Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

Tư duy nghệ thuật trong hồi kí văn học việt nam từ 1986 đến nay (luận án ngôn ngữ và văn hoá việt nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.8 MB, 180 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

TRẦN THỊ MAI PHƢƠNG

TƢ DUY NGHỆ THUẬT TRONG
HỒI KÍ VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

Trần Thị Mai Phƣơng

TƢ DUY NGHỆ THUẬT TRONG
HỒI KÍ VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao
nhất. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có nội dung, xuất xứ rõ ràng. Tôi hoàn
toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng 09 năm 2017
Tác giả luận án

Trần Thị Mai Phƣơng


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ vô cùng
quý báu của các tập thể và cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS Đoàn Đức Phương người Thầy đã tận tâm hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và triển khai đề tài
luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại,
Khoa Văn học, Phòng Sau đại học, Trường ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc
gia Hà Nội - là cơ sở đào tạo đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các Thầy (Cô), các học giả, nhà nghiên
cứu, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành nhiệm
vụ công tác, học tập và nghiên cứu.
Xin được biết ơn gia đình, những người thân đã luôn là điểm tựa vững
chắc để tôi có được công trình này.
Hà Nội, tháng 9 năm 2017
Tác giả luận án


Trần Thị Mai Phƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................4
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................................8
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án .......................................................10
7. Cấu trúc của luận án ...........................................................................................12
Chƣơng 1 ..................................................................................................................13
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...............................................................13
1.1. Tƣ duy nghệ thuật và tƣ duy nghệ thuật trong hồi kí ..................................13
1.1.1. Tư duy nghệ thuật ..........................................................................................13
1.1.2. Tư duy nghệ thuật trong hồi kí ......................................................................15
1.2. Tình hình sáng tác hồi kí văn học từ 1986 đến nay.......................................20
1.2.1. Vài nét về hồi kí văn học trước 1986 .............................................................20
1.2.2. Sự phát triển của hồi kí văn học từ 1986 đến nay ........................................23
1.3. Tình hình nghiên cứu hồi kí văn học từ 1986 đến nay..................................28
1.3.1. Phê bình, nghiên cứu tác phẩm hồi kí của những tác giả tiêu biểu ...........28
1.3.2. Nghiên cứu hồi kí của một thời kì, một giai đoạn hoặc một nhóm tác giả ở
Việt Nam, trong đó có giai đoạn từ 1986 đến nay ..................................................32
1.3.3. Nghiên cứu hồi kí văn học từ 1986 đến nay như những dẫn chứng để làm
sáng tỏ đặc trưng thể loại hồi kí hoặc kí trong lịch sử văn học .............................36
* Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................38
Chƣơng 2 ...................................................................................................................39
TƢ DUY NGHỆ THUẬT TRONG HỒI KÍ VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN

NAY NHÌN TỪ CÁC “MÃ QUAN NIỆM” CHỦ YẾU ............................................39
2.1. Yêu cầu “khách quan” của việc phản ánh sự thật trong hồi kí ...................39
2.1.1. Viết hồi kí là quá trình đấu tranh để nói lên sự thật ....................................40
2.1.2. Thái độ “khách quan” trước sự thật lịch sử .................................................49
2.2. Tính chủ quan, cá nhân trong sự phản ánh của hồi kí .................................52
2.2.1. Sự thật được “khúc xạ” trong hồi kí .............................................................52
2.2.2. Tính cá nhân, chủ quan trong cái nhìn về quá khứ ....................................57
2.3. Dấu ấn thời đại trong quan niệm viết hồi kí ..................................................61
2.3.1. Viết hồi kí trên tinh thần dân chủ .................................................................61
2.3.2. Viết hồi kí từ góc nhìn tiểu thuyết hóa ..........................................................64
* Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................73
Chƣơng 3 ..................................................................................................................74
TƢ DUY NGHỆ THUẬT TRONG HỒI KÍ VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
NHÌN TỪ CÁC HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU .....................................74
3.1. Hình tƣợng cái tôi tác giả - trung tâm của hồi kí văn học ............................74
3.1.1. Hình tượng cái tôi tác giả trong hồi kí ..........................................................74
3.1.2. Hình tượng cái tôi tác giả trong hồi kí văn học từ 1986 đến nay.......................79


3.2. Bức tranh xã hội và hình tƣợng con ngƣời trong hồi kí văn học từ 1986 đến
nay .............................................................................................................................88
3.2.1. Bức tranh xã hội đa sắc .................................................................................89
3.2.2. Hình tượng con người đa dạng .....................................................................94
3.3. Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật trong hồi kí văn học từ 1986
đến nay .....................................................................................................................98
3.3.1. Không gian nghệ thuật ..................................................................................98
3.3.2. Thời gian nghệ thuật....................................................................................103
* Tiểu kết chƣơng 3 ...............................................................................................110
Chƣơng 4 ................................................................................................................111
TƢ DUY NGHỆ THUẬT TRONG HỒI KÍ VĂN HỌC VIỆT NAM ..............111

NHÌN TỪ CÁC PHƢƠNG THỨC TRẦN THUẬT NỔI BẬT.........................111
4.1. Kết cấu đa dạng ..............................................................................................111
4.1.1. Kết cấu phân mảnh ......................................................................................112
4.1.2. Kết cấu trùng phức .......................................................................................114
4.1.3. Kết cấu xoắn kép ..........................................................................................116
4.2. Ngƣời trần thuật và giọng điệu trần thuật ..................................................120
4.2.1. Người trần thuật ...........................................................................................120
4.2.2. Giọng điệu trần thuật ...................................................................................125
4.3. Xu hƣớng giao thoa thể loại trong lối viết ...................................................137
4.3.1. Sự giao thoa giữa hồi kí với bút kí, nhật kí, chân dung văn học và tản văn ....138
4.3.2. Sự giao thoa hồi kí với tự truyện .................................................................141
4.3.3. Sự giao thoa hồi kí với tiểu thuyết ...............................................................144
* Tiểu kết chƣơng 4 ...............................................................................................146
KẾT LUẬN ............................................................................................................147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN .....................................................................................................152
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................153
PHỤ LỤC ...............................................................................................................169
(một số hình ảnh) ...................................................................................................169


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. Cb

Chủ biên

2. ĐHSP

Đại học Sư phạm


3. ĐHKHXH&NV

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

4. KHXH

Khoa học xã hội

5. KLTN

Khoá luận tốt nghiệp

6. Nxb

Nhà xuất bản

7. LATS

Luận án Tiến sĩ

8. LVThS

Luận văn Thạc sĩ

9. tr.

