Tải bản đầy đủ (.pdf) (218 trang)

Văn học dân gian cao lan nhìn từ văn hóa tộc người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 218 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN BA

VĂN HỌC DÂN GIAN CAO LAN
NHÌN TỪ VĂN HÓA TỘC NGƢỜI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN BA

VĂN HỌC DÂN GIAN CAO LAN

NHÌN TỪ VĂN HÓA TỘC NGƢỜI
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 9.22.01.25

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:


1. PGS.TS. Đỗ Lai Thúy
2. TS. Bùi Thị Thiên Thai

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao nhất có thể. Các tài
liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm
về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng 12 năm 2018
TÁC GIẢ

Nguyễn Văn Ba


MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Quy ước cách viết trong luận án
Danh mục sơ đồ, bản thống kê trong luận án
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

7

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

10

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án

10

7. Kết cấu của luận án

11

NỘI DUNG
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT

12


1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

12

1.1.1. Về nguồn gốc và lịch sử tộc người Cao Lan ở Việt Nam

12

1.1.2. Về thành phần tộc người và tộc danh Cao Lan

18

1.1.3. Về văn hóa Cao Lan

28

1.1.4. Về văn học dân gian Cao Lan

33

1.1.5. Nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa

35

1.1.6. Văn học dân gian Cao Lan từ góc nhìn văn hóa

36

1.2. Cơ sở lí thuyết


39

1.2.1. Không gian xã hội trong mối tương quan với văn hóa tộc người

39

1.2.2. Văn học dân gian trong mối quan hệ với không gian xã hội

42

1.2.3. Những phương diện cơ bản của không gian xã hội

43


Chƣơng 2: KHÁI QUÁT VĂN HỌC DÂN GIAN CAO LAN

47

2.1. Truyện cổ Cao Lan

47

2.1.1. Về diện mạo truyện cổ Cao Lan

47

2.1.2. Về phân loại truyện cổ Cao Lan


49

2.1.3. Nội dung truyện cổ Cao Lan

49

2.2. Dân ca Cao Lan

59

2.2.1. Cội nguồn tiếng hát

59

2.2.2. Phân loại dân ca Cao Lan

61

2.2.3. Giới thiệu một số loại dân ca Cao Lan

63

2.3. Tục ngữ, câu đố, truyện thơ Cao Lan

74

2.3.1. Tục ngữ

74


2.3.2. Câu đố

75

2.3.3. Truyện thơ

75

Chƣơng 3: VĂN HỌC DÂN GIAN CAO LAN NHÌN TỪ KHÔNG GIAN

77

SINH TỒN

3.1. Một nhận thức về không gian sinh tồn

77

3.2. Văn học dân gian Cao Lan nhìn từ những mối quan hệ trong
không gian sinh tồn

78

3.2.1. Các mối quan hệ [của con người] với không gian và thời gian

78

3.2.2. Các mối quan hệ [của con người] với môi trường tự nhiên

84


3.2.3. Các mối quan hệ [của con người] thông qua sự trao đổi

93

3.2.4. Các mối quan hệ trong gia đình, họ hàng và xóm giềng

97

3.3. Không gian sinh tồn và ý thức tộc ngƣời [ở ngƣời] Cao Lan

106

Chƣơng 4: VĂN HỌC DÂN GIAN CAO LAN NHÌN TỪ KHÔNG

112

GIAN THIÊNG
4.1. Mối quan hệ giữa không gian sinh tồn và không gian thiêng

112

4.2. Không gian thiêng và đời sống gia đình của ngƣời Cao Lan

115

4.2.1. Ngôi nhà sàn: bài ca sự sống

115


4.2.2. Nghi lễ nhà xe: bài ca đưa tiễn linh hồn

123

4.3. Không gian thiêng và đời sống cộng đồng, làng bản

128


4.3.1. Lễ hội Đám tăng: bài ca các vị thần

128

4.3.2. Lễ hội đình làng: bài ca cộng đồng

131

4.4. Không gian thiêng và cảm quan vũ trụ của ngƣời Cao Lan

132

4.4.1. Về sự hình thành vũ trụ

132

4.4.2. Con đường tâm linh hay sự kết nối các tầng vũ trụ

135

4.4.3. Vị thế của các linh hồn


141

KẾT LUẬN

147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152

PHỤ LỤC

169


QUY ƢỚC VIẾT TẮT ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

Groupes ethniques de L’indochine
Ethnic groups ò Northern Southeast Asie
Southeast Asian Studies

GEL
EGNSA
SAS


Tạp chí Nghiên cứu văn học

NCVH

Tạp chí Văn hóa nghệ thuật

VHNT

Tạp chí Dân tộc học
Nguyễn Văn Ba sưu tầm

DTH
NVB ts

Nguyễn Văn Ba

NVB

Nhà xuất bản

Nxb

Phụ lục

PL

Trang

Tr.



