hưng (1533-1789) là nơi thờ phụng đức Văn Xương Đế Quân và
Qun Thánh Đế Quân, nơi hội họp của Đông Kinh Nghĩa Thục xưa kia.
Gần đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào
13


mòn trông như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u. Cách một đoạn
là đến hang Gió với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu.
Ở chân núi phía Tây còn có chùa Bối Am, còn gọi là chùa Một Mái, chùa
có tên như vậy là vì chùa chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa vào vách núi.
Trong một bài ký ghi trên vách núi, Chúa Trịnh Căn đã phác họa cảnh
chùa Thầy "như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả
bốn mùa. Động trên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng
thông sang bến siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong,
sông như dải lụa"
Như vậy, Chùa Thầy không chỉ là di tích lịch sử, di tích cách mạng, một
công trình kiến trúc có giá trị mà còn là một nơi có danh lam thắng cảnh nổi
tiếng được thiên nhiên ưu đãi đúng như một nhà thơ đã nói: “Đây là cái đẹp độc
đáo của người bản địa tựa như cái gân guốc cảu núi Tản Viên theo mạch mà
vào trong đất làng Thầy”
2.2.2. Hệ thống tượng thờ
Tại chùa Hạ có các pho tượng Đức Ông khá đẹp, và một bức bình phong
lớn mô tả cảnh địa ngục.
Các pho Kim Cương đứng trong những tư thế võ mạnh mẽ, sống động.

Tại chùa Trung có hai pho tượng Hộ pháp được cho là lớn nhất trong các ngôi
chùa Việt Nam, cao gần 4m. Tượng Hộ pháp đắp bằng đất thó, giấy bản giã nhỏ
trộn với mật, trứng,..., nên sau hơn ba trăm năm vẫn còn rất tốt.
Các pho tượng đẹp nhất của chùa Thầy tập trung tại chùa Trên.

14


Trên cao nhất là tượng Di Đà Tam tôn được tạc vào đời Mạc. Phật A Di
Đà ngồi giữa dáng vẻ phúc hậu. Pho tượng Quán Thế Âm bên phải ngồi buông
chân trái xuống, chân phải co lên, tay cầm một cây phất trần, dáng vẻ ung dung.
Pho Đại Thế Chí ngồi xếp bằng, hai tay bắt ấn mật phùng. Ba pho tượng mỗi
pho một vẻ không giống nhau, tạo thành một bộ tượng đẹp đặc biệt.
Dưới đó, chính giữa là tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh trong kiếp Phật.
Tượng được tạc vào thế kỉ 19, khuôn mặt khắc khổ, nổi rõ mạch máu, ngồi xếp
bằng tròn trên một bệ hoa sen còn lại từ đời Lý. Bệ hoa sen đặt trên một con sư
tử cuộn tròn, dưới con sư tử là một bệ bát giác. Hiện nay tượng được đội mũ hoa
sen và khoác áo vàng.
Toàn bộ ba pho Di Đà và tượng Từ Đạo Hạnh đặt trên một bệ đá hai tầng,
được làm vào thời nhà Trần. Bệ đá chạm những cánh hoa sen, bốn mặt chạm
hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình thần điểu Garuda.
Tượng Từ Đạo Hạnh tại chùa Thầy
Bên phải là tượng Thiền sư ở kiếp Vua. Tương truyền Từ Đạo Hạnh sau
khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở thành nhà vua Lý
Thần Tông. Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình thiên, mình khoác long bào,
ngồi trên ngai vàng. Bên trái có tượng Từ Đạo Hạnh trong kiếp Thánh, ngồi
trong một khám gỗ chạm trổ cầu kì. Tượng này có cốt bằng tre, có thể cử động.
Tương truyền xưa kia mỗi khi mở cửa khám thì tượng tự động nhỏm dậy chào.
Sau một vị quan triều Nguyễn nói rằng "Thánh thì không phải chào ai cả", nên
tháo hệ thống khớp nối, từ đó tượng ngồi yên. Pho tượng này thể hiện nghệ thuật

làm rối nước của dân gian.
Trong chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ
Đạo Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh Không và
15