Trang



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Công cuộc Đổi mới ở Việt Nam cho đến nay đã trải qua một quãng
thời gian tròn 30 năm (1986 - 2016). Trong 30 năm đó (nếu theo quan niệm
truyền thống là đã trải qua một nửa “lục thập hoa giáp” hay một nửa “vận
hội” 60 năm - một chu kì phát triển), công cuộc Đổi mới rõ ràng đã tạo ra một
sự thay đổi, phát triển có tính bước ngoặt, căn bản, hết sức to lớn đến toàn bộ
đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,… của đất nước ta so với trước đó.
Vì vậy, như nhiều người nhận thấy, dường như đã đến lúc cần có sự tổng kết
những thành tựu, diện mạo - đặc điểm, rút kinh nghiệm và bài học của chặng
đường 30 năm nêu trên để có đường hướng cho sự phát triển đất nước một
cách toàn diện trong thời gian tiếp theo. Trên thực tế, gần đây đã có rất nhiều
hoạt động, việc làm trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, nhiều cấp,… được tiến
hành để thực hiện nhiệm vụ, yêu cầu và cả hứng thú đó. Việc nghiên cứu văn
học Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Đã có nhiều hoạt động lớn nhỏ
(toạ đàm, hội thảo, seminar, diễn đàn, lễ kỉ niệm, meeting,…), nhiều công
trình nghiên cứu, bài viết, kỉ yếu… đã và đang được thực hiện để tổng kết và
đánh giá thành tựu, đặc điểm của văn học Việt Nam qua 30 năm Đổi mới. Đề
tài nghiên cứu của luận án, có thể nói, cũng nằm trong chuỗi các sự kiện, hoạt
động nghiên cứu đó và cũng mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc hiện
thực hoá, cụ thể hoá mục tiêu đã nêu khi chọn đối tượng khảo sát và nghiên
cứu là một thể loại của văn học Việt Nam (là hồi kí văn học - tức là các hồi kí
của nhà văn, viết về đời văn là chủ yếu) trong giai đoạn “từ 1986 đến nay”.
Sự lựa chọn này tự nó đã hàm nghĩa luận án sẽ thiên về mặt văn học sử (mặc
dù nghiên cứu “tư duy nghệ thuật”) đáp ứng nhiệm vụ, yêu cầu nghiên cứu
thuộc chuyên ngành văn học Việt Nam (hiện đại).

1



1.2. Hồi kí là thể loại văn học phát triển mạnh mẽ ở phương Tây từ thế
kỉ XIX cho đến nay. Còn ở Việt Nam, từ chục năm gần đây, đặc biệt là từ khi
bắt đầu công cuộc Đổi mới, nó đã trở thành một “trào lưu” trong văn học Việt
Nam. Cùng với sự phát triển của nền dân chủ và tiến bộ xã hội ta, những điều
cấm kị trong đời sống cá nhân, xã hội và văn chương dần được xóa bỏ, văn
học Việt Nam chứng kiến sự “bùng nổ” của các tác phẩm thuộc thể loại hồi
kí. Đã đến lúc, người ta dám nói ra và thực sự có nhu cầu được nói ra sự thật
về bản thân mình, sự thật về những gì đã được chứng kiến, trải nghiệm trong
quá khứ. Hồi kí đã trở thành thể loại hữu dụng cho nhu cầu bộc lộ, giải tỏa
những kí ức còn lẩn khuất, những bí mật hay ẩn ức bị “chôn chặt” hoặc dồn
nén bấy lâu trong mỗi cá nhân cũng như những “sự thật lịch sử” của cả cộng
đồng còn chưa được biết đến. Từ các nhà văn, nhà phê bình văn học, học giả,
chính trị gia, tướng lĩnh, kí giả,… và người thân của họ đến những người hoạt
động trong lĩnh vực giải trí (diễn viên, ca sĩ, người mẫu, cầu thủ bóng đá,…),
hay những cá nhân vô danh trong xã hội nhưng có số phận không bình thường
(người đồng tính, gái mại dâm, tù nhân, bệnh nhân HIV,…) cũng viết hoặc
hợp tác viết và công bố hồi kí bằng nhiều hình thức khác nhau (trong đó có cả
hình thức tự xuất bản - samizdat). Hầu hết sự ra đời của những cuốn hồi kí đó
đều thu hút được sự chú ý của công luận ở những mức độ và dạng thức khác
nhau trong đó có giới nghiên cứu. Tình hình nghiên cứu hồi kí rất sôi động
cũng cho thấy điều đó. Lại có những cuốn khi mới ra đời, do đề cập đến
những vấn đề được cho là “nhạy cảm”, vi phạm “cấm kị” nên bị đình bản, thu
hồi nhưng sau đó hoặc công khai hoặc lặng lẽ xuất hiện trên thị trường cũng
cuốn hút đươc sự chú ý lớn của độc giả và làm sôi động đời sống văn học vốn
dĩ vẫn chưa có nhiều sự kiện thật lớn, thật đặc biệt và để lại những thành tựu
quan trọng.
Vậy tại sao hồi kí lại thu hút được đông đảo người viết và người đọc
trong xã hội Việt Nam những năm gần đây đến như vậy? Sự phát triển mạnh
2