QUY ƢỚC CÁCH VIẾT SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN

- Dân tộc (nation): Ở Việt Nam, nhiều khi có sự nhầm lẫn ý nghĩa giữa dân tộc
(nation) và tộc người (ethnic). Vì vậy, trong luận án, chúng tôi quy ước: khi viết
“dân tộc” là chỉ cộng đồng quốc gia dân tộc, bao gồm nhiều tộc người trong lãnh
thổ Việt Nam.
- Tộc ngƣời (ethnic): Chỉ một tộc người cụ thể trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam (như tộc người Kinh, tộc người Dao, tộc người Thái…). Những phần trích
dẫn, chúng tôi để nguyên văn theo cách viết của tác giả.
- Sịnh ca: Dân ca Cao Lan có nhiều cách viết khác nhau như “sình ca”, “xình
ca”, “xịnh ca”, “slịnh ca” “sịnh ca”. Trong luận án, chúng tôi sử dụng thống nhất
cách viết “sịnh ca”. Đây là cách nói và viết phổ biến được người Cao Lan sử
dụng khi nói về dân ca của tộc người mình. Những phần trích dẫn, chúng tôi để
nguyên văn theo cách viết của tác giả.
- Làu Slam: Là tên một truyện cổ của người Cao Lan. Trong các tài liệu chúng
tôi có được, hiện đang tồn tại nhiều cách viết như Làu Slam [143], Kó Làu
Slam [147], Kó Lau Slam [144]. Để thống nhất trong luận án, chúng tôi sử dụng
cách viết Làu Slam để chỉ văn bản tác phẩm, đồng thời cũng là tên nhân vật
trung tâm của truyện cổ này. Trong những trích dẫn cụ thể, chúng tôi giữ nguyên
cách viết của các tác giả.
- In đậm: Nội dung luận án muốn nhấn mạnh.
- In nghiêng (đậm): Tên tác phẩm
- In nghiêng (không đậm): Tên sách, tài liệu
- In nghiêng trong ngoặc kép (không đậm): Trích dẫn văn bản dân ca,
truyện… Trong giới hạn dung lượng của luận án, phần trích dẫn dân ca, chúng
tôi dùng dấu gạch chéo (/) để phân tách các câu ca.


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG THỐNG KÊ TRONG LUẬN ÁN

1. Bảng 1: Thống kê nguồn ngữ liệu khảo sát trong luận án
2. Bảng 2: Thống kê số người Cao Lan ở một số địa phương
3. Bảng 3: Thống kê một số tộc người ở Tuyên Quang
4. Hình 1: Mô hình không gian sinh tồn của người Cao Lan
5. Hình 2: Mô hình không gian thiêng của người Cao Lan


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tính chất đa tộc người đã trở thành điểm nhấn hấp dẫn của văn hóa Việt
Nam nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung. Ở Việt Nam, bên cạnh dân
tộc Kinh, chiếm số lượng lớn nhất, giữ vai trò trung tâm, các tộc người thiểu số
khác đều mang những sắc thái văn hóa đặc trưng và chính những đặc trưng đó
đã tạo nên một nền văn hóa đa dạng và phong phú trong tính cấu trúc thống nhất
chặt chẽ của văn hóa Việt Nam. Các tộc người ấy đều có truyền thống văn hóa
lâu đời và đặc biệt là kho tàng văn hóa - văn chương truyền miệng đa dạng,
phong phú. Những sáng tạo nghệ thuật còn chắt chiu được qua bao biến cố và
thời gian cần được bảo tồn và phát huy giá trị, nhất là trong thời kì hội nhập
quốc tế.
Lâu nay ở nước ta, vấn đề “bản sắc dân tộc”, vấn đề “thống nhất trong đa
dạng” của văn hóa luôn được chú trọng. Tuy nhiên, để thực sự có được sự đa
dạng trong cái thống nhất đó, trước hết cần nhận thức một cách sáng rõ về từng
tộc người. Bởi mỗi tộc người đều sáng tạo ra văn hoá của/cho mình, và chứa
đựng trong nền văn hóa đó là sức sống, tiềm năng, bản lĩnh, sức sáng tạo và
bản sắc. Bằng văn hóa và thông qua văn hóa, tộc người đó, qua các thế hệ, xây
dựng cho mình những chuẩn mực sống, quan hệ cộng đồng, những hình thức lao
động và đấu tranh xã hội. Chính vì thế, tộc người nào cũng có vị thế riêng của
nó, và vị thế đó luôn luôn cần được tôn trọng.
Tộc người Cao Lan (thường bị gộp với Sán Chí để gọi tên chung là Sán
Chay hoặc Cao Lan – Sán Chí) hiện nay đang sinh sống ở khu vực Trung du và

miền núi phía Bắc Việt Nam, trong đó tập trung đông nhất ở Tuyên Quang.
Cũng giống như các tộc người thiểu số khác, Cao Lan có truyền thống văn hóa
lâu đời, mang bản sắc riêng, trong đó phải kể đến kho tàng văn học dân gian.
Loại hình văn hóa này, từ nửa cuối thế kỉ XX đã được một số học giả sưu tầm,
giới thiệu với những công trình như: Dân ca Cao Lan (Phương Bằng, 1981),
Truyện cổ Cao Lan (Lâm Quý và Phương Bằng, 1983), Xịnh ca Cao Lan (Lâm
Quý, 2004), Dân ca Cao Lan (Ngô Văn Trụ, 2006)… Đây là những công sức
quý báu của các nhà nghiên cứu trong việc giữ gìn, phục dựng kho tư liệu văn
10


