Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Ảnh hưởng của văn hóa tộc người Hmông, Dao tới hoạt động du lịch tuyến Hà Nội Sa Pa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG VĂN CHĂM

ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA TỘC NGƯỜI
HMÔNG, DAO TỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
TUYẾN HÀ NỘI – SA PA

Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60.22.01.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH PHÚC

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

DƯƠNG VĂN CHĂM


LỜI CẢM ƠN



Luận văn với đề tài: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA TỘC NGƯỜI
HMÔNG, DAO TỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TUYẾN HÀ NỘI – SA PA là
kết quả nghiên cứu của tác giả trong thời gian học cao học Việt Nam học
khoá 2014 – 2016 tại Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả được TS. Phạm Minh Phúc trực
tiếp hướng dẫn. Sự tận tình chỉ bảo của TS. Phạm Minh Phúc cùng với sự
định hướng chuyên môn và phương pháp nghiên cứu đã giúp tác giả hoàn
thành luận văn này.
Tác giả xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới TS. Trần Hữu Sơn và các
nhà nghiên cứu chuyên ngành, các chuyên gia, các nhà quản lý, các công ty
du lịch; UBND huyện Sa Pa; UBND xã Lao Chải; UBND xã Tả Phìn và các
cộng sự đã giúp đỡ tác giả hoàn thành đề tài này.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy, Cô giáo đã giảng dạy cho
lớp cao học Việt Nam học khóa 2014 – 2016 và ban chủ nhiệm khoa Việt
Nam học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 19 tháng 7 năm 2016

Dương Văn Chăm


MỤC LỤC
Mở đầu

1

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và vài nét về tộc người
Hmông, Dao trong hoạt động du lịch tại Sa Pa.


8

1.1.

Các khái niệm

8

1.2.

Tộc người Hmông, Dao từ góc nhìn nhân học du lịch

11

Chương 2: Thực trạng khai thác văn hóa tộc người Hmông,
Dao trong hoạt động du lịch tuyến Hà Nội – Sa Pa.
2.1.

Khai thác văn hóa tộc người Hmông, Dao trong các chương
trình du lịch tuyến Hà Nội – Sa Pa của các công ty du lịch

2.2.

35

Khai thác các giá trị văn hóa tộc người Hmông, Dao trong
hoạt động du lịch của địa phương

2.3.


35

40

Trải nghiệm của khách du lịch về văn hóa tộc người Hmông,
Dao ở địa bàn nghiên cứu

44

Chương 3: Bàn luận về hoạt động du lịch gắn với văn hóa tộc
người Hmông, Dao ở Sa Pa
3.1.

Những tác động của du lịch đến phát triển kinh tế - xã hội

3.2.

Hoạt động du lịch gắn với văn hóa tộc người từ góc độ nhà

51
51

nghiên cứu và tổ chức du lịch

53

3.3.

Du lịch ở Sa Pa trong “cái nhìn” của du khách


60

3.4.

Thế ứng xử của cộng đồng Hmông, Dao trong hoạt động du lịch

64

Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

72


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch được mệnh danh là ngành công nghiệp không khói và đóng vai
trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều nơi trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Nguồn gốc của du lịch được xem là xuất phát từ cơ cấu
công nghiệp phương Tây thế kỉ XIX [16, tr.7], sau đó lan rộng ra các châu lục
khác và phát triển mạnh mẽ tại châu Á, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
nhiều nước thuộc châu lục này [31, tr.10].
Do có nhiều lợi thế về nguồn lực tự nhiên, văn hóa và con người, Việt
Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Trong thời gian qua,
Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhanh chóng cả về số lượng khách du lịch lẫn
sự đa dạng của các loại hình dịch vụ. Riêng trong tháng 12 năm 2015 lượng
khách quốc tế vào Việt Nam khoảng 760.798 lượt, tăng 2,6% so với tháng 11
và 15% so với cùng kì năm 2014 [32].
Liên quan đến nguồn lực văn hóa và con người, Việt Nam là một quốc gia

