Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

skkn một số biện pháp chỉ đạo giáo dục đạo đức học sinh ở một trường THCS miền núi gặp nhiều khó khăn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.93 KB, 29 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến: Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục đạo đức học sinh ở một
trường THCS miền núi gặp nhiều khó khăn.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Quản lý giáo dục.
3. Tác giả:
-Họ và tên: Chu Ngọc Lan

Nam (nữ): Nữ

-Ngày tháng/năm sinh: 29/6/1969
-Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Quản lý giáo dục.
-Chức vụ: Phó hiệu trưởng.
-Đơn vị :Trường THCS Nguyễn Trãi
-Điện thoại: 0986145584
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu :
-Tên đơn vị: Trường THCS Nguyễn Trãi
- Địa chỉ: Phường Bến Tắm - Thị xã Chí Linh- Tỉnh Hải Dương
-Điện thoại: 03203887113
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng hỗ trợ giảng dạy và học tập.
- Sự ủng hộ hợp tác của các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường.
- Đặc biệt là tác nghiệp từ phía đồng nghiệp và các em học sinh.
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: tháng 8 năm 2011 đến tháng
2 năm 2015
HỌ TÊN TÁC GIẢ :

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN
ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

Chu Ngọc Lan


1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN:
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Giáo dục đạo đức cho học sinh là một nội dung quan trọng trong hoạt
động của bất kì một môi trường giáo dục nào. Trong nhà trường phổ thông, bên
cạnh việc truyền thụ tri thức khoa học, giáo dục đạo đức cùng với công tác tư
tưởng chính trị là nhiệm vụ hàng đầu góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
giáo dục. Trong xu thế phát triển hiện nay của đất nước, vấn đề này được đặt ra
không chỉ là nhiệm vụ trọng tâm của riêng nghành giáo dục mà là vấn đề được
cả xã hội quan tâm. Với trách nhiệm được giao là cán bộ quản lý của một
trường THCS miền núi còn gặp nhiều khó khăn tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm
thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường đặc biệt là giáo
dục ý thức đạo đức của học sinh nhằm tạo ý thức đạo đức tốt, tính tự giác kỉ
luật cao từ đó theo kịp đà phát triển chung của giáo dục và của đất nước.
Trước hết tôi phải nghiên cứu các văn bản quy định chung của nghành,
những văn bản chỉ đạo đổi mới giáo dục trong tình hình hiện nay. Căn cứ vào
thực trạng của nhà trường, mạnh dạn phân tích rõ nguyên nhân, chỉ rõ những
mặt mạnh, yếu trong công tác quản lý chỉ đạo giáo dục đạo đức trong nhà
trường để từ đó tìm ra những giải pháp phù hợp. Trong sáng kiến này, tôi đã có
so sánh, đối chiếu kết quả trước và sau khi áp dụng các biện pháp và thực tế đã
có những chuyển biến về chất lượng giáo dục đạo đức trong nhà trường.
2. Điều kiện, thời gian áp dụng sáng kiến:
+ Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng hỗ trợ giảng dạy và học tập.
- Sự ủng hộ hợp tác của các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường.
- Đặc biệt là tác nghiệp từ phía đồng nghiệp và các em học sinh.
+ Thời gian áp dụng sáng kiến: tháng 8 năm 2011 đến tháng 2 năm 2015
+ Đối tượng áp dụng sáng kiến:

Các em học sinh trong phạm vi quản lý của nhà trường.
2


3. Nội dung sáng kiến:
Công tác quản lý chỉ đạo giáo dục đạo đức cho học sinh không phải là vấn
đề mới trong hoạt động giáo dục. Trong sáng kiến này là những kinh nghiệm
đúc kết của bản thân trong quá trình quản lý của một trường THCS miền núi
còn gặp nhiều khó khăn. Nếu như trước đây, công tác chỉ đạo giáo dục đạo đức
cho học sinh đôi lúc còn nặng về phương pháp truyền thống, chưa tạo được cho
đối tượng giáo dục tư tưởng thoải mái, tự giác thì trong sáng kiến này, tôi đã
mạnh dạn trình bày những giải pháp đã được áp dụng và có kết quả tốt trong
giáo dục đạo đức cho học sinh.
Sáng kiến có thể áp dụng rộng rãi với tất cả các trường THCS vì tất cả
các bước thực hiện trong sáng kiến này đều phù hợp với điều kiện của đối
tượng giáo dục là các em học sinh THCS.
Khi nhiệm vụ giáo dục đạo đức của nhà trường được thực hiện thành công
sẽ đem lại nhiều lợi ích: Bản thân học sinh sẽ có tính tự giác cao mọi nơi mọi
lúc. Các em tạo cho mình ý thức học tập tốt từ đó nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện. Người quản lý khi áp dụng những phương pháp quản lý mới này sẽ
tạo cho nhà trường sự thống nhất cao trong giáo dục vì nhiệm vụ giáo dục là sự
tổng hòa các nhân tố, các lực lượng giáo dục cùng thống nhất mục tiêu sẽ tạo
được hiệu quả giáo dục cao.
4. Giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
Qua một quá trình áp dụng sáng kiến có thể khẳng định chất lượng giáo
dục đạo đức trong trường đã có sự chuyển biến rõ rệt. Các em học sinh thuộc
đối tượng học sinh cá biệt giảm hẳn. Ý thức đạo đức đại đa số học sinh ngoan
hơn. Học sinh xếp loại hạnh kiểm tốt và khá tăng so với những năm học trước.
Số học sinh xếp loại hạnh kiểm trung bình giảm.
5. Đề xuất, kiến nghị để mở rộng sáng kiến:

Để sáng kiến được mở rộng, đề nghị tất cả các lực lượng giáo dục phải có
sự phối hợp nhịp nhàng. Các cấp quản lý tạo mọi điều kiện đầu tư môi trường
giáo dục tốt cho các nhà trường.
3