Thiền sư Giác Hải.
Trước tượng Từ Đạo Hạnh ở chính giữa có một bàn thờ gỗ chạm trổ rất
đẹp. Xưa kia nền đất còn thấp, người thắp hương vịn vào bàn thờ tạo thành một
chỗ hõm rất lớn. Trong chùa Thượng còn có hai cây cột làm bằng loại gỗ quý là
gỗ Ngọc am.[Hình 8]
2.2.3. Di tích chùa Thầy trong văn hóa dân gian
Chùa Thầy gắn liền với truyền thuyết hóa thân của Pháp sư Từ Đạo Hạnh.
Theo Đại Nam Nhất Thống Trí thì Thuyền sư Từ Đao Hạnh họ Từ tên tục
là Lộ con quan Đô sát Từ Vinh, mẹ là Tăng Thị Loan quê ở làng An Lãng, huyện
Vĩnh Thuận nay làng Láng thuộc huyện Từ Liêm Hà Nội. Từ thuở nhỏ Thuyền
sư Từ Đạo Hạnh đã có những hành động khác thường, lớn lên ngày ứng thi khoa
Bạch Liên, đỗ đầu nhưng không ra làm quan vì mối thù cha nên quyết tâm xuất
gia học đạo rồi cùng với các ngài Giác Hải, Không Lộ sang Tây Thiên (Ấn Độ )
cầu pháp.
Khi đã học được pháp thuật Thuyền sư trở về núi Sài dựng ghè tích ngày
đêm tụng tập, đến khi thù cha đã trả xong thì niềm tục lắng trong, lòng thuyền
rộng mở bèn đi khắp bốn phương thăm thuyền vấn đạo, lúc ngộ được tâm ấn
Thuyền sư trở về giảng đạo, dạy học,hái thuốc, tổ chức cho dân những trò chơi
như đá cầu, đánh vật, múa rối nước do đó nhân dân cảm phục kính mến gọi
Thuyền sư bằng một từ thân mật, gần gũi là Thầy, bởi vậy, chùa ngài tu là chùa
Thầy, núi ngài hóa gọi là núi Thầy, làng ngài sống là làng Thầy, thậm chí đến cả
tổng đó cũng gọi là tổng Thầy.
Truyền thuyết lưu rằng, sau khi Từ Đạo Hạnh chết, ông cho thiền sư Minh
Không biết mình sẽ đầu thai thành con của Sùng Hiền Hầu - em trai của vua Lý

16


Nhân Tông (Vị vua này không có con nên đã nhường ngôi cho con của Sùng
Hiền Hầu, người con này chính là Từ Đạo Hạnh đầu thai, trở thành vua Lý Thần
Tông). Tương truyền ông viên tịch vào ngày 7 tháng 3 năm Bính Thân (1116).
Đến tháng 6 thì Lý Thần Tông, con trai của Sùng Hiền Hầu ra đời. Sau này Lý
Thần Tông mắc bệnh lạ, người cứu chữa được là đại sư Nguyễn Minh Không.
2.2.4. Giá trị trong đời sống sinh hoạt tâm linh
Chùa Thầy từ khi được xây dựng tới nay, trải qua một quá trình phát triển,
hưng thịnh cùng đất nước, nơi đây đã trở thành một trung tâm sinh hoạt tín
ngưỡng lớn nhất miền Bắc.
Chùa Thầy mang giá trị tâm linh rất sâu sắc, đặc biệt đối với đời sống văn
hóa tinh thần của nhân dân.
Đã thành lệ, ngày đầu năm người dân thập phương đổ về chà Thầy, giữa
cái lạnh se sắt và màu xám bạc của đất trời, mùi hương trầm lan tỏa làm ấm
không gian. Nơi đây gửi gắm bao ước nguyện về một năm mới bình yên
Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba Âm lịch
hàng năm. Trong ngày hội, nhiều tăng ni từ các nơi khác trong vùng cùng về đây
dự lễ trong những bộ cà-sa trang trọng, tay cầm gậy hoa, miệng tụng kinh trong
tiếng mõ trầm đều. Lễ cúng Phật và trai đàn - một diễn xướng có tính chất tôn
giáo - được thực hiện có sự phối hợp của các nhạc cụ dân tộc.
Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn
có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở
nhiều nước. Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn
tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh
thiên nhiên rộng mở:
17



