Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận KTCT: Các yếu tố cấu thành thị trường vốn. Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.46 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Thị trường vốn là yếu tố cơ bản nhất của nền kinh tế hiện đại, đóng vai trò
quan trọng sống còn đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia, giá cả của
thị trường này phản ánh hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi nền
kinh tế thiếu vắng một thị trường vốn được vận hành hiệu quả; điều này cản trở
các luồng vốn đến được với những doanh nghiệp có khả năng sinh lời làm trì trệ
sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế.
So với các nước khác, Việt Nam đã chậm trễ rất nhiều trong việc định hình
và phát triển thị trường vốn. Hơn nữa, cho tới nay những vấn đề cơ bản của thị
trường này vẫn chưa được giải quyết triệt để, trong khi đó, nhu cầu của nền kinh
tế đòi hỏi phải nhanh chóng thúc đẩy quá trình tạo lập và giao lưu vốn, đặc biệt
là sớm định hình thị trường vốn ở nước ta. Là một yếu tố cấu thành đặc biệt
quan trọng của nền kinh tế thị trường và nó cũng có đầy đủ các đặc trưng của
một thị trường, nó tồn tại là khách quan và ra đời tự phát trong nền kinh tế thị
trường. Nhiệm vụ của chúng ta là phải kịp thời nắm bắt được nhu cầu khách
quan, nghiên cứu và nhanh chóng đề ra các biện pháp, chính sách kích thích
nhanh quá trình hình thành và điều chỉnh xu hướng hoạt động của thị trường
đặc biệt này vào quĩ đạo hoạt động có tổ chức và sử dụng hết các ưu thế, tác
dụng của nó đối với phát triển kinh tế - xã hội với mục đích cung ứng kịp thời
các nguồn vốn cho các nhu cầu về vốn đầu tư của nền kinh tế.
Trước thực trạng trên và nhận thức được tầm quan trọng của việc nghiên
cứu về thị trường vốn và vận dụng đối với Việt Nam, em tập trung nghiên cứu
Tiểu luận "Các yếu tố cấu thành thị trường vốn. Ý nghĩa và định hướng vận
dụng
cho
Việt
Nam."
làm
Đề
tài
tiểu


luận
môn
……………………………………………………………………………………
……………………….


NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Thị trường vốn.
Thị trường tài chính được phân chia làm 2 bộ phận : thị trường tiền tệ và
thị trường vốn. Việc phân chia này dựa vào nhiều căn cứ khác nhau, nhưng quy
lại có 2 căn cứ:
+ Dựa vào thời gian sử dụng vốn vay của người đi vay và thời gian cho
vay của người tích luỹ. Theo tiêu chuẩn này, người ta phân biệt hai loại vốn :
vốn ngắn hạn và vốn dài hạn. Các nguồn vốn ngắn hạn vận động không tập
trung chủ yếu là các phương tiện thanh toán và được quy thành đối tượng của
thị trường tiền tệ. Các nguồn vốn dài hạn vận động tập trung thành các kênh lớn
và có khối lượng lớn, để đáp ứng nhu cầu đầu tư vào sản xuất, kinh doanh và
được tụ lại trên các điểm giao dịch vốn lớn, được coi là đối tượng của thị trường
vốn.
+ Dựa vào hình thức vận động của các nguồn tài chính. Dựa vào các hình
thức này người ta phân làm hai loại: vận động gián tiếp và vận động trực tiếp.
Tương ứng với hai hình thức vận động nói trên của các nguồn vốn là hai dạng
thị trường : thị trường tiền tệ (chuyên môn hoá các công cụ tài chính gián tiếp)
và thị trường vốn (chuyên môn hoá của các công cụ tài chính trực tiếp). Các
công cụ trao đổi trên thị trường vốn là các chứng khoán, nên thị trường vốn còn
được gọi là thị trường chứng khoán (hay thị trường tư bản). Nhưng nhận định
trên chưa thống nhất vì vẫn còn tồn tại hai quan điểm đối lập nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán và thị trường vốn là
một, chỉ là tên gọi khác nhau của một khái niệm: thị trường tư bản (Capital

Market). Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản
chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. Thị trường chứng khoán
là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường
này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và cùng phản ánh các
quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản.
Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: “Thị trường chứng
khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một”.
Như vậy theo quan điểm này, thị trường chứng khoán và thị trường vốn là khác
nhau, trong đó thị trường chứng khoán chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài
chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty.
Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không
thuộc phạm vi hoạt động của thị trường chứng khoán. Các quan điểm trên đều
2


được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử
nhất định.
Tuy nhiên, quan điểm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung
của thị trường vốn hiện nay, được trình bày trong giáo trình là: “Thị trường vốn
là thị trường trong đó diễn ra việc mua bán các công cụ vay nợ dài hạn như cổ
phiếu, trái phiếu”. Nếu nhìn nhận từ bên ngoài thì thị trường vốn không chỉ là
các sự việc mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá trị từ trong tay của
một chủ thể này sang tay của một chủ thể khác một cách đơn thuần. Về thực
chất đây là quá trình vận động tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Do đó,
các quan hệ mua, bán các chứng khoán trên thị trường chứng khoán phản ánh sự
thay đổi các chủ thể sở hữu về chứng khoán. Vì vậy, thị trường vốn, xét về mặt
bản chất, phản ánh các quan hệ trao đổi mua, bán không phải một số lượng nhất
định các tư liệu sản xuất và vốn tiền mặt. Nghiên cứu thị trường vốn, chúng ta
không thể không đề cập đến những nội dung cơ bản gắn liền đến hoạt động của
thị trường chứng khoán.

