Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN một số biện pháp chỉ đạo giáo viên lồng ghép nội dung chuyên đề giáo dục kỹ năng sống vào chương trình CSGD trẻ trong trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.9 KB, 30 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên lồng ghép nội
dung chuyên đề giáo dục kỹ năng sống vào chương trình chăm sóc giáo dục
trẻ trong trường mầm non.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Quản lý.
3. Tác giả:
Họ và tên:

Phan Thị Liên

Nữ

Ngày /tháng/năm sinh: 13/09/1984
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm mầm non.
Chức vụ, đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng – Trường mầm non Nhân Huệ
Thị xã Chí Linh – Tỉnh Hải Dương.
Điện thoại: 0904206950
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Phan Thị Liên
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu : Trường mầm non Nhân Huệ
Địa chỉ: Xã Nhân Huệ – Thị xã Chí Linh – Tỉnh Hải Dương.
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên giảng dạy các nhóm lớp phải có trình độ chuyên môn chuẩn,
yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề.
7.Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ tháng 9/2016 đến tháng
2/2017.
HỌ TÊN TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Phan Thị Liên


XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT

1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Thực hiện chương trình Giáo dục mầm non được ban hành kèm theo
thông tư số 17/2009/TT- BGD&ĐT ngày 25/7/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã đưa ra mục tiêu chung đó là: “ Mục tiêu của giáo dục mầm non là
giúp trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ thẩm mỹ, hình
thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 hình
thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất
mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi
dậy và phát triển tối đa những khả năng tiểm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các
cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời”. Như vậy có thể thấy giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng đối với việc nâng cao
chất lượng chăm sóc giáo dục (CSGD) trẻ mầm non. Vì thế tôi lựa chọn nghiên
cứu và thực hiện sáng kiến để giúp giáo viên dễ dàng hơn trong việc đưa nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào chương trình CSGD trẻ. Biết lồng ghép
tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các chủ đề, các hoạt động
trong ngày, linh hoạt sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng
sống. Trang bị cho trẻ mầm non những kỹ năng cần thiết cơ bản ở lứa tuổi đầu
đời.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
Sáng kiến được áp dụng trong trường mầm non nơi tôi công tác. Giáo
viên trực tiếp giảng dạy ở các nhóm lớp có trình độ chuyên môn chuẩn trở lên.
Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 9/ 2016 đến tháng 2/ 2017.
Sáng kiến áp dụng trong công tác quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho đội
ngũ giáo viên ở các trường Mầm non.

3. Nội dung sáng kiến.
Trong nội dung sáng kiến của mình, tôi đã chỉ ra được thực trạng còn tồn
tại, hạn chế của nhà trường, của giáo viên và của trẻ về vấn đề lồng ghép nội
dung tích hợp giáo dục kỹ năng sống, từ đó đưa ra tầm quan trọng và tính cấp
thiết của sáng kiến, trên cơ sở đó tôi đã xây dựng và áp dụng 7 biện pháp sau:
Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo giáo viên thực hiện lồng ghép
nội dung chuyên đề giáo dục kỹ năng sống vào chương trình CSGD.
2


Biện pháp 2: Tổ chức hội thảo, chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Biện pháp 3: Chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác tuyên truyền phối hợp
với phụ huynh học sinh trong việc lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ .
Biện pháp 4: Chỉ đạo lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ vào các chủ đề.
Biện pháp 5: Chỉ đạo giáo viên lồng ghép nội dung chuyên đề giáo dục
kỹ năng sống thông qua các hoạt động trong ngày.
Biện pháp 6: Đẩy mạnh công tác kiểm tra đánh giá việc thực hiện lồng
ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
+ Tính mới tính sáng tạo của sáng kiến:
Trong các biện pháp chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích hợp nội dung
chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi đưa ra và đã áp dụng tại đơn vị rất
cụ thể, chi tiết, dễ thực hiện lại có thể phù hợp với tất cả các trường mầm non.
Việc áp dụng các biện pháp của sáng kiến đã giúp giáo viên hiểu đúng và đầy đủ
về các kỹ năng sống cần thiết để dạy trẻ phù hợp với tâm sinh lý của lứa tuổi.
Củng cố tốt mối quan hệ cùng phối hợp với các bậc phụ huynh trong việc phối
hợp CSGD trẻ. Phụ huynh đã hiểu đúng và đầy đủ về nội dung và phương pháp
dạy kỹ năng sống hàng ngày cho con em mình. Từ đó đã đem lại kết quả cho trẻ,
trẻ đã có những kỹ năng sống cần thiết như có kỹ năng tự phục vụ bản thân, trẻ

giao tiếp mạnh dạn tự tin hơn, biết xử lý các tình huống diễn ra và dần dần tạo
được hành vi văn minh lịch sự phù hợp với chuẩn mực văn hóa xã hội.
Trong các biện pháp mà tôi đã sử dụng khi thực hiện đề tài đều có mối
quan hệ hỗ trợ lẫn nhau. Biện pháp này bổ sung hỗ trợ và là cầu nối tiếp theo
cho biện pháp khác. Vì vậy, trong công tác chỉ đạo tôi đã quan tâm thực hiện tốt
tất cả các biện pháp và đã nâng cao hiệu quả chất lượng chỉ đạo giáo viên lồng
ghép chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong nhà trường.
+ Khả năng ứng dụng của sáng kiến: Sáng kiến không chỉ được áp
dụng ở trường tôi - một trường xa trung tâm thị xã mà còn có thể phù hợp để áp
dụng được trong các trường mầm non.

3


+ Lợi ích của sáng kiến.
- Giúp giáo viên nắm được nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là
gì?. từ đó có hiểu biết về các kỹ năng cần thiết để dạy trẻ và biết cách xây dựng
lồng ghép, tích hợp các nội dung đó vào các chủ đề, các hoạt động học, các thời
điểm trong ngày…. Đồng thời biết cách tuyên truyền phối hợp với phụ huynh trẻ
để cùng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để đạt được mục tiêu giáo dục trẻ một
cách toàn diện.
- Giúp hình thành cho trẻ những nề nếp, thói quen, những hành vi văn
minh lịch sự trong nề nếp chào hỏi, trong ăn uống, trong các hoạt động trong
ngày, trong các hoạt động tập thể nơi công cộng. Đặc biệt giúp trẻ nhanh nhẹn
xử lý các tình huống trong ngày. Trẻ biết phòng và tránh nơi gây ra nguy hiểm
đối với bản thân.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến.
Các biện pháp mà tôi đưa ra trong sáng kiến và được áp dụng tại trường
đã giúp cho giáo viên chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong việc xây dựng kế
hoạch, tổ chức các hoạt động có lồng ghép tích hợp nội dung chuyên đề giáo

dục kỹ năng sống cho trẻ vào chương trình CSGD. Trẻ nhanh nhẹn hoạt bát và
biết cách xử lý các tình huống hàng ngày. Trẻ mạnh dạn tự tin trong giao tiếp và
biết cách phòng và tránh những nơi gây ra nguy hiển với bản thân. Giúp giáo
viên ngày càng có sự kết nối chặt chẽ với phụ huynh trong công tác CSGD trẻ.
Phụ huynh hiểu sâu sắc hơn tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho con
em mình.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
+ Đối với nhà trường: Công tác chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích hợp nội
dung chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cần được thực hiện ngay trong
đầu năm học để giáo viên xây dựng lồng ghép vào kế hoạch nhóm lớp, cần chỉ
đạo sát sao thường xuyên và đổi mới các hình thức.
+ Thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo, theo dõi và rút kinh nghiệm cho giáo viên
trong việc vận dụng các biện pháp lồng ghép tích hợp chuyên đề giáo dục kỹ
năng sống vào chương trình CSGD trẻ.