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
1.1. Hoàn cảnh khách quan:
Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,thời
đại đỉnh cao của trí tuệ, khoa học và công nghệ. Trong những năm gần đây, xu
thế toàn cầu hóa, hội nhập thế giới đã mở cho Việt nam những vận hội mới.
Bên cạnh việc phát triển đất nước theo đà hội nhập, công tác giáo dục đã được
Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm. Chất lượng giáo dục ngày càng được
nâng cao, kết quả được đánh giá trong các nhà trường đã đi vào thực chất, đối
tượng học sinh khá giỏi trong các kì thi học sinh giỏi, thi chuyển cấp có nhiều
chuyển biến tốt. Tuy vậy, theo đà phát triển chung của xã hội, nhiều tệ nạn
cũng theo đó nảy sinh. Tình trạng một số học sinh mắc vào các tệ nạn xã hội,
mải chơi…có xu hướng gia tăng. Số này tuy không có nhiều nhưng đã gây
băng hoại đạo đức, tha hóa nhân cách; gây những nỗi đau cho cha mẹ, ảnh
hưởng tới giá trị đạo đức truyền thống vốn luôn được xã hội trân trọng.
Giáo dục đạo đức cho học sinh là nội dung hết sức quan trọng có tính nền
tảng trong công tác giáo dục. Giáo dục đạo đức góp phần hình thành nhân cách
cho học sinh, tạo thói quen, tính kỉ luật để từ đó tạo hành trang vững chắc cho
các em bước vào cuộc sống sau này.
1.2. Hoàn cảnh chủ quan:
Trong bậc học phổ thông, giáo dục THCS là sự tiếp nối của bậc Tiểu học.
Học sinh được rèn luyện tương đối toàn diện, bản thân được trang bị những
hiểu biết ban đầu về khoa học kĩ thuật, hướng nghiệp, được rèn luyện đạo đức
tốt, tính tự giác kỉ luật đòi hỏi ở mức độ cao hơn từ đó tiếp tục chuyển tiếp lên

bậc học THPT hoặc tham gia lao động.
Tuy nhiên, lứa tuổi THCS bao gồm độ tuổi từ 11-15 tuổi. Lứa tuổi này có
một vị trí đặc biệt được gọi bằng những tên gọi “Thời kì quá độ”, “ Tuổi khủng
hoảng”, “ Tuổi khó bảo”…Những tên gọi khác nhau đó nói lên tính phức tạp và
tầm quan trọng của lứa tuổi này trong quá trình phát triển của trẻ em. Vấn đề
4


đặt ra trong trường THCS là có nhiệm vụ giáo dục học sinh phát triển trở thành
người hữu ích cho xã hội. Muốn vậy, trước hết các em phải có nhân cách đạo
đức tốt được hình thành trên cơ sở tự rèn luyện của bản thân khi được giáo dục
trong mỗi nhà trường.
Tuy vậy, thực tế hiện nay, ở hầu hết các trường THCS đều xuất hiện một
bộ phận học sinh vi phạm nội quy, mức độ vi phạm ngày càng nặng hơn. Một
bộ phận khác thì mải chơi, lười học, chưa có ý thức tự giác trong học tập…
Đây là vấn đề khiến cho các nhà quản lý băn khoăn, trăn trở tìm cách tháo gỡ
làm thế nào để giáo dục đối tượng học sinh này.
Trước thực trạng là một trường THCS miền núi còn gặp nhiều khó khăn,
trình độ nhận thức của học sinh và phụ huynh còn có những hạn chế, làm thế
nào để chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh ngày càng được nâng cao là
vấn đề mà bản thân là người làm công tác quản lý như chúng tôi hết sức quan
tâm.
Chính từ hoàn cảnh cụ thể như trên, với kinh nghiệm quản lý đã nhiều
năm, tôi đã đúc kết lại một số biện pháp quản lý chỉ đạo giáo dục đạo đức cho
học sinh cấp THCS. Mục đích của sáng kiến là từ những thực tế được trải
nghiệm, mong muốn kinh nghiệm được nhân rộng, từ đó nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện cho học sinh.

2. Cơ sở lý luận của vấn đề:
5



Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ,thời
đại đỉnh cao của trí tuệ, khoa học và công nghệ.Trong sự nghiệp phát triển
chung của đất nước thì giáo dục đào tạo có một vai trò vô cùng quan trọng.
Nhiều thập kỷ qua, Đảng ta luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục, coi đây là nhiệm
vụ trọng tâm mang tính chất quốc sách được đặt lên hàng đầu. Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 điều 61 nêu rõ: " Phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài".
Thực trạng của giáo dục và đào tạo cũng được Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 8 khoá XI đánh giá: “ Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp
so với yêu cầu nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo
dục và đào tạo còn thiếu liên thông giữa các trình độ và các phương thức giáo
dục đào tạo…Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh
doanh và nhu cầu của thị trường lao động, chưa chú trọng đúng mức việc giáo
dục đạo đức, lối sống và kĩ năng làm việc…”
Phần II- 1.Mục tiêu tổng quát chỉ rõ: “ Tạo chuyển biến căn bản, mạnh
mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con
người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng
sáng tạo của mỗi cá nhân, yêu gia đình, yêu tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và
làm việc hiệu quả”.
Điều đó chứng tỏ Đảng ta đánh giá rất cao vai trò vị trí của ngành giáo dục
đào tạo trước nhu cầu phát triển nhanh chóng của nền kinh tế - xã hội đất nước.
Trong thực tế hiện nay của đất nước, công tác quản lý chỉ đạo để nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, đào tạo được những con người mang nhân
cách tòan diện có đủ cả “đức” và “tài” là vấn đề được lãnh đạo các cấp hết sức
quan tâm.
Trong “ Luật giáo dục” của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam số 38/2005/QH 11 ngày 14 tháng 06 năm 2005 quy định rõ về mục
6


tiêu giáo dục “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc”.
Bác Hồ từng dạy “Dạy cũng như học phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là
đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc quan trọng. Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ
không phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ không phải là cuộc
sống xã hội bình thường, ổn định…”
Chính từ xác định mục tiêu quan trọng trong giáo dục đạo đức nhân cách
cho học sinh mà Đảng ta chủ trương: “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục
tư tưởng đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác- Lê Nin, đưa việc giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với từng lứa tuổi và bậc học…”
Chúng ta không thể đẩy công cuộc xây dựng đất nước trên cơ sở một nền
giáo dục yếu kém. Nhiệm vụ của công tác giáo dục là phải đào tạo thế hệ trẻ
thành những con người mới XHCN có đạo đức trong sáng , có ý chí kiên cường
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có kiến thức văn hoá, làm chủ tri thức khoa học
công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong
công nghiệp, có tính tổ chức kỉ luật cao,có sức khoẻ, là những người thừa kế
xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời dạy của Bác Hồ.
Năm học 2014- 2015 nghành Giáo dục và Đào tạo tiếp tục thực hiện có
hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và
sáng tạo” và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”. Một nhiệm vụ trọng tâm nữa là tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động giáo dục. Để thực hiện tốt nhiệm vụ năm học thì việc nâng