đa văn hóa, đa tộc người, với người Kinh đa số và 53 tộc người thiểu số có bản
sắc văn hóa riêng tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng trong thống nhất. Đây
chính là nguồn tài nguyên du lịch, nguồn lực đầu vào, góp phần tạo nên các sản
phẩm du lịch như du lịch văn hóa tộc người, du lịch cộng đồng… Có thể kể đến
các chương trình du lịch tiêu biểu ở phía Bắc như: Hà Nội - Sa Pa; Hà Nội - Hà
Giang; Hà Nội - Mù Cang Chải (Yên Bái) - Bắc Hà (Lào Cai)v.v...
Trong các tuyến du lịch kể trên, Sa Pa nằm trên dãy Hoàng Liên Sơn là
một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất ở phía Bắc, bởi nơi đây không chỉ
có đỉnh Phan Xi Păng được mệnh danh là nóc nhà Đông Dương, với những cánh
rừng nguyên sinh, nơi có khí hậu trong lành mang nhiều sắc thái ôn đới, cảnh
quan thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa tươi đẹp, và nhiều sắc thái văn hóa đa dạng
của các tộc người thiểu số Hmông, Dao, Tày, Giáy… rất hấp dẫn du khách.
1


Trong các tộc người ở Sa Pa, người Hmông và người Dao là hai tộc
người có dân số đông, đã sớm tham gia vào các hoạt động du lịch. Bản thân
tôi đang là hướng dẫn viên du lịch, ít nhiều có những trải nghiệm trong môi
trường du lịch văn hóa dân tộc, do vậy tôi đã chọn đề tài: “Ảnh hưởng của văn
hóa tộc người Hmông, Dao tới hoạt động du lịch tuyến Hà Nội - Sa Pa” để
làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về nhân học du lịch và du lịch tộc người ở Sa Pa cho đến
nay đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Các công trình “Du lịch Sa Pa - Hiện trạng và giải pháp” của Phạm Quỳnh
Phương (1997); “Văn hóa dân gian với vấn đề phát triển du lịch ở Lào Cai”
của Trần Thùy Dương (1997) và “Nhân học du lịch - Lý thuyết và thực tiễn
nghiên cứu ở Việt Nam” của Trần Thùy Dương (2015), “Du lịch với dân tộc
thiểu số ở Sa Pa” của Lâm Mai Lan và Phạm Thị Mộng Hoa (2000)…, đã nêu
lên ảnh hưởng của du lịch đối với kinh tế, môi trường, xã hội của cộng đồng

dân tộc thiểu số. Còn trong “Ảnh hưởng của du lịch tới hệ thống xã hội của
người Hmông ở Sa Pa”, tác giả Trần Hữu Sơn (2004) đã xem xét ảnh hưởng
của du lịch lên một số thiết chế xã hội của người Hmông. Những nghiên cứu
trên đều đề cập tới tác động của du lịch trên địa bàn nghiên cứu, đặc biệt
những ảnh hưởng của hoạt động du lịch đến cộng đồng dân tộc thiểu số. Tác
giả Trịnh Lê Anh (2006) trong “Du lịch Trekking ở Việt Nam - Loại hình và
phương thức tổ chức” đã nghiên cứu dưới góc độ loại hình và phương thức tổ
chức du lịch. Tác giả Nguyễn Trường Giang (2015) trong “Ruộng bậc thang ở
Việt Nam - Bảo tồn và phát triển bền vững” đã đề cập đến hình thức canh tác
ruộng bậc thang của hai nhóm tộc người Hmông, Dao ở Sa Pa và những nghi
thức liên quan đến ruộng bậc thang ở địa bàn nghiên cứu. Công trình này tiếp
cận văn hóa tộc người Hmông, Dao dưới góc độ Nhân học du lịch.
2