4


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Kỹ năng sống là một yếu tố quan trọng điều khiển ý thức hành vi của con
người. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ngay từ bậc học mầm non là một vấn đề
cần thiết. Trẻ ở lứa tuổi này có nhận thức như tờ giấy trắng trẻ học hỏi từ cha mẹ
cô giáo và môi trường xung quanh như thế nào sẽ hình thành nên thói quen và
tính cách như thế ấy. Mặt khác trong xã hội hiện đại ngày nay thì việc giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ lại vô cùng quan trọng. Bởi vì xã hội càng hiện đại bao
nhiêu càng kéo theo rất nhiều những mặt trái về nhân cách, về cách ứng xử
khiến chúng ta cần suy nghĩ. Việc giáo dục cho trẻ ngay từ tuổi mầm non sẽ
mang lại cho các cháu rất nhiều lợi ích về mặt sức khỏe, giáo dục, và cả văn hóa
xã hội, giúp các cháu sớm có một cơ thể cường tráng, lành mạnh, trí tuệ, sớm có

ý thức, khả năng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách cho trẻ đến tuổi
trưởng thành.
Trong những năm gần đây việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non
đã được ngành giáo dục chỉ đạo rất sát sao.Tuy nhiên trên thực tế tại đơn vị tôi
công tác việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào chương
trình CSGD vẫn chưa được chú trọng, hầu hết các đồng chí giáo viên ngại xây
dựng hoặc cũng chưa hiểu hết cần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như thế nào và
lồng ghép vào chương trình ra sao. Các hoạt động có sự lồng ghép kỹ năng sống
còn nghèo nàn, nặng về dạy kiến thức cho trẻ. Một số tiết giáo viên có xây dựng
lồng ghép giáo dục kỹ năng sống nhưng hiệu quả chưa cao. Chính vì vậy tôi
nhận thức được trách nhiệm của mình cần làm thế nào để giúp giáo viên có thể
hiểu hết tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, biết các nội dung
giáo dục kỹ năng sống cần thiết cho trẻ và biết cách lồng ghép vào chương trình
CSGD một cách nhẹ nhàng, phù hợp mà hiệu quả. Vì thế tôi đã đi sâu nghiên
cứu và thực hiện sáng kiến: “Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên lồng ghép
nội dung chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm non”.

5


2. Cơ sở lý luận
Thực hiện chương trình GDMN được ban hành kèm theo thông tư số :
17/ 2009/ TT- BGD& ĐT ngày 25/ 7/2009 của Bộ trưởng bộ GD và ĐT đã đưa
ra mục tiêu chung đó là: “ Mục tiêu của giáo dục Mầm non là giúp trẻ em phát
triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố
đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1; hình thành và phát triển ở trẻ
em những chức năng tâm sinh lí, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng,
những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi, khơi dậy và phát triển tối
đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và
cho việc học tập suốt đời.”

Vậy “Kỹ năng sống” có thể hiểu như thế nào? Trong thực tế kỹ năng sống
được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo tổ chức UNESCO định nghĩa: “Kỹ
năng sống” là khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có đầy
đủ khả năng đối phó có hiệu quả với yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng
ngày.
Bản chất của kỹ năng sống là kỹ năng tự quản bản thân và kỹ năng xã hội
cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả.
Kỹ năng sống và vấn đề dạy kỹ năng sống cho con người đã xuất hiện và
được nhiều người quan tâm từ xa xưa như học ăn, học nói, học gói, học mở, học
dăm ba chữ để làm người, học để đối nhân xử thế, học để đối phó với thiên
nhiên. Đó là những kỹ năng đơn giản nhất mang tính chất kinh nghiệm phù hợp
với đời sống và giai cấp của xã hội ở những thời điểm khác nhau.
Trong cách giáo dục hiện nay, giáo dục kỹ năng sống tức là trẻ được giúp
đỡ để biết mình là ai, mình muốn gì, có mục đích gì trong cuộc sống biết dung
hòa giữa các mối quan hệ, biết lựa chọn và quyết định đúng trước những biến cố
do cuộc sống đưa đến. Để có năng lực tâm lý xã hội này, trẻ được dạy các kỹ
năng như: ý thức về bản thân, thấu cảm với người khác suy nghĩ sáng tạo và có
phán đoán, truyền thông và giao tiếp có hiệu quả, giải quyết vấn đề ….
Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống là rèn luyện tư duy tích cực, hình thành
thói quen tốt thông qua các hoạt động và bài tập trải nghiệm.
6


Mục tiêu giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non giúp trẻ có kinh nghiệm
trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự
tin, chủ động và biêt cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả
năng tư duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm
và có cuộc sống hài hòa trong tương lai, góp phần phát triển toàn diện nhân cách
trẻ.
Chính vì vậy ngay từ tuổi mầm non, trẻ cần phải được dạy kỹ năng sống

vì đây là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân
cách. Nếu trẻ sớm được hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của bản thân
thì trẻ sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có nhận thức đúng,
hành vi ứng xử phù hợp, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động
xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống.
Trên thực tế tại trường tôi công tác, việc giáo viên lồng ghép nội dung
giáo dục kỹ năng sống vào chương trình dạy trẻ còn mờ nhạt, qua loa, lấy lệ và
chưa thực sự hiệu quả. Giáo viên còn chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc dạy
kỹ năng sống cho trẻ mà còn nặng về dạy kiến thức. Hầu hết giáo viên còn gặp
khó khăn trong việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào chương trình CSGD
trẻ.
* Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
+ Phạm vi nghiên cứu: Với đề tài này tôi đã nghiên cứu và áp dụng tại
trường mầm non nơi tôi công tác.
+ Đối tượng nghiên cứu: “Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên lồng ghép
tích hợp nội dung chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm
non”.
* Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao hiểu biết và kỹ năng tổ chức các hoạt động có lồng ghép
nội dung chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho đội ngũ giáo viên.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của việc lồng ghép tích hợp nội dung giáo
dục kỹ năng sống trong trường Mầm non.
7