chương phong phú của người Cao Lan. Tuy nhiên, mọi việc mới chỉ dừng lại ở
công tác sưu tầm (bản thân việc này cũng chỉ là bước đầu), giới thiệu khái quát
hoặc một vài nghiên cứu đơn lẻ. Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào về văn học
dân gian Cao Lan từ góc độ văn hóa tộc người. Trước tình hình đó, nhiều vấn đề
đặt ra cần được giải đáp: Từ những cạnh khía của văn hóa tộc người ta khám
phá được gì về văn học dân gian của người Cao Lan? Ngược lại, qua văn học
dân gian, ta nhận biết thêm gì về văn hóa Cao Lan? Đặt trong không gian văn
hóa tộc người, văn học dân gian góp phần giúp Cao Lan xác định vị thế của
mình trong mối quan hệ với các tộc người khác như thế nào? Và đặc biệt, qua
việc giải quyết các nghi vấn này, ta định hình được gì về bản sắc văn hóa của
Cao Lan?...
Nghiên cứu Văn học dân gian Cao Lan từ văn hóa tộc người chính là cái
nhìn nội – ngoại quan, sử dụng những tri thức văn hóa tộc người để minh giải
các hiện tượng văn học, qua đó đưa ra một phương cách giải đáp những vấn đề
nêu trên. Nghiên cứu này cũng xuất phát từ thực tiễn về sự mai một nhanh
chóng của văn hóa Cao Lan những năm gần đây. Vì thế, luận án tận dụng hoạt
động thực địa để nghiên cứu, mong góp vào hiểu biết, ở chiều sâu, văn học dân
gian Cao Lan và tộc người Cao Lan.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích
Nghiên cứu văn học dân gian Cao Lan từ văn hóa tộc người, luận án hướng
tới vận dụng văn hóa học như một công cụ, lấy các tri thức văn hóa tộc người để
lí giải các hiện tượng văn học dân gian. Qua thao tác đó, luận án góp phần khẳng
định mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn hóa tộc người trong tính tương tác
đa chiều, đồng thời hiểu thêm về những đặc điểm văn hóa trong đời sống cũng
như những đặc điểm tâm thức của người Cao Lan.
Với hướng tiếp cận từ văn hóa tộc người, luận án cũng mong muốn tham
góp về mặt phương pháp luận đối với việc nghiên cứu văn học dân gian. Bởi
nghiên cứu văn học nói chung, nhất là văn học dân gian không thể tách rời nó
trong mối tương quan với bối cảnh sản sinh, lưu truyền và phát triển nó. Mặt
khác, văn hóa tộc người với những đặc thù (không phải văn hóa nói chung) sẽ là
11


chiều hướng tích cực và khả thi khi soi chiếu vào các vấn đề văn học dân gian
của tộc người cụ thể. Vì thế, cách tiếp cận này không chỉ làm sáng tỏ những đặc
trưng văn hóa của một tộc người mà đặt văn hóa tộc người trong trạng thái động,
có sự tương tác giữa các tộc người.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án cần thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những lí thuyết về văn học dân gian, văn hóa tộc người,
không gian xã hội như những công cụ nền tảng làm cơ sở lí thuyết cho luận án.
Bên cạnh đó cần tìm hiểu những vấn đề cơ bản của dân tộc học, nhân học, tâm lí
học tộc người... để bổ trợ các lí thuyết trong quá trình nghiên cứu.
- Phân tích, lí giải các hiện tượng văn học dân gian Cao Lan qua góc nhìn văn
hóa tộc người. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của luận án.
- Định hình bản sắc văn hóa Cao Lan trong mối quan hệ với các tộc người
lân cận. Nhiệm vụ này sẽ được giải quyết lồng ghép trong các phân tích cụ thể
ở những khía cạnh văn hóa – văn học Cao Lan.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận án là văn học dân gian Cao Lan nhìn từ
văn hóa tộc người.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về ngữ liệu khảo sát: Văn học dân gian Cao Lan rất phong phú và đa
dạng, bao gồm nhiều loại hình khác nhau. Trong phạm vi luận án, chúng tôi tập
trung khảo sát hai loại hình đã được sưu tầm tương đối phong phú là truyện cổ
và dân ca (sịnh ca) Cao Lan. Về hai loại hình này, chúng tôi khảo sát ngữ liệu
chính trong các sách của Lâm Quý, Phương Bằng, Ngô Văn Trụ, Đỗ Thị Hảo,
Nguyễn Xuân Cần, Trần Văn Lạng; một số tư liệu mới được sưu tầm trong
luận án của Đặng Thị Hường. Bên cạnh đó là nguồn ngữ liệu do chúng tôi trực
tiếp sưu tầm, thuê dịch trong quá trình thực địa, trong đó có truyện cổ và đáng
kể nhất là các đêm hát (ngoài đêm thứ nhất đã được công bố) được các thầy
12


cúng người Cao Lan cung cấp, lược dịch và giải thích ý nghĩa từng đêm hát.
Đây sẽ là một ngữ liệu quan trọng để chúng tôi bổ sung cho các vấn đề văn hóa
truyền thống, cũng như góp phần nhận diện không gian văn hóa đặc thù của
người Cao Lan. Các thể loại khác như tục ngữ, câu đố, truyện thơ (mới được
sưu tầm rải rác ở một số địa phương) được sử dụng như những dẫn dụ trong
những tình huống cụ thể. Để tiện theo dõi, chúng tôi lập bảng thống kê nguồn
ngữ liệu khảo sát trong luận án:
Bảng 1: Thống kê nguồn ngữ liệu khảo sát trong luận án
STT

