A. VẬN DỤNG LÝ THUYẾT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỂ
GIẢI THÍCH NGUỒN GỐC CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀO VIỆT NAM
I. Lý thuyết đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1. Khái niệm, nguồn gốc, bản chất và vai trò của FDI
a. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hoạt động kinh doanh quốc tế dựa trên cơ
sở của quá trình dịch chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do các pháp nhân
hoặc thể nhân thực hiện theo những hình thức nhất định trong đó chủ đầu tư tham
gia trực tiếp vào quá trình điều hành, quản lý và sử dụng vốn đầu tư.
Xuất hiện vào cuối thế kỷ 19, FDI nhanh chóng khẳng định được vị trí của mình
trong hệ thống các quan hệ kinh tế quốc tế. Đến nay khi FDI đã trở thành xu hướng
của thời đại thì cũng là một nhân tố quan trọng góp phần đẩy mạnh lợi thế so sánh
của các nước và mang lại quyền lợi cho cả đôi bên.
b. Nguồn gốc và bản chất của FDI
FDI ra đời muộn hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác vài ba thập kỷ nhưng
FDI nhanh chóng xác lập vị trí của mình trong quan hệ kinh tế quốc tế. FDI trở
thành một xu thế tất yếu của lịch sử, một nhu cầu không thể thiếu của mọi nước
trên thế giới kể cả những nước đang phát triển, những nước công nghiệp mới hay
những nước trong khối OPEC và những nước phát triển cao.
Bản chất của FDI là:
- Có sự thiết lập về quyền sở hữu về tư bản của công ty một nước ở một nước khác
- Có sự kết hợp quyền sở hữu với quyền quản lí các nguồn vốn đã được đầu tư
- Có kèm theo quyền chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lí
- Có liên quan đến việc mở rộng thị trường của các công ty đa quốc gia . Gắn liền
với sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế và thương mại quốc tế
c. Vai trò của FDI
Hoạt động FDI có tính hai mặt với nước đầu tư cũng như nước tiếp nhận đầu tư,
đều có tác động tiêu cực và tác động tích cực.
Đối với nước đi đầu tư( nước chủ nhà) FDI có tác động chủ yếu sau:
Tác động tích cực
Do chủ đầu tư là người nước ngoài, là người trực tiếp điều hành và quản lí vốn nên
họ có trách nhiệm cao, thường đưa ra những quyết định có lợi cho họ. Vì thế họ
đảm bảo hiệu quả của vốn FDI. Đầu tư nước ngoài mở rộng được thị trường tiêu
thụ sản phẩm nguyên liệu, công nghệ và thiết bị trong khu vực mà họ đầu tư cũng
như trên thế giới. Do khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ,
thị trường tiêu thụ rộng lớn nên có thể mở rộng quy mô, khai thác được lợi thế kinh
tế của quy mô từ đó có thể nâng cao năng suất, giảm giá thành sản phẩm. Đồng
thời chủ đầu tư cũng tránh được các hàng rào bảo hộ mậu dịch và phí mậu dịch của
nước tiếp nhận đầu tư thông qua FDI.
Tác động tiêu cực
Khi các doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư ra nước ngoài thì trong nước sẽ mất đi
khoản vốn đầu tư, khó khăn hơn trong việc tìm nguồn vốn phát triển cũng như giải
quyết việc làm. Điều này có thể dẫn tới nguy cơ suy thoái kinh tế trong nước, vì
thế mà nước chủ nhà không đưa ra những chính sách khuyến khích cho việc đầu tư
ra nước ngoài. Đầu tư ra nước ngoài thì doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi
ro hơn trong môi trường mới về chính trị, sự xung đột vũ trang của các tổ chức
trong các quốc gia hay những tranh chấp nội bộ của quốc gia hay đơn thuần chỉ là
sự thay đổi trong chính sách và pháp luật của quốc gia tiếp nhận… Tất cả những
điều đó đều khiến cho các doanh nghiệp có thể rời vào tình trạng mất tài sản cơ sở
hạ tầng. Do vậy mà họ thường phải đầu tư vào các nước ổn định về chính trị cũng
như trong chính sách và môi trường kinh tế.
Đối với nước tiếp nhận đầu tư thì hoạt động FDI có tác động:
Tác động tích cực
- Nhờ nguồn vốn FDI đầu tư, các doanh nghiệp tiếp nhận nguồn vốn có điều kiện
tốt để khai thác tốt nhất các lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lí. Bởi các
nước tiếp nhận thì thường là nước đang phát triển có tài nguyên dồi dào, song
không biết cách khai thác.
- Tạo điều kiện để khai thác được nguồn vốn từ bên ngoài do không quy định mức
vốn góp tối đa mà chỉ quyết định mức vốn góp tối thiểu cho nhà đầu tư.
- Có cơ hội tiếp cận kỹ thuật công nghệ hiện đại và học hỏi kinh nghiệm quản lí
kinh doanh của họ.
- Tạo điều kiện để tạo việc làm, tăng tốc độ tăng trưởng của đối tượng bỏ vốn cũng
như tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế, qua đó nâng cao đời sống
nhân dân.
- Khuyến khích doanh nghiêp trong nước tăng năng lực kinh doanh, cải tiến công
nghệ mới nâng cao năng suất chất lượng giảm giá thành sản phẩm do phải cạnh
tranh với doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời thông qua hợp tác với nước ngoài có
thể mở rộng thị trường thông qua tiếp cận với bạn hàng của đối tác đầu tư.
Tác động tiêu cực
- Nếu không có quy hoạch cụ thể và khoa học, có thể dẫn đến đầu tư tràn lan kém
hiệu quả, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường
nghiệm trọng.
- Môi trường chính trị trong nước có thể bị ảnh hưởng, các chính sách trong nước
có thể bị thay đổi do khi đầu tư vào thì các nhà đầu tư thường có các biện pháp vận
động quan chức địa phương theo hướng có lợi cho mình.
- Các lĩnh vực và địa bàn đầu tư phụ thuộc vào sự lựa chọn của nhà đầu tư nước
ngoài mà không theo ý muốn của nước tiếp nhận. Do vậy việc bố trí cơ cấu đầu tư
sẽ gặp khó khăn sẽ tạo ra sự phát triển mất cân đối giữa các vùng.
- Giảm số lượng doanh nghiệp trong nước do quá trình cạnh tranh khiến nhiều
doanh nghiệp trong nước bị phá sản. Ảnh hưởng tới cán cân thanh toán quốc tế do
sự di chuyển của các luồng vốn cũng như luồng hàng hoá ra vào trong nước.
- Ngày này hầu hết việc đầu tư là của các công ty đa quốc gia vì thế các nước tiếp
nhận thường bị thua thiệt, thất thu thuế hay các liên doanh sẽ phải chuyển thành
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do các vấn đề chuyển nhượng giá nội bộ của
các công ty này.
2. Một số lý thuyết của FDI
2.1. Lý thuyết về lợi nhuận cận biên:
Năm 1960 Mac. Dougall đã đề xuất một mô hình lý thuyết, phát triển từ những lý
thuyết chuẩn của Hescher Ohlin - Samuaelson về sự vận động vốn. Ông cho rằng
luồng vốn đầu tư sẽ chuyển từ nước lãi suất thấp sang nước có lãi suất cao cho đến
khi đạt được trạng thái cân bằng (lãi suất hai nước bằng nhau). Sau đầu tư, cả hai
nước trên đều thu được lợi nhuận và làm cho sản lượng chung của thế giới tăng lên
so với trước khi đầu tư. Lý thuyết này được các nhà kinh tế thừa nhận những năm
1950. Nhưng sau đó, tình hình trở nên thiếu ổn định, tỷ suất đầu tư của Mỹ giảm đi
đến mức thấp hơn tỷ suất trong nước, nhưng FDI của Mỹ ra nước ngoài vẫn tăng
liên tục. Mô hình trên không giải thích được hiện tượng vì sao một số nước đồng
thời có dòng vốn chảy vào, có dòng vốn chảy ra; không đưa ra được sự giải thích
đầy đủ về FDI. Do vậy, lý thuyết lợi nhuận cận biên chỉ có thể được coi là bước
khởi đầu hữu hiệu để nghiên cứu FDI.