mẽ của nó có đơn thuần chỉ là sự “a dua” theo trào lưu hay thực sự là nhu cầu
tự thân của người viết? Bối cảnh lịch sử xã hội văn hoá nào đã tạo tiền đề cho
sự phát triển mạnh mẽ đó? Và quan trọng nhất là: Cái gì đóng vai trò cốt lõi
tạo nên hiện tượng này? Cái gì đã chi phối việc viết hồi kí và quy định diện
mạo, đặc điểm của chúng?... Đó là những câu hỏi nhất thiết phải được giải
đáp đối với người nghiên cứu lí thuyết và lịch sử văn học Việt Nam. Không
có điều kiện và tham vọng khảo sát và nghiên cứu toàn bộ hồi kí từ 1986 đến
nay mà chỉ quan tâm đến hồi kí văn học (do các nhà văn viết về chính kí ức
của họ là chủ yếu), nhưng đề tài với tư cách là một “nghiên cứu trường hợp”
(case-studies) cũng có có ý nghĩa góp phần lí giải các câu hỏi nêu trên
1.3. Trong các hướng tiếp cận các thể loại văn học, chúng tôi quan tâm
đến hướng tiếp cận “tư duy nghệ thuật” (của hồi kí văn học Việt Nam từ 1986
đến nay) bởi đây là khái niệm công cụ cốt lõi, toàn diện, có chiều sâu và cơ sở
lí luận vững chắc và trải qua thử thách lâu dài trong thực tiễn nghiên cứu văn
học. Nó đã được sử dụng một cách có hiệu quả các tác giả và đặc biệt là các
thể loại (thơ, tiểu thuyết, kịch, truyện ngắn,…) trong những năm gần đây.
Nhiều công trình (KLTN, LvThS, LATS, sách chuyên khảo, bài báo, bài tạp
chí,…) đã đi theo hướng này và gặt hái được nhiều thành công đáng chú ý.
Hướng nghiên cứu này đã cho phép chỉ ra được những đặc trưng cơ bản nhất
của một thể loại văn học nói riêng cho đến một hiện tượng văn học nói chung
(như: tác giả, tác phẩm, thể loại, trào lưu, khuynh hướng, giai đoạn, thời
kì,…) từ thế giới quan, nhân sinh quan, quan điểm nghệ thuật cho đến các
phương diện nội dung (hình tượng nghệ thuật, chủ đề, cảm hứng,…) và
phương thức nghệ thuật (nghệ thuật tự sự, nghệ thuật trữ tình,…) phản ánh
chính tư duy nghệ thuật đó. Vậy tư duy nghệ thuật của thể loại hồi kí văn học
Việt Nam từ 1986 đến nay có những đặc điểm gì? Đặc điểm đó có gì giống và
khác với các thể loại khác cùng thời và với bản thân thể loại hồi kí văn học
Việt Nam ở các giai đoạn trước đó hay không? Xu hướng phát triển của nó ra
3



sao?... Đáp án của những câu hỏi như thế hứa hẹn đưa đến những vấn đề lí
thuyết văn học sử rất thú vị đối với giới nghiên cứu cũng như giới sáng tác
hiện nay. Nó cũng có thể là những gợi ý tốt cho các nhà quản lí văn hoá văn
học, các nhà xuất bản, phát hành, các nhà giáo dục,v.v… hay đơn giản là độc
giả các dạng trong việc ứng xử với một dòng văn hoá phẩm có thể nói là “đặc
biệt” và đang phát triển mạnh như hồi kí hiện nay, nhất là trong bối cảnh “thị
trường văn học” đang có sự mở rộng cả về phạm vi lưu hành (thị trường xuất
bản truyền thống, không gian mạng, truyền thông đa phương tiện) và tính
chất, bản chất (văn học nghệ thuật - chính thức, văn học thị trường - thương
mại, cận văn học,…). Còn trong nhà trường, không gian mà bản thân chúng
tôi đang tham gia trong công việc, nghiên cứu sẽ có ý nghĩa sư phạm, giúp
định hướng cho việc dạy học các tác phẩm thuộc thể loại này trong chương
trình Ngữ văn các cấp.
Đề tài nghiên cứu “Tƣ duy nghệ thuật trong hồi kí văn học Việt Nam
từ 1986 đến nay” của chúng tôi, do đó, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, đồng
thời có tính cấp thiết cao trong bối cảnh phát triển văn học, văn hoá đọc rất sôi
động hiện nay.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của luận án là tư duy nghệ thuật và các vấn đề có liên quan
trong hồi kí văn học ở Việt Nam từ 1986 đến nay.
Tư duy nghệ thuật và những vấn đề liên quan trong hồi kí văn học ở Việt
Nam từ 1986 đến nay cụ thể như thế nào sẽ được chúng tôi giới thuyết ở phần
Nội dung (chương Tổng quan). Tuy nhiên, có thể nói vắn tắt ở đây rằng, tư duy
nghệ thuật là một loại hình tư duy đặc thù của quá trình cảm thụ và sáng tạo
nghệ thuật (ở đây là tác phẩm hồi kí văn học). Tư duy nghệ thuật của hồi kí
văn học ở Việt Nam từ 1986 đến nay sẽ được xem xét ở các cấp độ như: quan
niệm nghệ thuật, hình tượng nghệ thuật và phương thức trần thuật.


4


Còn “hồi kí văn học” được chúng tôi quan niệm là hồi kí của các nhà
văn hoặc các nhà phê bình văn học với tư cách là chủ thể viết, chủ thể trần
thuật (khu biệt với các loại hồi kí của các chính trị gia, tướng lĩnh, học giả,
nhà báo, ca sĩ, diễn viên, cầu thủ bóng đá,… chúng đơn thuần được gọi là
“hồi kí” hoặc có khi được định danh là “hồi kí cách mạng”, “hồi kí chiến
trường”, “hồi kí lịch sử”, “hồi kí chánh/chính trị”,… hoặc có khi được gọi
chệch đi là “hồi ức” để đảm bảo không bị xem là đang viết một thể loại liên
quan đến văn học nghiêm túc hoặc viết cái vốn được xem là “đặc quyền” của
người nổi tiếng, yếu nhân). Khái niệm này được chúng tôi kế thừa từ các công
trình trước đây như: Nguyễn Văn Dân [30], Đỗ Hải Ninh [150], Phạm Thị
Lan Anh [2], Nguyễn Thị Thanh Thuý [200], Nguyễn Quang Hưng [82] [83],
Lê Thị Lệ Thuỷ [201],… hoặc từ chính quan niệm của các nhà văn như Anh
Thơ, Vũ Ngọc Phan, Tô Hoài, Ma Văn Kháng,… Do chủ thể viết là như vậy
(vì thế các hồi kí này còn được gọi là “hồi kí các nhà văn”), nên các tác phẩm
hồi kí văn học sẽ có cơ sở để đảm bảo có liên quan đến văn học, có “tính văn
học” ở cả nội dung và hình thức, hay nói khác đi là có “tính chuyên nghiệp”
về lĩnh vực văn học. Về nội dung, hồi kí đó phải chủ yếu viết về cuộc đời nhà
văn, nhà lí luận phê bình văn học đó hoặc những vấn đề, đối tượng có liên
quan đến họ (viết về bạn văn, về bức tranh văn học - nghệ thuật trong quá
khứ, về đời sống văn học - nghệ thuật,…). Đó là hồi kí của những “người
trong cuộc” viết về kinh nghiệm, sự trải nghiệm của bản thân. Nói khác đi,
hồi kí đó gián tiếp hoặc trực tiếp liên quan đến các vấn đề văn học (tác giả,
tác phẩm văn học, thời đại văn học, trào lưu - khuynh hướng văn học, tiếp
nhận văn học, các vấn đề lí luận - phê bình văn học,v.v…). Về hình thức, hồi
kí văn học phải được viết bằng các phương thức, thủ pháp, ngôn ngữ mang
đậm chất văn học dù tự phát hay tự giác. Những hồi kí do các chính trị gia,
tướng lĩnh, nghệ sĩ, người lao động,… sở dĩ không được xem là “hồi kí văn