“Rủ nhau lên núi Sài Sơn
Ai làm đá ướt đường trơn hỡi mình?
Hỏi non, non những làm thinh
Phải rằng non đã vô tình với ai?
Nước non ví chẳng chiều đời
Mắt xanh đâu lẽ phụ người tình chung?
Yêu nhau ta dắt nhau cùng
Non bao nhiêu đá nặng lòng bấy nhiêu.”
(Á Nam Trần Tuấn Khải)
Về văn hóa, Chùa thầy có truyền thống nghìn năm về văn hóa. Nơi đây đã
sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Phan Huy Ích, Phan Huy Chú làm sáng
danh lịch sử nước nhà. Tiếp theo truyền thống quê hương, Câu Lạc Bộ Văn
Nghệ thuật Sài Sơn đang tập hợp những người con yêu văn hóa, thơ ca và đã
xuất bản nhiều tập thơ, với sự cho phép của nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Núi
Thầy là ấn phẩm của CLB Văn học Nghệ Thuật Sài Sơn. Đây là những tác phẩm
của của những người con Quê hương Sài Sơn, mang trong mình hồn cốt của một
vùng quê giàu truyền thống văn hóa. Hiện nay, các tập 1, 2, 3, 4 của Núi thầy đã
được xuất bản.[3]

18


2.3. Đánh giá thực trạng di tích chùa Thầy
2.3.1. Cảnh quan kiến trúc
Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm lịch sử nhưng chùa Thầy vẫn giữ dược
những nét đẹp, cổ kính làm say đắm du khắc thập phương.
Trong chùa là vàng son, nhang khói, hệ thống các tượng và cảnh quan
luôn được giữ gìn, vệ sinh thường xuyên, phục vụ cho hàng nghìn du khách
hàng năm lui tới.
Cũng không hiểu từ đâu và từ bao giờ, trên đường vào chùa và ngay trước

cổng, mọc lên nhiều quán hàng ăn uống và các thứ hàng mua bán khác. Cảnh
náo nhiệt, sầm uất của các hàng quán đã hình thành một dãy phố dài ngay trên
con đường dẫn vào chùa, trước khi dẫn con người đến nơi đất thiêng, hòa mình
vào không gian uy nghiêm mà tráng lệ bậc nhất này. Nó chẳng khác nào miếng
vá trên tấm áo thiên tiên, cần u huyền thanh tao cho tâm linh bay bổng, nhưng
lại níu kéo về mặt đất.
Chùa Thầy có quy mô không lớn lắm, nhưng ở vào vị trí mây nước hữu
tình tuyệt đẹp, tạo ra cảm giác lâng lâng, thanh thoát cho khách hành hương mà
trong lòng mang niềm tục lụy cần được giãi bày, cảm thông và giải tỏa.
Qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, chùa Thầy nay có diện mạo khang trang
và đẹp hơn xưa rất nhiều. Cảnh vật ở chùa đẹp thanh bình và nên thơ và trữ
tình.Các ban, điện thờ trong chùa được sắp xếp ngay ngắn, lúc nào cũng có sẵn
hoa thơm trái ngọt hòa quyện với khói hương.
Chùa Thầy có tự rất lâu, song trải qua quá trình dài dựng nước và giữ
nước của dân tộc, một phần di tsch đã bị xuống cấp do thời gian. Qua nhiều lần
19


×