cao chất lượng dạy và học trong các nhà trường, đặc biệt giáo dục đạo đức, tạo
tính kỉ luật, tự giác cho học sinh có vai trò vô cùng quan trọng. Đây chính là
nhiệm vụ trọng tâm mà các nhà trường cần phải làm tốt. Đặc biệt với những
7


trường còn gặp nhiều khó khăn như ở trường tôi thì việc quản lý chỉ đạo để
nâng cao hơn nữa chất lựơng giáo dục đạo đức học sinh là vấn đề đòi hỏi các
cấp lãnh đạo nhất là những người trực tiếp làm công tác quản lý trăn trở làm thế
nào để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Để chất lượng giáo dục đạo đức trong các
nhà trường ngày càng được nâng cao thì công tác quản lý chỉ đạo là một vấn đề
luôn được quan tâm đặc biệt. Đó chính là những lý do để tôi nghiên cứu thực
hiện sáng kiến:
“Một số biện pháp chỉ đạo giáo dục đạo đức cho học sinh ở một trường
Trung học cơ sở miền núi gặp nhiều khó khăn”.

3. Thực trạng của vấn đề:
3.1. Điều tra thực trạng:
8


3.1.1. Thực trạng đội ngũ giáo viên chủ nhiệm:
Trường chúng tôi có 17 lớp với 39 cán bộ giáo viên nhân viên. Do đặc thù
của nhà trường nên mặc dù đã có sự cân đối số tiết dạy nhưng vẫn còn có
những giáo viên nhiều tuổi làm công tác chủ nhiệm. Đây là khó khăn của
trường trong việc thực hiện một số phong trào vì đội ngũ giáo viên này sẽ có
những hạn chế nhất định. Qua điều tra và thống kê thực trạng đội ngũ giáo viên
chủ nhiệm cụ thể như sau:
TS
GVCN

17

Trình độ CM
Trên
ĐH

ĐH
0
15
2

Độ tuổi
Trên
Từ
Dưới
50
40-50
40
4
5
8

Số năm chủ nhiệm
Trên Dưới
5 năm
5 năm 5 năm
4
10
3


3.2. Thực trạng điều tra hoàn cảnh học sinh của trường:
Với đặc điểm là một trường miền núi, điều kiện kinh tế còn có nhiều khó
khăn. Học sinh thuộc đối tượng con dân tộc chiếm tới 1/5 tổng số học sinh
trong toàn trường. Để nắm chắc đặc điểm của các đối tượng học sinh, tôi đã
điều tra cụ thể thực trạng hoàn cảnh học sinh trong trường, cụ thể như sau:
Khối

Sĩ số

Nữ

6
153
71
7
162
69
8
158
75
9
179
87
TT
652
302
Đánh giá thực trạng:

Dân tộc
24

35
21
33
113

HS mồ
côi
3
2
3
4
12

Bố mẹ
li hôn
5
6
4
6
21

Hộ
nghèo
5
6
4
5
20

Khuyết

tật
0
4
0
0
4

*Thuận lợi:
Đội ngũ giáo viên đạy chuẩn 100% và trên chuẩn là 82.1%. Trong đó
nhiều giáo viên làm công tác chủ nhiệm lâu năm, có nhiều kinh nghiệm trong
giảng daỵ và giáo dục đạo đức học sinh.
Nội bộ giáo viên đoàn kết nhất trí cao. Luôn có nhận thức đúng đắn về
những nhiệm vụ được giao, thực hiện nghiêm túc đường lối chính sách của
Đảng, những nội quy, quy chế chuyên môn của nghành và của trường quy định.
9


Ban giám hiệu hết sức quan tâm đến công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh, xác định việc giáo dục đạo đức là nhiệm vụ chung của các đoàn thể kết
hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm.
Các đoàn thể: Công đoàn, Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên luôn có sự phối
kết hợp chặt chẽ trong giáo dục đạo đức học sinh.
Trường luôn được các cấp ủy Đảng chính quyền địa phương và Hội cha
mẹ học sinh quan tâm hỗ trợ và động viên trong các hoạt động.
Đối tượng học sinh của trường đa số là con em nông dân vì vậy các em
tương đối thuần. Trong những năm gần đây, nhận thức của phụ huynh về công
tác kết hợp giáo dục đạo đức học sinh đã có nhiều tiến bộ.
*Khó khăn:
Địa bàn quản lý của trường tương đối rộng. Giáo viên được phân công làm
công tác chủ nhiệm có một số còn khó khăn do nhiều tuổi, một số nhà xa

trường, con nhỏ, do vậy việc đến gia đình học sinh để tìm hiểu cụ thể hoàn
cảnh còn một số hạn chế.
Về phía học sinh: Với thực tế là một trường THCS miền núi, nhiều gia
đình học sinh còn gặp hoàn cảnh khó khăn. Do mồ côi cha(mẹ), hoặc bố mẹ li
hôn dẫn đến con phải ở cùng ông bà. Chính vì vậy việc quan tâm chăm sóc có
nhiều hạn chế. Học sinh không chỉ khó khăn về điều kiện vật chất mà đời sống
tình cảm của các em ngay từ nhỏ đã thiếu thốn nặng nề. Có những em sinh ra
mới chỉ mấy tháng tuổi nhưng chỉ vì mâu thuẫn gia đình mà không được sống
cùng mẹ. Có những em vì hoàn cảnh gia đình nên bố mẹ đều đi làm ăn xa gửi
con cho ông bà nuôi và gần như bố mẹ phó mặc cho ông bà. Bản thân các em
không được sự quan tâm từ nhỏ nên khi lên đến bậc học THCS đã trở nên khó
giáo dục, một số em cũng vì thế mà trở thành những học sinh cá biệt, thường
xuyên vi phạm đạo đức, coi thường kỉ luật của trường lớp, không biết yêu
thương những người thân quanh mình. Một số gần như trở thành vô cảm, rất
khó giáo dục.
10