2. Vai trò của thị trường vốn
2.1- Vai trò tập trung và tích tụ vốn cho đầu tư.
Đây là một kênh bổ sung vốn rất hiệu quả và nhanh chóng cho các nhà
đầu tư và các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu.
Chính phủ và các địa phương phát hành trái phiếu của Chính phủ và trái phiếu
địa phương. Nếu đem so sánh với các phương thức huy động vốn khác thì thị
trường vốn có thể huy động một cách đa dạng hơn, rộng rãi hơn với một
phương thức linh hoạt hơn.
2.2. Thị trường vốn góp phần tạo lập cơ chế đầu tư hợp lý, thúc đẩy quá
trình sử dụng vốn một cách hợp lý.
Thị trường vốn là kênh huy động vốn theo tín hiệu cơ chế thị trường, là
van điều tiết hữu hiệu các khoản vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, từ nơi sử
dụng kém hiệu quả sang nơi sử dụng vốn hiệu quả hơn.
2.3. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Hàng năm Việt Nam thu hút một lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
rất lớn từ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế của người nước ngoài thông qua
việc đầu tư vào thị trường cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng có vai trò quan trọng
thúc đẩy thị trường tài chính phát triển Tuy nhiên, dòng vốn này cũng tiềm ẩn
những rủi ro hơn so với các kênh huy động vốn nước ngoài khác.

3


2.4. Thị trường vốn tác động đến tăng trưởng tới nền kinh tế của đất
nước.
Theo các lý thuyết về đầu tư như: lý thuyết về đầu tư, lý thuyết gia tốc
đầu tư thì vốn có tác động rất lớn tới sự phát triển kinh tế. Vốn được huy động
từ rất nhiều nguồn khác nhau, trong đó có thị trường vốn tác động rất lớn tới sự
phát triển kinh tế của đất nước.

Tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư tác động tới sự tăng trưởng kinh tế.
Khi nguồn vốn đầu tư tăng thì khối lượng sản phẩm sản xuất ra tăng, từ đó làm
tăng tổng thu nhập quốc dân, làm cho GDP tăng, từ đó làm cho nền kinh tế tăng
trưởng. Tuy nhiên khi nguồn vốn đầu tư tăng đến một mức nào đó thì kinh tế
không thể tăng trưởng thêm được do nền kinh tế cũng phụ thuộc rất nhiều yếu
tố khác nhau. Kể từ khi đất nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp
sang nền kinh tế thị trường thì nguồn vốn là một điều rất quan trọng. Hiếm thấy
lần phát hành trái phiếu Chính phủ đầu tiên nào thu được thành công như của
Việt Nam là nhận định được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đưa ra.
2.5. Thị trường vốn làm đa dạng hoá các cơ hội đầu tư cho các chủ đầu
tư.
Khi chưa có thị trường vốn thì các nhà đầu tư thường không có nhiều cơ
hội đầu tư, nhất là những nhà đầu tư có quy mô vốn nhỏ, những người có vốn
nhàn rỗi. Thị trường vốn xuất hiện thì đã tạo ra rất nhiều cơ hội đầu tư cho các
nhà đầu tư.
2.6. Thị trường vốn tạo điều kiện để thực hiện các chính sách kinh tế.
Thị trường vốn có một ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế
của các nước có nền kinh tế thị trường. Thị trường vốn như một cái van điều tiết
của nền kinh tế, điều tiết từ nơi sử dụng vốn không hiệu quả sang đến nơi sử
dụng vốn có hiệu quả hơn, từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Từ khi xuất hiện
thị trường vốn thì thị trường tài chính của Việt Nam đã được ổn định rất nhiều.
2.7. Thị trường vốn là công cụ đánh giá, dự báo chu kì kinh doanh của
các doanh nghiệp của nền kinh tế.
Thị trường vốn thực sự là cầu nối giữa doanh nghiệp, nhà nước và thị
trường. Với Chính phủ thì phải ban hành những quy định và chính sách kinh tế
ngày càng hợp lý hơn, ngày càng đi sâu đi sát vào tình hình trên thị trường vốn
hơn. Đối với các doanh nghiệp thì thị trường vốn là một căn cứ rất quan trọng
trong sự phát triển kinh tế của doanh nghiệp, nhất là với các công ty cổ phần,
các công ty trách nhiệm hữu hạn có quy mô vốn hầu hết là vừa và nhỏ.