Qua phần điểm luận những công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận
thấy các công trình có hướng tiếp cận chuyên ngành về văn hóa tộc người và
tác động của văn hóa tộc người tới hoạt động du lịch. Luận văn này chúng tôi
tiếp tục bổ sung và đánh giá những tác động mới của hoạt động du lịch tới
văn hóa truyền thống của đồng bào Hmông, Dao. Đồng thời nghiên cứu giữa
khách du lịch và cộng đồng địa phương nơi diễn ra hoạt động du lịch.
Du lịch ở Sa Pa phát triển khởi sắc trở lại bắt đầu từ những năm 1990
của thế kỉ trước, hơn 20 năm hoạt động và phát triển, du lịch đã mang lại
nhiều lợi ích cho cộng đồng, cư dân sinh sống ở Sa Pa và những địa phương
được khai thác vào hoạt động du lịch trong đó phải kể đến những tuyến du
lịch từ thị trấn Sa Pa là: Sa Pa - Tả Phìn, Sa Pa - Cát Cát, Sa Pa - Lao Chải Tả Van... Giả thuyết nghiên cứu ở đây là: Du lịch đã làm thay đổi bộ mặt kinh
tế - xã hội và mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng ở Sa Pa, cộng đồng tộc
người thiểu số ở Sa Pa và nhóm cộng đồng Hmông, Dao cũng chịu tác dộng
từ hoạt động du lịch này.
Câu hỏi nghiên cứu được chúng tôi đặt ra ở đây là: hoạt động du lịch tuyến

Hà Nội - Sa Pa có những tác động nào từ văn hóa truyền thống của cộng đồng
tộc người Hmông, Dao? Và cộng đồng Hmông, Dao ứng xử với hoạt động du
lịch ra sao khi hoạt động này ngày càng phát triển ở Sa Pa?
Liên quan đến câu hỏi này, từ cách tiếp cận vấn đề trong bối cảnh hoạt
động du lịch tại Sa Pa, chúng tôi hướng đến tìm hiểu những câu hỏi nhỏ về
các tác động trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý và nhận thức tới
cộng đồng Hmông, Dao. Chẳng hạn như trước kia, khi chưa có du lịch thì đời
sống của đồng bào thế nào, sau khi có du lịch thì họ sống ra sao? Đơn cử như
việc trước đây người dân sản xuất nông nghiệp để ăn là chính, tự cấp tự túc.
Khi có du lịch thì người ta sản xuất phục vụ du lịch như thế nào? Tập quán
sản xuất của họ sẽ thay đổi ra sao? Họ phải làm cách nào và tích hợp những gì
3


để làm được điều đó? Họ nghĩ thế nào về việc thay đổi đó? Tốt hơn hay xấu
hơn trước đây? Họ có hài lòng không hay nhận thức về du lịch mà họ phải
làm những thứ như thế? Họ được lợi gì và họ nhận thức lợi ích đó như thế
nào? Đối với công ty lữ hành họ nhận thức văn hóa truyền thống ra sao trong
hoạt động tổ chức chương trình du lịch của công ty lữ hành và quy hoạch phát
triển du lịch của chính quyền địa phương? Hoạt động du lịch làm văn hóa
truyền thống biến đổi trên những bình diện nào? Theo hướng nào và tại sao?
Đánh giá như thế nào về truyền thống văn hóa? Ai chịu trách nhiệm cho
những biến đổi đó? Cuối cùng họ thấy những biến đổi đó có ý nghĩa gì đối
với họ?
Trái lại, cộng đồng Hmông, Dao nhận thức và hành động như thế nào
đối với những thay đổi mà du lịch mang đến? Họ ứng xử với nó như thế nào?
Họ kì vọng điều gì và kết quả ra sao? Tương lai họ nghĩ sẽ như thế nào và họ
quan tâm điều gì nhất từ hoạt động du lịch này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng tới các mục đích sau: làm rõ một số đặc điểm văn hóa

truyền thống của tộc người Hmông, Dao ở Sa Pa, sự tham gia của các yếu tố
văn hóa truyền thống của hai tộc người này vào các hoạt động du lịch và tác
động của hoạt động du lịch đến văn hóa tộc người. Bên cạnh đó, làm rõ cách
thức khai thác của các nhà tổ chức du lịch, các chuyên gia tư vấn hoạt động
du lịch trong việc phát triển du lịch gắn với văn hóa truyền thống tộc người ở
Sa Pa, từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được đề cập ở luận văn này là cộng đồng tộc
người Hmông, Dao ở Sa Pa, các công ty du lịch khai thác tuyến du lịch Hà
Nội - Sa Pa và khách du lịch đến Sa Pa.