Mặt khác, do mô hình gia đình ít con nên nhiều phụ huynh đã nuông chiều
con quá mức, từ đó dẫn đến các em không có tính tự lập, không có ý thức vươn
lên.
Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh của trường trong những năm gần
đây đã có những chuyển biến. Tuy vậy, đối tượng học sinh vi phạm kỉ luật vẫn
còn, số học sinh xếp loại hạnh kiểm Trung bình vẫn còn tỉ lệ khá cao trên tổng
số học sinh toàn trường.
Công tác giáo dục học sinh chậm tiến đã được nhà trường hết sức quan
tâm song đối tượng học sinh này còn một số chuyển biến chậm.
3.3. Phân tích nguyên nhân:
3.3.1. Nguyên nhân khách quan:
Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế nước ta đã có những bước phát

triển vượt bậc, đời sống người dân được nâng cao thì đồng thời cũng xuất hiện
những mặt trái của cơ chế thị trường xâm nhập. Đây đó còn có những hiện
tượng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, thích chạy theo lối sống thực
dụng, thậm chí những biểu hiện vi phạm luật pháp đã bắt đầu có dấu hiệu. Đặc
biệt, do cơ chế thị trường, các tệ nạn xã hội cũng từ đó nảy sinh và xâm nhập
vào học đường.
Có những học sinh do quá ham mê những trò chơi trên mạng Internet nên
không còn để tâm đến việc học tập. Trong đầu các em chỉ nghĩ đến việc nói dối
cha mẹ, thầy cô để chơi game, đánh điện tử, không thiết tha với việc học tập.
Một số gia đình thiếu sự quan tâm không có sự kết hợp giáo dục tốt giữa
nhà trường với gia đình nên khi con hư, cha mẹ thiếu trách nhiệm gây khó khăn
cho việc giáo dục đạo đức học sinh.
3.3.2. Nguyên nhân chủ quan:
Do chưa có sự uốn nắn từ nhỏ nên bản thân một số học sinh còn ý thức
kém, chưa có nhận thức đúng đắn về động cơ, mục đích học tập. Từ việc xao
nhãng học tập, các em bị hổng kiến thức và từ đó không hiểu bài dẫn đến lười
học. Một số khác do hoàn cảnh gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha
11


mẹ. Bản thân các em do bị thiếu thốn tình cảm nên sinh ra chây ì, mất tình
cảm, cảm xúc.
Một mặt khác, một số gia đình nhận thức chưa đúng đắn về giáo dục đạo
đức cho con em nên hoặc là phó mặc cho các thầy cô, hoặc là nuông chiều dẫn
đến khi học sinh có biểu hiện vi phạm đạo đức không có sự kết hợp để giáo dục
vì vậy các em chưa có những chuyển biến.
Cũng phải nhìn nhận một nguyên nhân khác là đại đa số giáo viên chủ
nhiệm nhiệt tình, trách nhiệm với công tác giáo dục đạo đức học sinh, khi có
những biểu hiện vi phạm đã phát hiện kịp thời và nghiêm khắc xử lí. Song vẫn
còn cá biệt một số giáo viên chủ nhiệm chưa kiên quyết trong xử lý vi phạm

trước những biểu hiện vi phạm đạo đức của học sinh. Một số vẫn chưa thực sự
“vào cuộc” trước những phong trào khi nhà trường phát động nhằm thúc đẩy ý
thức của học sinh. Từ đó dẫn đến tâm lý học sinh không nhiệt tình trong các
phong trào được phát động.

4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện:
12


Chất lượng giáo dục đạo đức phụ thuộc và nhiều yếu tố trong đó vai trò
của giáo viên là rất quan trọng, nhất là trong tình hình thực hiện việc đổi mới
nâng cao chất lượng của giáo dục hiện nay. Đứng trước thực trạng như đã phân
tích ở trên, để đạt được yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, từ đó
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện theo tinh thần chỉ đạo của ngành chúng
tôi đã tiến hành một số biện pháp sau:
4.1. Nâng cao nhận thức cho giáo viên về giáo dục đạo đức.
Nâng cao nhận thức cho giáo viên về giáo dục đạo đức cho học sinh
không phải là vấn đề mới nhưng luôn là một nội dung quan trọng để xác định
con đường đi đúng dẫn tới đích cuối cùng là nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức, từ đó nâng cao chất lượng dạy học. Chính vì vậy tôi đã tích cực tham mưu
với Ban giám hiệu nhà trường triển khai thực hiện tốt một số hoạt động sau:
- Đầu năm học thực hiện nghiêm túc việc học nhiệm vụ năm học của
nghành, của cấp THCS.
- Chỉ đạo giáo viên tham gia nghiêm túc, có chất lượng các buổi hội thảo
do Phòng giáo dục tổ chức, đặc biệt hội thảo về công tác chủ nhiệm.
- Hàng năm nhà trường đã quán triệt sâu sắc đường lối phương châm giáo
dục của Đảng và ngành về đổi mới công tác giáo dục, coi trọng công tác giáo
dục tư tưởng chính trị lên hàng đầu. không ngừng nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá
cho đội ngũ giáo viên, tăng cường bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên thường

xuyên đổi mới phương pháp dạy học, khắc phục tư tưởng ỷ lại và rập khuôn
máy móc. Chú ý đặc biệt trong chỉ đạo giáo dục đạo đức coi đây là nhiệm vụ
chính trị của trường trong năm học.
4.2. Xây dựng kế hoạch quản lí giáo dục đạo đức:
Việc xây dựng kế hoạch rất quan trọng trong công tác chỉ đạo. Để xây
dựng được kế hoạch giáo dục đạo đức đòi hỏi lãnh đạo nhà trường phải nghiên
cứu kĩ các văn bản quy định của nghành,bám sát nhiệm vụ năm học và phù hợp
13