4


2.8. Thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của nhà nước.
Chính sách và hệ thống biện pháp của một nhà nước trong lĩnh vực lưu
thông tiền tệ, nhằm điều hành khối lượng cung và cầu tiền tệ bằng các biện
pháp. Thị trường vốn là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách và
cơ chế quản lí kinh tế của nhà nước, trên cơ sở vận dụng đúng đắn quy luật của
sản xuất hàng hoá và quy luật lưu thông tiền tệ.
3. Cơ cấu thị trường vốn.
Có thể phân biệt hai dạng cơ cấu của thị trường vốn căn cứ vào các bộ
phận cấu thành và vào tổ chức của thị trường vốn.
3.1. Các bộ phận cấu thành thị trường vốn.
Về mặt lý thuyết, thị trường vốn bao gồm 3 bộ phận sau đây: + Thị
trường chứng khoán Nhà nước + Thị trường trái phiếu + Thị trường cổ phiếu
Tuy nhiên, trong thực tế, ở mỗi nước, cơ cấu thị trường có khác. ví dụ, ở
Malaysia có thị trường chứng khoán Nhà nước, nhưng ở Nhật, Pháp, Anh, Mỹ
thì lại không có, mà chủ yếu là hai thị trường là thị trường trái phiếu và thị
trường cổ phiếu.
Thị trường chứng khoán Nhà nước là nơi diễn ra các hoạt động mua và
bán các chứng khoán Nhà nước (các giấy ghi nợ của Nhà nước: phiếu công trái,
tín phiếu kho bạc Nhà nước dài hạn và các chứng chỉ đầu tư). Thị trường chứng
khoán Nhà nước hoạt động tương đối ổn định và có tỷ trọng khá cao trong thị
trường chứng khoán. Có thể giải thích bằng các lý do chủ yếu như: các chứng
khoán Nhà nước có lãi suất cố định; ngân sách Chính phủ luôn bội chi và do đó
Nhà nước vay nợ của dân ngày càng nhiều và có số lượng lớn. Do đó, thị trường
này được coi là chỉ dẫn mức nợ trong nước của Chính phủ (Mỹ và Anh là hai
nước có mức nợ trong nước lớn nhất thế giới).
Thị trường trái phiếu là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua và bán các
trái phiếu (các chứng khoán có lãi suất cố định). Đây là loại thị trường gặp ít rủi

ro, mạo hiểm hơn, vì các chứng khoán để giao dịch có lãi suất cố định và có
thời hạn hoàn vốn được ấn định trước. Trường hợp công ty bị phá sản, thì trái
phiếu cũng là một món nợ mà công ty cần phải ưu tiên thanh toán trước. Nhưng
người ta ít nói đến thị trường này, vì giá cả của trái phiếu rất ít khi biến động, so
với các thị trường khác như: thị trường cổ phiếu.
Thị trường cổ phiếu là nơi thực hiện quá trình mua và bán các cổ phiếu.
Đây là thị trường có dung tích cao nhất và là hạt nhân cơ bản của thị trường
chứng khoán. Thị trường cổ phiếu gặp nhiều rủi ro và mạo hiểm, cho nên quy
mô và phạm vi hoạt động của nó cũng luôn luôn thay đổi. Thị trường này rất
5


nhạy cảm với những biến động về kinh tế như: lạm phát, khủng hoảng, thất
nghiệp, chiến tranh…Lý do cơ bản nhất để giải thích ở đây, vì lãi suất cổ phiếu
phụ thuộc vào tình hình sản xuất, kinh doanh của các con nợ – người kinh
doanh. Lợi nhuận kinh doanh càng cao, thì doanh nghiệp càng có nhiều khả
năng trả lợi tức cổ phần cao. Do đó, giá trị của doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn
đến giá trị cổ phần. Thị trường cổ phiếu thường có doanh số cao nhất về trao đổi
cổ phiếu so với các dạng thị trường khác. Vì vậy, thị trường này là bộ phận cấu
thành cơ bản của thị trường chứng khoán. Nói thị trường chứng khoán phát
triển, tức là nói đến thị trường cổ phiếu phát triển, hoặc xây dựng thị trường
chứng khoán, xét cho cùng là xây dựng và thiết lập thị trường các cổ phiếu.
3.2. Cơ cấu tổ chức của thị trường vốn.
Cơ cấu tổ chức của thị trường vốn, trước hết, gồm: hệ thống các ngân
hàng, các tổ chức tài chính khác và Sở giao dịnh chứng khoán. Thực chất, đây
chính là các tổ chức tài chính trung gian làm nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
Nói đến thị trường chứng khoán, nhiều người cho rằng đây là Sở giao dịch
chứng khoán. Thực ra các hoạt động giao dịch chủ yếu diễn ra trên Sở giao
dịch. Nhưng về mặt lý thuyết, người ta thường phân ra làm hai nấc: thị trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp.

+ Thị trường sơ cấp hay thị trường 1 (Primary Market) là thị trường phát
hành các chứng khoán hay là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị
trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát hành. Việc mua bán chứng
khoán trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc
phát hành chứng khoán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án
đầu tư hoặc chi tiêu dùng của Chính phủ, các doanh nghiệp huy động vốn trên
thị trường nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư.
+ Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 (Secondary Market) là thị
trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành nhằm
mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội.
Quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp thể hiện trên giác độ
sau:
Thứ nhất: thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của các chứng khoán đã
phát hành. Việc này làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và làm rủi ro cho
các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn trong việc sàng lọc, lựa chọn,
thay đổi kết cấu danh mục đầu tư, trên cơ sở đó làm giảm chi phí cho các nhà
phát hành trong việc huy động và sử dụng vốn. Việc tăng tính lỏng cho các
chứng khoán tạo điều kiện cho việc chuyển đổi thời hạn của vốn, từ vốn ngắn

6


hạn sang trung hạn và dài hạn, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân phối vốn
một cách hiệu quả.
Thứ hai: thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán đã được phát
hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp được xem là thị trường định giá
các công ty.
Thứ ba: thị trường thứ cấp cung cấp một danh mục chi phí vốn tương ứng
với các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở tham
chiếu cho các nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp.