2.2. Lý thuyết chu kỳ sản phẩm (Vernon, 1966):
Lý thuyết chu kỳ sản phẩm do nhà kinh tế học Vernon đề xuất vào năm 1966. Theo
lý thuyết này thì bất kỳ một công nghệ sản phẩm mới nào đều tiến triển theo 3 giai
đoạn: (1) Giai đoạn phát minh và giới thiệu; (2) Giai đoạn phát triển qui trình và đi
tới chín muồi; (3) Giai đoạn chín muồi hay được tiêu chuẩn hoá. Trong mỗi giai
đoạn này các nền kinh tế khác nhau có lợi thế so sánh trong việc sản xuất những
thành phần khác nhau của sản phẩm. Quá trình phát triển kinh tế, nó được chuyển
dịch từ nền kinh tế này sang nền kinh tế khác.
2.3. Lý thuyết về quyền lực thị trường
Lý luận cho rằng FDI tồn tại do những hành vi đặc biệt của độc quyền nhóm trên
phạm vi quốc tế như phản ứng độc quyền nhóm, hiệu quả kinh tế bên trong do quy
mô sản xuất và sự liên kết đầu tư nước ngoài theo chiều rộng. Tất cả những hành vi
này đều nhằm hạn chế cạnh tranh mở rộng thị trường và ngăn không cho đối thủ
khác xâm nhập vào ngành.
FDI theo chiều dọc tồn tại khi các công ty xâm nhập vào nước khác và sản xuất các
sản phẩm trung gian, sau đó các sản phẩm này được xuất ngược trở lại và được sản
xuất với tư cách là đầu vào cho sản xuất của chủ nhà hay tiêu thụ những sản phẩm
đã hoàn thành cho những người tiêu thụ cuối cùng.
2.4. Những lý thuyết dựa trên sự không hoàn hảo của thị trường
2.4.1. Tổ chức công nghiệp (hay còn gọi là lý thuyết thị trường độc quyền):
Lý thuyết tổ chức công nghiệp do Stephen Hymer và Charles Kindleberger nêu ra.
Theo lý thuyết nay, sự phát triển và thành công của hình thức đầu tư liên kết theo
chiều dọc phụ thuộc vào 3 yếu tố: (1) quá trình liên kết theo chiều dọc các giai
đoạn khác nhau của hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm giảm bớt chi phí sản
xuất; (2) việc sản xuất và khai thác kỹ thuật mới; (3) cơ hội mở rộng hoạt động ra
đầu tư nước ngoài có thể tiến hành được do những tiến bộ trong ngành giao thông
và thông tin liên lạc. Chiến lược liên kết chiều dọc của các công ty đa quốc gia là
đặt các công đoạn sản xuất ở những vị trí khác nhau trên phạm vi toàn cầu, nhằm
tận dụng lợi thế so sánh ở các nền kinh tế khác nhau, hạ thấp giá thành sản phẩm
thông qua sản xuất hàng loạt và chuyên môn hoá, tăng khả năng cạnh tranh của
công ty trên thị trường. Cách tiếp cận của Hymer đã được các nhà kinh tế Graham
và Krugman sử dụng (1989) để giải thích cho sự tăng lên của FDI vào nước Mỹ
trong những năm gần đây ( khi mà họ đã đánh mất những lợi thế đã có cách đây 20
năm). Giả thuyết của tổ chức công nghiệp chưa phải là giả thuyết hoàn chỉnh về
FDI. Nó không trả lời được câu hỏi: vì sao công ty lại sử dụng hình thức FDI chứ
không phải là hình thức sản xuất trong nước rồi xuất khẩu sản phẩm hoặc hình thức
cấp giấy phép hoặc bán những kỹ năng đặc biệt của nó cho các công ty nước sở tại.
2.4.2. Giả thuyết nội hoá:
2.5. Lý thuyết chiết trung hay mô hình OLI:
Theo Dunning một công ty dự định tham gia vào các hoạt động FDI cần có 3 lợi
thế: (1) Lợi thế về sở hữu (Ownership advantages - viết tắt là lợi thế O - bao gồm
lợi thế về tài sản, lợi thế về tối thiểu hoá chi phí giao dịch); (2) Lợi thế về khu vực
(Locational advantages - viết tắt là lợi thế L - bao gồm: tài nguyên của đất nước,
qui mô và sự tăng trưởng của thị trường, sự phát triển chính sách của Chính phủ)
và (3) Lợi thế về nội hoá (Internalisation advantages - viết tắt là lợi thế I - bao
gồm: giảm chi phí ký kết, kiểm soát và thực hiện hợp đồng; tránh được sự thiếu
thông tin dẫn đến chi phí cao cho các công ty; tránh được chi phí thực hiện các bản
quyền phát minh, sáng chế). Theo lý thuyết chiết trung thì cả 3 điều kiện kể trên
đều phải được thoả mãn trước khi có FDI. Lý thuyết cho rằng: những nhân tố
“đẩy” bắt nguồn từ lợi thế O và I, còn lợi thế L tạo ra nhân tố “kéo” đối với FDI.
Những lợi thế này không cố định mà biến đổi theo thời gian, không gian và sự phát
triển nên luồng vào FDI ở từng nước, từng khu vực, từng thời kỳ khác nhau. Sự
khác nhau này còn bắt nguồn từ việc các nước này đang ở bước nào của quá trình
phát triển và được Dunning phát hiện vào năm 1979.
2.6. Lý thuyết về các bước phát triển của đầu tư (Investment Development Path IDP):
Theo lý thuyết này, quá trình phát triển của các nước được chia ra thành 5 giai
đoạn:
Giai đoạn 1: lợi thế L của một nước ít hấp dẫn, luồng vào FDI không đáng kể do
hạn chế của thị trường trong nước: thu nhập thấp, cơ sở hạ tầng lạc hậu, giáo dục
yếu kém, lao động không có kỹ năng… và hiếm khi thấy luồng ra FDI.
Giai đoạn 2: luồng vào của FDI bắt đầu tăng do lợi thế L đã hấp dẫn các nhà đầu
tư: sức mua trong nước bắt đầu tăng, cơ sở hạ tầng đã được cải thiện … FDI trong
bước này chủ yếu là đầu tư vào sản xuất để thay thế nhập khẩu và những ngành
khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc sản xuất ra nguyên vật liệu, sản phẩm sơ chế.
Luồng ra của FDI trong giai đoạn này không đáng kể.
Giai đoạn 3: luồng vào của FDI bắt đầu giảm và luồng ra lại bắt đầu tăng. Khả
năng kỹ thuật của nước sở tại đã tiến tới sản xuất sản phẩm được tiêu chuẩn hoá.
Mặt khác lợi thế về lao động giảm dần, nên phải chuyển đầu tư sang những nước
có lợi thế tương đương đối về lao động nhằm tìm kiếm thị trường hoặc giành
những tài sản chiến lược để bảo vệ lợi thế O. Trong giai đoạn này, luồng vào của
FDI tập trung vào những ngành thay thế nhập khẩu có hiệu quả.