với điều kiện tình hình của trường. Ngay từ đầu năm học, tôi đã tham mưu
cùng Ban giám hiệu xây dựng kế hoạch quản lý giáo dục đạo đức gồm:
- Kế hoạch năm học
- Kế hoạch thực hiện trong từng học kì
- Kế hoạch tháng.
- Kế hoạch hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
- Kết hợp chỉ đạo trong xây dựng kế hoạch hoạt động của Đoàn thanh
niên, Đội thiếu niên.
Trong các kế hoạch có sự bàn bạc thống nhất chỉ tiêu giáo dục đạo đức:
- Xếp loại hạnh kiểm Tốt
- Xếp loại hạnh kiểm Khá
- Xếp loại hạnh kiểm Trung bình
Nội dung trong kế hoạch cần rõ các mục:
- Đặc điểm tình hình.
- Đánh giá thuận lợi, khó khăn.
- Phân công thực hiện.
- Yêu cầu- Biện pháp thực hiện.
- Đánh giá kết quả thực hiện.
4.3. Đổi mới chỉ đạo công tác chủ nhiệm:
Trong giáo dục đạo đức học sinh ở trường THCS, đặc biệt lại là một

trường miền núi như trường tôi thì vai trò của giáo viên chủ nhiệm quan trọng
hơn bao giờ hết. Có thể nói rằng thầy cô có vai trò như người mẹ thứ hai trong
việc uốn nắn, giáo dục đạo đức cho học sinh từ những kĩ năng sống đơn giản
nhất. Chính từ xác định vai trò quan trọng đó mà tôi đã kết hợp với Ban giám
hiệu có những biện pháp chỉ đạo công tác chủ nhiệm như sau:
4.3.1. Đổi mới quản lý chỉ đạo:
- Ngay từ tháng tám, sau khi nghỉ hè, Ban giám hiệu đã có kế hoạch trong
phân công công tác chủ nhiệm lớp. Cần thực hiện tốt việc phân công giáo viên
14


chủ nhiệm, chọn giáo viên có năng lực, nhiệt tình, chú ý đến những lớp có học
sinh cá biệt, lớp 6 và lớp 9.
- Ban giám hiệu tạo điều kiện, hỗ trợ giúp đỡ giáo viên chủ nhiệm thực
hiện tốt nhiệm vụ, quyền lợi của GVCN được quy định trong Điều lệ trường
phổ thông.
- Thống nhất chỉ tiêu phấn đấu rèn luyện hạnh kiểm phù hợp với đặc điểm,
tình hình của lớp.
- Có biện pháp kịp thời với những biểu hiện vi phạm đạo đức của HS.
- Ban giám hiệu kiểm tra việc quản lý nền nếp lớp chủ nhiệm, ghi chép
cập nhật Sổ chủ nhiệm. Phân công dự giờ sinh hoạt với các lớp.
4.3.2. Thống nhất nhiệm vụ với giáo viên chủ nhệm:
Để việc quản lý giáo dục trong nhà trường đạt kết quả, cần giúp giáo viên
nhận thức việc giáo dục đạo đức học sinh là một việc làm hết sức quan trọng,
nhất là trong giai đoạn hiện nay. Việc thống nhất mục tiêu trong giáo dục đạo
đức cho học sinh là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Khi giáo viên
đã xác định rõ mục tiêu giáo dục sẽ có những biện pháp giáo dục phù hợp với
đối tượng học sinh và việc giáo dục mới đem lại hiệu quả. Ban giám hiệu chỉ
đạo giáo viên chủ nhiệm làm tố các nhiệm vụ:
- Khi bắt đầu nhận nhiệm vụ, GVCN cần nắm bắt hoàn cảnh cụ thể của

học sinh lớp chủ nhiệm thông qua phiếu điều tra. Nghiên cứu lý lịch, hồ sơ của
học sinh.
- Thường xuyên kết hợp với các giáo viên bộ môn, nắm bắt cụ thể tình
hình lớp chủ nhiệm.
- GVCN tổ chức tốt các buổi họp phụ huynh được trường tổ chức (đầu
năm, hết kì I, cuối năm).
- Bố trí thời gian phù hợp đến gia đình học sinh để tìm hiểu cụ thể hoàn
cảnh một số em có hoàn cảnh đặc biệt, những đối tượng học sinh cá biệt.
- Ban giám hiệu chỉ đạo GVCN ghi chép đầy đủ Sổ chủ nhiệm, sử dụng sổ
liên lạc trao đổi thường xuyên với gia đình học sinh.
15


4.3.3. Thay đổi hình thức quản lý học sinh:
Nếu như trước đây, giáo viên chủ nhiệm còn nặng về trách phạt với những
học sinh vi phạm thì với mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức học
sinh, giáo viên cần thay đổi hình thức quản lý học sinh.
Đã có những giáo viên chủ nhiệm thay đổi hình thức kỷ luật trách phạt
theo lối truyền thống bằng hình thức “ kỷ luật tích cực”. Các em có biểu hiện vi
phạm đạo đức được gặp gỡ trao đổi riêng. Các em được gặp gỡ, chia sẻ, tư vấn
về tâm lý. Các em cũng sẽ được cung cấp để hiểu rõ hơn những văn bản trong
đó có quy định về quyền và nghĩa vụ của học sinh, những điều học sinh không
được làm. Bên cạnh đó cũng được biết những quy định về các hành vi bị xử lý
kỷ luật và mức độ kỷ luật tương ứng. Tùy theo từng đối tượng học sinh mà Ban
giám hiệu có hướng chỉ đạo hình thức giáo dục này.
4.3.4. Đổi mới hình thức tổ chức giờ sinh hoạt lớp:
Trước đây, hình thức tổ chức một giờ sinh hoạt lớp của giáo viên chủ
nhiệm còn mang tính chất chiếu lệ, Ban giám hiệu thường giao cho giáo viên
chủ nhiệm, ít khi kiểm tra chất lượng. Khi nhận thức tầm quan trọng của việc
giáo dục đạo đức cho học sinh qua giờ sinh hoạt tôi đã cùng Ban giám hiệu chỉ

đạo cụ thể hình thức tổ chức sinh hoạt lớp của giáo viên chủ nhiệm. Để có một
tiết sinh hoạt lớp hiệu quả, chủ nhiệm lớp phải xây dựng nội quy, biểu điểm thi
đua ngay từ đầu năm học. Đội ngũ cán bộ lớp và các tổ trưởng cần có sự theo
dõi chính xác, nhận xét cụ thể các cá nhân trong tiết sinh hoạt. Mỗi tiết sinh
hoạt phải có đánh giá xếp loại và tuyên dương cá nhân tiến bộ, nhắc nhở phê
bình những cá nhân chưa tiến bộ. Những nội dung trên được giáo viên chủ
nhiệm hướng dẫn cán bộ lớp thực hiện, tạo cho các em nền nếp tự quản. Giáo
viên đóng vai trò cố vấn, có những ý kiến nhận xét, đánh giá mang tính chất kết
luận trong giờ sinh hoạt. Tránh biến tiết sinh hoạt lớp thành giờ trách phạt, tạo
tâm lý nặng nề cho học sinh. Giáo viên chủ nhiệm cần linh hoạt trong tổ chức,
tạo cho học sinh tâm lý vui vẻ, thoải mái.
16