4


Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu một số đặc
điểm văn hóa truyền thống và tác động của văn hóa truyền thống của đồng
bào Hmông, Dao ở hai địa bàn thôn Lý, xã Lao Chải và thôn Sả Xéng, xã Tả
Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai đến hoạt động du lịch tuyến Hà Nội - Sa Pa.
Đây là hai địa bàn sinh sống của cộng đồng người Hmông đen và cộng đồng
người Dao đỏ, cũng là các điểm du lịch đã được khai thác sớm ở Sa Pa.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết đã được đưa ra, chúng tôi
chọn phương pháp nghiên cứu điền dã dân tộc học với các nghiên cứu trường
hợp để giải quyết các vấn đề đặt ra của luận văn. Để thu thập thông tin chúng
tôi kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng, định tính và phương pháp
phân tích tài liệu thứ cấp (thao tác) cùng với các cuộc quan sát tham dự vào
hoạt động của người dân tại thị trấn Sa Pa và hai địa bàn nghiên cứu chính là
thôn Lý, xã Lao Chải và thôn Sả Xéng, xã Tả Phìn. Trong các hoạt động
nghiên cứu trên, điền dã dân tộc học, quan sát tham dự là phương pháp nghiên
cứu đặc trưng của ngành Dân tộc học/Nhân học, có tầm quan trọng hàng đầu

trong việc khảo sát thu thập dữ liệu cho luận văn này.
Để chọn điểm nghiên cứu cho đề tài, chúng tôi đã tiến hành các cuộc
khảo sát địa bàn. Đợt khảo sát thứ nhất từ ngày 29 đến ngày 30 tháng 8 năm
2015, chúng tôi khảo sát thôn Cát Cát, một trong những điểm du lịch rất sôi
động ở tuyến bản và là địa bàn sinh sống của cộng đồng người Hmông đen.
Cự ly từ thị trấn xuống Cát Cát khoảng 2,5 km, du khách có thể đi bộ tham
quan trong thời gian là hai giờ đồng hồ, nhưng việc lưu trú của du khách hầu
như không diễn ra. Vì thế chúng tôi không chọn Cát Cát là điểm nghiên cứu
của đề tài. Đợt khảo sát thứ hai bắt đầu từ ngày 24 đến 26 tháng 10 năm 2015,
chúng tôi khảo sát thôn Lý, xã Lao Chải cách thị trấn Sa Pa khoảng 6 km, bởi
Lao Chải là địa bàn nằm trên tuyến du lịch Sa Pa - Lao Chải - Tả Van khá
5


phát triển của huyện Sa Pa. Đây cũng là địa bàn sinh sống của người Hmông
đen, xa thị trấn, du khách có lưu trú tại bản qua đêm. Điểm này đã đáp ứng
được yêu cầu đối với nhóm cộng đồng thứ nhất của luận văn. Nhóm thứ hai
chúng tôi muốn nghiên cứu là cộng đồng người Dao đỏ. Ban đầu, xã Tả Van
là điểm mà chúng tôi quan tâm, vì Tả Van cách thị trấn Sa Pa 10 km và cũng
nằm trong tuyến du lịch Sa Pa - Lao Chải - Tả Van. Tả Van cũng là nơi có
cộng đồng người Dao đỏ sinh sống. Nhưng qua cuộc khảo sát của chúng tôi
thì ở Tả Van hoạt động du lịch khá phát triển nhưng chủ yếu là do đồng bào
người Giáy đảm nhận. Cũng trong thời gian này chúng tôi khảo sát tuyến du
lịch Sa Pa - Tả Phìn. Tả Phìn là địa bàn sinh sống của nhiều nhóm dân tộc,
trong đó người Hmông và người Dao chiếm đa số, là địa bàn du lịch rất phát
triển, cách thị trấn Sa Pa 12 km về phía Lào Cai. Tại đây, hoạt động du lịch
diễn ra gắn với đa số người Dao đỏ. Hoạt động du lịch chủ yếu diễn ra tại
thôn Sả Xéng, một thôn nằm ở vị trí trung tâm của xã và cũng là địa bàn thứ
hai chúng tôi chọn điểm nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn cung cấp một miêu tả dân tộc học chi tiết có tính phân tích về
các tác động từ hoạt động du lịch tới văn hóa truyền thống qua các khía cạnh
như kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý và nhận thức… của cộng đồng tộc người
Hmông, Dao và tâm thế ứng xử của cộng đồng tộc người Hmông, Dao trước
những tác động của hoạt động du lịch mang lại.
Luận văn còn có ý nghĩa làm cơ sở tham khảo cho các nhà quản lý và
quy hoạch du lịch của Sa Pa trong chiến lược bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống của cộng đồng tộc người thiểu số mà ở đây là hai nhóm cộng
đồng tộc người Hmông, Dao; đồng thời cũng là tài liệu hữu ích cho các công
ty du lịch tham khảo trong chiến lược xây dựng sản phẩm du lịch của mình
mà không làm ảnh hưởng xấu tới văn hóa tộc người ở Sa Pa.
6