Giai đoạn 4: lợi thế O của các công ty trong nước tăng lên. Những công nghệ sử
dụng nhiều lao động dần dần được thay thế bởi công nghệ sử dụng nhiều vốn. Mặt
khác chi phí vốn trở nên rẻ hơn chi phí lao động. Kết quả là, lợi thế L của đất nước
sẽ chuyển sang các tài sản. FDI từ các nước đang phát triển ở bước 4 sẽ vào nước
này để tìm kiếm những tài sản trên hoặc từ các nước kém phát triển hơn nhằm tìm
kiếm thị trường và đặt quan hệ thương mại. Trong bước này các công ty trong nước
vẫn thích thực hiện FDI ra nước ngoài hơn là xuất khẩu sản phẩm, bởi vì họ có thể
khai thác lợi thế I của mình. Do vậy, luồng vào và luồng ra của FDI vẫn tăng,
nhưng luồng ra sẽ nhanh hơn.
Giai đoạn 5: luồng ra và luồng vào của FDI tiếp tục và khối lượng tương tự nhau.
Luồng vào từ các nước có mức độ phát triển thấp hơn với mục đích tìm kiếm thị
trường và kiến thức; hoặc từ các nước đang phát triển ở bước 4 và 5 để tìm kiếm
sản xuất có hiệu quả. Do vậy luồng ra và luồng vào là tương tự.
II. Giải thích nguồn gốc đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
1. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ khi nào?
- Đầu tư nước ngoài không phải mới bắt đầu khi có Luật Đầu tư nước ngoài. Sau
thống nhất, nước ta đã có Điều lệ về đầu tư nước ngoài đầu tiên năm 1977. Nhưng
sau đó do cấm vận của Mỹ, chiến tranh Trung Quốc nên điều lệ ấy không thực hiện
được.
- Đến năm 1986 khi đất nước bắt đầu mở cửa. Đảng ta đã đặt vấn đề phải vừa đổi
mới trong nước, vừa mở cửa để hội nhập kinh tế quốc tế
- Luật đầu tư nước ngoài được thông qua vào tháng 12/1987 và là luật đầu tiên
trong quá trình đổi mới và hội nhập
- Từ năm 1988 đã bắt đầu có những dự án đầu tư nước ngoài đầu tiên. Tuy nhiên
đều là những dự án nhỏ
- Đến năm 90, dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng dần và trong thời gian từ năm 9097, vốn đầu tư tăng rất mạnh
Trong 7 năm này, vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư xã hội,
đóng góp 1/3 tốc độ tăng trưởng và đóng góp rất tích cực vào thu ngân sách, tạo
việc làm, xuất khẩu, cũng như phát triển một số ngành công nghiệp như xe máy, ô
tô, dầu khí, điện tử, may mặc, da giày…
2. Lý do xuất hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Lý thuyết về lợi nhuận cận biên giải thích cho sự cân bằng lãi suất giữa 2 nước
tuy nhiên không giải thích được vì sao một nước đồng thời có dòng vốn chảy vào,
có dòng vốn chảy ra
- Sự phát triển của các phương tiện giao thông liên lạc, kỹ thuật điện toán đã đạt tới
trình độ cho phép các chủ đầu tư có thể nắm bắt kịp thời và chuẩn xác các thông tin
cần thiết để có thể ra quyết định hợp lý, hạn chế các tổn thất và các rủi ro trong
kinh doanh. Lý thuyết chu kì của sản phẩm giải thích sự tập trung công nghiệp hóa
ở các nước phát triển đưa ra việc lý luận hợp nhất thương mại quốc tế và đầu tư
quốc tế giải thích sự gia tăng xuất khẩu hàng công nghiệp ở các nước công nghiệp
hóa. Tuy nhiên lý thuyết này chỉ quan trọng với việc giải thích FDI của các công ty
nhỏ
- Lý thuyết về quyền lực thị trường giải thích lý do:
+ Thứ nhất do nguồn cung cấp nguyên liệu ngày càng khan hiếm, trong khi các
công ty địa phương không đủ khả năng tham gia khai thác . Do vậy các nhà đầu tư
tranh thủ lợi thế cạnh tranh tên cơ sở khai thác nguyên liệu tại địa phương. Điều đó
giải thích FDI theo chiều dọc được thực hiện ở các nước phát triển
+ Thứ hai thông qua các liên kết FDI dọc các công ty độc quyền nhóm lập nên các
hàng rào không cho các công ty khác tiếp cận tới những nguồn nguyên liệu của
chung
+ Thứ ba FDI theo chiều dọc còn tạo ra lợi thế về chi phí thông qua việc cải tiến kĩ
thuật bằng cách phối hợp sản xuất và chuyển giao các sản phẩm giữa các công
đoạn khác nhau của quá trình sản xuất
+ Lý thuyết thị trường độc quyền giải thích sự tăng lên của FDI của một nước khi
mà họ đã đánh mất lợi thế
+ Giả thuyết nội hoa giải thích sự tồn tại của FDI như là kết quả của các công ty
thay thế các giao dịch thị trường bằng các giao dịch trong nội bộ công ty để tránh
sự không hoàn hảo của các thị trường
+ Mô hình OLI giải thích FDI theo trạng thái tĩnh
+ Lý thuyết về các bước phát triển đầu tư ( IDP) lại xem xét hiện tượng FDI trong
trạng thái động với sự thay đổi các lợi thế này trong từng bước phát triển. Do vậy,
lý thuyết này cùng với mô hình OLI là thích hợp nhất để giải thích hiện tượng FDI
trên toàn thế giới, tất nhiên trong đó có Việt Nam.
3. Việt Nam là 1 môi trường đầu tư hấp dẫn
- Thứ nhất, Việt Nam luôn là một quốc gia ổn định vững chắc về chính trị - xã hội.
Là một trong những nền kinh tế tăng trưởng năng động. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân của Việt Nam trong giai đoạn 1991-2010 đạt khoảng 7,5% và trong giai
đoạn 2011-2013 dù gặp rất nhiều khó khăn vẫn đạt 5,6%. Nhiều tổ chức quốc tế dự
báo GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng khả quan hơn trong giai đoạn 2014-2015 và
những năm tiếp theo.
- Thứ hai, Việt Nam đang ở thời kỳ cơ cấu dân số “vàng” với 60% người dân trong
độ tuổi lao động; có vị trí địa lý thuận lợi, nằm ở trung tâm của khu vực Đông Á,
nơi tập trung của nhiều nền kinh tế lớn và năng động. Việt Nam là nền kinh tế thị
trường, là thành viên WTO, đã và đang tham gia nhiều khuôn khổ liên kết kinh tế
quốc tế, trong đó có các FTA với các đối tác trong và ngoài khu vực, đặc biệt Việt
Nam đang tích cực tham gia đàm phán Hiệp định Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Đây là những lợi thế cơ bản luôn hấp dẫn các nhà đầu tư.
- Thứ ba, Chính phủ Việt Nam luôn cam kết và hành động nhằm tạo lập môi trường
đầu tư thông thoáng, thuận lợi và bình đẳng cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng
như không ngừng cải thiện khuôn khổ luật pháp và thể chế phục vụ cho các hoạt
động kinh doanh và đầu tư. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực triển khai
lộ trình tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trong đó có nỗ lực
mạnh mẽ để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia.
III. Thành tựu sau 30 năm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
- Năm 2017 là năm rất thành công, tăng trưởng kinh tế dật 6,81%, cao hơn mức dự
kiến của quốc hội là 6,7% cao nhất trong mấy năm gần đây
- Tổng kim ngạch xuất khẩu vượt 400 tỷ USD đứng vào hàng nước có tổng kim
ngạch xuất khẩu lớn nhất thế giới. từ một nước xuất khẩu kém nhất trong số các
nước ASEAN giờ đây chúng ta đang đứng thứ 2 thứ 3
- Nền kinh tế Việt Nam đã đạt được thành tựu rất rõ là đã hình thành một số cứ
điểm sản xuất hàng xuất khẩu như điện thoại thông minh, máy tính, linh kiện điện
tử, điện tử gia dụng. Những sản phẩm này chiếm tỷ trọng ngày càng tăng, khoảng
65 tỷ USD, tương đương hơn 30% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Dệt may trước
đây chiếm vị trí số 1 thì năm nay cũng chỉ đạt khoảng 31 tỷ USD, bằng một nửa
công nghiệp chế biến hiện đại
- Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam không chỉ chuyển giao công
nghệ thông qua các xí nghiệp mà họ còn đầu tư vào những trung tâm nghiên cứu
phát triển lớn như của Samsung, Panasonic, Bosch, Intel là những hãng công nghệ
rất lớn mà hàng ngàn cán bộ trẻ Việt Nam đã và đang làm việc trong các trung tâm
này.