4.4. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức thông qua việc lồng ghép vào
giảng dạy các môn học.
Truyền thống dạy học của dân tộc Việt nam là “Tiên học lễ, hậu học văn”
Không nên tách rời việc truyền thụ kiến thức với việc giáo dục đạo đức vì dạy
văn hóa và giáo dục đạo đức có mối quan hệ qua lại mang tính chất hỗ trợ, tác
động cho nhau hết sức chặt chẽ trong chương trình Trung học cơ sở. Việc giáo
dục đạo đức cho học sinh qua các môn học là quá trình thường xuyên, mỗi môn
học thầy cô đều có thể lồng ghép vào đó những bài học đạo đức. Cụ thể có thể
lấy ví dụ qua một số môn học:
4.4.1. Môn giáo dục công dân.
Nếu ở bậc Tiểu học, học sinh chỉ được học những kiến thức mang tính
chất cơ bản, ban đầu về đạo đức thì ở bậc THCS các em được học môn giáo
dục công dân. Môn Giáo dục công dân giữ vai trò chủ chốt trong việc giáo dục
cho học sinh ý thức và hành vi của người công dân, góp phần hình thành và
phát triển ở các em những phẩm chất và năng lực cần thiết của công dân trong
một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Môn Giáo dục công dân không

những trang bị cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản phù hợp với
lứa tuổi về thế giới quan Khoa học và nhân sinh quan tiến bộ, các giá trị đạo
đức, pháp luật, lối sống mà cần hình thành và phát triển ở các em những tình
cảm, niềm tin, những hành vi và thói quen phù hợp với những giá trị đã học,
giúp học sinh có sự thống nhất cao giữa ý thức và hành vi. Chương trình môn
Giáo dục công dân ở trong trường THCS đã được sắp xếp với những nội dung
phù hợp, đặt học sinh trong các mối quan hệ: quan hệ với bản thân, quan hệ với
người khác, quan hệ với công việc và quan hệ với cộng đồng, đất nước, nhân
loại. Ngoài ra còn giúp học sinh nắm được nội dung các quyền và nghĩa vụ của
công dân, quyền và trách nhiệm của nhà nước.
Để chỉ đạo đánh giá việc học tập môn giáo dục công dân gắn với rèn luyện
đạo đức của học sinh người quản lý yêu cầu giáo viên cung cấp cho học sinh
nắm được đầy đủ những nội dung kiến thức được học trong chương trình, có
17


vận dụng và liên hệ phù hợp, thiết thực. Các tình huống giáo viên đưa ra để học
sinh đánh giá, liên hệ phải phù hợp với tình hình địa phương, nhà trường. Việc
đánh giá kết quả của môn học Giáo dục công dân được kết hợp trong quá trình
đánh giá đạo đức, hạnh kiểm học sinh
4.4.2. Môn Ngữ văn:
Chương trình Ngữ văn cấp THCS được biên soạn cung cấp kiến thức văn
học cho học sinh tương đối toàn diện với mục đích dạy học sinh tình yêu với
văn học đồng thời qua văn bản gắn với những bài học đạo đức, có liên hệ, giáo
dục, bởi “văn học là nhân học”. Chính từ xuất phát từ yêu cầu này mà đòi hỏi
giáo viên bộ môn phải bồi dưỡng cho học sinh tình yêu Tiếng Việt và hình
thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình
thành nhân cách con người Việt Nam XHCN. Từ đó có ý thức và biết ứng xử,
giao tiếp trong gia đình, trong trường học và ngoài xã hội một cách lễ phép, có
văn hoá, biết yêu quý những giá trị chân - thiện – mĩ, biết khinh ghét những cái

xấu xa, độc ác, giả dối, giáo dục lòng yêu quê hương đất nước được phản ánh
trong các văn bản đã học, đã đọc.
4.4.3.Môn Lịch sử:
Truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam thật đáng tự hào. Những trang
sử ấy đã đi cùng năm tháng và được ghi lại trong những bài học lịch sử hết sức
hấp dẫn trong chương trình. Với vai trò là một cán bộ quản lý, trước hết tôi yêu
cầu giáo viên dạy bộ môn phải nghiên cứu kỹ chương trình nội dung sách giáo
khoa, chú ý những bài lịch sử địa phương. Tuyệt đối không tạo cho học sinh
xem nhẹ môn học, luôn tìm những phương pháp dạy học phù hợp, mạnh dạn áp
dụng đổi mới phương pháp giảng dạy. Từ những bài học liên quan đến các di
tích lịch sử của địa phương như Côn Sơn, Kiếp Bạc...liên hệ tình yêu, lòng tự
hào với lịch sử địa phương. Đã có nhiều học sinh yêu thích môn học Lịch sử vì
bản thân giáo viên bộ môn đã truyền đến học sinh tình yêu với môn học.

18


4.4.4. Môn Địa lý:
Môn học Địa lý giúp học sinh yêu quý Trái đất, môi trường sống của con
người, có ý thức bảo vệ các thành phần tự nhiên của môi trường. Tham gia tích
cực vào các hoạt động bảo vệ, cải tạo môi trường trong trường học, ở địa
phương nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình, cộng đồng. Giáo viên
bộ môn luôn có ý thức trách nhiệm gắn liên hệ nội dung bài học với thực tiễn
cung cấp cho học sinh hiểu biết về hiện tượng biến đổi khí hậu và có ý thức
trong bảo vệ môi trường.
4.4.5. Môn Âm nhạc - Mỹ thuật:
Môn Âm nhạc và Mỹ thuật là những môn học có tính chất đặc trưng nhằm
phát triển trí tuệ, bồi dưỡng tình cảm trong sáng, lành mạnh hướng tới cái hay,
cái đẹp.Các môn học này với mục đích tạo cho học sinh phát triển toàn diện kết
hợp trong đó giáo viên cần tạo tâm lý vui vẻ, thoải mái cho học sinh học tập.