học”, kể cả những hồi kí được các nhà văn, nhà lí luận - phê bình chấp bút hộ
5


(do không đảm bảo hai tiêu chí quan trọng nhất là nội dung văn học và chủ
thể trần thuật là nhà văn, nhà phê bình văn học) là do tính chất “nghiệp dư”,
thiên về thông tin tư liệu và có phần ít chất văn học đó.
Và như vậy, “hồi kí văn học Việt Nam từ 1986 đến nay” cần được hiểu
là “hồi kí văn học ở Việt Nam từ 1986 đến nay” (từ đây sẽ gọi tắt là là “hồi kí
văn học từ 1986 đến nay” hoặc “hồi kí văn học sau 1986”) khá nhiều, hơn nữa
chất lượng rất không đồng đều, nội dung tản mạn, có cái lặp lại giai đoạn
trước. Trong khi đó, mục tiêu khoa học của chúng tôi là phát hiện ra cái đặc
trưng, cái mới, có tính xu hướng, tính sáng tạo và tính nghệ thuật. Bởi vậy,
phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là những tác phẩm “hồi kí văn học”, tức là
hồi kí do các nhà văn, những người có tư duy nghệ thuật đích thực và chuyên
nghiệp, sáng tác dựa trên những nhu cầu tự thân, nhu cầu sáng tạo nghệ thuật
(chứ không phải những hồi kí được “đặt hàng” hay chấp bút hộ, có tính
thương mại,v.v…) trong văn học Việt Nam từ 1986 đến nay. Mặt khác, đó
cũng phải là những tác phẩm được xuất bản chính thức trong nước. Chúng tôi
cũng không đưa vào diện khảo sát của mình những tác phẩm công bố trên
mạng internet hay dưới dạng samizdat, photocopy truyền tay, hoặc xuất bản ở
hải ngoại,v.v... Sự khảo sát sẽ cố gắng có có “diện” vừa có “điểm”. Tuy
nhiên, chúng tôi cũng sẽ tập trung vào một số “điểm” nổi bật là những tác
phẩm gây được tiếng vang, nhận được sự đánh giá cao của đông đảo độc giả
và đặc biệt là của giới nghiên cứu phê bình văn học (xem phần tổng quan về
lịch sử vấn đề nghiên cứu). Đồng thời, đó cũng phải là những tác phẩm mang
tính đại diện cao cho các phong cách, kiểu loại hồi kí khác nhau (thường
mang đặc điểm của thể loại khác), phản ánh những kiểu tư duy nghệ thuật
khác nhau (như: hồi kí mang tính anh hùng ca, hồi kí mang tính tiểu thuyết,
hồi kí mang tính tản bút - viết trải nghiệm, hồi kí mang tính chân dung văn

học,v.v…) (chúng tôi sẽ trở lại vấn đề phân loại kĩ hơn ở chương 1 - phần Nội
dung). Theo đó, chúng tôi sẽ tập trung vào một số hồi kí tiêu biểu như: Những
6


năm tháng ấy (Vũ Ngọc Phan), Từ bến sông Thương, Tiếng chim tu hú, Bên
dòng chia cắt (Anh Thơ), Nửa đêm sực tỉnh (Lưu Trọng Lư), Cát bụi chân ai,
Chiều chiều (Tô Hoài), Nhớ lại một thời (Tố Hữu), Nhớ lại (Đào Xuân Quý),
Ba phút sự thật, Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào (Phùng Quán), Hồi kí
song đôi (Huy Cận), Từ U Minh đến Cần Thơ, Ở chiến khu 9, 20 năm giữa
lòng đô thị, Bình an (Sơn Nam), Bóng ngày qua (Quách Tấn), Núi Mộng
gương Hồ (Mộng Tuyết), Một thời để mất, Rừng xưa xanh lá (Bùi Ngọc Tấn),
Tầm xuân (Đặng Anh Đào), Cô bé nhìn mưa (Đặng Thị Hạnh), Hồi kí bà
Tùng Long (Lê Thị Bạch Vân), Năm tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương
(Ma Văn Kháng), Hồi kí Phạm Cao Củng (Phạm Cao Củng),… trong khi vẫn
tham khảo những tác phẩm còn lại ở các mức độ khác nhau nhằm phục vụ cho
nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu của luận án.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận án là khảo sát và chỉ ra các đặc
điểm, đặc trưng, diễn biến của tư duy nghệ thuật trong hồi kí văn học từ 1986
đến nay. Mục đích nghiên cứu cụ thể là:
a. Làm rõ biểu hiện của tư duy nghệ thuật trong hồi kí văn học từ 1986
đến nay từ các phương diện: quan niệm sáng tác, nhận thức về thể loại; hình
tượng nghệ thuật; phương thức trần thuật qua đó khái quát được đặc trưng thể
loại hồi kí.
b. Nhận diện đặc điểm, quá trình phát triển và đánh giá vị trí, đóng góp
của thể loại hồi kí đối với nền văn học Việt Nam giai đoạn từ 1986 đến nay.
c. Phác hoạ, dự đoán xu hướng phát triển của hồi kí trong văn học Việt
Nam trong tương lai góp phần tư vấn cho việc định hướng sáng tác và tiếp
nhận chúng trong đời sống văn học đương đại.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tương ứng với mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của
luận án sẽ là:
7