Tóm lại: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có quan hệ mật thiết, hỗ
trợ lẫn nhau. Về bản chất, mối quan hệ giữa thị trường vốn sơ cấp và thị trường
vốn thứ cấp là mối quan hệ nội tại, biện chứng. Nếu không có thị trường sơ cấp
thì sẽ không có thị trường thứ cấp, đồng thời, thị trường thứ cấp lại tạo điều
kiện phát triển cho thị trường sơ cấp. Mục đích cuối cùng của các nhà quản lý là
phải tăng cường hoạt động, huy động vốn trên thị trường sơ cấp, vì chỉ có tại thị
trường này, vốn mới thực sự vận động từ người tiết kiệm sang người đầu tư, còn
sự vận động của vốn trên thị trường thứ cấp chỉ là tư bản giả, không tác động
trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn.
4. Các công cụ tham gia thị trường vốn
Công cụ thị trường vốn là công cụ nợ và cổ phần với kỳ hạn thanh toán
trên 1 năm. Chúng có dao động giá rộng hơn nhiều so với công cụ trên thị
trường tiền tệ và được coi là những đầu tư thực sự có rủi ro. Về mặt lịch sử, các
công cụ của thị trường vốn có tên chung là các chứng khoán dài hạn. Chứng
khoán dài hạn cũng có rất nhiều loại, để thuận tiện cho việc nghiên cứu, cần
thiết phải phân biệt chúng theo những đặc điểm nhất định.
Trước hết, chứng khoán là các giấy tờ có giá và có khả năng chuyển
nhượng, xác định số vốn đầu tư (tư bản đầu tư); chứng khoán xác nhận quyền
sở hữu hoặc quyền đòi nợ hợp pháp, bao gồm các điều kiện về thu nhập và tài
sản trong một thời hạn nào đó. Tuỳ theo cách chọn tiêu thức, người ta có thể
phân loại chứng khoán thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên cách phân chia
dựa vào khả năng thu nhập là chủ yếu và thường gặp. Căn cứ vào từng loại thu
nhập, chứng khoán được chia làm các loại sau: + Chứng khoán có thu nhập cố
định + Chứng khoán có thu nhập biến đổi + Chứng khoán hỗn hợp.
4.1. Chứng khoán có thu nhập cố định
Là loại chứng khoán có quyền yêu cầu thu nhập cố định, đây là loại giấy
ghi nợ có xác định tỉ lệ tiền lãi hàng năm phải trả cho người sở hữu. Thu nhập
của loại chứng khoán này không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của nhà phát
7



hành. Nó có thể là chứng khoán vô danh hoặc là chứng khoán đích danh, có thể
là tín phiếu, trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi. Đối với chứng khoán có thu nhập
cố định, lợi tức thường được trả theo quý, theo kỳ hạn nửa năm hoặc 1 năm.
Mỗi loại chứng khoán có quy định thời hạn trả lợi tức khác nhau. Nếu trong
khoảng thời gian trả lợi tức có sự thay đổi quyền sở hữu đối với các chứng
khoán này thì phần lợi tức sẽ được thanh toán cho người thụ hưởng tuỳ thuộc
thời điểm mua bán và thời điểm trả lợi tức theo quy định của pháp luật. Theo
đối tượng phát hành, chứng khoán có thu nhập cố định bao gồm những loại chủ
yếu sau: + Trái phiếu Nhà nước + Trái phiếu của chính quyền địa phương + Trái
phiếu cầm cố + Trái phiếu công nghiệp (trái phiếu công ty) + Trái phiếu ngân
hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm + Tín phiếu kho bạc Trái phiếu chính phủ:
Trái phiếu chính phủ do chính phủ hoặc những ngành đặc biệt như ngành
giao thông, bưu điện, xi măng, điện được Chính phủ uỷ quyền phát hành.
Những trái phiếu này được phát hành nhằm bù đắp sự thiếu hụt ngân sách hoặc
để xây dựng các công trình công cộng hoặc để giải quyết những khó khăn về tài
chính. Trái phiếu chính phủ được bảo đảm chắc chắn bởi uy tín của chính phủ
và tài sản của quốc gia, trái phiếu chính phủ có khả năng cầm cố và chuyển
nhượng.
Trái phiếu địa phương: là khoản vay của chính quyền địa phương (thành
phố, tỉnh hoặc vùng dân cư đối với các tổ chức và cá nhân). Bên cạnh trái phiếu
chính quyền địa phương còn huy động vốn bằng cách vay vốn của các ngân
hàng.
Trái phiếu cầm cố: là giấy ghi nợ có đảm bảo bằng tài sản cầm cố của
chính quyền địa phương đối với ngân hàng khi nhận tiền vay dài hạn. Bên cạnh
trái phiếu cầm cố (hay còn gọi là khế ước vay nợ). Khi vay dài hạn ngân hàng,
chính quyền địa phương có thể phát hành trái phiếu công cộng (vì mục đích vay
là để đầu tư cho các công trình công cộng), loại trái phiếu này tuy không ghi vật
cầm cố, nhưng trên thực tế chính quyền phải đảm bảo trả nợ bằng mọi tài sản
của mình (các nguồn thu thuế và sẽ có).