Việc chỉ đạo giáo dục đạo đức cho học sinh lồng ghép trong các môn học
là việc làm thường xuyên. Người cán bộ quản lý cần phải dựa vào kế hoạch đã
xây dựng chỉ đạo từng nhóm chuyên môn tổ chức lồng ghép giáo dục đạo đức
vào từng môn học, từng bài học. Các giáo viên khi soạn bài phải đưa nội dung
giáo dục đạo đức vào ngay mục tiêu của bài học và phải thể hiện trong giáo án
của từng bài, học sinh phải liên hệ bản thân trong từng bài.
Khi dự giờ, kiểm tra giáo án, dự sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn cán bộ
quản lý cần đánh giá xem giáo viên đã đưa nội dung giáo dục đạo đức vào bài
giảng, giáo án chưa để có biện pháp nhắc nhở điều chỉnh.
4.5. Quản lý việc giáo dục đạo đức thông qua các hình thức hoạt động
ngoài giờ lên lớp.
Giáo dục ngoài giờ lên lớp là tạo một sân chơi lành mạnh cho học sinh. Ở
trường Trung học cơ sở, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp rất phong phú đa
dạng. Giáo dục đạo đức thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
nhằm củng cố phát triển các hành vi, thói quen tốt trong học tập, lao động và
công tác xã hội, phát triển, bồi dưỡng thái độ tự giác, tích cực tham gia các hoạt
19


động tập thể và hoạt động xã hội, hình thành tình cảm chân thành, niềm tin
trong sáng với cuộc sống, với quê hương đất nước, có thái độ đúng đắn đối với
các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Để tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp đạt kết quả như mong
muốn, việc xây dựng kế hoạch là rất cần thiết. Kế hoạch phải được xây dựng cụ
thể theo từng tháng, từng tuần, theo các chủ điểm phù hợp. Ban giám hiệu cần
chọn cách thức hoạt động phù hợp với điều kiện của nhà trường và phát huy tối
đa hiệu quả trong việc kết hợp giáo dục đạo đức cho học sinh.
Cán bộ quản lý cần dựa trên kế hoạch đã xây dựng chỉ đạo cụ thể từng
hoạt động, yêu cầu giáo viên đưa nội dung giáo dục đạo đức thông qua các hoạt
động trên. Ở từng hoạt động, Ban giám hiệu cần định hướng cho các ban ngành

xây dựng kế hoạch nhằm đạt mục tiêu giáo dục tư tưởng - đạo đức.
4.6. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức thông qua việc phối hợp các lực
lượng giáo dục.
a. Phối kết hợp với gia đình và hội cha mẹ học sinh:
* Thành lập Hội cha mẹ học sinh.
Để việc giáo dục đạo đức học sinh đạt được hiệu quả tốt, một công tác
quan trọng là có sự kết hợp nhịp nhàng với gia đình và hội cha mẹ học sinh.
Đầu năm học, Ban giám hiệu thống nhất chỉ đạo họp phụ huynh học sinh.
Kịp thời kiện toàn Chi hội trưởng cha mẹ học sinh các lớp và Ban chấp hành
Hội. Nhà trường cần tổ chức tốt cuộc họp phụ huynh từ 2 – 3 lần/năm.
* Thông qua sổ liên lạc.
- Ban giám hiệu chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm sử dụng có hiệu quả tác dụng
của sổ liên lạc. Hàng tháng, giáo viên thông báo tới các bậc cha mẹ học sinh về
tình hình học tập, rèn luyện, ý thức từng em. Ngược lại phụ huynh cũng thông
qua sổ liên lạc ghi lại nhận xét tình hình của con em mình ở nhà. Qua đó người
giáo viên có những biện pháp giáo dục phù hợp với từng học sinh.

20


* Thông qua các buổi họp phụ huynh.
- Trước khi tổ chức họp phụ huynh toàn trường cần chuẩn bị tốt họp Ban
chấp hành Hội cha mẹ học sinh. Tất cả nội dung cần truyền đạt tới phụ huynh
được thống nhất trong buổi họp Ban chấp hành hội. Tại các buổi họp phụ
huynh , nhà trường thông báo tới các bậc phụ huynh nội quy, quy định về học
tập, nề nếp của nhà trường để các bậc phụ huynh đôn đốc học sinh thực hiện.
- Ban giám hiệu chỉ đạo họp phụ huynh các lớp. Mỗi giáo viên chủ nhiệm
sẽ thông qua với gia đình về các chuẩn mực đạo đức mà học sinh phải đạt được
ở từng lứa tuổi. Phụ huynh trao đổi với giáo viên về việc rèn luyện đạo đức của
từng em. Với những học sinh có cá tính, giáo viên cần trao đổi cụ thể với gia

đình nắm được đặc điểm tâm lý của từng em. Kết hợp với gia đình có các biện
pháp cụ thể để giáo dục học sinh
- Nhà trường tuyên truyền cho các bậc cha mẹ học sinh cần quan tâm hơn
nữa đến đời sống tình cảm của học sinh. Tạo cho các em có góc học tập: Có tủ
sách, có một môi trường sống lành mạnh. Cha mẹ, anh chị, em có mối quan hệ
thân thiết, quan tâm đến nhau từ đó có tác dụng tới việc hình thành nhân cách
cho các em.
b. Thông qua các đoàn thể khác ở địa phương.
Địa bàn học sinh trường quản lý tương đối rộng, thuộc những thôn khu
dân cư mang những đặc điểm sinh hoạt khác nhau. Ngoài hoạt động ở trường
các em còn tham gia những tổ chức đoàn thể ở các thôn khu. Trong kỳ nghỉ hè,
mọi hoạt động của học sinh cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường
với tổ chức Đoàn thanh niên nơi cư trú. Trước nghỉ hè, giữa Liên đội và Đoàn
thanh niên địa phương phải tổ chức tốt lễ bàn giao học sinh về nghỉ hè tại địa
phương. Nhà trường yêu cầu học sinh thực hiện tốt việc tham gia sinh hoạt hè
với địa phương. Sau khi nghỉ hè, học sinh nộp lại phiếu sinh hoạt hè cho Tổng
phụ trách.
c. Phối kết hợp với các lực lượng trong nhà trường nâng cao chất lượng
giáo dục đạo đức cho học sinh.
21