Năm
công bố


Văn bản

1

1981

Dân ca Cao Lan

2

1983

Truyện cổ Cao Lan

3

1994

4

1995

5

Tác giả

Nhà xuất bản

Phương Bằng


Văn hóa

Lâm Quý,
Phương Bằng

Kó Lau Slam: Truyện tình

Văn hóa

Lâm Quý

Văn hóa dân tộc

Chàng Út của ông trời

Lâm Quý

Văn hóa dân tộc

2002

Truyện cổ Sán Chay

Lâm Quý

Văn hóa dân tộc

6

2003


Xịnh ca Cao Lan - đêm
hát thứ nhất

Lâm Quý

Văn hóa dân tộc

7

2006

Dân ca Cao Lan

Ngô Văn Trụ

Văn hóa dân tộc

8

2010

Dân ca Cao Lan ở Bắc
Giang

Ngô Văn Trụ

9

2011


Ca thư, những câu hát
của người Sán Chay

Đỗ Thị Hảo

2012

Dân ca Sán Chí ở Kiên
Nguyễn Xuân Cần,
Lao – Lục Ngạn – Bắc
Trần Văn Lạng
Giang

10

thơ Cao Lan

Đại học Quốc
gia Hà Nội
Đại học Quốc
gia Hà Nội
Thời đại

- Về phạm vi lí thuyết: Văn hóa tộc người là khái niệm rộng, bao gồm mọi
yếu tố văn hóa cấu thành và làm nên đặc trưng của tộc người này so với tộc
13


người khác. Trong phạm vi luận án, chúng tôi vận dụng những quan điểm về

không gian xã hội của G. Condominas như công cụ để khảo sát, soi chiếu vào
các hiện tượng văn học dân gian Cao Lan. Việc lựa chọn không gian xã hội một khái niệm mang tính tổng thể, bao gồm cả xã hội, lịch sử, văn hóa; có mối
liên hệ chặt chẽ với văn hóa tộc người - một mặt đảm bảo hướng tiếp cận văn
hóa tộc người, mặt khác, quan trọng hơn, nó thể hiện nổi bật nét đặc trưng văn
hóa của mỗi tộc người qua các tầng lớp không gian và các quan hệ chứa đựng
trong các không gian ấy.
- Về không gian/địa bàn khảo sát thực địa: Đây là phạm vi quan trọng,
bởi nó sẽ là căn cứ để chúng tôi đưa ra những kiến giải, những kết luận khoa
học. Việc nghiên cứu các vấn đề văn học, văn hóa dân gian cần được đối chứng
với không gian, địa bàn sinh sống của tộc người. Mặt khác, với đặc trưng của
loại hình văn chương truyền khẩu, nên phạm vi khảo sát sẽ được mở rộng trong
thao tác so sánh, đối chiếu các ngữ liệu văn học và cả những đặc điểm văn hóa
của tộc người ở những địa phương khác nhau. Theo đó, chúng tôi khảo sát người
Cao Lan đang sinh sống tại các tỉnh phía Bắc như Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên
Bái, Thái Nguyên, Bắc Giang... trong đó trọng tâm là ở Tuyên Quang. Việc xác
định phạm vi này xuất phát từ các lí do sau: 1/ Theo các nguồn tư liệu, Tuyên
Quang là nơi mà người Cao Lan đến sau so với các địa phương khác như Quảng
Ninh, Lạng Sơn, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, nhưng là nơi định cư đông đúc nhất. Theo
Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, người Cao Lan có 61.343
người, chiếm 8,46% tộc người tỉnh Tuyên Quang (đứng thứ 4, sau tộc người
Kinh, Tày, Dao) và 36,2 % số người Cao Lan trong cả nước. 2/ Tuyên Quang là
địa phương có nhiều tộc người sinh sống theo cụm hoặc đan xen. Đặc điểm này
thuận tiện cho việc so sánh các đặc điểm văn hóa của các tộc người, qua đó định
hình được sự tương tác cũng như những đặc trưng văn hóa của mỗi tộc người,
trong đó có Cao Lan.
Bảng 2: Thống kê số ngƣời Cao Lan ở một số địa phƣơng
(Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009)
Tỉnh

Tổng dân số


Ngƣời Cao Lan

14

Tỉ lệ/tổng số ngƣời
Cao Lan ở Việt Nam


(169.410 người)

Tuyên Quang

724.821

61.343

36,2 %

Thái Nguyên

1.123.116

32.483

19,2%

Bắc Giang

1.554.131


25.821

15,2%

Quảng Ninh

1.144.988

13.786

8,1%

Yên Bái

740.397

8.461

4,9%

Lạng Sơn

732.515

4.384

2,5%

1.316.389


3.294

1,9%

999.786

1.611

0,9%

Phú Thọ
Vĩnh Phúc

15


Bảng 3: Thống kê một số tộc ngƣời ở Tuyên Quang
(theo Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009)
Tỉ lệ/ Tổng dân số
Tộc ngƣời

Dân số

Tuyên Quang
(724.821 người)

Kinh

334.993


46,21%

Tày

185.464

25,58%

Dao

90.618

12,50%

Cao Lan

61.343

8,46%

Mông

16.974

2,34%

Nùng

14.214


1,96%

Sán Dìu

12.565

1,73%

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
Tiếp cận văn học dân gian Cao Lan từ văn hóa tộc người, chúng tôi tuân
thủ tính hệ thống – tổng thể của văn hóa tộc người. Theo đó, luận án nhận định
các yếu tố của văn hóa tộc người (kinh tế, xã hội, văn hóa, v.v...) đều có liên
quan, tác động qua lại với con người của tộc người đó, và qua đó, có liên hệ, tác
động qua lại với nhau theo một cấu trúc nhất định. Mặt khác, chúng tôi quán
triệt một số nguyên tắc trong nghiên cứu văn hóa tộc người như: nguyên tắc tổng
thể, nguyên tắc phân cấp, nguyên tắc phát triển.
Văn hóa tộc người là tổng thể các yếu tố làm nên đặc trưng văn hóa của tộc
người này phân biệt với tộc người khác. Đó là các yếu tố kinh tế, chính trị, xã
hội, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán canh nông... tồn tại trong mối
tương quan với nhau, trong những không gian nhất định. Khi cụ thể hóa ở phạm
vi không gian xã hội, chúng tôi sẽ tập trung làm nổi bật những mối quan hệ cơ
16