+ Khảo sát và đánh giá thực trạng năng lực chuyên môn của đội ngũ giáo
viên trong việc lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống trong nhà
trường.
+ Đề xuất một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả của việc giáo

dục lồng ghép nội dung chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong trường
Mầm non.
* Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích tổng hợp tài liệu có liên
quan đến đề tài
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp dùng lời nói.
- Phương pháp thống kê đối chiếu.
- Phương pháp thực hành rút kinh nghiệm.
- Phương pháp tọa đàm, trao đổi.
- Phương pháp kiểm tra và đánh giá.
3. Thực trạng của vấn đề .
3.1 Thuận lợi:
- Phòng giáo dục thường xuyên mở các chuyên đề “ Dạy kỹ năng sống
cho trẻ” để cho giáo viên được giao lưu học hỏi kinh nghiệm đồng thời nắm
vững hơn nữa các nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ.
- Nhà trường cũng đã quan tâm đầu tư cơ sở vật chất cho việc lồng ghép
nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như biểu bảng , tranh ảnh…
- Đội ngũ giáo viên nhà trường luôn nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, không
ngại khó, ngại khổ. Đa số giáo viên trong trường đều là người địa phương nên
rất thuận lợi nắm bắt được tình hình của trẻ.
- Học sinh của nhà trường có số lượng ít nên cũng thuận lợi hơn trong
việc quan tâm đến từng cá nhân cháu.
3.2 Khó khăn
- Các góc tuyên truyền của các nhóm lớp về nội dung giáo dục kỹ năng
sống chưa nổi bật.
8


- Một số giáo viên chưa hiểu đúng và đầy đủ về nội dung phải dạy trẻ

những kỹ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định
hướng chung để lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào chương trình
CSGD.
- Nơi tôi công tác cách xa trung tâm thị xã dân cư chủ yếu làm nông
nghiệp là chủ yếu trình độ dân chí còn hạn chế, đa số chưa quan tâm nhiều tới
việc học của các con mà còn phó mặc cho giáo viên trên lớp và chỉ chú tâm đến
làm kinh tế. Một số phụ huynh có điều kiện quan tâm tới con thì lại dạy con
chưa đúng cách còn nóng vội chưa chú ý rèn kỹ năng sống cho con mà chỉ chú
trọng đến dạy kiến thức cho con em mình.
- Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới
phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động,
sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp
nhiều khó khăn; giáo viên trẻ tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó
khăn trong công tác bồi dưỡng do nhận thức về nghề chưa sâu sắc.
- Đối với học sinh trường tôi công tác là một vùng nông thôn cách xa
trung tâm nên kỹ năng sống của trẻ còn hạn chế. Trẻ chưa mạnh dạn tự tin trong
giao tiếp với mọi người xung quanh, chưa biết cách xử lý nhanh nhẹn với các
tình huống trong cuộc sống. Kỹ năng phục vụ của bản thân trẻ chưa linh hoạt.
3.3. Kết quả điều tra.
* Kết quả khảo sát về nhận thức của giáo viên.
Số giáo
viên

Hiểu đúng, đầy đủ các kỹ năng sống cần thiết dạy trẻ và biết lồng
ghép có hiệu quả nội dung giáo dục giáo dục kỹ năng sống vào
chương trình CSGD.
Số

13


lượng
Tốt

Tỷ lệ
%

Số
lượng
Khá

Tỷ lệ
%

Số
lượng
ĐYC

Số
Tỷ lệ

lượng

Tỷ lệ

%

Chưa

%


ĐYC
0
0
4
30,7
6
46,3
3
23
- Nhìn vào bảng trên ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng 4/13 giáo viên đạt 30,7%
hiểu đúng, đầy đủ và biết lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống vào chương
9


trình CSGD đạt mức khá, 6/13 giáo viên đạt 46,3% ở mức đạt yêu cầu. Vẫn còn
3/13 giáo viên ở mức chưa đạt yêu cầu và không có giáo viên nào đạt ở mức tốt.
* Kết quả giờ dạy của giáo viên có lồng ghép nội giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ.
Số

Tổng

giáo

số giờ

Tỷ
Giỏi

lệ


Tỷ
Khá

lệ

Tỷ
ĐYC

Chưa

lệ

Tỷ lệ

ĐYC
%
viên
dự
%
%
%
13
13
0
0
3
23
9
69,3

1
7,7
Từ bảng trên ta thấy: Số giờ dự đạt giỏi chưa có tiết nào, số tiết đạt loại
khá chiếm tỷ lệ thấp 3 tiết chiếm tỷ lệ 23%. Số tiết dạy đạt yêu cầu chiếm tỷ lệ
cao 69,3%. Vẫn còn 1 tiết dạy chưa đạt yêu cầu chiếm 7,7%. Là một phó hiệu
trưởng phụ trách chuyên môn của nhà trường đây là một vấn đề khiến tôi phải
suy nghĩ trăn trở và chú ý quan tâm.
* Kết quả điều tra năng lực chuyên môn của giáo viên trong việc tổ
chức lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ..
T
T

Tổng
Nội dung

số

Tỷ
Tốt

lệ

GV

Tỷ
Khá

%

lệ


Tỷ
TB

%

lệ

Tỷ
Yếu

%

lệ
%

Khả năng xây dựng
1

2

kế hoạch lồng ghép
vào chương trình
CSGD
Khả năng tổ chức

13

1


13
1
hoạt động
3 Khả năng sáng tạo
13
0
Tự học và bồi
4
13
0
dưỡng
Nhìn vào bảng điều tra năng lực

7,7

3

23

8

61,6

1

7,7

7,7

3


23

8

61,6

1

7,7

0

4

26,3

8

61,6

1

7,7

0

4

26,3


7

53,8

2

15,4

chuyên môn của giáo viên ta thấy rằng:

Khả năng xây dựng kế hoạch lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào chương trình
CSGD trẻ; Khả năng tổ chức hoạt động của giáo viên; Khả năng sáng tạo; Khả
năng tự học tự bồi dưỡng của giáo viên mức trung bình chiếm tỷ lệ cao từ 53,8%
đến 61,6%. Khả năng sáng tạo, tự học, tự bồi dưỡng mức tốt chưa có giáo viên nào,
10


có 1 giáo viên có khả năng xây dựng kế hoạch lồng ghép vào chương trình CSGD
trẻ và có khả năng tổ chức hoạt động chiếm 7,7%, mức khá chỉ đạt 23 %. Mức yếu
vẫn còn tồn tại từ 7,7% đến 15,4%.
* Kết quả điều tra tình hình thực tế trẻ 4 tuổi cụ thể như sau:
Nội dung điều tra
Kỹ năng tự phục vụ
bản thân
Tổng số trẻ

Kỹ năng giao tiếp

điều tra 79


mạnh dạn tự tin

trẻ

Kỹ năng xử lý tình
huống nhanh nhẹn.