Trái phiếu công nghiệp (trái phiếu công ty) : trái phiếu công nghiệp do
các công ty cổ phần và các xí nghiệp lớn phát hành đưa vào thị trường vốn dưới
dạng những phiếu nợ và được đảm bảo bằng thu nhập hoặc tài sản của công ty.
Về nguyên tắc trái phiếu công nghiệp được phát hành với lãi suất cao hơn so
với những chứng khoán có thu nhập cố định trên trong cùng một thời điểm. Các
công ty muốn phát hành trái phiếu phải được Nhà nước cấp giấy phép (thông
qua Uỷ ban chứng khoán Quốc gia).

8


Việc phát hành trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm nhằm tạo
ra nguồn vốn tín dụng cho chính các tổ chức này hoặc cho các tổ chức tín dụng
có liên quan. Trái phiếu tín dụng và tín phiếu quỹ tiết kiệm được chia ra theo
các thời hạn khác nhau với lãi suất khác nhau. Những tín phiếu quỹ tiết kiệm
thường bị khống chế bởi giới hạn trả lãi. Mua trái phiếu ngân hàng và tín phiếu
quỹ tiết kiệm có lợi là không phải trả lệ phí và được bảo hiểm.
Tín phiếu kho bạc: là loại giấy ghi nợ của kho bạc khi huy động vốn để
bổ sung quỹ ngân sách, có thu nhập cố định có thời hạn từ 6 tháng đến 1 năm do
hệ thống kho bạc Nhà nước phát hành. Do có rủi ro thấp, tỷ lệ lợi tức của tín
phiếu kho bạc thấp hơn tỷ lệ lợi tức trên thị trường vốn trong cùng thời điểm.
Tín phiếu kho bạc được hệ thống kho bạc Nhà nước mua vào và bán ra khuôn
khổ của hoạt động thị trường mở nhằm mục đích điều chỉnh thị trường tiền tệ.
4.2. Chứng khoán có thu nhập thay đổi:
Cổ phiếu thường đại diện cho loại chứng khoán có thu nhập biến đổi. Thu
nhập do việc sở hữu cổ phiếu mạng lại gọi là cổ tức (hay lợi tức cổ phần), nó
biến động theo kết quả kinh doanh của công ty. Hình thức khác của loại chứng
khoán này là phiếu tham gia hay chứng chỉ đầu tư. Loại này khác với cổ phiếu
thông thường ở chỗ, nó không được quyền tham gia giám sát hoạt động của
công ty. Khi phát hành chứng chỉ đầu tư, công ty có thể huy động được vốn vô

thời hạn, không chịu rủi ro về chi trả lợi tức cố định như cổ phiếu ưu đãi hay
trái phiếu, song không bị pha loãng quyền kiểm soát của cổ đông.
4.3. Chứng khoán hỗn hợp:
Loại chứng khoán này vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập
cố định vừa mang tính chất cuả chứng khoán có thu nhập biến đổi. Việc phát
hành loại chứng khoán này nhằm để thích ứng với nhu cầu đặc biệt của thị
trường vốn.
5. Phân loại thị trường vốn
5.1. Thị trường vốn đầu tư gián tiếp.
Thị trường vốn đầu tư gián tiếp của Việt Nam là một thị trường đầy tiềm
năng. Các doanh nghiệp , các tổ chức tài chính nước ngoài đã chính thức nhảy
vào thị trường vốn của Việt Nam một cách nhanh chóng với một tốc độ chóng
mặt. Việt Nam cần phải có: một khung pháp lý hoàn thiện để có thể kiểm soát
được hoạt động của các doanh nghiệp qui chế, cơ sở hạ tầng để điều chuyển
nguồn vốn hịêu quả, là phải hoàn thiện hệ thống tài chính, ngân hàng, kiểm
toán.

9


5.2. Thị trường vốn quốc tế.
Việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế ngoài mục tiêu
huy động vốn cũng nhằm tạo ra một hình ảnh của Việt Nam trên thị trường vốn
quốc tế. Kinh tế của Việt Nam đã được công nhận là đổi mới; Các nhà đầu tư tỏ
ra lạc quan với việc Việt Nam được coi là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao
và ổn định thứ hai châu Á, chỉ sau Trung Quốc.
5.3. Thị trường vốn sơ cấp và thứ cấp
Căn cứ vào sự luân chuyển của nguồn vốn, có thể chia ra hai loại thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
5.3.1 Thị trường sơ cấp.

Thị trường sơ cấp đảm bảo nguồn vốn được huy động thông qua phát
hành chứng khoán ra công chúng. Thị trường sơ cấp thực sự là kênh huy động
vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Việt Nam, tại thị trường sơ cấp chỉ mới
huy động một lượng vốn cũng rất nhỏ so với quy mô đầu tư Khi nói đến thị
trường sơ cấp không thể không nói đến vai trò của các ngân hàng thương mại.
Các ngân hàng thương mại đảm nhiệm vai trò trong việc bảo lãnh phát hành
chứng khoán cho đơn vị phát hành
5.3.2. Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi thu hút các nhà đầu tư mua bán lại chứng
khoán đó từ đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán được giao
dịch. Việt Nam, Thị trường thứ cấp lại hoạt động trầm lắng, kém sôi động, tính
thanh khoản của thị trường không cao Tại thị trường thứ cấp thì việc buôn bán
các công cụ tài chính hết sức linh hoạt và biến động một cách liên tục.
5.4. Thị trường cổ phiếu, trái phiếu và chứng khoán phái sinh
Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường, có thể phân loại thị trường vốn
thành ba loại thị trường cổ phiếu, trái phiếu và chứng khoán phái sinh
5.4.1. Thị trường cổ phiếu
Muốn chọn được cách tốt nhất thì nhà đầu tư trước hết phải tìm được
thông tin cơ bản về các công cụ tài chính mà họ đang xem xét. Trong thị trường
chứng khoán thì cổ phiếu là công cụ tài chính thường được sử dụng nhất,
thường được buôn bán nhiều nhất do tính đại chúng và lượng thông tin nhiều,
được phổ biến rộng rãi.
Thứ nhất: Thị trường chứng khoán của Việt Nam mặc dù còn non trẻ
nhưng cũng đó giúp phần rất lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Và