bản nhất của văn hóa tộc người và từ những quan hệ ấy soi chiếu vào các hiện
tượng, các mối quan hệ có trong văn học dân gian. Thao tác này yêu cầu tuân
thủ tính liên hệ chặt chẽ giữa văn hóa và văn học trong sự tương tác, chiếu ứng
lẫn nhau. Vì vậy, xác định những đặc điểm văn hóa để lí giải các hiện tượng văn

học, ngược lại, từ các hiện tượng văn học định hình rõ nét hơn cấu trúc, bản sắc
văn hóa tộc người. Đó chính là tinh thần chung, là ý tưởng mang tính phương
pháp luận của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương
pháp chính sau đây :
- Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học: Văn hóa học nghiên cứu văn hóa
như một chỉnh thể toàn vẹn với một phạm vi rộng khắp, trong đó văn hóa học
văn học như một tiểu hệ thống. Từ cái nhìn văn hóa, chúng tôi sẽ tìm thấy những
mối quan hệ tương hỗ, biện chứng giữa văn hóa và văn học, sử dụng tri thức văn
hóa để minh giải các vấn đề văn học, mà ở đây là văn học dân gian Cao Lan.
Các thao tác phân tích biểu tượng, cổ mẫu trong văn học dân gian Cao Lan sẽ
được vận dụng thường xuyên theo phương pháp này.
- Phƣơng pháp điền dã dân tộc học: Để tìm hiểu văn học dân gian, văn
hóa tộc người, thì điền dã dân tộc học là đòi hỏi tất yếu. Phương pháp này thể
hiện ở những hình thức tiến hành cụ thể: Một là, lấy quan sát thực địa làm cơ
sở thẩm định những tư liệu đã có, đồng thời thu thập thêm tư liệu mới. Hai là,
phỏng vấn cá nhân nhằm giúp tìm hiểu rõ hơn về nhận thức, thái độ, hành vi
của người địa phương về các vấn đề của văn hóa tộc người mà họ là những
thành viên. Đối tượng được áp dụng phỏng vấn và thảo luận chủ yếu là người
Cao Lan cư trú tại Tuyên Quang có độ tuổi thuộc 3 thế hệ (10 - 20, 40 – 60 và
trên 70 tuổi). Ngoài ra còn có các đối tượng khác như cán bộ quản lí hoạt động
văn hóa ở địa phương, người cai quản và điều hành các cơ sở di tích tín
ngưỡng cùng những người dân khác sinh sống trên địa bàn. Ba là, ghi chép tư
liệu hồi cố, khôi phục lại sự kiện từ trí nhớ của người dân nhằm tìm hiểu một
số sự kiện, hiện tượng xảy ra trong quá khứ; những ý nghĩa của bối cảnh lưu
17


giữ hoặc biến đổi của các thành tố văn hóa truyền thống trong các tình huống

xã hội cụ thể.
- Phƣơng pháp so sánh: So sánh là một yêu cầu tự nhiên trong cuộc sống
và trong khoa học. Nhiệm vụ của nó là “xác định sự vật về mặt định tính, định
lượng hoặc ngôi thứ trong mối tương quan với các sự vật khác”[48, tr.262]. Để
thực hiện nhiệm vụ của luận án (từ cái nhìn văn hóa tộc người để minh định
những đặc điểm văn học – văn hóa Cao Lan), chúng tôi cần đặt Cao Lan trong
các mối quan hệ với các tộc người lân cận như Tày, Nùng, Thái, H’mông…
Bằng cái nhìn so sánh, luận án sẽ khái quát được những điểm tương đồng, khác
biệt, những mối liên hệ, giao lưu, tiếp biến văn hóa, văn học giữa các tộc người,
từ đó bước đầu định hình bản sắc Cao Lan.
- Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Bản chất văn hóa học là khoa
học liên ngành cũng như văn hóa tộc người là sự hội tụ của nhiều yếu tố. Vì
thế, để lí giải các hiện tượng văn học dân gian Cao Lan từ văn hóa tộc người
cần vận dụng kết hợp tri thức của nhiều ngành khoa học, như văn hóa học,
nhân học, ngôn ngữ học, xã hội học… Dĩ nhiên, với mỗi ngành khoa học này,
chúng tôi chỉ vận dụng những quan điểm liên quan trực tiếp, có chức năng như
những công cụ phục vụ trực tiếp cho đề tài. Vì thế, nghiên cứu liên ngành
(không phải đa ngành) đặt ra yêu cầu cần xác định được những điểm liên
kết/giao thoa mấu chốt ấy để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu.
Bên cạnh những phương pháp chính nêu trên, các phương pháp thống kê, sơ
đồ hóa cũng được chúng tôi sử dụng như những thao tác với từng nội dung cụ thể
của luận án.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là nghiên cứu đầu tiên về văn học dân gian Cao Lan từ góc nhìn
văn hóa tộc người; qua đó, tạo dựng bức tranh tổng thể của văn học dân gian
Cao Lan, đồng thời nhận diện những đặc điểm bản sắc văn hóa Cao Lan trong
mối quan hệ với các tộc người lân cận. Trong khi đã có nhiều hướng tiếp cận
khác nhau đối với văn học dân gian nói chung và văn học dân gian Cao Lan nói
riêng, thì tiếp cận không gian xã hội là sự thử nghiệm một hướng nghiên cứu