IV. Chính sách thu hút FDI của Việt Nam
1.
Chính sách đất đai
– Khung giá cho thuê đất được quy định từ 0,375 USD/m2/năm đến 1,7
USD/m2/năm tuỳ theo nhóm đô thị.
– Riêng đất công nghiệp sử dụng đối với các dự án chế biến nông, lâm không đất
đô thị được hưởng giá thêu đất từ 150 USD/ha/năm đến 750 USD/ha/năm.
– Đối với đất tại các vùng không phải là đô thị giá thuê được qui định cụ thể như
sau:
+ Những vùng đá, đồi trọc, đất xấu khó sử dụng từ 30-50 USD/ha/năm
+ Các vùng đất khác từ 150 – 170 USD/ha/năm .
– Đối với mặt sông hồ, vịnh, mặt biển giá thuê có 2 mức:
+ Mặt nước sông, hồ, vịnh từ 75-525 USD/ha/năm.
+ Mặt biển từ 150- 600 USD/km2/năm. Trong trường hợp sử dụng không cố định
thì áp dụng mức giá từ 1500 USD đến 7500 USD. Mức giá thuê đất, mặt nước, mặt
biển nêu trên là mức giá áp dụng cho thực trạng diện tích đất cho thuê không bao
gồm chi phí đền bù, giải toả.
Mặc dù trong các văn bản nói trên đã cố gắng phân loại để xác định mức giá tiền
thuê khác nhau cho phù hợp với điều kiện địa điểm, loại đất, hạ tầng cơ sở nhưng
vẫn không tránh khỏi những bất hợp lý. Trong thực tế khi góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thuờng có những vướng
mắc sau:
+ Do Việt Nam chưa có quy định về tính giá trị nên trong một số trường hợp phần
góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng lại có quá lớn so với giá trị của khu đất làm
cho việc đàm phán kéo dài vì bên nước ngoài khó chấp nhận.
+ Trong một số trường hợp, khi đàm phán với nước ngoài, các đối tác Việt Nam đã
đưa ra mức giá cho thuê thấp để được bên nước ngoài chấp nhận. Nhưng khi thẩm
định dự án, họ lại được yêu cầu phải đàm phán để tăng giá thuê đất thì gặp khó
khăn, mất nhiều thời gian và cũng khó thuyết phục bên nước ngoài.
+ Một số dự án nhầm lẫn giữa việc góp vốn bằng giá trị nhà xưởng với việc góp
vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Một số dự án chỉ tính tiền thuê đất của diện
tích xây dựng nhưng không tính các diện tích khác như đường nội bộ, diện tích
trồng cây xanh…Đlà cách hiểu sai chế độ qui định.
Để tiếp tục tăng mức hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài, chính sách sử
dụng đất cho các dự án đầu tư nước ngoài đã được cải thiện. Luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam năm 1996 đã sửa đổi chính sách đất đai theo hướng khuyến
khích và rõ ràng hơn: Gía tiền thuê đất, mặt khác, mặt biến đổi với từng dự án
được giữ ổn định tối thiểu là 5 năm, khi điều chỉnh tăng thì mức tăng không vượt
quá 15% của mức qui định lần trước. Trong trường hợp doanh nghiêp có vốn đầu
tư nước ngoài, các bên hợp doanh đã trả tiền thuê đất cho cả đời dự án, nếu giá tiền
thuê có tăng trong thời hạn đó thì tiền thuê đã trả không bị điều chỉnh lại.
Do Việt Nam còn thiếu qui hoạch chi tiết để phục vụ cho việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài cho việc tạo ra các địa điểm ổn định thu hút vốn đầu tư nước ngoài có ý
nghĩa quan trọng.
Tuy nhiên chính sách đất đai áp dụng đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài vẫn còn
những vướng mắc nhất định:
+ Gía thuê đất của Việt Nam cao hơn so với nhiều nước trong khu vực. Nếu tính cả
chi phí đền bù, giải toả thì giá đất bị đẩy lên quá cao. Đây là yếu tố làm giảm sức
cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư. Thời điểm tính giá trị quyền sử dụng đất để góp
vốn vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa hợp lý.
+ Việc giao đất, nhất là các dự án có đền bù và giải toả kéo dài trong nhiều trường
hợp việc giải toả này kéo dài trong một số năm thậm chí có dự án kéo dài tới 5
năm. Thủ tục thuê đất, cấp đất, giá đền bù, giải phóng mặt bằng còn phức tạp gây
mất cơ hội và thời gian của các nhà đầu tư. Hiệu lực pháp luật của các qui định về
đất đai còn thấp. Luật đất đai mặc dù đã sửa đổi song thiếu những văn bản hướng
dẫn chi tiết.
+ Thiếu qui hoạch chi tiết cho việc thu hút FDI. Một số địa phương tự ý sử lý vấn
đề đất đai áp dụng đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
2. Chính sách lao động
Chính sách lao động có mục tiêu giải quyết việc làm, nâng cao tay nghề, kỹ năng
cho người lao động, nâng cao trình độ quản lý và cải thiện thu nhập cho người lao
động.
Trong thời gian qua số lượng người lao động làm việc trong các dự án có vốn đầu
tư nước ngoài khoảng 28 vạn người.
Số lao động của Việt Nam làm việc trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài phần
lớn là lao động trẻ, có khả năng thích ứng nhanh với yêu cầu công nghệ sản xuất
tiên tiến nhưng hạn chế lớn về thể lực, kinh nghiệm và tay nghề. Một số lao động
xuất thân từ nông thôn do đó kỷ luật chưa cao.Sự hiểu biết về pháp luật của người
lao động còn hạn chế. Nhiều người lao động trẻ tuổi thường không chấp nhận sự
đối xử thô bạo của giới chủ. Đây là mầm mống của những phản ứng lao động tập
thể.
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng các vụ tranh chấp lao động tập
thể trong các dự án đầu tư nước ngoài có xu hướng ra tăng qua các năm. Năm 1990
có 3 vụ, đến 1996 có 29 vụ, 3 tháng đầu năm 1997 có 10 vụ. Số vụ tranh chấp lao
động ra nhiều ở các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh
Đài Loan, Hàn Quốc.
Nguyên nhân dẫn tới các vụ tranh chấp đó là:
– Đối với người sử dụng lao động:
+ Nhiều giám đốc doanh nghiệp kể cả người được uỷ quyền điều hành không lám
vững những qui định của pháp luật lao động hoặc cố tình không tuân thủ những qui
định của pháp luật như kéo dài thời gian làm việc trong ngày…
+ Trù dập người lao động khi họ đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng, chấm dứt
hợp đồng tuỳ tiện hoặc sa thải người lao động trở lên căng thẳng.
+ Vi phạm các qui định về điều kiện làm việc điều kiện lao động và các tiêu chuẩn
và quy phạm về an toàn lao động, vệ sinh lao động có nguy cơ gây tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp…
+Một số cán bộ giúp việc cho các chủ doanh nghiệp nước ngoài nắm các quy định
của pháp luật không vững nên nhiều trường hợp dẫn đến những vi phạm pháp luật.