Tốt

%

Khá

%

T.B

%

8

10,0

15

19,0

56


71,0

3

3,8

10

12,7

66

83,5

3

3,8

10

12,7

66

83,5

Hành vi văn minh

5
6,3

15
19,0
59 74,7
lịch sự
Từ bảng điều tra trên cho thấy đa số trẻ chưa có kỹ năng sống tốt, chưa
mạnh dạn tự tin trong giao tiếp và chưa có kỹ năng xử lý các tình huống nhanh
nhẹn. Do vậy là người quản lý chịu trách nhiệm chỉ đạo chuyên môn trong nhà
trường tôi đã suy nghĩ làm thế nào để giúp giáo viên dễ dàng và tích cực trong
việc lựa chọn nội dung, hình thức, biện pháp lồng ghép, tích hợp, giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ một cách dễ dàng và đơn giản nhất, trẻ dễ tiếp thu nhất. Để
hình thành cho trẻ những nề nếp thói quen cần thiết để phát triển nhân cách một
cách toàn diện. Từ đó tôi đã nghiên cứu và áp dụng một số biện pháp chỉ đạo
giáo viên lồng ghép nội dung chuyên đề giáo dục kỹ năng sống vào chương trình
CSGD trẻ và bước đầu đem lại kết quả đáng kể.
4. Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích hợp nội dung
giáo dục kỹ năng sống vào chương trình CSGD trẻ.
4.1. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo giáo viên thực hiện lồng ghép tích hợp
nội dung chuyên đề giáo dục kỹ năng sống vào chương trình CSGD trẻ.
Xây dựng kế hoạch là việc làm đầu tiên mà tôi xác định, từ đó giúp tôi
chủ động được mọi công việc cần chỉ đạo trong nhà trường. Vì thế tôi chủ động

11


xây dựng kế hoạch chuyên môn lồng ghép các nội dung tích hợp trong năm học
đặc biệt chú trọng tới nội dung lồng ghép giáo dục kỹ năng sống.
Để đảm bảo xây dựng kế hoạch đạt hiệu qủa cao nhất, trước hết tôi
nghiên cứu kỹ nhiệm vụ năm học của bậc học, kế hoạch của nhà trường, tình
hình thực tế của địa phương, của trường, bám sát vào nội dung hướng dẫn chỉ
đạo trọng tâm của Phòng Giáo dục và Đào tạo Thị xã để xác định nhiệm vụ

trọng tâm trong năm học cần thực hiện. Tôi đi sâu tìm hiểu những thuận lợi,
khó khăn của nhà trường của địa phương và sở trường, sở đoản của từng giáo
viên, tình hình cụ thể của đại đa số học sinh trong nhà trường. Đặc biệt tôi
quan tâm đến tình hình tổ chức thực hiện các nội dung lồng ghép của giáo
viên trong nhà trường, phất tích những khó khăn mà giáo viên mắc phải trong
quá trình điều tra thực trạng. Từ đó tôi xây dựng kế hoạch chỉ đạo chuyên
môn có lồng ghép nội dung chỉ đạo giáo viên thực hiện nội dung giáo dục kỹ
năng sống phù hợp. Kế hoạch đảm bảo thống nhất trong năm, cụ thể từng
tháng, tuần phù hợp với thực tế của nhà trường, các biện pháp thực hiện phù
hợp và đảm bảo hiệu quả cao.
Trong kế hoạch chỉ đạo chuyên môn của mình, tôi chỉ đạo giáo viên lồng
ghép tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống trong năm và trọng tâm ở các
tháng. Giúp cho giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ, định hướng cho họ hiểu được nhiệm vụ của mình phải thực hiện.
Ví dụ:
Trong tháng 9 tôi chỉ đạo giáo viên bám sát vào kế hoạch của nhà trường,
kế hoạch chuyên môn, để xây dựng kế hoạch chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục có
lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ của nhóm lớp sao cho phù
hợp điều kiện thực tế của nhóm lớp và được ban giám hiệu phê duyệt. Đồng thời
nên kế hoạch xây dựng các góc tuyên truyền về giáo dục các kỹ năng sống và
tạo môi trường cho trẻ hoạt động phù hợp.
Ngay từ đầu năm học tôi đã chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch 35 tuần
của năm học có lựa chọn nội dung tích hợp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phù
hợp với từng độ tuổi và đảm bảo theo các nguyên tắc: Nội dung phải được tích
12


hợp vào tất cả các chủ đề, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, gắn với thực
tế của địa phương, gần gũi, không xa lạ với trẻ, phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa
tuổi.

Ví dụ: Bé với các điểm nơi cộng cộng: Đối với trẻ 3 tuổi: Xem tranh ảnh
các hành vi đúng sai nơi công cộng. Trẻ 4 tuổi: Nhận biết các hành vi đúng sai
nơi công cộng. Trẻ 5 tuổi: Thực hành các hành vi đúng nơi công cộng như xếp
hàng chờ đến lượt, thưa gửi lễ phép với mọi người..
4.2. Tổ chức hội thảo, chuyên đề về nội dung chuyên đề giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ.
4.2.1. Tổ chức hội thảo:
Để giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ mà kế hoạch tôi đã đưa ra. Tôi xác
định mình cần trau dồi cho giáo viên hiểu kỹ năng sống cần dạy trẻ là những kỹ
năng gì? Cách lồng ghép vào chương trình ra sao. Do đó tôi lựa chọn hình thức
tổ chức các buổi hội thảo nhằm giúp giáo viên lĩnh hội được những kiến thức,
được trực tiếp trao đổi, thảo luận với đồng nghiệp về những vấn đề cần được
giải quyết. Hiểu được tầm quan trọng như vậy ngay từ tháng 10 tôi đã tổ chức
hội thảo về cách lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Tại buổi hội thảo này tôi là người chủ tọa, tôi đưa ra các tài liệu có liên
quan đến kỹ năng sống, các nội dung giáo dục kỹ năng sống, mục đích, yêu cầu
các cách lồng ghép kỹ năng sống vào chương trình CSGD mà tôi đã định hướng.
Sau đó tôi tổ chức cho giáo viên được cùng nhau trao đổi những phương pháp,
biện pháp lồng ghép tích hợp đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các tiết
học, các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ hàng ngày như thế nào cho hợp lý.
Mỗi người một ý tưởng, một phương pháp riêng đưa ra thảo luận sôi nổi. Mỗi
người đóng góp một ý kiến và cuối buổi hội thảo đó tôi là người thống nhất cuối
cùng các ý kiến như: Trong tất cả các chủ đề đều tích hợp được nội dung giáo
dục kỹ năng sống. Mọi thời điểm trong ngày đề có thể tổ chức các hoạt động
lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống. Cần tăng cường tổ chức cho trẻ hoạt
động vào các buổi chiều, các buổi ngoại khóa lao động tập thể…Từ đó tôi đã
trau dồi cho giáo viên được cách tự học, tự bồi dưỡng về cách xây dựng lồng
13