18


mới đối với một đối tượng vốn đã trở nên quen thuộc - văn học dân gian Cao
Lan.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
- Về lí luận: Với những mối quan hệ đặc thù, không gian xã hội sẽ là bộ
công cụ quan trọng để chúng tôi đối chiếu, lí giải văn học – văn hóa Cao Lan
trong mối quan hệ tương tác. Vì vậy, luận án có thể cung cấp một hướng tiếp
cận mới khi nghiên cứu về văn học dân gian từ góc độ văn hóa tộc người. Cách
tiếp cận này không đồng nhất với cách tiếp cận văn hóa nói chung, bởi văn hóa
là chung cho mọi cộng đồng tộc người, còn văn hóa tộc người xác định những
dấu ấn, những bản sắc văn hóa của tộc người này có thể phân biệt với tộc
người khác. Với những phân tích trong luận án, chúng tôi hướng tới làm rõ giả
thuyết khoa học: Các phương diện của không gian xã hội là sự cụ thể hóa, ở
chiều sâu văn hóa tộc người. Với những không gian xã hội khác nhau sẽ cho
những đặc điểm bản sắc văn hóa khác nhau. Và, trong bản thân một không gian
xã hội, với những quan hệ cụ thể khác nhau cũng sẽ cho những nhận thức khác
nhau về cùng một đối tượng.
- Về thực tiễn: Nghiên cứu này cũng xuất phát từ thực tiễn về sự mai một
nhanh chóng của văn hóa Cao Lan những năm gần đây. Vì vậy, khi được thực
hiện, luận án sẽ cung cấp thêm những hiểu biết về Cao Lan, qua đó góp phần
vào việc bảo tồn văn hóa tộc người. Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho sinh viên, học viên chuyên ngành văn học, văn hóa học, những
nghiên cứu về tộc người Cao Lan và văn hóa tộc người nói chung.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận án được
triển khai thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2: Khái quát văn học dân gian Cao Lan

Chương 3: Văn học dân gian Cao Lan nhìn từ không gian sinh tồn
Chương 4: Văn học dân gian Cao Lan nhìn từ không gian thiêng
19


20


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN


1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Về nguồn gốc và lịch sử tộc người Cao Lan ở Việt Nam
Với vị trí chiến lược đặc biệt và những trầm tích văn hóa độc đáo, từ lâu
Việt Nam đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các học giả nước ngoài. Với
tộc người Cao Lan, từ đầu những năm 1900, lần đầu tiên, các học giả người
Pháp đã điều tra, khảo sát về nguồn gốc tộc người, các đặc điểm đất đai, canh
tác và một số nét văn hóa truyền thống của Cao Lan.
Năm 1902, Bonifacy đã công bố công trình Một cuộc công cán ở vùng đất
người Mán từ tháng Mười 1901 đến cuối tháng Chạp 1902, trong đó ông tập
trung nghiên cứu ngọn nguồn tên gọi, nguồn gốc tộc người từ truyền thuyết
dân gian và các yếu tố dân tộc chí của các tộc người phía Bắc Việt Nam. Theo
tư liệu này, “Người Cao Lan cư trú ở khắp vùng trung du Bắc Kỳ, người ta
thấy họ ở Trung Quốc, trong tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Họ không vượt
qua sông Hồng ở phía Tây. Họ đều nói một thứ phương ngôn Tày và người ta
có thể cho rằng đó hoặc là một hình thức chuyển từ tiếng Mán (Dao) sang
tiếng Tày, hoặc – điều này có vẻ dễ chấp nhận hơn – họ đã bỏ tiếng nói xưa kia
của mình để thu nhận thứ tiếng được nói trong vùng mà họ cư trú, như người

Mán Quần Cộc”[23]. Về quá trình di cư, tác giả viết: “Ở thời kỳ giặc giã, phần
lớn người Cao Lan đã chạy trốn vào vùng Đồng Văn gần sông Đà. Năm 1893
họ trở về vùng Phú Yên, nhưng mãi sau này họ mới tới ở các làng cũ của
họ”[23]. Ở vùng Cao Lan, tác giả đã chứng kiến và theo dõi việc may quần áo,
trồng bông trên rẫy, tuốt bông, kéo sợi, dệt, nhuộm chàm hoặc nhuộm củ nâu.
Chế độ của họ là chế độ phụ quyền, nhưng người đàn bà được hưởng quyền tự

21


do nhiều hơn. Chồng người đó chỉ có thể ruồng bỏ được người đó khi chị ta
đồng ý…
Năm 1904, Bonifacy công bố Chuyên khảo về người Mán Quần Cộc. Ông
cho biết sáu bộ lạc lớn tự cho mình là con cháu của Pon-Minh Hú đều có cách
phát âm các chữ khác nhau, có thể tập hợp thành các nhóm: 1. Mán Quần Cộc, 2.
Cao Lan, 3. Quần Trắng (và Quần Đen), Chàm (hoặc Lam Điền), 4. Tiểu Bản
(hoặc Đeo Tiền), Đại Bản (hoặc Cộc). Theo tác giả, “Trong các sách của họ, tất
cả những người này đều nhận mình là con của núi (Sơn tử), nhưng trong tiếng
Nôm, từ này được dùng để chỉ người Lam Điền và có lẽ cả người Cao Lan. Tất
cả các truyện truyền kỳ viết về các người con của núi đều nói tới sáu bộ lạc này.
Pon-Hu có sáu con trai và sáu con gái, những người này lấy nhau sinh ra các bộ
lạc đó. Trong các văn bản Trung Quốc, các bộ lạc này thường mang tên Man
(hang hoặc thung lũng)”[24].
Đến năm 1905, Bonifacy công bố tiếp chuyên luận Giản chí về người Mán
Cao Lan, trong đó khái quát những nét cơ bản về địa vực, làng mạc, nhà cửa,
trang phục, thức ăn, nghề nghiệp, các nghi lễ trong gia đình, tôn giáo,… Về tên
gọi, ông viết: “Họ tự gọi là Cao Lan, và San-tsây mà chúng ta đọc theo tiếng An
Nam là Sơn-tỉ hoặc Sơn–tử. Chữ Sơn nghĩa là Núi, còn chữ Tỉ nghĩa là màu
trắng hay màu đỏ có vẻ như chẳng có ý nghĩa gì cả (…). Những người láng
giềng gọi họ là Cao Lan, ít gọi là Sơn Tỉ”[25]. Về nguồn gốc bộ lạc, tác giả cho