10


được các chuyên gia nước ngoài đánh giá rất cao và được coi là thị trường đầy
tiềm năng.

Thứ hai: Trên thị trường không chính thức, các hoạt động mua bán cổ
phiếu diễn ra hết sức sôi động với nhiều loại cổ phiếu được giao dịch khá
thường xuyên, mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và được
khích lệ.
Thứ ba: Làn sóng tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ
phần. Vấn đề tăng cường nội lực tài chính. Sức mạnh từ nội lực sẽ là nguồn gốc
để tăng trưởng một cách bền vững chứ không dựa vào nguồn lực từ bên ngoài.
Thứ tư: Quá trình nhảy vào của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường
vốn ở Việt Nam. Khả năng huy động vốn từ đầu tư gián tiếp của nước ngoài
thông qua thị trường chứng khoán.
5.4.2. Thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chỉ là mới
giai đoạn đầu với sự tồn tại sơ khai của trái phiếu chính phủ. Phát hành trái
phiếu chính quyền địa phương cũng có nhiều khởi sắc.
5.4.3. Chứng khoán phái sinh
Chứng khoán phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở
những công cụ đó như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như
phân tán rủi ro, bảo vệ hoặc tạo lợi nhuận. Sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá
trị các các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu giá
của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh
vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu.
5.5. Thị trường vốn phi tập trung và tập trung
Căn cứ vào phương thức hoạt động, có thể phân thành hai loại: Thị
trường vốn phi tập trung và tập trung. Thị trường tập trung hay còn gọi là sở
giao dịch được tổ chức tập trung có địa điểm giao dịch cố định. Thị trường phi
tập trung được tổ chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định nào mà
chỉ dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế cạnh tranh và thương lượng
giữa các công ty chứng khoán với nhau thông qua một sự trợ giúp quyết định
nhiều đến hiệu quả hoạt động.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN

1. Thực trạng thị trường vốn của Việt Nam giai đoạn 2011-2015
1.1. Những kết quả nổi bật

11


Vốn đóng góp trên 53% tăng trưởng kinh tế hàng năm trong giai đoạn
2011 - 2015. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn trên tổng thể còn thấp. Chỉ số
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) bình quân giai đoạn 2011 - 2015 đạt 6,91
điểm, cao hơn đáng kể so với các quốc gia trong khu vực.
Vấn đề đặt ra là phải cải thiện hiệu quả phân bổ và sử dụng vốn xã hội
thông qua nâng cao vai trò của thị trường. Do vậy, tái cơ cấu thị trường vốn (đặt
trong tổng thể thị trường tài chính) là một trong những trọng tâm tái cơ cấu nền
kinh tế. Trong giai đoạn 2011 - 2015, tái cơ cấu thị trường vốn tập trung vào xử
lý nợ xấu, nâng cao hiệu quả hoạt động và quản trị của ngân hàng thương mại.
Sau 5 năm tiến hành tái cơ cấu thị trường vốn, có thể nhìn thấy một số kết
quả bước đầu như sau:
Một là, thị trường chứng khoán tiếp tục phát triển, ngày càng trở thành
kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng. Sản phẩm trên thị trường
chứng khoán được đa dạng hóa, đã hình thành khung pháp lý cho thị trường
chứng khoán phái sinh.
Tổng giá trị niêm yết đến cuối năm 2015 đạt 581.000 tỷ đồng, tăng hơn 2
lần so với năm 2011; giá trị vốn hóa bình quân công ty tăng 2,6 lần. Số lượng
nhà đầu tư đến cuối năm 2015 tăng 50% so với năm 2011; trong đó, số lượng
nhà đầu tư tổ chức tăng gấp 2 lần. Chất lượng các công ty quản lý quỹ, tổ chức
chứng khoán được cải thiện.
Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đến cuối năm 2015 đạt gần 35%
GDP (gấp 1,5 lần so với năm 2011), tốc độ tăng bình quân 10%/năm. Thị
trường trái phiếu có tốc độ tăng trưởng bình quân 31%/năm, được đánh giá là
có mức tăng trưởng khá trong các nền kinh tế mới nổi tại khu vực ASEAN+3 và