ghép kỹ năng sống vào chương trình CSGD trẻ của lớp mình sao cho phù hợp
mà hiệu quả nhất.
4.2.2. Tổ chức chuyên đề:
Sau khi trang bị cho giáo viên những kiến thức trong buổi hội thảo,
những buổi sinh hoạt chuyên môn. Tôi đã tổ chức chuyên đề cho giáo viên
trực tiếp mắt thấy tai nghe, được thực hành và được học tập để vận dụng vào
nhóm lớp của mình một cách linh hoạt sáng tạo và phù hợp. Tôi đã lên kế
hoạch mỗi tháng tổ chức một chuyên đề có lồng ghép tích hợp nội dung giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ.
Ví dụ: Với chuyên đề hoạt động chiều: đề tài: “Bé cần làm gì khi có
cháy”. Giáo dục trẻ các kỹ năng thoát hiểm và cho trẻ thực hành một số cách
thoát hiểm đơn giản khi có cháy xảy ra như: Gọi to cho người lớn biết, nếu đám
cháy bao quanh nơi trẻ đang chơi thì dùng khăn hoặc một vật dụng vải mềm ướt
che vào miệng chạy ra ngoài cửa, nếu đám cháy lớn dùng khăn ướt che vào
miệng bò thấp xuống sàn tìm cách thoát ra ngoài....
Với lĩnh vực khám phá khoa học: Đề tài: Tìm hiểu các nguồn nước. Giáo
dục trẻ kỹ năng biết quý trọng nước sạch, rửa tay vặn nhỏ vòi....
Với hoạt động ngoài trời: “Dạo chơi quan sát thời tiết”: Giáo dục trẻ biết
lắng nghe thời tiết hàng ngày, chọn trang phục cho phù hợp với thời tiết...
Khi tham gia vào việc tổ chức chuyên đề như thế này giáo viên được trực
tiếp thực hành hoặc dự giờ đồng nghiệp dạy, sau đó cùng nhau nhận xét đánh
giá, rút kinh nghiệm từ đó đưa nội dung lồng ghép tích hợp giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ vào nhóm lớp mình một cách phù hợp để trẻ tiếp thu hiệu quả nhất .
Sau khi tổ chức các chuyên đề trên thì hầu như các giáo viên trường tôi đã biết
cách vận dụng linh hoạt nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ vào chương trình
CSGD. Đã có nhiều tiết dạy thành công, học sinh có kỹ năng xử lý các tình
huống nhanh nhẹn hơn, tự tin hơn trong giao tiếp với mọi người xung quanh, kỹ
năng tự phục vụ của bản thân cũng linh hoạt hơn rất nhiều.

14



4.3. Chỉ đạo giáo viên làm tốt công tác tuyên truyền phối hợp với phụ
huynh học sinh trong việc lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ.
Có thể nói môi trường giáo dục Gia đình- Nhà trường – cô giáo là hết sức
quan trọng, là yếu tố góp phần không nhỏ làm nên thành công trong giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ. Bởi thời gian trẻ sống và hoạt động tại gia đình và môi trường
xung quanh ngoài trường mầm non chiểm tỷ lệ lớn và gia đình là nơi trẻ được
tiếp xúc đầu tiên và là cái nôi hình thành nên nhân cách cho trẻ. Nhận thức được
vấn đề này nên tôi chỉ đạo giáo viên cần làm tốt công tác công tác tuyên truyền
tới các bậc phụ huynh để họ hiểu và cùng phối hợp với cô giáo trong việc giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ được hiệu quả nhất.
Thông qua hội thảo sinh hoạt chuyên môn và sinh hoạt tổ, tôi cung cấp
cho giáo viên những kiến thức về kỹ năng sống nào cần thiết và cách dạy kỹ
năng sống đó ra sao. Đồng thời cung cấp những tạp chí và tài liệu về cách tuyên
truyền để họ trau dồi kỹ năng tuyên truyền với phụ huynh ở mọi lúc mọi nợi.
Ví dụ: Tôi chỉ đạo giáo viên có thể lồng ghép tuyên truyền qua các buổi
họp phụ huynh, qua điện thoại, qua trao đổi trực tiếp thông qua các giờ đón trả
trẻ.
Giáo viên cần tuyên truyền cho phụ huynh hiểu không nên làm hộ con,
phải dạy trẻ tính tự lập từ bé. Như trong giờ giờ đón trả trẻ giáo viên nhắc phụ
huynh hãy để cho con em mình tự cất và lấy ba lô, tự bỏ giầy dép vào đúng nơi
quy định. Lúc đầu trẻ có thể chưa làm được thì phụ huynh và cô giáo có thể
hướng dẫn, dần dần sẽ trở thành thói quen, trẻ sẽ không ý lại vào cô giáo hay
phụ huynh.
Tôi cũng nhấn mạnh để giáo viên hiểu cần có sự tác động tương tác giữa
phụ huynh và giáo viên trong quá trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Có nghĩa
là giáo viên và phụ huynh cần có sự trao đổi với nhau để hiểu thêm về trẻ, để
biết trẻ đã có những kỹ năng gì, kỹ năng gì còn hạn chế để cùng phối hợp dạy

trẻ.

15


Ngoài ra giáo viên cần xây dựng được góc tuyên truyền thật phong phú về
nội dung giáo dục kỹ năng sống cần thiết cho trẻ như biểu bảng, các hình ảnh về
kỹ năng sống như: Các kỹ năng văn minh nơi công cộng, hình ảnh bé xếp hàng
chờ đến lượt, hình ảnh bé chào hỏi người lớn, hình ảnh bé nhặt rác ở công viên
bỏ vào thùng, bé chơi đoàn kết với bạn bè…Rất nhiều các kỹ năng giáo viên có
thể sưu tầm để phụ huynh hàng ngày đưa con đến trường có thể được thấy để
vận dụng vào dạy con mình.
Bên cạnh đó, tôi chỉ rõ cho giáo viên cần yêu cầu phụ huynh phối hợp
cùng cô giáo trong việc thống nhất phương pháp giáo dục trẻ: Cần tin tưởng vào
trẻ và năng lực của trẻ.Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình.
Không nói dài và nói nhiều, không đưa lời giải đáp có sẵn mà hãy đưa câu hỏi
để trẻ tự tìm tòi. Không vội vàng phê phán đúng - sai mà kiên trì giúp trẻ biết
tranh luận và có thể đưa ra kết luận của mình.
Từ những việc làm trên tôi được giáo viên phán ánh lại việc phối hợp với
phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ rất hiệu quả. Giáo viên dễ
dàng hơn khi dạy trẻ và phụ huynh đã ngày càng hiểu sâu sắc hơn tầm quan
trọng của giáo dục kỹ năng sống và biết cách dạy con em mình khoa học hơn.
4.4. Chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích hợp nội dung chuyên đề giáo dục
kỹ năng sống vào các chủ đề.
Căn cứ vào kế hoạch tôi đã xây dựng ngay từ đầu năm học và chỉ đạo các
nhóm lớp xây dựng kế hoạch bám sát vào kế hoạch chuyên môn. Tôi định hướng
giáo viên lựa chọn và lồng ghép vào từng chủ đề sao cho phù hợp. Để giúp giáo
viên dễ dàng trong việc lựa chọn các nội dung và tổ chức các hoạt động dạy kỹ
năng sống cho trẻ. Tôi cung cấp cho giáo viên những nội dung hoạt động phù
hợp với từng chủ đề, hàng tháng trong buổi sinh hoạt chuyên môn tôi đưa ra để

giáo viên tham khảo lựa chọn và đưa vào chương trình dạy trẻ của nhóm lớp
mình. Từ những hoạt động tôi đưa ra thì giáo viên phải nghiên cứu kỹ để các
hoạt động được lồng ghép phù hợp và tận dụng triệt để toàn bộ các chủ đề. Ví dụ
với các chủ đề của lớp 5 tuổi:

16


VD1: Chủ đề Bản thân và Gia đình. Thông qua chủ đề nhánh : “ Tôi là ai
tôi lớn lên cần gì để khoẻ mạnh”.
Tôi hướng dẫn giáo viên có thể lựa chọn: Dạy trẻ nhận biết được tên gọi
đầy đủ của bản thân và cha mẹ, số điện thoại, địa chỉ gia đình, đặt câu hỏi như :
Khi con bị lạc con sẽ làm gì?
Cũng qua chủ đề này giáo viên có thể lựa chọn củng cố và rèn luyện cho
trẻ kỹ năng tự chăm sóc phục vụ bản thân như rửa tay với xà phòng theo 7 bước
cơ bản, rửa mặt, đánh răng, mặc quần áo chải đầu, đi giầy, cách chăm sóc bảo vệ
các giác quan ...đúng cách.
VD2 Chủ đề “Một số ngành nghề” với đề tài nhỏ “ Nhận biết một số
nguy cơ cháy nổ có thể gặp” . Tôi đã đưa ra nội dung mục tiêu của bài dạy cho
giáo viên tham khảo và thực hiện như:
- Nhận biết các nguồn gây ra lửa ( bếp ga, bật lửa, xăng, dầu, nến, cồn... );
các chất dễ cháy: rơm rạ, than củi, giấy ...
- Nhận biết ảnh hưởng tốt, xấu của lửa trong cuộc sống.
- Nhận biết cách dập lửa an toàn ( Khăn ướt , nước, bình xịt, cát...)
- Cho trẻ đóng vai lính cứu hoả , từ đó trẻ sẽ được trang bị kiến thức và kỹ
năng sống cần thiết để phòng cháy, chữa cháy khi gặp tình huống thực.
- Dạy trẻ một số kỹ năng tự bảo vệ bản thân như:
+ Gọi số điện thoại 113 khi gặp nguy hiểm; 114 khi có cháy; 115 khi có
người bị ốm hoặc bị thương.
* VD3. Chủ đề “ Nước và một số hiện tượng tự nhiên” tôi đưa ra đề tài

nhỏ “ Nhận biết một số nguy cơ đuối nước” và đưa ra các hoạt động sau:
- Nhận biết các nguồn gốc của nước từ đâu mà có, các loại nước, các hiện
tượng tự nhiên liên quan đến nước.
- Nhận biết ích lợi, tác hại của nước trong cuộc sống.
- Biết cách phòng chống tai nạn do nước gây ra ( Không chơi gần sông
suối ao hồ, nơi có nước lũ, nước sôi..., biết kêu cứu, biết sơ qua quá trình cấp
cứu ban đầu khi đuối nước

17


- Biết cách sử dụng tiết kiệm nước như: Vận vòi nước vừa phải khi sử
dụng và biết khoá vòi nước ngay sau khi sử dụng
- Cho trẻ chơi các trò chơi với nước ( Tuới cây, Pha mầu, pha nước hoa
quả, đong nước ).
Từ những định hướng trên giáo viên trường tôi đã hiểu cách xây dựng và
lồng ghép vào chương trình như thế nào cho hợp lý. Qua quá trình duyệt soạn
bài cho thấy các nhóm lớp đã lựa chọn các nội dung hoạt động rất phong phú và
phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi.
4.5. Chỉ đạo giáo viên lồng ghép nội dung chuyên đề giáo dục kỹ năng
sống thông qua các hoạt động trong ngày.
Tôi đi sâu nghiên cứu nội dung hoạt động và thông qua các buổi sinh hoạt
chuyên môn, họp tổ để trao đổi giúp giáo viên thấy được tầm quan trọng của
việc lồng ghép vào các hoạt động trong ngày từ đó các nhóm lớp lựa chọn nội
dung giáo dục phù hợp với lớp mình. Tôi định hướng cho giáo viên lồng ghép
giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động cụ thể như:
4.5.1. Thông qua hoạt động vui chơi
Việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ không chỉ giúp trẻ hình thành kỹ
năng chơi mà còn đặt nền tảng khá vững chắc để hình thành và phát triển kỹ
năng sống.

Cụ thể trong chương trình giáo dục mầm non tôi chỉ đạo giáo viên nên
lồng ghép vào việc tổ chức hoạt động góc: Giáo viên sẽ phải giáo dục bám sát
vào mục tiêu “Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”. Đây là một trong những chuyên
đề đang được bậc học chỉ đạo sâu rộng trong các nhà trường. Trong tổ chức họat
động góc giáo viên sẽ để trẻ tự lựa chọn góc chơi và vai chơi mà trẻ thích, cô
giáo không được gò ép trẻ mà chỉ định hướng các hoạt động và giúp đỡ những gì
trẻ chưa biết. Từ đó xã hội trẻ em được hình thành một cách thú vị: có thủ lĩnh,
có nhóm, có sự hợp tác giúp đỡ nhau, trẻ có cơ hội để phát triển trí tưởng tượng.
Nếu giáo viên thực sự chú trọng đến điều này chắc chắn thông qua hoạt động
vui chơi trẻ sẽ học được kỹ năng sống một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhất nhờ
việc “Học mà chơi , chơi mà học”
18


4.5.2. Thông qua tổ chức ăn, ngủ cho trẻ:
Bám sát vào chuyên đề hội thảo mô hình bếp ăn bán trú đảm bảo chất
lượng và nhà vệ sinh phù hợp do Phòng giáo dục và Đào tạo tổ chức tôi, chỉ đạo
giáo viên trường mình thực hiện tốt việc tổ chức giờ ăn , giờ ngủ cho trẻ theo
đúng quy định. Bên cạnh đó còn lồng ghép được nội dung giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ
Ví dụ: Đối với trẻ 5 tuổi truớc bữa ăn giáo viên cần thường xuyên nhắc
nhở trẻ phải biết kê bàn ăn ngay ngắn, biết lấy khay(đựng cơm thừa, cơm rơi
vãi) 1 khay để khăn ướt để lau miệng. Đối với trẻ 3, 4 tuổi thì trẻ có thể giúp cô
và làm cùng cô từ đó sẽ hình thành thói quen yêu thích lao động và có ý thực tự
phục vụ bản thân.
Trong giờ ăn giáo viên cần chú ý lồng ghép dạy trẻ những hành vi văn
minh, lịch sự trong ăn uống (Khi ăn ngồi như thế nào? Cách chào mời ra sao và
ăn như thế nào để giữ được vệ sinh…
Trong khi ăn, cô luôn nhắc nhở, động viên trẻ ăn hết xuất, trong khi ăn
không nói chuyện riêng vv… tránh để cơm rơi vãi phải nhặt để vào khay, ăn