biết: tổ tiên của người Cao Lan ở tây Hương Sơn, thuộc tỉnh Quảng Đông. Từ
thời Minh họ rời bỏ quê hương đi về Quảng Tây, ở Nam Ninh rồi đi vào Việt
Nam. Họ sinh cơ lập nghiệp ở Sơn Dương được khoảng bốn đời, theo dấu của
quan lại cho phép người Cao Lan làm ăn tại địa phương là đề năm Quang Trung
thứ 4, tức năm 1791. Ở huyện Hàm Yên, Sơn Dương, phủ Yên Bình, người Cao
Lan nói tiếng Tày, người ta gọi là Cao Lan hay San Cháy và không phân biệt hai
bộ lạc này. Đặc biệt, trong công trình này, Bonifacy đã ghi chép lại câu chuyện
thú vị liên quan đến nguồn gốc tộc người, trong đó có Cao Lan. Chúng tôi xin
trích lại câu chuyện: “Bàn Cổ có hai con trai và mười hai con gái, người con cả
là tổ tiên của người Hán, người con thứ là tổ tiên của người Kinh. Còn mười hai
22


người con gái, nhà vua không thể gả chồng hết được. Một cô tổ tiên của người
Mán Đại bản, lấy chồng khỉ đầu người đuôi dài, cho nên người phụ nữ trong bộ
lạc mặc áo vạt dài giống đuôi khỉ. Một cô khác lấy chồng chó, tức tổ tiên của
người Cao Lan, cho nên người phụ nữ mặc áo thêu hình thang trên bả vai, tượng
trưng cho vết cắn của con chó, và dưới cánh tay thì khâu những miếng vải xanh
và trắng tượng trưng cho những vết chân của con chó…”[25].
Theo tư liệu của Mạc Đường, năm 1935, trong công trình Groupes
ethniques de L’indochine (Dân tộc Đông Dương), D.Rozarie đã phân chia các
dân tộc miền Bắc Việt Nam ra thành bảy nhóm người mà tác giả gọi là bảy tộc
hệ. Đó là Việt 1, Tày 2 (gồm các tiểu nhóm “sous groups, Thái Đen và Trắng,
Nùng, Nhắng, Thu Lao, Lự), Mán (gồm cả Cao Lan và Pa Tẻng), Mèo 4,
Mường 5, Lô Lô 6 (gồm cả Phù Lá, Xá Phó và Hà Nhì), tộc hệ khác gồm các
tiểu nhóm Trọng Gia Quý Châu, Lào, La Quả, Lô Lô, Pu Péo và La Chí [77,
tr.41].
Có thể nói, số lượng nghiên cứu về Cao Lan của các học giả nước ngoài
còn hạn chế và phần lớn tập trung vào những mô tả địa lí, tập quán canh tác, nhà
cửa và một số phong tục, tín ngưỡng. Mặt khác, một số quan điểm đưa ra, nhất

là việc gộp nhiều tộc người vào nhóm Mán đến nay đã không còn phù hợp, bởi
thực tế, nhiều tộc người đã khẳng định vị trí độc lập của mình trong cộng đồng
quốc gia dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên đã cung cấp
những thông tin quan trọng về nguồn gốc lịch sử, quá trình di cư, định cư cũng
như những nét văn hóa cơ bản của Cao Lan trong những giai đoạn đầu khi tộc
người này đặt chân và sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Ở Việt Nam, đến nay, các nghiên cứu ở trong nước đều thống nhất rằng,
Cao Lan là tộc người vốn từ Trung Quốc (khu vực Quảng Đông, Quảng Tây) di
cư sang Việt Nam vào cuối đời nhà Minh, đầu thời nhà Thanh cách đây khoảng
300 – 400 trăm năm (khoảng giữa những năm 1640 – 1660). Tuy nhiên vấn đề
quá trình tộc người Cao Lan vẫn còn nhiều giả thuyết, nhất là việc xác định
nguồn gốc Cao Lan trong mối quan hệ với các tộc người khác cùng di cư sang
Việt Nam.
23