Đông Á, dư nợ trái phiếu đạt 24% GDP. Quy mô huy động vốn qua thị trường
chứng khoán đóng góp bình quân 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Hai là, thị trường vốn tín dụng trung và dài hạn dần ổn định, lành mạnh.
Đến cuối năm 2015, hệ thống tổ chức tín dụng đạt tỷ lệ an toàn vốn 13%, đáp
ứng đầy đủ các tỷ lệ về khả năng chi trả và tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay
trung và dài hạn theo quy định của pháp luật. Lãi suất cho vay trung bình giảm
từ 17,9%/năm trong năm 2011 xuống còn 9,08%/năm trong năm 2015. Tăng
trưởng tín dụng được cải thiện, tăng từ 14,3% năm 2011 lên 17,3% năm 2015.
1.2. Những hạn chế
Dù đã đạt được những kết quả tích cực nhất định, song thị trường vốn
trong nước vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại. Vai trò của thị trường vốn như một
kênh huy động và phân bổ nguồn lực tài chính chính thức cho đầu tư phát triển
12


chưa thực sự rõ nét. Việc huy động và phân bổ vốn đầu tư trung và dài hạn vẫn
dựa đáng kể vào hệ thống ngân hàng thương mại, trong khi sự tham gia của các
định chế phi ngân hàng còn tương đối hạn chế. Quy mô thị trường chứng khoán
tăng nhanh, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng và chưa trở thành kênh cấp
vốn quan trọng nhất cho khu vực doanh nghiệp.
Đến cuối năm 2015, quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán tăng, nhưng
vẫn thấp hơn mục tiêu 50% đặt ra trong Chiến lược phát triển thị trường vốn.
Các thể chế thị trường vốn chưa phát triển đầy đủ, đặc biệt là chưa có các đơn
vị định mức tín nhiệm.
Kênh huy động và phân bổ vốn thông qua các tổ chức tín dụng còn tiềm
ẩn nhiều rủi ro và chưa thực sự hiệu quả. Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng còn
cao, chưa được xử lý dứt điểm làm cho lãi suất cho vay vẫn cao và tiềm ẩn
nhiều rủi ro đối với an toàn, hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng. Các
ngân hàng gặp khó khăn trong tăng vốn điều lệ, nâng cao năng lực tài chính do
việc tăng vốn chủ yếu từ nguồn cổ tức.

Lãi suất cho vay vẫn còn cao so với mức lạm phát và mặt bằng lãi suất
chung của khu vực ASEAN 4, làm giảm khả năng tiếp cận vốn vay của doanh
nghiệp. Một lượng lớn vốn huy động từ hệ thống ngân hàng vẫn chảy vào các
lĩnh vực phi sản xuất, đặc biệt là bất động sản.
1.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, tái cơ cấu thị trường vốn được thực hiện trong bối cảnh kinh tế
thế giới phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, tăng trưởng chậm hơn so
với dự báo. Đặc biệt, trong giai đoạn 2011 - 2013, Việt Nam chịu tác động mạnh
từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, dẫn tới sự suy giảm của thị trường tài
chính, tác động tiêu cực đến sức hút thị trường, làm giảm sự gia tăng quy mô thị
trường vốn.
Thứ hai, những vấn đề về cấu trúc thị trường và các thành tố trên thị
trường là vấn đề có tính hệ thống, khó có thể giải quyết trong ngắn hạn như:
tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo, nợ xấu và quản trị rủi ro kém tại các ngân
hàng thương mại; các thành tố trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là các
thành tố trung gian kém phát triển (thiếu các tổ chức định mức tín nhiệm, chất
lượng của các tổ chức môi giới chứng khoán, định giá còn thấp, các nhà đầu tư
trên thị trường chủ yếu là nhà đầu tư nhỏ lẻ…).
Thứ ba, môi trường thể chế, pháp lý của thị trường vốn chậm được đổi
mới và hoàn thiện. Đến nay, vẫn chưa hình thành khung khổ pháp lý cho phát
triển thị trường mua bán nợ; chưa tạo ra cơ chế phát triển các nhà đầu tư vốn dài
13


hạn trên thị trường, huy động vốn cho lĩnh vực công nghệ cao (quỹ mạo
hiểm/quỹ cổ phần tư nhân,…), chưa thu hút được nhiều tổ chức kinh doanh
chứng khoán nước ngoài tham gia thị trường. Quy định pháp lý cho hoạt động
của hệ thống ngân hàng còn thiếu tính ổn định, trung bình cứ 1 tuần lại có 1
thông tư được ban hành trong giai đoạn 2012-2015 (cả giai đoạn ban hành 246
văn bản, trong đó có 211 thông tư).

2. Những mục tiêu và giải pháp đặt ra cho giai đoạn tiếp theo
Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến
năm 2020; trong đó đã xác định các mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến
năm 2020 và các quan điểm, nguyên tắc phát triển thị trường vốn như sau:
2.1. Mục tiêu tổng quát
Phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường vốn Việt Nam, trong đó
thị trường chứng khoán đóng vai trò chủ đạo; từng bước đưa thị trường vốn trở
thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong
việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và cải cách nền kinh tế; đảm bảo tính
công khai, minh bạch, duy trì trật tự, an toàn, hiệu quả, tăng cường quản lý,
giám sát thị trường; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng
bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính
quốc tế. Phấn đấu đến năm 2020, thị trường vốn Việt Nam phát triển tương
đương thị trường các nước trong khu vực.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Phát triển thị trường vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và đầu
tư của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2020 đạt 70% GDP.
2.3. Quan điểm và nguyên tắc phát triển thị trường vốn
1. Hình thành và phát triển đồng bộ cơ cấu của thị trường vốn, trong đó
thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng, bảo đảm huy động và phân bổ có
hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế; phối hợp chặt chẽ với thị
trường tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ; hội nhập thành công
với thị trường vốn quốc tế.
2. Xây dựng và phát triển thị trường vốn có cấu trúc hợp lý, đảm bảo thị
trường hoạt động minh bạch, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động trên thị trường.
3. Tổ chức vận hành thị trường vốn hoạt động an toàn, hiệu quả và lành
mạnh; đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
14