a. Xây dựng, hoàn thiện khái niệm công cụ là “tư duy nghệ thuật” cho
thể loại hồi kí để áp dụng vào nghiên cứu hồi kí văn học từ 1986 đến nay.
Trình bày sơ lược về diễn tiến của thể hồi kí văn học hiện đại trong khoảng
hơn một thế kỉ của thời kì hiện đại (tiến đến đương đại) từ cái nhìn tổng thể
và hệ thống trong mối liên hệ chặt chẽ với bối cảnh thời đại và lịch sử văn
học, trong đó tập trung vào giai đoạn “từ 1986 đến nay”.
b. Nghiên cứu tư duy nghệ thuật trong hồi kí văn học từ 1986 đến nay
qua các “mã quan niệm” chủ yếu. Thực chất, đó là việc tìm ra quan niệm về
công việc viết hồi kí (viết hồi kí để phản ánh “sự thật lịch sử”; về tính tương
đối của “sự thật” trong hồi kí; quan niệm nghệ thuật về con người), sự ảnh
hưởng của tư tưởng thời đại đến việc viết hồi kí.
c. Nghiên cứu tư duy nghệ thuật trong hồi kí văn học từ 1986 đến nay
qua các hình tượng nghệ thuật nổi bật nhằm làm rõ biểu hiện cụ thể của tư
duy nghệ thuật thành công cụ quan trọng bậc nhất của văn học là “hình tượng
nghệ thuật”. Đây không phải đơn thuần chỉ là nghiên cứu các hình tượng nghệ
thuật trong hồi kí mà hơn thế qua đó thấy được tư duy nghệ thuật của thể loại
trong thực tiễn văn học, tức là sự biểu hiện thành hình tượng nghệ thuật trong
hồi kí văn học từ 1986 đến nay.
d. Nghiên cứu tư duy nghệ thuật trong hồi kí văn học từ 1986 đến nay
qua các phương thức trần thuật nổi bật, chỉ rõ tác động của tư duy nghệ thuật
đến phương thức nghệ thuật trong tác phẩm. Đây cũng không thuần là nghiên
cứu nghệ thuật trần thuật như một hình thức nghệ thuật. Nói cách khác, cần
phải thấy rằng đó là “hình thức mang tính quan niệm” và quan niệm đó chính
là thành tố của tư duy nghệ thuật.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp văn học sử
Phương pháp của bộ môn văn học sử là phương pháp tiếp cận các hiện
tượng văn học sử (tác giả, tác phẩm, thể loại, trào lưu,…) bằng việc đặt chúng
8


vào bối cảnh lịch sử văn hoá xã hội đương thời với quan điểm “lịch sử - cụ
thể” và đặt trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học mà nó quy thuộc.
Trong phương pháp lớn này, chúng tôi đặc biệt phương pháp cụ thể hơn là
phương pháp văn hoá - lịch sử nhằm nghiên cứu các hiện tượng văn học trong
bối cảnh văn hoá - lịch sử cụ thể (đặc biệt là vấn đề tiểu sử, cuộc đời cũng
như hoàn cảnh ra đời của các tác phẩm văn học). Nhìn chung, phương pháp
này giúp phục dựng, trình hiện lại các hiện tượng văn học sử một cách tương
đối đầy đủ và rõ ràng, logic. Vì vậy, nó sẽ được dùng để dựng lại tiến trình
phát triển của hồi kí văn học từ 1986 đến nay với tư cách một thể loại văn học
quan trọng cũng như để lí giải các đặc điểm tư duy nghệ thuật của nó như một
hiện tượng văn học sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thi pháp thể loại
Phương pháp nghiên cứu thi pháp thể loại là phương pháp khảo sát và
khái quát những hiện tượng nội dung nghệ thuật có tính ổn định, lặp đi lặp lại
thành phong cách, thi pháp của các hiện tượng văn học (như quan niệm nghệ
thuật về con người, không gian - thời gian nghệ thuật, bút pháp nghệ thuật,
hình thức mang tính quan niệm,…). Phương pháp nghiên cứu thi pháp thể loại
góp phần làm rõ những đặc điểm, đặc trưng thi pháp của hồi kí văn học từ
1986 đến nay, để từ đó nhận diện và khái quát hoá được đặc trưng về “tư duy
nghệ thuật” (trên các bình diện “mã quan niệm”, hình tượng nghệ thuật và
phương thức trần thuật) của thể loại hồi kí trong giai đoạn này. Phương pháp
này do đó rất quan trọng về mặt phương pháp luận (methodology) để nghiên
cứu hồi kí văn học từ 1986 đến nay.

5.3. Phương pháp tiếp cận liên ngành
Phương pháp tiếp cận liên ngành là phương pháp sử dụng phối hợp các
tri thức, phương pháp của các ngành khoa học khác nhau để tiếp cận đối tượng
nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu liên ngành được sử dụng ở đây nhằm
xem xét hồi kí văn học từ 1986 đến nay như một hiện tượng văn hoá (cần được
9


tiếp cận dưới góc nhìn văn hoá), có tính đa ngành (xã hội học, sử học, văn học,
xã hội học, tâm lí học, văn hoá học,...). Cách tiếp cận liên ngành, vì vậy, sẽ
giúp nhận diện hiện tượng một cách toàn diện, sâu sắc hơn và đưa đến đến
những nhận định, phân tích thú vị về tư duy của thể loại này. Trong đó, phương
pháp tiếp cận liên ngành sẽ đặc biệt đắc dụng khi nghiên cứu tiểu sử nhà văn
phục vụ cho việc nghiên cứu hồi kí của họ. Các tri thức về văn hoá học, tâm lí
học, xã hội học và đặc biệt là sử học sẽ giúp ích nhiều cho việc nghiên cứu
của luận án.
5.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Phương pháp so sánh - đối chiếu là phương pháp đặt đối tượng bên cạnh
các đối tượng khác (có thể có tính liên dân tộc hoặc liên ngành theo lối “văn
học so sánh” – comparative literature; cũng có thể là so sánh đơn thuần các đối
tượn riêng rẽ) để làm nổi rõ những điểm giống và khác giữa chúng, từ đó nhận
diện rõ hơn đặc trưng của đối tượng nghiên cứu. Phương pháp này sẽ được sử
dụng để so sánh “tư duy nghệ thuật trong hồi kí văn học Việt Nam từ 1986 đến
nay” với tư duy nghệ thuật trong hồi kí văn học Việt Nam các giai đoạn trước;
với các thể loại khác cùng thời, so sánh hồi kí của nhà văn nam với nhà văn nữ
để tìm ra bản sắc giới tính và sự tác động của yếu tố giới; so sánh tác phẩm –
tác giả này với tác giả - tác phẩm kia, so sánh nội dung được phản ánh trong
hồi kí với “sự thực” được phản ánh trong các tư liệu, các nguồn thông tin
khác,v.v...
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng sử dụng các thao

tác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, phân loại, mô tả, suy luận, đặt giả
thiết, v.v... nhằm thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án mong muốn có những đóng
góp chủ yếu sau:

10


Trước hết, dựa trên những thành tựu nghiên cứu lí thuyết về tư duy
nghệ thuật, về thể loại hồi kí, luận án đưa ra quan niệm riêng về tư duy nghệ
thuật (“mã tư duy”) trong thể loại hồi kí, một thể loại có những đặc trưng
riêng, độc đáo so với các thể loại khác như thơ hay tiểu thuyết, truyện ngắn
đặc biệt là sự liên hệ gần như trực tiếp của nó với bối cảnh thời đại và ý thức
hệ, ý thức nghệ thuật, yếu tố giới,... Do vậy, luận án sẽ đưa ra một công cụ
hữu hiệu để trước tiên khảo sát thể loại hồi kí văn học và sau đó là nghiên cứu
những thông điệp tư tưởng văn hoá đằng sau nó.
Thứ hai, luận án còn góp phần phác hoạ một cách tổng quát và bản chất
quá trình phát triển của hồi kí văn học trong suốt chiều dài lịch sử hình thành
và phát triển của nó từ thời trung đại cho đến hiện đại, trong đó tập trung vào
giai đoạn phát triển đỉnh cao của hồi kí văn học là giai đoạn từ 1986 đến nay
đặt trong bối cảnh văn hoá đương thời. Luận án do đó, có được cái nhìn lịch
sử và cái nhìn tổng quát đối với thể loại hồi kí.
Thứ ba, luận án lần đầu tiên chỉ ra những đặc trưng về tư duy nghệ
thuật trong hồi kí văn học từ 1986 đến nay qua các biểu hiện khác nhau như:
các “mã quan niệm” chủ yếu, các hình tượng nghệ thuật tiêu biểu và các
phương thức trần thuật nổi bật. Từ các biểu hiện này, có thể chỉ ra những gì
đã được các tác giả quan tâm, chú trọng và cố gắng chuyển tải thông điệp về
cuộc sống. Cũng từ những phân tích - tổng hợp về tư duy nghệ thuật trong hồi
kí tư duy nghệ thuật trong hồi kí văn học từ 1986 đến nay, luận án quay trở lại

kiểm nghiệm những hằng số và biến số của thể loại trong thực tiễn sáng tác.
Cuối cùng, luận án góp phần nhất định vào việc khám phá, nhận diện
những ưu điểm cũng như hạn chế về nội dung và nghệ thuật chủ yếu của hồi
kí văn học từ 1986 đến nay làm công cụ để định hướng cho việc giáo dục tri
thức và thẩm mĩ cho người đọc văn học hôm nay, nhất là đối tượng bạn đọc
trẻ tuổi còn thiếu kinh nghiệm và bản lĩnh khi đọc hồi kí. Từ đó, luận án góp
phần nâng cao đời sống tinh thần, thị hiếu thẩm mĩ và kéo độc giả trẻ trở lại
11


với văn học trong bối cảnh có sự nhàm chán với sự trì trệ của văn học trong
thời gian không phải là ngắn đồng thời bị lôi cuốn bởi những loại hình giải trí
khác năng động, thời thượng hơn.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
của luận án được triển khai thành 4 chương như sau:
Chƣơng 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chƣơng 2: Tƣ duy nghệ thuật hồi kí văn học từ 1986 đến nay nhìn
từ các “mã quan niệm” chủ yếu
Chƣơng 3: Tƣ duy nghệ thuật trong hồi kí văn học từ 1986 đến nay
nhìn từ các hình tƣợng nghệ thuật tiêu biểu
Chƣơng 4: Tƣ duy nghệ thuật trong hồi kí văn học từ 1986 đến nay
nhìn từ các phƣơng thức trần thuật nổi bật

12


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trong chương này, chúng tôi trình bày, lược thuật ba vấn đề có tính

khái quát và nền tảng cho việc tìm hiểu tư duy nghệ thuật trong hồi kí văn học
từ 1986 đến nay. Đó là vấn đề “tư duy nghệ thuật và tư duy nghệ thuật trong
hồi kí”, “tình hình sáng tác hồi kí văn học từ 1986 đến nay” và “tình hình
nghiên cứu hồi kí văn học từ 1986 đến nay”. Ba vấn đề được trình bày sẽ cho
người đọc một cái nhìn tổng thể, xuyên suốt về đối tượng nghiên cứu của luận
án trước khi đi vào những vấn đề cụ thể hơn.
1.1. Tƣ duy nghệ thuật và tƣ duy nghệ thuật trong hồi kí
1.1.1. Tư duy nghệ thuật
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (tập 4), tư duy (thought) là “sản
phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc biệt - bộ não, quá trình
phản ánh tích cực hiện thực khách quan dưới dạng các khái niệm, phán đoán,
lí luận,v.v… Tư duy xuất hiện trong quá trình sản xuất xã hội của con người.
Trong quá trình đó, con người so sánh các loại tài liệu thu được từ nhận thức
cảm tính hoặc các ý nghĩ với nhau, trải qua các quá trình khái quát hoá và
trừu tượng hoá, phân tích và tổng hợp để rút ra các khái niệm, phán đoán, giả
thuyết, lí luận,…” [77, tr.701]. Có thể thấy, tư duy là một sản phẩm hoạt động
trí óc bậc cao nhất của con người thể hiện sự tiến hoá sinh học và đặc biệt là
tiến hoá xã hội. Tư duy luôn là “sự phản ánh khái quát các thuộc tính, các mối
liên hệ cơ bản, phổ biến các quy luật không chỉ ở một sự vật riêng lẻ mà còn ở
một nhóm các sự vật nhất định” [77, tr.701]. Nói khác đi, tư duy phải mang
tính khái quát và mang tính phổ biến (trên một nhóm đối tượng). Cũng theo
Từ điển bách khoa Việt Nam, tư duy là kết quả hoạt động thực tiễn của con
người nhưng đồng thời cũng có tính độc lập tương đối với thực tiễn. Điều đó
thể hiện ở mấy khía cạnh: Thứ nhất, tư duy còn chịu ảnh hưởng bởi các tri
13


thức có trước hoặc cùng thời; thứ hai, tư duy có logic phát triển nội tại và vì
vậy nhiều khi tách rời khỏi thực tiễn (cần phải được cọ xát lại với thực tiễn để
kiểm nghiệm); thứ ba, tư duy có thể tác động ngược lại thực tiễn, cải tạo hoặc