– Về phía người lao động:
+ Phần đông thiếu sự hiểu biết về các qui định của pháp luật lao động, chưa nắm
vững các chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của mình để tiến hành ký hộp đồng còn
mang tính hình thức, bị thiệt thòi, bị áp đặt dẫn đến mâu thuẫn phát sinh tranh
chấp.
+ Một số người lao động đòi hỏi vượt quá qui định pháp luật và do sự hạn chế về
ngoại ngữ nên có những bất đồng do không hiểu nhau dẫn đến mâu thuẫn.
Tuy nhiên chính sách lao động còn những hạn chế. Mặc dù đã giải quyết được
công ăn việc làm cho một lực lượng lao động nhất định, song mục tiêu nâng cao
tay nghề cho công nhân, nâng cao trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ còn nhiều
hạn chế.
3.
Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm
Trước năm 1996, chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn chủ yếu là thay
thế nhập khẩu. Do đó, chính sách về thị trường chủ yếu là thị trường trong nước.
Theo điều 3 của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 Nhà nước Việt
Nam khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào:
– Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế
hàng nhập khẩu.
-Sử dụng kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại, đầu tư theo chiều sâu, khai thác và tận
dụng các khả năng và nâng cao công suất của các cơ sở kinh tế hiện có.
– Sử dụng nhiều lao động, nguyên vật liệu và tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt
Nam.
- Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng.
– Dịch vụ thu tiền nước ngoài như dịch vụ du lịch, sửa chữa tàu, dịch vụ sân bay,
cảng khẩu khác.
Luật sửa đổi, bổ xung năm 1996 đã khuyến khích đầu tư với mục tiêu ưu tiên hàng
đầu là hàng xuất khẩu. Vì vậy, việc tiêu thụ sản phẩm ở các dự án có vốn đầu tư
nước ngoài đã có định hướng xuất khẩu. Năm 1996, xuất khẩu của khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài chiếm 11% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đến năm 1997 tỷ lệ này
đã tăng lên 17%và tỷ lệ này đang có xu hướng gia tăng.
Tuy nhiên, việc thúc đẩy xuất khẩu chỉ mới dừng lại ở tình trạng bên nước ngoài
bao tiêu sản phẩm, do đó bên Việt Nam không biết được bạn hàng nước ngoài, giá
cả, tình hình lơị nhuận thu được từ xuất khẩu. Đây là yếu tố gây thua thiệt cho bên
Việt Nam –một vấn đề đang đặt ra gay gắt hiện nay. Thêm vào đó, tỉ lệ hàng xuất
khẩu còn rất hạn chế.
4.
Chính sách công nghệ
Mục tiêu của chính sách công nghệ là thu hút công nghệ, máy móc, thiết bị hiện
đại của nước ngoài để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại háo đất
nước, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, thực hiện nội địa hoá
công nghệ để tăng năng lực nội sinh của công nghệ. Điều này được khẳng định
trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là thu hút công nghệ hiện đại để đầu tư
theo chiều sâu vào các cơ sở kinh tế hiện có hoặc thu hút công nghệ cao để sản
xuất hàng xuất khẩu.
Qua thẩm định các dự án cho thấy, nhiều dự án phát huy tác dụng tốt trong chuyển
giao công nghệ tiên tiến, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác dầu khí, viễn thông, các
nghành cơ khí nông nghiệp, máy móc công cụ, máy phục vụ nghành công nghiệp
nhẹ…
Tuy nhiên, công nghệ tiên tiến nhập vào chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu
cần thiết cả về số lượng, lẫn qui mô,chưa cân đối giữa các ngành kinh tế, nhất là ở
một số ngành then chốt có tác dụng tạo môi trường công nghệ cho công nghiệp
như cơ khí, năng lượng, hoá chất, giao thông… cũng như giữa các vùng. Nhìn
chung trong các liên doanh với nước ngoài, hàm lượng công nghệ thể hiện trong
giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn thấp, chỉ đạt 10% – 20%, trong khi chi
phí vật tư, nguyên liệu nhập từ nước ngoài vượt quá 70%. Mức độ hiện đại và tinh
vi của chính bản thân công nghệ còn thấp. Trừ một số ít dây chuyền công nghệ
nhập vào tương đối hiện đại, còn lại phần lớn ở trình độ thấp so với các nước trong
khu vực, thậm chí có cả công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ kỹ, gây ô nhiễm môi trường
sau đó phải xử lý. Ngoài ra, việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết công nghệ
còn kém.
B. LIÊN HỆ VỚI HONDA VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN VỀ HONDA VIỆT NAM
Được thành lập vào năm 1996, công ty Honda Việt Nam là liên doanh giữa Công
ty Honda Motor (Nhật Bản), Công ty Asian Honda Motor (Thái Lan) và Tổng
Công ty Máy Động Lực và Máy Nông nghiệp Việt Nam với 2 ngành sản phẩm
chính: xe máy và xe ô tô. Sau hơn 20 năm có mặt tại Việt Nam, Honda Việt Nam
đã không ngừng phát triển và trở thành một trong những công ty dẫn đầu trong lĩnh
vực sản xuất xe gắn máy và nhà sản xuất ô tô uy tín tại thị trường Việt Nam.
Với hơn 10000 công nhân viên, Honda Việt Nam tự hào mang đến cho khách hàng
những sản phẩm chất lượng cao, dịch vụ tận tâm và những đóng góp vì một xã hội
giao thông lành mạnh. Với khẩu hiệu ‘Sức mạnh của những ước mơ”, Honda mong
muốn được chia sẻ và cùng mọi người thực hiện ước mơ thông qua việc tạo thêm
nhiều niềm vui mới cho người dân và xã hội
-
Honda đã có mặt tại Việt Nam hơn 20 năm(1996-2018) với 10208 nhân
viên, 3 nhà máy sản xuất xe máy( 2,5 triệu xe/ năm) và 10000 ô tô/ năm
-
Honda xe máy: Công ty liên tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của thị trường nơi xe máy
chiếm gần 90% phương tiện đi lại tại các thành phố lớn. Tính đến nay
Honda Việt Nam đã có tổng cộng 6 nhà máy sản xuất và lắp ráp xe máy
và phụ tùng xe máy
-
Honda ô tô: Tính đến nay đã cung cấp cho thị trường Việt Nam 3 dòng xe
phục vụ cho các nhu cầu sử dụng đa dạng của khách hàng: dòng
sedan( cỡ lớn, cỡ vừa và cỡ nhỏ), dòng SUV và dòng MPV
II. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA HONDA VIỆT NAM
Sau hơn 20 năm có mặt ở Việt Nam, tổng số vốn đầu tư của Honda vào Việt Nam
đạt khoảng 530 triệu đô la là minh chứng rõ ràng nhất cho sự phát triển thịnh
vượng cũng như cam kết đầu tư nghiêm túc vào thị trường Việt Nam. Với sự phát
triển lớn mạnh trong hoạt động sản xuất và kinh doanh, HVN tự hào đóng góp hơn
40.000 tỷ đồng tiền thuế cho Ngân sách Nhà Nước tính đến hết năm 2015. Honda
Việt Nam cũng đã tạo ra công việc cho hàng chục nghìn lao động làm việc tại
Công ty và các công ty vệ tinh cũng như hệ thống Cửa hàng Bán xe và Dịch vụ do
Honda Ủy nhiệm (HEAD) và đại lý Honda Ô tô trên toàn quốc.
1. Hoạt động sản xuất và kinh doanh xe máy
1.1. Hoạt động sản xuất
Sau hơn 20 năm có mặt tại Việt Nam, HVN không ngừng tăng cường, đẩy mạnh
sản xuất nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu người tiêu dùng. Hiện tại, HVN có 03 nhà
máy xe máy đang hoạt động với tổng công suất thiết kế 2,5 triệu xe/năm. Bên cạnh
đó, Honda còn đầu tư xây dựng các nhà máy phụ trợ và kho phụ tùng nhằm hỗ trợ
cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu.