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần dẫn nhập, luận văn gồm có ba chương với nội dung cụ thể
như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lí luận và vài nét về hai tộc người Hmông,
Dao trong hoạt động du lịch tại Sa Pa. Chương này bàn luận về một số khái
niệm liên quan có tính cơ sở cho việc nghiên cứu. Đồng thời, chúng tôi phân
tích những tác động của du lịch trên các bình diện văn hóa truyền thống như
văn hóa mưu sinh, văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần.
Chương 2. Thực trạng khai thác văn hóa tộc người Hmông, Dao trong
hoạt động du lịch tuyến Hà Nội - Sa Pa. Chương này phân tích một số
phương thức khai thác các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng
Hmông, Dao trong chu trình tạo sản phẩm du lịch, thực trạng khai thác văn
hóa hai tộc người này trong khai thác du lịch cùng những trải nghiệm của du
khách. Mục tiêu của chương này là từng bước tìm hiểu văn hóa truyền thống
của hai tộc người tại điểm nghiên cứu biến đổi do những nguyên nhân nào, từ
đó xác định được tác động của văn hóa truyền thống tới hoạt động du lịch

tuyến Hà Nội - Sa Pa.
Chương 3. Bàn luận về hoạt động du lịch gắn với văn hóa tộc người
Hmông, Dao ở Sa Pa trên hai địa bàn nghiên cứu. Chương này phân tích
những ý kiến của các chuyên gia, các nhà tổ chức du lịch để tìm hiểu ứng xử
của các nhà tổ chức và chuyên gia tư vấn về du lịch với văn hóa truyền thống.
Mặt khác, chúng tôi tìm hiểu thế ứng xử của hai cộng đồng cư dân tại điểm
nghiên cứu về những thay đổi do hoạt động du lịch.

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ VÀI NÉT VỀ TỘC NGƯỜI HMÔNG,
DAO TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI SA PA
1.1. Các khái niệm
Với mục đích tập trung nghiên cứu hoạt động du lịch có những tác
động nào tới văn hóa truyền thống của cộng đồng Hmông, Dao và cộng đồng
tộc người Hmông, Dao ứng xử với hoạt động du lịch ra sao khi hoạt động này
ngày càng phát triển ở Sa Pa; chúng tôi đề cập đến những khái niệm liên quan
đến nội dung luận văn làm cơ sở phân tích của luận văn.
- Văn hóa tộc người:
Theo GS.TS. Ngô Đức Thịnh, nhà dân tộc học, văn hóa học thì: văn
hóa tộc người là tổng thể các yếu tố văn hóa mang tính đặc thù tộc người, nó
thực hiện chức năng cố kết tộc người và phân biệt tộc người này với tộc
người kia. Trong văn hóa tộc người, các yếu tố đầu tiên được nhận diện là
ngôn ngữ, trang phục, các tín ngưỡng và nghi lễ, vốn văn học dân gian, tri
thức dân gian về tự nhiên xã hội, về bản thân con người và tri thức sản xuất,
khẩu vị ăn uống, tâm lý dân tộc…[38].
Theo định nghĩa này thì văn hóa tộc người được hiểu bao gồm các giá
trị văn hóa vật chất, giá trị văn hóa tinh thần.