Công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường THCS đòi hỏi sự tham
gia của tất cả các lực lượng giáo dục thì mới có hiệu quả cao. Với đặc điểm là
một trường THCS miền núi, mọi điều kiên còn gặp nhiều khó khăn đòi hỏi
người quản lý phải không ngừng tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ giáo
viên,các lực lượng khác trong trường thấy được trách nhiệm của mình trong
việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Người giáo viên không chỉ thực hiện nội
dung bài giảng mà phải rèn luyện cho học sinh biết áp dụng kiến thức đã học
vào thực tế. Học sinh Trung học cơ sở đã có ý thức tập làm người lớn. Chính vì

vậy mỗi giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh học tập và noi theo,thể
hiện trong lời nói, cách ứng xử, thái độ trong giao tiếp giữa giáo viên với giáo
viên, giáo viên với học sinh, giáo viên với các tầng lớp nhân dân. Mỗi giáo viên
cần có thái độ kiên quyết với những học sinh có biểu hiện hành vi thiếu văn hóa
và cùng có trách nhiệm phối kết hợp cộng đồng trong việc giáo dục đạo đức
cho học sinh.
4.7. Kiểm tra – đánh giá các hoạt động.
Kiểm tra đánh giá là một việc làm hết sức quan trọng trong công tác quản
lý. Đối với công tác chỉ đạo quản lý giáo dục đạo đức học sinh, cần có sự đánh
giá kết quả những gì đã làm được và chưa làm được, rút kinh nghiệm để điều
chỉnh hoạt động cho phù hợp. Ban giám hiệu luôn chú ý đến việc theo dõi mức
độ tiến bộ của học sinh cá biệt trong từng lớp. Đặc biệt phải có sự đối chiếu chỉ
tiêu hạnh kiểm đạt được qua mỗi kì, mỗi năm học. Đánh giá cụ thể những giáo
viên chủ nhiệm tích cực nhiệt tình để từ đó động viên khen ngợi kịp thời.
Mối quan hệ giữa các biện pháp:
Các biện pháp trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Muốn quản lý tốt
cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể. Trên cơ sở kế hoạch đã xây dựng, cán bộ
quản lý tổ chức thực hiện các biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh. Sau khi
tổ chức thực hiện, người cán bộ có thể kiểm tra đánh giá, rút kinh nghiệm từ
hoạt động. Để từ đó có thể điều chỉnh kế hoạch của những hoạt động sao cho
phù hợp.
22


5. Kết quả đạt được:
Sau khi nắm được thực trạng giáo dục của trường mình, bằng các giải
pháp trên. Qua thực tế đối chiếu chất lượng giáo dục đạo đức trong các năm
học đã đạt được các kết quả sau:
5.1. Hạnh kiểm đạt được năm học 2011 – 2012
h¹nh kiÓm

Khối

Sĩ số

Tốt

Khá

Trung bình

SL

%

SL

%

SL

%

6

170

139

81.8


28

16.5

3

1.7

7

166

125

75.3

38

22.9

3

1.8

8

147

114


77.6

30

20.4

3

2.0

9

178

146

82.0

30

16.9

2

1.1

TT

661


524

79.3

126

19

11

1.7

Yếu
SL

%

5.2. Hạnh kiểm đạt được học kì I năm học 2012 – 2013
h¹nh kiÓm
Khối

Sĩ số

Tốt

Khá

Trung bình

SL


%

SL

%

SL

%

6

159

132

83

25

15.7

2

1.3

7

187


141

75.4

41

21.9

5

2.7

8

158

128

81

28

17.7

2

1.3

9


166

136

81.9

29

17.5

1

0.6

TT

670

537

80.1

123

18.4

10

1.5


5.3. Hạnh kiểm đạt được năm học 2013 – 2014:
23

Yếu
SL

%


h¹nh kiÓm
Khối

Sĩ số

Tốt

Khá

Trung bình

6

156

SL
128

%
82.1


SL
25

%
16

SL
3

%
1.9

7

161

121

75.2

38

23.6

2

1.2

8


190

153

80.5

34

17.9

3

1.6

9

139

124

89.2

14

10.1

1

0.7


TT

646

526

81.4

111

17.2

9

1.4

Yếu
SL

Như vậy, bằng sự nỗ lực khắc phục mọi khó khăn, trong điều kiện của
nhà trường, bước đầu việc giáo dục đạo đức học sinh đã thu được những kết
quả nhất định. Tạo chuyển biến trong nhận thức của học sinh. Từ việc giáo dục
đạo đức cho học sinh có chuyển biến tốt dẫn đến kết quả học tập có tiến bộ.
6. Những điểm còn hạn chế:
Bên cạnh những kết quả đạt được bản thân tôi thấy vấn đề này còn những
hạn chế sau:
1. Học sinh.
- Do đặc điểm là một địa phương miền núi,có nhiều em hoàn cảnh gia
đình gặp khó khăn, các em không được sự quan tâm giáo dục thường xuyên

nên ý thức đạo đức kém, còn biểu hiện vô lễ với thầy cô, gây gổ với bạn bè...
Việc áp dụng các phương pháp giáo dục đạo đức với đối tượng học sinh này
gặp phải khó khăn, hiệu quả chưa cao.
- Còn một số học sinh hoàn cảnh có điều kiện hơn, song lại được nuông
chiều nên mải chơi không chú tâm đến việc học tập, chưa có ý thức tự giác học
tập. Bản thân thích tự do theo ý của riêng mình, không hoà nhập với các bạn.
Đây cũng là một khó khăn trong quá trình giáo dục đạo đức.
2. Giáo viên.
- Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm chưa hoàn toàn đồng đều. Do đặc điểm của
loại hình giáo viên nên việc phân công giáo viên chủ nhiệm lớp chưa đáp ứng
đúng theo yêu cầu. Một số giáo viên chủ nhiệm còn thiếu kinh nhiệm, chưa
24

%


thực sự nhận thức đúng đắn tầm quan trọng trong giáo dục đạo đức của học
sinh. Đôi khi giáo viên chủ nhiệm không đi sâu tìm hiểu hoàn cảnh của từng
em trong lớp dẫn đến việc xử lí các tình huống sư phạm chưa hợp lý hợp tình.
Tất cả những khó khăn này là vấn đề mà những người làm quản lí như
chúng tôi băn khoăn, trăn trở, tìm cách tháo gỡ.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
25


×