Bế Viết Đẳng trong bài viết “Một số vấn đề về lịch sử các tộc người” (in
trong Vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, 1975) cho
biết: “Lịch sử cư trú của người Cao Lan – Sán Chỉ ở Việt Nam đã khá lâu đời,
trong đó có những nhóm người đã hòa vào dân tộc khác, còn những nhóm người
mang tên Cao Lan – Sán Chỉ hiện nay có thể cũng chỉ khoảng 300 – 400 năm nay.
Ở người Cao Lan – Sán Chỉ có những yếu tố chung về phong tục tập quán, có
quan hệ thân thuộc chặt chẽ. Song nhóm người Cao Lan nói tiếng thuộc ngôn
ngữ Tày – Thái, còn nhóm Sán Chỉ nói thuộc ngôn ngữ Hoa. Có thể trong quá
trình lịch sử nhóm người Sán Chỉ, Sín, Đãn là những nhóm người có nguồn gốc
Tày – Thái đã tiếp xúc với tiếng Hoa”[227, tr.26].
Khi nghiên cứu đặc điểm nhân chủng các tộc người ngôn ngữ Tày – Thái
(trong đó có Cao Lan), Nguyễn Đình Khoa đã có nhận diện khái quát về nguồn
gốc của các tộc người này: “Như vậy suốt một thời gian dài những cộng đồng
cư dân thuộc ngôn ngữ Tày – Thái đã chịu chung một số phận lịch sử như

nhau, trong số đó nhiều tộc người có thể cùng chung một nguồn gốc tổ tiên.
Nhưng trải qua hàng mấy ngàn năm, với những biến cố liên tiếp của lịch sử, do
tiếp cận với nhiều tộc người trong nhiều môi trường và hoàn cảnh khác nhau
nên họ không khỏi đã phân hóa về nhiều mặt, kể cả phương diện đời sống xã
hội đến con người cụ thể. Mức độ phân hóa từng mặt tất nhiên sẽ đậm nhạt
khác nhau tùy điều kiện từng lúc, từng nơi đối với mỗi tộc người”[105, tr.116].
Nhận diện này của Nguyễn Đình Khoa, một mặt cho thấy mối quan hệ lịch sử
của các tộc người, mặt khác là cơ sở để nghiên cứu sự phân li của mỗi tộc
người trên các phương diện sinh học và văn hóa. Các phân tích nhân chủng học
được tác giả sử dụng rất kĩ đối với các nhóm Tày Nùng, Tày Thái nhưng không
thấy nói về Cao Lan và Sán Chí.
Khi nói về Cao Lan – Sán Chí, các tác giả công trình Các dân tộc ít người
ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) cho biết: “Địa bàn cư trú trước đây của họ là
vùng giáp nhau của ba tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây và Quảng Đông (Trung
Quốc). Sau đó họ dần dần chuyển cư xuống tây nam Lưỡng Quảng. Trước khi
di cư vào Việt Nam, người Cao Lan – Sán Chỉ quần cư đông đảo tại vùng Thập
24


Vạn Đại Sơn – Bạch Vân Sơn, nằm sát biên giới Việt – Trung hiện nay. Nhiều
tài liệu cho thấy, đợt di cư lớn vào miền trung du Bắc Bộ Việt Nam đã cách
đây khoảng bốn trăm năm”[228, Tr.119].
Theo Lâm Quý (một trí thức người Cao Lan), “những thiết chế cai trị khắc
nghiệt của các triều đại phong kiến Trung Quốc làm cho dân đen bần cùng khổ
ải, giặc giã nổi lên liên miên, đời sống khó khăn điêu đứng, họ phải đứng lên
đấu tranh hoặc phải di cư đi nơi khác sinh sống”[149, tr.10]. Tư liệu của Lâm
Quý còn cho rằng, hai tộc người Sán Chí và Cao Lan đoàn kết nổi lên xưng
vương chống lại triều đình nhà Thanh. Đây là phong trào khởi nghĩa nông dân
dưới sự chỉ huy của hai tộc trưởng người Cao Lan và Sán Chí có tên là Nịnh
Văn Bính và Lý Văn Thân nhưng bị đàn áp. Một số người tìm đường di cư sang

Việt Nam lánh nạn hoặc sinh sống. Trong gia phả họ Lâm, xã Quang Yên,
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc có ghi: “Đại Minh quốc, Quảng Tây tỉnh, tả
Giang đạo, Nam Ninh phủ, Thượng Tư châu, Tây Lâu hương thôn…” (Dịch là:
thời đại nhà Minh, tỉnh Quảng Tây, đường phía bên phải dòng sông Tây Giang,
phủ Nam Ninh, châu Thượng Tư, thôn Tây Lâu…). Các họ Trần, họ Hoàng, họ
Nịnh đều có ghi địa chỉ quê hương bản quán của họ ở Khâm Châu, Liêm Châu
… (tỉnh Quảng Đông), thuộc vùng núi Bạch Vân Sơn – Trung Quốc [149, tr.12].
Lâm Quý cũng cho biết, người Cao Lan di cư sang Việt Nam theo nhiều nhóm,
nhiều đợt bằng đường biển và đường bộ. Với đường biển, dự đoán họ đi vượt
qua eo biển Đài Loan theo hướng Tây Nam đến đất An Nam (Việt Nam) rồi
nhập vào các cửa sông Hải Phòng, Thái Bình, bờ biển Quảng Ninh, vv… Một
số nhóm có thể đi bằng đường bộ vào biên giới tỉnh Quảng Ninh, tỉnh Lạng
Sơn rồi di cư dần vào nội địa Việt Nam. Sau khi vào đến đất Việt Nam, họ tiếp
tục di cư ngược sông Hồng đến ngã ba Bạch Hạc, Việt Trì, rồi họ lại tiếp tục
ngược dòng sông Đà lên đến thượng nguồn núi Ba Vì, tỉnh Hưng Hóa ngày
xưa.
Trong cuốn Dân ca Sán Chí ở Kiên Lao – Lục Ngạn – Bắc Giang, Nguyễn
Xuân Cần, Trần Văn Lạng (chủ biên) trích lại một số ý kiến của Nguyễn Nam
Tiến và một số nhà dân tộc học nước ngoài nhận định về nguồn gốc của người
25


×