xong phải biết lau miệng sạch sẽ, súc miệng uống nước và đi ngủ.
Nhắc trẻ giữ vệ sinh phòng, nhóm sạch sẽ, đi vệ sinh phải đi đúng nơi quy
định, đi xong để dép lên giá xếp ngay ngắn theo tổ, sau đó biết lấy gối đi ngủ,
quần áo gấp và để đúng nơi quy định. Từ đó trẻ hình thành nên những thói quen
văn minh lịch sự trong ăn ngủ và dó sẽ là những kỹ năng sống tốt luôn đi theo
trẻ suốt cuộc đời.
4.5.3. Thông qua hoạt động chiều và hoạt động nêu gương:
Hoạt động chiều và hoạt động nêu gương cũng là một trong những hoạt
động để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ một cách rất hiệu quả. Tôi định hướng
giáo viên nên lựa chọn các hoạt động giáo dục kỹ năng sống trọng tâm vào hoạt
động chiều, bởi yêu cầu của hoạt động chiều thường không nặng nề về kiến thức
mà chú trọng rèn kỹ năng đã học cho trẻ.

19


Đối với hoạt động chiều giáo viên nên nghiên cứu , sưu tầm các hoạt động
rèn kỹ năng sống để dạy trẻ như: Bé làm gì khi bị lạc, Bé làm gì khi có hỏa
hoạn, Làm quen với hành vi văn minh nơi công cộng….
Đối với những buổi nêu gương tôi nhấn mạnh giáo viên cần tổ chức hoạt
động theo đúng quy định, cho trẻ kể những việc làm tốt đã giúp cô giáo và các
bạn như: Biết kê bàn ăn, biết gấp khăn, biết đổ khay thức ăn thừa vào nồi, biết
nhặt rác để vào thùng, xếp ghế… Trong những buổi nêu gương như vậy đã giúp
trẻ có được những thói quen vệ sinh cá nhân và tập thể. Khi trẻ làm được những
việc làm tốt giáo viên cần chú ý tuyên dương trẻ, khích lệ và cho trẻ được cắm
cờ.
Trong giờ nêu gương cuối ngày giáo viên cần hỏi lại vì sao con phạm lỗi?
giúp trẻ nhận ra lỗi của mình và giúp trẻ biết xin lỗi bạn như thế nào cho phải,
và chân thành nhất...
Hình thức giáo dục kỹ năng sống này cần tiến hành ở mọi lúc mọi nơi và

có sự củng cố nhiều lần để hành động, lời nói trở thành ý thức của bản thân trẻ
biến thành kỹ năng sống thực sự.
Đối với trẻ 5 tuổi việc giáo dục kỹ năng sống tự phục vụ bản thân chính là
nhờ những công việc nhỏ giúp cô, do đó giáo viên cần tạo cho trẻ thói quen biết
giúp đỡ cô trong các hoạt động.VD: Như tự chia cơm giúp cô, tự cất và lấy ba
lô, tự chải đầu khi ngủ dậy, trải chiếu, gấp chăn, mặc áo ấm khi ra khỏi
chăn...những kỹ năng này sẽ là nền tảng cho những kỹ năng khó hơn cao hơn ở
lứa tuổi tiếp theo chuẩn bị hành trang cho trẻ vào lớp 1 với các kỹ năng như tự
soạn sách vở, để ngày mai đi học, tự chải đầu, mặc quần áo đúng cách...
4.5.4. Thông qua các hoạt động nghệ thuật như vẽ tranh, ca hát nhảy
múa, kể chuyện.
Tôi trao đổi với giáo viên cần lồng ghép các kỹ năng sống phù hợp với
các hoạt động như: Ca hát, kể chuyện, vẽ…Tôi chỉ đạo giáo viên lồng ghép kỹ
năng sống cho trẻ vào các hoạt động này phải hết sức nhẹ nhàng, không gò bó.
Qua hoạt động ca hát nhảy múa cần rèn cho trẻ có kỹ năng phối hợp nhóm
cùng biểu diễn, trẻ tự tin, mạnh dạn hơn.
20


Qua hoạt động kể chuyện giáo viên chú ý rèn được rèn kỹ năng nói, giao tiếp
mạch lạc, nói đủ câu, không nói ngọng, nói lắp, nói chống không.
Qua hoạt động vẽ giáo viên có thể rèn kỹ năng lựa chọn màu sắc, cùng phối
hợp hoàn thành nhiệm vụ và đảm nhận trách nhiệm của mình.
4.6. Đẩy manh công tác kiểm tra đánh giá.
Công tác kiểm tra là việc làm thường xuyên liên tục của người cán bộ
quản lý trong mỗi lĩnh vực công tác. Đặc biệt đối với các trường mầm non thì
đây là một việc làm quan trọng và cần thiết của một người cán bộ quản lý.
Trong khoa học quản lý cũng đã nêu: “ Nếu chỉ đạo mà không kiểm tra
đánh giá coi như không chỉ đạo”. Hơn nữa công tác kiểm tra đánh giá giáo viên
còn góp phần tác động để họ làm tốt quá trình giảng dạy và chăm sóc giáo dục

trẻ, đồng thời xây dựng không khí sư phạm lành mạnh.
Sau khi tôi triển khai tất cả các nội dung nêu trên. Tôi thường thu thập kết
quả từ phía giáo viên bằng việc kiểm tra để đánh giá hiệu quả. Thứ nhất kiểm tra
ngay từ việc duyệt soạn bài cho giáo viên xem giáo viên đã biết lồng ghép tích
hợp giáo dục kỹ năng sống vào công tác soạn giảng chưa? Đã lồng ghép ở mức
độ nào? Tôi thường phê duyệt cụ thể từng tuần, từng chủ đề để từ đó có kế
hoạch cụ thể để chỉ đạo giáo viên có hiệu quả hơn. Tôi coi việc xem xét, đánh
giá giáo viên theo chất lượng giảng dạy là biện pháp cốt lõi, là chìa khoá thành
công của công tác quản lý. Vì thế tôi thường xuyên thăm lớp dự giờ để đánh giá
hiệu quả tiết dạy từ đó góp ý, xây dựng, rút kinh nghiệm với từng giáo viên.
Bằng các hình thức kiểm tra theo kế hoạch và tôi thường coi trọng biện
pháp kiểm tra đột xuất. Để thực sự đánh giá được giáo viên có thường xuyên
tiến hành các hoạt động hay không? Hiệu quả mà trẻ đạt được như thế nào? Thì
chỉ có kiểm tra mới đánh giá được. Kiểm tra là một biện pháp không thể thiếu
trong công tác chỉ đạo. Hàng tháng, tôi thường đánh giá thi đua cụ thể đối với
từng nhóm lớp, từng giáo viên.
5. Kết quả đạt được.