+ Nhà máy:
1 – Nhà máy xe máy thứ nhất: Bắt đầu sản xuất xe máy từ năm 1997, HVN đã liên
tục đầu tư trang thiết bị, công nghệ tối tân nhất của Honda vào việc sản xuất các
mẫu xe máy tại thị trường Việt Nam. Tại nhà máy xe máy thứ nhất, tháng 11 năm
2006 tại Vĩnh Phúc, Công ty đã đồng bộ hiện đại hóa, nâng cấp và đưa vào nhiều
loại máy móc mới đáp ứng cho việc tăng công suất sản xuất từ 800.000 xe /năm
lên 1 triệu xe/năm. Nhà máy xe máy thứ nhất chuyên sản xuất xe số.
2 – Nhà máy xe máy thứ hai: Đi vào hoạt động từ năm 2008 tại tỉnh Vĩnh Phúc và
được mở rộng vào năm 2010, chuyên sản xuất xe ga và xe số cao cấp, với công
suất hiện tại là 1 triệu xe/năm. Đây là nhà máy hiện đại, được thiết kế thân thiện
với con người và môi trường dựa vào sự kết hợp của 3 yếu tố Ánh sáng – Gió –
Nước.
3 – Nhà máy xe máy thứ ba: Khánh thành vào tháng 11 năm 2014 tại tỉnh Hà Nam,
nhà máy xe máy thứ ba được thiết kế hướng tới mục tiêu thân thiện với môi trường
và con người. Với việc mở rộng nhà máy thứ 3 này, HVN tăng năng lực sản xuất
thêm 500.000 xe/năm, đáp ứng nhu cầu đang tăng trưởng một cách mạnh mẽ của
thị trường xe máy Việt Nam, đưa HVN trở thành một trong những nhà máy sản
xuất xe máy lớn nhất tại khu vực.
4 – Nhà máy phụ trợ và trung tâm phụ tùng: Bên cạnh những nhà máy sản xuất
chính, HVN Nam cũng không ngừng mở rộng cơ sở vật chất phục vụ sản xuất. Bên
cạnh phân xưởng đúc đi vào hoạt động từ năm 2001, trong năm 2013, HVN cũng
đã đưa phân xưởng bánh răng và trung tâm phụ tùng vào hoạt động, và gần đây
nhất là vào tháng 4 năm 2014, phân xưởng piston có công suất lớn nhất trong tập
đoàn Honda đã được đưa vào hoạt động tại nhà máy HVN tại Vĩnh Phúc. Việc
củng cố năng lực nội tại này nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước, nâng cao
tỷ lệ nội địa hóa lên mức bình quân trên 96% và phục vụ cho việc mở rộng xuất
khẩu. Tất cả các trung tâm này đều được đặt tại Vĩnh Phúc.
+ Công nghệ tiên tiến – Thân thiện với Con người và Môi trường:
Trong thời gian có mặt tại Việt Nam, HVN đã liên tục đầu tư trang thiết bị, công
nghệ tối tân nhất vào việc sản xuất các mẫu xe máy tại thị trường Việt Nam. Tại
các nhà máy sản xuất, máy móc được đồng bộ hiện đại hóa, và thường xuyên nâng
cấp nhằm đảm bảo nhà máy của HVN luôn sử dụng những dây chuyền sản xuất
tiên tiến nhất của Honda toàn cầu. Hơn nữa, những công nghệ được áp dụng cho
dây chuyền sản xuất tại nhà máy và cho các sản phẩm xe máy của Honda đều
hướng đến yếu tố thân thiện với môi trường và con người. Bên cạnh đó, các nhà
máy sản xuất của Honda đều được thiết kế nhằm tạo cho con người một môi
trường làm việc thoáng mát và sạch sẽ, đồng thời toàn bộ quy trình sản xuất luôn
đảm bảo đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về môi trường khắt khe nhất Việt Nam.
1.2. Hoạt động kinh doanh
Sau hơn 20 năm hoạt động, HVN đã đưa gần 20 triệu xe máy đến với người tiêu
dùng Việt Nam. Tính đến tháng 12/2015, thị phần của HVN đạt 71% trong 5 công
ty FDI. Thành tựu trên là kết quả của quá trình phấn đấu không ngừng nghỉ nhằm
đa dạng hóa sản phẩm cũng như ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ.
+ Sản phẩm: Mẫu xe đầu tiên HVN giới thiệu ra thị trường Việt Nam là Super
Dream vào tháng 12 năm 1997. Hiện HVN đang sản xuất, nhập khẩu để phân phối
ra thị trường 15 mẫu xe bao gồm xe ga, xe số và xe côn tay ra thị trường, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của người sử dụng. Trong đó, rất nhiều mẫu xe của HVN
trở thành mẫu xe bán chạy nhất thị trường như Air Blade với 2,8 triệu xe (tính đến
tháng 12/2015) hay Wave Alpha với 3,9 triệu xe (tính đến tháng 12/2015). Các sản
phẩm của HVN giới thiệu ra thị trường đều được đánh giá cao với thiết kế thời
trang, công nghệ tiên tiến, vận hành mạnh mẽ và đặc biệt là luôn hướng đến sự tiện
ích của khách hàng.
+ Công nghệ: HVN luôn được đánh giá là dẫn đầu về công nghệ áp dụng trên xe
máy. Công nghệ tiên tiến và thân thiện với môi trường là tiêu chí của Honda áp
dụng cho các sản phẩm Honda trên toàn thế giới. HVN luôn áp dụng các công
nghệ tiên tiến nhất của Honda toàn cầu trong việc chế tạo sản phẩm xe máy nhằm
đem lại các giá trị cao nhất cho khách hàng. Tất cả các sản phẩm xe máy của Công
ty đều đạt tiêu chuẩn Euro 2 về khí thải. Một số sản phẩm nhờ cải tiến về công
nghệ đã đáp ứng tiêu chuẩn Euro 3.
+ Dịch vụ và hệ thống HEAD: HVN cam kết cung cấp dịch vụ tốt nhất đến từng
khách hàng thông qua hệ thống gần 700 HEAD trên toàn quốc. Mỗi HEAD là một
trung tâm cung cấp sản phẩm và bảo hành, bảo dưỡng theo đúng tiêu chuẩn của
Honda toàn cầu với trang thiết bị hiện đại và đội ngũ tư vấn, kỹ thuật viên được
đào tạo bài bản. Đặc biệt, Honda Việt Nam vừa áp dụng nâng chế độ bảo hành lên
3 năm hoặc 30.000 km cho một số dòng sản phẩm và cam kết từng bước sẽ áp
dụng chế độ bảo hành mới này cho toàn bộ sản phẩm trong thời gian tới.
Với hệ thống HEAD rộng khắp, HVN đã mang sản phẩm và dịch vụ sau bán hàng
chất lượng cao đến gần hơn với khách hàng toàn quốc. Tất cả các HEAD của HVN
đều đáp ứng tiêu chuẩn 4S bao gồm: Bán hàng, Dịch vụ, Phụ tùng và Lái xe An
toàn.
+ Xuất khẩu: HVN bắt đầu xuất khẩu linh kiện phụ tùng xe máy từ năm 2002 và
xe máy nguyên chiếc từ năm 2012. Tính đến 12/2015, đã có gần 225.000 xe máy
được xuất khẩu đi các nước trên thế giới với tổng giá trị đạt hơn 320 triệu đô la.
Với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành trung tâm xuất khẩu xe máy của Honda trên
toàn cầu, HVN đã và đang tạo nền móng vững chắc cho hoạt động này bằng việc
củng cố hoạt động sản xuất bằng việc nâng cao sản lượng và xây dựng các nhà
máy phụ trợ.