làm biến đổi nó theo logic của tư duy. Một quan niệm khái quát, khoa học về
tư duy như vậy sẽ giúp chúng ta xem xét chính xác “tư duy nghệ thuật” với tư
cách một nhánh của tư duy nói chung nhưng có những tính chất đặc thù đôi
khi không nằm trọn trong đó [77, tr.701].
Hiểu một cách giản dị, “tư duy nghệ thuật” (artistic thought) là tư duy
trong các ngành, các bộ môn hay lĩnh vực nghệ thuật (arts) hoặc theo logic
của nghệ thuật (artistic logic). Còn hiểu chuyên môn hơn, tư duy nghệ thuật là
một loại hình tư duy đặc thù của quá trình cảm thụ và sáng tạo nghệ thuật
phân biệt với loại tư duy khác ngang hàng là tư duy khoa học (scientific
thought). Theo Nguyễn Bá Thành, “tư duy nghệ thuật là sự khôi phục và sáng
tạo các biểu tượng trực quan, là sự hình tượng hóa hiện thực khách quan theo
nhận thức chủ quan” [181, tr.54]. Theo đó mà diễn dịch, tư duy nghệ thuật là
cách cảm nhận, đánh giá và phản ánh thế giới dưới lăng kính của nghệ thuật
và bằng các phương tiện nghệ thuật đặc thù. Nó là quá trình nghệ sĩ nhận thức
và phản ánh hiện thực một cách nghệ thuật theo logic chủ quan. Mở rộng ra,
người ta còn quan niệm tư duy nghệ thuật không phải chỉ xuất hiện trong quá
trình sáng tác nghệ thuật (như trên vừa trình bày) mà còn xuất hiện trong quá
trình tiếp nhận, thưởng thức nghệ thuật, cho nên nó là “dạng hoạt động trí tuệ
của con người hướng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật” [77,
tr.381]. Tuy nhiên, ở đây, trong phạm vi đề tài này, chúng tôi sẽ chủ yếu quan
tâm đến vế thứ nhất là quá trình sáng tạo.
Theo đó, tư duy nghệ thuật hướng đến sự khám phá, tái hiện và tái tạo
cuộc sống thông qua những hình tượng nghệ thuật sinh động, chi tiết. Trong
tư duy nghệ thuật, các quy luật, hiện tượng của cuộc sống được biểu hiện qua
hình tượng nghệ thuật tức những hình ảnh, chi tiết vừa có tính cụ thể vừa có
14


tính khái quát cao. Bản chất của hình tượng nghệ thuật chính là cách lựa chọn
hình ảnh, chi tiết có tính đặc trưng, đặc thù để biểu hiện sự nhận thức, phân

tích hiện thực của nhà văn. Vì vậy, hình tượng nghệ thuật dù phản ánh hiện
thực khách quan nhưng có tính chủ quan, mang đậm dấu ấn, cá tính của chủ
thể nghệ sĩ. Do đó, tư duy nghệ thuật ở mỗi nhà văn, mỗi thời đại có những
đặc điểm riêng độc đáo, không lặp lại. Điều này tạo nên đặc trưng riêng của
tư duy nghệ thuật ở các lĩnh vực, các chủ thể khác nhau. Hình tượng nghệ
thuật tuy xuất phát từ cuộc sống, từ hiện thực, dùng nguyên mẫu từ hiện thực
nhưng không phải là sự sao chép, mô phỏng cơ giới, trực tiếp hiện thực cuộc
sống mà sự tái tạo có sáng tạo dựa trên sự hư cấu, tái cấu trúc lại bằng các
phương thức nghệ thuật. Như vậy, tư duy nghệ thuật luôn có tính sáng tạo,
tính cá thể. Chính tính sáng tạo, tính cá thể này đã tạo ra sản phẩm là tác
phẩm nghệ thuật có sức tác động, gợi mở sự cảm thụ nghệ thuật ở người đọc.
Người đọc tiếp thu và nhận diện ra tư duy nghệ thuật của nghệ sĩ là thông qua
sản phẩm nghệ thuật này mà mỗi người lại có sự cảm thụ riêng. Thành ra, tư
duy nghệ thuật của nghệ sĩ lại biến hoá không ngừng. Mặt khác, tư duy nghệ
thuật lại chịu sự chi phối của bối cảnh xã hội, của hoàn cảnh lịch sử và của
truyền thống văn hoá, nghệ thuật nên nó lại có những đặc điểm chung tạo nên
phong cách, kiểu tư duy của mỗi thời đại, mỗi thể loại. Đây là cơ sở để chúng
tôi đặt vấn đề tìm hiểu “tư duy nghệ thuật trong hồi kí Việt Nam từ 1986 đến
nay” dựa trên những khảo sát thực tiễn sáng tác.
1.1.2. Tư duy nghệ thuật trong hồi kí
Kí “là một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học...
có quan điểm thể loại là tôn trọng sự thật khách quan của đời sống, không hư
cấu. Nhà văn viết kí luôn luôn chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực
đời sống được phản ánh trong tác phẩm. Kí thường không có cốt truyện có
tính hư cấu. Sự việc và con người trong kí phải xác thực hoàn toàn, có địa chỉ
hẳn hoi. Đó là vì kí dựng lại những sự thật đời sống cá biệt một cách sinh
15


động, chứ không xây dựng các hình tượng mang tính khái quát. Tính khái

quát do tác giả kí thể hiện bằng suy tưởng” [54, tr.137-138]. Nói khác đi, kí là
loại hình đặc thù chuyên ghi chép trực tiếp sự việc dựa trên nguyên tắc được
giả định là trung thành với sự thực lịch sử với nghĩa là những sự thực đã từng
tồn tại hoặc diễn ra trong quá khứ (tức tính chân thực, khách quan của loại
hình này). “Không gắn với sự thật xác thực trong đời sống, kí dễ chơi vơi và
xoá đi ranh giới giữa mình với các thể loại (sic) khác” (Hà Minh Đức) [48,
tr.211]. Tuy nhiên, sự thực đó bao giờ cũng lại được ghi chép bởi một cá nhân
tác giả có hoàn cảnh sống, giới tính, cảm xúc, có cá tính, có quan niệm và tài
năng riêng (chưa kể là những điều đó có sự thay đổi theo thời gian, diễn tiến
cuộc đời và thời đại). Bởi vậy, kí vừa có tính khách quan lại vừa có tính chủ
quan (tính chủ quan, cá thể của chủ loại hình). Người viết kí do vậy chịu ảnh
hưởng khá mạnh của đặc trưng loại hình. Mặc khác, kí được xem là tấm
gương trực tiếp phản ánh đời sống hiện thực nên bối cảnh văn hoá, tư tưởng ý thức hệ từ hiện thực cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến kí, chi phối cả nội
dung và nghệ thuật của nó. Mặc dù, nhận thức được các vấn đề như vậy,
nhưng các nhà nghiên cứu truyền thống về thể kí vẫn cứ băn khoăn và tranh
luận với nhau không dứt về mâu thuẫn giữa sự “phản ánh sự thật” và “tính
chủ quan” hay “mức độ hư cấu” cho phép của kí (ở Việt Nam, cuộc tranh luận
như vậy diễn ra sôi nổi nhất vào thập kỉ 60 của thế kỉ XX, chủ yếu trên Tạp
chí Nghiên cứu văn học). Cuộc tranh luận cơ hồ cho đến nay còn chưa ngã
ngũ. Tại sao? Theo chúng tôi, đó là do các nhà nghiên cứu dù theo hướng nào
vẫn không ra ngoài nền tảng của “phản ánh luận” vốn xem văn học đơn thuần
là sự phản ánh cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật. Yêu cầu của việc truy
tìm “cái được phản ánh” dẫn đến những tranh luận nêu trên. Dưới cái nhìn
của các lí thuyết văn học mới và khác (chẳng hạn như thuyết biểu hiện expressionism, và đặc biệt là thuyết diễn ngôn - theory of discourse) [208],