21


Khi áp dụng những biện pháp “Chỉ đạo giáo viên lồng ghép tích hợp
nội dung chuyên đề giáo dục kỹ năng sống vào chương trình CSGD trẻ
trong trường mầm non” đã đạt được kết quả đạt được như sau:
5.1.Kết quả cụ thể:
* Đối với công tác soạn giảng của giáo viên:
- Chất lượng giảng dạy của giáo viên trong nhà trường đã được nâng
lên rõ rệt. Đặc biệt là những hoạt động có lồng ghép nội dung chuyên đề giáo
dục kỹ năng sống.
- Giáo viên đã có hiểu biết đúng và đầy đủ về nội dung giáo dục kỹ năng

sống cần thiết cho trẻ, các nội dung phù hợp với tâm sinh lý của lứa tuổi. Đa số
giáo viên đã chủ động, tích cực lồng ghép, có nhiều sáng tạo trong công tác soạn
giảng.
- Nhiều giáo viên chủ động tự xây dựng kế hoạch, thiết kế các hoạt động
lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
- Nội dung giáo dục kỹ năng sống được tích hợp vào các hoạt động phong
phú.
* Đối với trẻ trong nhà trường.
- Đa số trẻ các nhóm lớp có kỹ năng sống phù hợp với từng lứa tuổi, trẻ
mạnh dạn tự tin trong giao tiếp, có kỹ năng tự phục vụ bản thân.
* Đối với phụ huynh
- Ngày càng tin tưởng vào công tác CSGD của nhà trường. Yên tâm gửi
con tới các cô, vì con không những được dạy kiến thức mà còn được dạy những
kỹ năng tốt để có khả năng chống chọi với những tính huống hàng ngày và
những thay đổi bất thường của thời tiết..
- Phụ huynh có kỹ năng giáo dục kỹ năng sống cho con đúng cách. Ngày
càng phối hợp chặt chẽ với giáo viên trong công tác CSGD trẻ.

5.2. So sánh đối chứng.
22


* Kết quả khảo sát về nhận thức của giáo viên.
Hiểu đúng, đầy đủ các kỹ năng sống cần thiết dạy trẻ và
biết lồng ghép có hiệu quả nội dung giáo dục giáo dục
Số giáo
Thời gian

viên


kỹ năng sống vào chương trình CSGD.
Số
Tỷ
Số
Tỷ
Số
Tỷ
lượng
lệ lượng lệ lượng lệ
Chưa
%
Khá
%
ĐYC
%
ĐYC

Số
lượng
Tốt

Tháng

13

9/2016
Tháng

0


0

4

30,7

6

46,3

3

Tỷ
lệ
%
23

13
8
61,5
5
38,5
0
0
0
0
2/2017
Kết quả từ bảng so sánh đối chứng trên cho ta thấy được có sự thay đổi rõ
rệt, số giáo viên hiểu đúng, đầy đủ và biết cách lồng ghép có hiệu quả nội dung
giáo dục kỹ năng sống vào chương trình CSGD đạt loại tốt tăng từ 0% lên

61,5%, loại khá từ 30,7% tăng lên 38,5%, đặc biệt ĐYC giảm từ 46,3% xuống
% và có giáo viên nào chưa đạt yêu cầu.
* Kết quả giảng dạy qua dự giờ giáo viên
Thời
gian
Tháng
9/ 2016
Tháng

Số

Tổng

giáo

số giờ

viên

dự

13

13

Tỷ
Giỏi

Tỷ


lệ

Khá

%
0

lệ

Tỷ
ĐYC

%

0

3

23

lệ
%

9

69,3

Chưa
ĐYC
1


Tỷ
lệ
%
7,7

13
13
7
53,8
5
38,5
1
7,7
0
0
2/ 2017
Qua thời gian thực hiện đề tài, tôi thấy chất lượng các hoạt động giáo dục
qua dự giờ đã tăng lên rõ rệt. Số dự giờ đạt loại giỏi từ 0% tăng lên 53,8%, số dự
giờ đạt loại khá còn 38,5%, số lượng đạt yêu cầu từ 69,3% xuống còn 7,7%.
Không có tiết chưa đạt yêu cầu. Giáo viên đã biết lồng ghép nội dung giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ vào chương trình một cách hợp lý và linh hoạt sáng tạo.
* Năng lực chuyên môn của giáo viên:

23


T
T


Tổng

Nội dung

số GV

Tỷ
Tốt

lệ

Tỷ
Khá

%

lệ

Tỷ
TB

%

lệ

Tỷ
Yếu

lệ


%

%

Kết quả trước khi áp dụng sáng kiến
Khả năng xây dựng
1

2

kế hoạch lồng ghép
vào chương trình
CSGD
Khả năng tổ chức

hoạt động
3 Khả năng sáng tạo
Tự học và bồi
4
dưỡng

13

1

7,7

3

23


8

61,6

1

7,7

13

1

7,7

3

23

8

61,6

1

7,7

13

0


0

4

26,3

8

61,6

1

7,7

13

0

0

4

26,3

7

53,8

2


15,4

Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến
Khả năng xây dựng
1

2

kế hoạch lồng ghép
vào chương trình

13

8

61,5

CSGD
Khả năng tổ chức

13
7 56,8
hoạt động
3 Khả năng sáng tạo
13
5 38,5
Tự học và bồi
4
13

8 61,5
dưỡng
Từ kết quả bảng đối chiếu trên cho thấy

5

38,5

0

0

0

0

5

38,5

1

7,7

0

0

6


46,1

2

15,4

0

0

5

38,5

0

0

0

0

năng lực chuyên môn của giáo

viên tăng lên rõ rệt:
- Khả năng xây dựng kế hoạch lồng ghép vào chương trình CSGD: tốt từ
7,7% tăng lên 61,5%, khá từ 23% tăng lên 38,5% không còn giáo viên trung
bình và yếu.
- Khả năng tổ chức hoạt động: Tốt từ 7,7% lên 56,8%, khá từ 23 % lên
38,5%, trung bình giảm xuống còn 7,7%, không còn giáo viên yếu.

- Khả năng sáng tạo: Tốt từ 0% lên 38,5%, khá từ 26,3% lên 46,1%, trung
bình giảm xuống còn 15,4%, không còn giáo viên yếu.
24


- Tự học và bồi dưỡng: Tốt từ 0% lên 61,5%, khá từ 26,3% tăng lên
38,5% không còn giáo viên trung bình và yếu.
Từ đó có thể khẳng định rằng các biện pháp tôi áp dụng đối với giáo viên
là hoàn toàn hợp lý và mang lại hiệu quả .
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng:
- Các giải pháp của sáng kiến áp dụng có hiệu quả tốt nhất ở các trường
mầm non.
- Phải kiên trì thực hiện dần từng bước một, từ dễ đến khó, từ đơn giản
đến phức tạp. Chỉ đạo một cách cụ thể từ kế hoạch đến nội dung thực hiện tới
giáo viên.

25


×