2.4. Đề xuất một số giải pháp phát triển thị trường vốn
Một là, cần hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao năng lực quản lý và
giám sát thị trường; tăng cung hàng hóa cho thị trường và cải thiện chất lượng
nguồn cung. Hoàn thiện khung khổ pháp lý tiền tệ, ngân hàng, nhất là bổ sung,
sửa đổi các luật có liên quan đến tạo khung khổ pháp lý đủ rõ, đủ mạnh cho
hình thành và vận hành tốt thị trường mua bán nợ. Hoàn thiện khung pháp luật
về xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém và xử lý nợ xấu theo các chuẩn mực quốc
tế. Xây dựng khung khổ pháp luật để thị trường nợ hình thành và vận hành một
cách hiệu quả và thiết thực.
Sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 nhằm hạn chế thao túng các
tổ chức tín dụng của các cổ đông lớn. Tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước
ngoài tại các tổ chức tín dụng Việt Nam. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định
về sáp nhập, hợp nhất, mua lại, phá sản, giải thể và các biện pháp khác tổ chức
lại tổ chức tín dụng.
Hai là, đẩy nhanh quá trình xử lý nợ xấu và áp dụng tiêu chuẩn Basel II.
Áp dụng biện pháp phá sản đối với các ngân hàng thương mại yếu kém bằng
các giải pháp thích hợp, gồm cả thí điểm cho phá sản, giải thể trên cơ sở đảm
bảo quyền lợi người gửi tiền và ổn định hệ thống tài chính.
Tìm kiếm và bố trí nguồn lực nhà nước và ngoài nhà nước đủ lớn để xử
lý nhanh và dứt điểm nợ xấu. Đổi mới và phát triển hệ thống quản trị ngân hàng
phù hợp với tiêu chuẩn Basel II, kiên quyết xử lý các tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng không đáp ứng tiêu chuẩn vốn pháp định và chuẩn mực an
toàn vốn.
Ba là, mở rộng quy mô, gia tăng số lượng và cải thiện chất lượng nhà đầu
tư, các sản phẩm hàng hóa; nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng
khoán, thị trường trái phiếu và thị trường bảo hiểm. Phát triển hệ thống thành
viên đấu thầu trái phiếu chính phủ để thành lập hệ thống nhà tạo lập thị trường
trên thị trường trái phiếu chính phủ theo thông lệ quốc tế. Đa dạng hóa các sản

phẩm chứng khoán, phát triển thị trường chứng khoán phái sinh.
Nghiên cứu tính khả thi và phát triển các sản phẩm mới trên thị trường.
Hoàn thiện khung khổ pháp lý và đẩy mạnh công tác thanh tra, giám sát hoạt
động của thị trường vốn. Cho phép các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước
ngoài thành lập chi nhánh tại Việt Nam để cung cấp dịch vụ và thu hút nhà đầu
tư nước ngoài.
Giai đoạn đến năm 2020 đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho tái cơ cấu
thị trường vốn trong khuôn khổ tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt là việc ký kết
15


các FTA thế hệ mới như TPP, EVFTA. Định hướng đến năm 2020 và các năm
tiếp theo, tái cơ cấu thị trường vốn tập trung vào hoàn thiện thể chế, khung khổ
pháp luật cho hoạt động của các tổ chức tín dụng, thị trường chứng khoán phù
hợp với thông lệ quốc tế và đẩy nhanh xử lý nợ xấu một cách bền vững.

16


KẾT LUẬN
Trong kinh tế thị trường, thị trường vốn được coi là một trong những
thành tố không thể thiếu của nền kinh tế. Để phát triển kinh tế nhanh, mạnh và
bền vững, phải có thị trường vốn phát triển. Phát triển thị trường vốn – nơi diễn
ra cung và cầu vốn của nền kinh tế sẽ có cơ hội thu hút nguồn vốn trong và
ngoài nước, tạo điều kiện sử dụng đồng vốn hiệu quả cao.
Đề tài Tiểu luận "Các yếu tố cấu thành thị trường vốn. Ý nghĩa và định
hướng vận dụng cho Việt Nam" cũng đã làm rõ: Cơ sở lý luận về thị trường
vốn; vai trò của thị trường vốn; cơ cấu thị trường vốn; các công cụ tham gia thị
trường vốn; phân loại thị trường vốn. Cơ sở thực tiễn về Thực trạng thị trường
vốn của Việt Nam giai đoạn 2011-2015: những mặt đạt được, hạn chế và

nguyên nhân. Mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc phát triển thị trường vốn và đề
xuất một số giải pháp phát triển thị trường vốn của Việt Nam trong giai đoạn
tới.
Tuy nhiên, do thời gian và năng lực nghiên cứu có hạn, Đề tài tiểu luận
không tránh khỏi những hạn chế; rất mong được sự giúp đỡ, góp ý của thầy, cô
giáo.

NGƯỜI VIẾT TIỂU LUẬN

Nguyễn Văn Tuấn

17



×