16


vấn đề được nhìn nhận rõ hơn rằng: kí là một “loại hình diễn ngôn” đặc biệt
có mã đặc trưng của loại hình [130]. Những mã đó góp phần quyết định tính

chất của kí là phản ánh sự thật (khách quan) hay có tính chủ quan (tự biểu
hiện), quyết định mức độ hư cấu (tuỳ theo mục đích viết, bối cảnh viết,…), nó
cũng cho phép giải thích các loại kí giả tưởng như kiểu kí huyền ảo, kí tưởng
tượng,... Với tư cách là “loại hình diễn ngôn” kí thực ra mang đậm tính chủ
quan (do sự tương tác giữa các yếu tố: quyền lực, tri thức,… tạo nên hành
động viết kí) nhưng lại mang một cái “lốt”, cái “vỏ” là phản ánh sự thật; hoặc
giả nó luôn muốn hướng tới “phản ánh” sự thật nhưng không bao giờ thoát
khỏi sự chi phối của những nhân tố chủ quan và khách quan khiến cho mục
đích đó không bao giờ đạt được ở mức độ tuyệt đối. Kí cũng như các loại văn
bản diễn ngôn khác là sản phẩm được tạo ra dựa trên sự tương tác giữa mục
đích, động cơ, ý chí của quyền lực, khả năng của tri thức,… Nguyễn Thị
Ngọc Minh trong LATS Kí như một loại hình diễn ngôn đã chỉ ra một số mã
nghệ thuật của loại hình kí là: mã thể loại với tư cách là “đặc trưng của văn
học kí” (bao gồm các mã nhỏ hơn là: mã sự thật - ngôn ngữ sự thật (cách thức
kí dùng các loại phương thức, phương tiện - ngôn từ nghệ thuật để tạo ra ấn
tượng về “sự thật”) mã nghệ thuật - lớp tu từ của sự thật và “mã tư tưởng hệ”
(tức ảnh hưởng của tư tưởng hệ đến cách viết kí hay cách tạo diễn ngôn kí)
[130, tr.35-120]. Như vậy, sự thật trong kí cũng chỉ là một cái “mã” chứ
không phải chân lí khách quan, và cái mã đó lại chịu ảnh hưởng lớn bởi “tư
tưởng hệ” và đằng sau đó là hàng loạt những tác nhân khác. Nguyễn Thị Ngọc
Minh không khái quát tất cả những mã trên bằng một cái tên chung là mã gì,
nhưng theo chúng tôi có thể gọi chúng là những “mã quan niệm”, bởi những
cái mã đó hàm chứa các quan niệm nghệ thuật về việc viết kí (nói khác đi là
quan niệm nghệ thuật về loại hình). Mặc dù còn có điểm cần phải tiếp tục
thảo luận (như liệu có nên có một sự hoài nghi thường trực, tuyệt đối đối với

17


sự thật trong hồi kí như thế hay không? Và còn có những “mã” khác nữa hay

không? Có vấn đề tâm sinh lí, cá tính, giới tính của cá nhân hay không?...),
việc chỉ ra các “mã quan niệm” như thế giúp cho việc nhận diện và tiếp cận
tác phẩm thuộc loại hình kí thuận lợi hơn và đúng đắn hơn từ cả hai góc độ:
góc độ đặc trưng thể loại và góc độ ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử xã hội mà
cốt lõi là tư tưởng thời đại (chúng tôi dùng khái niệm “tư tưởng thời đại” thay
vì “tư tưởng hệ” như Nguyễn Thị Ngọc Minh dùng bởi cho rằng “tư tưởng
thời đại” sẽ rộng hơn “tư tưởng hệ” vốn thường để chỉ hệ tư tưởng của chính
thể cầm quyền mà thôi). Bên cạnh đó, những nghiên cứu liên ngành văn học tâm lí học, văn học - xã hội học, văn học - văn hoá học về loại hình kí cũng
cho thấy kí chịu sự chi phối của nhiều nhân tố, trong đó nổi bật là các vấn đề
tâm lí - xã hội (điều này càng quan trọng đối với hồi kí, thể loại dựa rất nhiều
vào kí ức, tình trạng tâm lí, mối quan hệ xã hội của người viết hồi kí).
Hồi kí lại là thể loại có thể xem là khá đặc trưng của loại hình kí. Đó là
thể loại vừa cố đạt đến tính chân thực, khách quan lại vừa không thoát khỏi
cái nhìn và tư duy chủ quan, não trạng và đặc biệt là trí nhớ của nhà văn (tình
trạng trí nhớ, trạng thái tâm sinh lí, do sự cảm thụ cuộc sống, do kinh nghiệm,
nhận thức chủ quan,…). Hồi kí lại được kể theo dòng hồi tưởng, hồi ức của
tác giả một cách linh hoạt, có thể theo dòng thời gian tuyến tính, nhưng cũng
có thể theo trình tự hồi tưởng, ghi nhớ của ý thức (thậm chí vô thức) tác giả.
Mặt khác, không phải cái gì đã từng xảy ra trong quá khứ cũng được nhà văn
ghi lại. Kí ức, trí nhớ và khả năng ghi lại của nhà văn là hữu hạn (trong phạm
vi chứng kiến, ghi nhớ của anh ta) và có tính chọn lọc, giữ - bỏ (vô tình hoặc
có ý thức). Nó lại được kể lại trực tiếp bằng khả năng ngôn ngữ, diễn đạt của
tác giả, nên phụ thuộc rất lớn vào năng lực ngôn ngữ, diễn đạt đó. Trước đây,
người ta chỉ coi ngôn ngữ là vỏ, là phương tiện của tư duy; nhưng gần đây,
người ta đã nhận thấy ngôn ngữ còn quan trọng hơn thế, nó còn chính là tư
18


×