2. Hoạt động sản xuất và kinh doanh ô tô
2.1. Hoạt động sản xuất
Tháng 3 năm 2005, HVN chính thức nhận được giấy phép của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư cho phép sản xuất lắp ráp ô tô tại Việt Nam. Đây là một mốc lịch sử quan
trọng đánh dấu sự phát triển của Công ty. Chỉ sau hơn 1 năm, HVN đã xây dựng
thành công nhà máy, và mạng lưới đại lý, tổ chức các chương trình đào tạo bán
hàng, dịch vụ, lái xe an toàn cho nhân viên các đại lý.
Nhà máy sản xuất Ô tô được trang bị máy móc và thiết bị theo tiêu chuẩn xây dựng
nhà máy ô tô Honda toàn cầu, với tiêu chí đặc biệt coi trọng chất lượng, an toàn và
thân thiện với môi trường. Tại đây, HVN đã áp dụng những công nghệ và kỹ thuật
tiên tiến nhất, mọi công đoạn sản xuất đều phải qua những bước kiểm tra chất
lượng nghiêm ngặt, sử dụng những thiết bị thử nghiệm tiên tiến để đảm bảo tất cả
xe xuất xưởng đều đạt tiêu chuẩn chất lượng Honda toàn cầu, có tính đột phá trong
công nghệ, đỉnh cao về chất lượng và vượt trội về tính năng an toàn.
Mẫu xe đầu tiên là Honda Civic đã chính thức được ra mắt vào tháng 8 năm 2006.
Với mục tiêu đa dạng hóa sản phẩm, HVN tiếp tục cho ra mắt mẫu xe thể thao đa
dụng CR-V vào tháng 12 năm 2008 và mẫu xe sedan cỡ nhỏ Honda City vào tháng
6 năm 2013.
Với những nỗ lực không ngừng, HVN không chỉ được biết đến là nhà sản xuất xe
máy danh tiếng mà còn là nhà sản xuất ô tô uy tín tại thị trường Việt Nam.
2.2. Hoạt động kinh doanh
+ Công nghệ: Tất cả các sản phẩm của HVNđều sở hữu hàng loạt các công nghệ
tiên tiến và an toàn vượt trội, mang lại những giá trị vượt trên sự mong đợi của
khách hàng, điển hình có thể kể tới:
•
•
•
Công nghệ truyền động đột phá EARTH DREAMS TECHNOLOGY
Hệ thống hỗ trợ lái xe tiết kiệm nhiên liệu ECO Assist
Tiết kiệm nhiên liệu và an toàn vượt trội: Các dòng xe của Honda không chỉ
sở hữu thế mạnh về khả năng tối ưu hóa lượng tiêu thụ nhiên liệu mà còn có
mức an toàn vượt trội.
+ Hệ thống đại lý: Với hệ thống bao gồm 14 đại lý đạt tiêu chuẩn 5S trên toàn
quốc, doanh số cộng dồn của Honda Ô tô Việt Nam sau 10 năm hoạt động đã đạt
gần 44.000 xe các loại. Đặc biệt, tất cả các Đại lý đều đạt tiêu chuẩn 5S chặt chẽ
của Honda Việt Nam, bao gồm: bán hàng (Sales), bảo hành bảo dưỡng (Service),
cung cấp phụ tùng Honda chính hiệu (Spare-parts), hướng dẫn lái xe an toàn
(Safety Driving) và hoạt động đóng góp xã hội (Social Contributions). Thông qua
hệ thống Đại lý ngày càng vững mạnh, HVN cam kết không ngừng nỗ lực cung
cấp cho khách hàng những sản phẩm và dịch vụ hậu mãi với chất lượng cao nhất.
+ Thành tựu: Không ngừng nỗ lực vươn tới những giá trị mới, Honda Ô tô Việt
Nam trong 3 năm liên tiếp gần đây đã tạo nên hàng loạt cột mốc kỷ lục về doanh số
bán theo năm. Ngoài ra, rất nhiều năm trong hành trình 10 năm hoạt động tại thị
trường Việt Nam, Honda Ô tô Việt Nam đã vinh dự dẫn đầu hoặc lọt vào top dẫn
đầu về chỉ số hài lòng dành cho Dịch vụ bán hàng (SSI) và Dịch vụ sau bán hàng
(CSI) theo khảo sát của tổ chức J.D. Power Asia Pacific, thể hiện quyết tâm tăng
cường chất lượng dịch vụ nhằm thỏa mãn khách hàng ở mức độ cao nhất. Đây
cũng chính là phần thưởng cho những nỗ lực không ngừng của Honda Việt Nam
nhằm đem đến thêm nhiều niềm vui và sự hài lòng cho khách hàng khi đồng hành
cùng các sản phẩm mang thương hiệu Honda. HVN sẽ tiếp tục phấn đấu đa dạng
hóa sản phẩm, mở rộng mạng lưới Đại lý và cung cấp dịch vụ với chất lượng tốt
nhất nhằm vươn tới những giá trị mới để thỏa mãn và xứng đáng với sự tin yêu,
ủng hộ của khách hàng Việt Nam trong suốt những năm qua.
III.
Hiệu quả sử dụng vốn FDI của Honda Việt Nam
Honda Việt Nam có vốn điều lệ là 62,9 triệu USD. Trong quá trình hoạt động ở
Việt Nam, Honda công bố đã đầu tư hơn 290 triệu USD cho nhà máy thứ 1; tiếp đó
đầu tư 65 triệu USD cho nhà máy thứ 2 và 120 triệu USD xây dựng nhà máy thứ 3
cùng khoảng 60 triệu USD cho nhà máy ô tô. Không khó để nhận thấy, những mức
lợi nhuận lớn mà Honda Việt Nam thu được trong chỉ 3 năm gần đây đã bỏ rất xa
số tiền mà doanh nghiệp này đầu tư tại Việt Nam.
•
•
•
•
IV.
Công ty có hệ thống quản lý chi phí nội bộ tương đối tốt. Giống như các
Công ty Nhật Bản khác, hệ thống lập kế hoạch được hết sức chú trọng. Mọi
hoạt động, dù lớn hay nhỏ, đều được lên chương trình từ đầu mỗi năm. Do
đó, kết quả hoạt động kinh doanh đều không khác so với dự kiến ban đầu.
Công ty thiết lập nên hệ thống đặt hàng và mua hàng hết sức chi tiết, quản lý
theo tùng hạng mục mua sắm cũng như kế hoạch cho hạng mục đó. Nếu số
tiền đề nghị vượt quá số kế hoạch, máy tính sẽ tự động thông báo cho người
quản lý chi phí và đơn hàng đó sẽ bị loại bỏ. Mỗi tháng, phòng Tài chínhKế toán sẽ phát hành bản so sánh giữa chi phí thực tế với kế hoạch và trưởng
bộ phận có trách nhiệm giải trình những khác biệt đáng chú ý. Do vậy các
khoản chi phí bất hợp lý hay sai mục đích đều được chấn chỉnh ngay để
tránh những sai sót cơ bản tiếp diễn trong thời gian dài.
Do có những mối quan hệ rộng rãi cùng tiềm lực tài chính dồi dào, Công ty
đã mạnh dạn áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật công nghệ mới nhất vào
công việc. Những công nghệ này, một mặt đòi hỏi vốn đầu tư cũng như trình
độ điều hành, nhưng mặt khác sẽ đem đến hiệu quả rất cao khi chúng được
áp dụng một cách hợp lý.
Khi cân nhắc đến giá trị tài sản cố định cũng như các thiết bị văn phòng
khác, chúng ta dường như thấy các thiết bị tại công ty HVN được mua với
giá cao, điều này kéo theo chi phí khấu hao cũng tăng lên. Tuy nhiên, sự trả
giá cao này đem lại nhiều tiện ích. Nó làm cho chất lượng sản phẩm được
duy trì, công việc văn phòng đảm bảo được hiệu suất. Dựa vào đó mà nâng
cao sức cạnh tranh của công ty trên thị trường.
NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐỐI VỚI HONDA VIỆT
NAM
1. Chính sách thuế
• Các chính sách thuế liên quan đến doanh nghiệp FDI ở Việt Nam phần lớn là
tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN), xoá bỏ sự
phân biệt đối xử giữa ĐTNN và đầu tư trong nước, góp phần tạo lập cơ sở
pháp lý đáp ứng điều kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và các văn bản hướng dẫn đã áp
•
dụng mức thuế suất thuế TNDN và mức ưu đãi miễn thuế, giảm thuế thống
nhất cho tất cả các loại hình doanh nghiệp (DN); bãi bỏ các quy định về thuế
TNDN bổ sung và thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Điều này thể hiện
quan điểm nhất quán của Việt Nam trong việc khuyến khích đầu tư của các
DN có vốn ĐTNN.
So với một số nước láng giềng, có thứ hạng cao hơn về mức độ thuận lợi
trong kinh doanh (trừ Thái Lan) thì Việt Nam có mức thuế TNDN thấp hơn.
Từ sau năm 2010, Trung Quốc cũng áp dụng mức thuế TNDN là 25% như
Việt Nam.
2. Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng và đất đai
Tổng diện tích các nhà máy của Honda tại Việt Nam vào khoảng 600.000 m2.
Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng và đất đai tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp
ĐTNN trên các phương diện sau:
•
•
Những chính sách phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đã làm giảm đáng kể
chi phí hậu cần, viễn thông, đang gần ngang bằng với chi phí của nhiều nước
trong khu vực.
Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành đã từng bước xóa bỏ bất
bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài về tiếp cận
đất đai, nghĩa vụ tài chính khi trả tiền thuê đất, quyền và nghĩa vụ trong quá
trình sử dụng đất đai, ưu đãi trong đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính đất
đai, các chính sách bồi thường hỗ trợ và tái định cư. Những quy định trong
Luật Đất đai đã tạo điều kiện tối đa cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các
dự án đầu tư tại Việt Nam được nhận quyền sử dụng đất dưới hình thức thuê
đất trả tiền thuê hàng năm hoặc trả tiền thuê đất một lần, miễn tiền thuê đất,
sử dụng bất động sản khi mua nhà tại Việt Nam, cải cách các thủ tục về đất
đai.
3. Chính sách lao động
Hệ thống chính sách liên quan đến lao động ở Việt Nam hiện nay đã tương đối
hoàn thiện, góp phần giúp các doanh nghiệp FDI sử dụng hiệu quả đội ngũ lao
động đang có chi phí thấp ở Việt Nam. Cùng với đó, chiến lược đào tạo nguồn
nhân lực ở Việt Nam đang có những nỗ lực vượt bậc để đáp ứng những nhu cầu
ngày càng cao về nguồn nhân lực trong thời đại công nghiệp hóa.
Nhìn chung, các chính sách của Việt Nam đối với các doanh nghiệp FDI đều mang
tính chất ưu tiên và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn FDI vào
Việt Nam, và Honda Việt Nam cũng không phải là trường hợp ngoại lệ.
V.
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA HONDA VIỆT NAM
1.
Những đóng góp xã hội
Honda Việt Nam được biết đến là một doanh nghiệp tích cực trong các hoạt
động lái xe an toàn và hỗ trợ cộng đồng.
Ý thức rõ vai trò và trách nhiệm của một nhà sản xuất kinh doanh các phương tiện
giao thông, Honda Việt Nam luôn coi lái xe an toàn là một trong những hoạt động
ưu tiên hàng đầu, góp phần xây dựng một xã hội giao thông an toàn. Chuỗi hoạt
động đào tạo lái xe an toàn được tổ chức bài bản, chuyên nghiệp và sâu rộng,
hướng tới đa dạng các đối tượng khách hàng từ các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp
đến các cá nhân thuộc mọi tầng lớp. Đến nay đã có gần 6 triệu người trên khắp mọi
miền đất nước được Honda Việt Nam trực tiếp tuyên truyền về an toàn giao thông
và đào tạo các kĩ năng lái xe an toàn, chưa kể đến hàng triệu lượt người dân được
tuyên truyền gián tiếp qua chương trình Tôi yêu Việt Nam phát sóng trên truyền
hình. Với mong muốn trở thành công ty được xã hội mong đợi, Honda Việt Nam
cũng luôn đồng hành cùng thế hệ trẻ Việt Nam với những chương trình hướng tới
giáo dục như Cuộc thi “Ý tưởng trẻ thơ” dành cho học sinh cấp 1 hay Giải thưởng
Honda Y-E-S dành cho những sinh viên và nhà khoa học trẻ xuất sắc trong lĩnh vực
khoa học công nghệ và kỹ thuật.
Bên cạnh đó, bảo vệ môi trường cũng được Honda Việt Nam coi là trách nhiệm cốt
lõi và lâu dài để tồn tại và phát triển bền vững. Với khẩu hiệu “Cùng Honda gìn
giữ màu xanh Việt Nam”, hai dự án trồng rừng tại Hòa Bình (2008-2025) và Bắc
Kạn (2013-2023) của Honda cũng góp phần cải tạo đất trống đồi trọc, giảm phát
thải CO2 ra môi trường và cải thiện đời sống người dân.
Ngoài ra, cũng không thể không nhắc đến những đóng góp và hỗ trợ vật chất
không nhỏ mà doanh nghiệp FDI này mang đến cho người dân Việt Nam từ khi có
mặt tại thị trường này, đó là tài trợ hàng chục tỷ đồng cho các hoạt động xây dựng
thư viện đạt chuẩn Quốc gia , trang bị xe cho cảnh sát giao thông, ủng hộ đồng bào
lũ lụt, trao tặng xe lăn cho trẻ em khuyết tật, ủng hộ quỹ từ thiện dành cho hoạt
động lọc máu, ghép tạng của Viện Nhi Trung ương, trao tặng bộ dụng cụ và máy
phẫu thuật tim dành cho trẻ em, hay hỗ trợ các gia đình chính sách,…
Phấn đấu trở thành Công ty được Xã hội mong đợi luôn luôn là mục tiêu lâu dài
của Honda trong quá trình hoạt động tại Việt Nam. HVN hy vọng những thành tích
và đóng góp của mình trong vòng 20 năm hoạt động sẽ phần nào minh chứng cho
những cam kết phát triển bền vững, lâu dài đối với thị trường Việt Nam.
2.
Đóng góp vào nền kinh tế
Trong 20 năm có mặt tại Việt Nam, tổng số vốn đầu tư của Honda đã đạt khoảng
530 triệu USD và tính đến nay, Tập đoàn này đã đóng góp khoảng hơn 40 nghìn tỷ
đồng tiền thuế cho ngân sách và tạo việc làm cho khoảng 10 nghìn nhân viên.
Sự có mặt của Honda đã góp phần thúc đẩy sự phát triển công nghiệp phụ trợ và
đội ngũ nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam, thay đổi vị thế của Việt Nam ở thị
trường xuất khẩu.
Khu vực doanh nghiệp FDI đã và đang có những đóng góp ngày càng quan trọng
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Những đóng góp này được thể hiện
qua những con số cụ thể như tỷ trọng vốn FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội
luôn chiếm khoảng 25%, đóng góp trên 20% vào GDP.
Đây cũng là khu vực nộp ngân sách chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu ngân sách,
chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng tăng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam với tỷ lệ khoảng 70%. Bên cạnh những đóng góp lượng hóa được thì khu vực
FDI còn có tác động lan tỏa đến các khu vực khác của nền kinh tế, khơi dậy nguồn
lực đầu tư trong nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải cách DN nhà nước, đổi mới
thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, thúc đẩy hội nhập kinh tế
quốc tế.