- Du lịch:
Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định [22, tr.9].
Trong luận văn này, chúng tôi tìm hiểu chuyến đi của khách du lịch thông qua
chương trình du lịch Hà Nội - Sa Pa.
- Kinh doanh du lịch:
Là kinh doanh dịch vụ, bao gồm các ngành, nghề sau đây [22, tr37]:
8


1. Kinh doanh lữ hành;
2. Kinh doanh lưu trú du lịch;
3. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch;
4. Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch;
5. Kinh doanh dịch vụ du lịch khác.
Ở trong luận văn này, chúng tôi khai thác khía cạnh kinh doanh lữ hành
để làm cơ sở nghiên cứu của luận văn.
- Lữ hành:
Lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn
bộ chương trình du lịch cho khách du lịch [22, tr10].
- Doanh nghiệp lữ hành:
Doanh nghiệp lữ hành là một loại hình doanh nghiệp du lịch, kinh
doanh chủ yếu trong lĩnh vực tổ chức sản xuất, bán và thực hiện các chương
trình du lịch trọn gói cho khách du lịch. Ngoài ra doanh nghiệp lữ hành còn
có thể tiến hành các hoạt động trung gian bán sản phẩm của các nhà cung
cấp du lịch hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh tổng hợp khác phục vụ
các nhu cầu du lịch của khách từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng [13, tr.45].
Doanh nghiệp lữ hành có hai hình thức kinh doanh: Doanh nghiệp kinh doanh
lữ hành nội địa (doanh nghiệp này không được phép kinh doanh lữ hành quốc

tế được qui định tại điểm 2, khoản 3, điều 43, Luật Du lịch 2005). Và doanh
nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế (doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế
được phép kinh doanh lữ hành nội địa, được quy định tại khoản 3, điều 43,
Luật Du lịch, 2005) [22,tr.40].
- Hoạt động kinh doanh lữ hành:
Hoạt động kinh doanh lữ hành được hiểu theo nghĩa rộng: Hoạt động
kinh doanh lữ hành được hiểu là doanh nghiệp đầu tư để thực hiện một hoặc
một số hoặc tất cả các công việc trong quá trình tạo ra và chuyển giao sản
9


phẩm từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng du lịch với mục đích hưởng
hoa hồng hoặc lợi nhuận. Kinh doanh lữ hành có thể hiểu là kinh doanh một
hoặc nhiều hơn một hay tất cả các dịch vụ và hàng hóa thỏa mãn hầu hết các
nhu cầu thiết yếu, đặc trưng và các nhu cầu khác của khách du lịch.
Theo nghĩa hẹp của lữ hành: kinh doanh lữ hành là hoạt động tổ chức
các chương trình du lịch nhằm mục đích sinh lợi [13,tr.30].
- Nhân học du lịch:
Trên thế giới cho đến năm 1970, một số nhà nhân học đã có quan tâm
tới hoạt động du lịch. Du lịch gắn liền với nhiều vấn đề lý thuyết và thực tiễn
trong ngành nhân học. Về mặt nhận thức, các chủ đề chính mà các nhà nhân
học đã thực hiện trong nghiên cứu du lịch được chia làm hai hướng nghiên
cứu: một hướng tìm hiểu về nguồn gốc của du lịch và một hướng tiếp cận
những tác động của du lịch (khách du lịch và cộng đồng địa phương).
Nhu cầu đi du lịch của con người là một nhu cầu thiết yếu. Con người
biết tổ chức các chuyến đi với những hình thức khác nhau, đến với những nơi
có cảnh đẹp cùng với các địa danh di tích lịch sử văn hóa khác với nơi mình
sinh sống. Du lịch được coi là một hiện tượng văn hóa - xã hội và kinh tế. Du
lịch lúc đầu là một chuyến đi công tác của các nhà lãnh đạo đến làm việc, sau
đó nó phát triển gắn liền với các cuộc hành hương đến thánh địa Mecca của

các tín đồ Hồi giáo… dần dần nảy sinh nhu cầu nghiên cứu hành vi của khách
du lịch thông qua những chuyến đi của họ.
Theo tác giả Theron Nunez, 1963 khi ông nghiên cứu “du lịch, truyền
thống và tiếp biến văn hóa tại một ngôi làng ở Mexico” ông nghiên cứu mối tiếp
xúc nông thôn, thành thị và tiếp biến văn hóa và ông cho rằng các du khách
thành thị có thể được cho là đại diện cho một nền văn hóa “cho đi” trong khi
cộng đồng địa phương lại có thể coi là nền văn hóa “tiếp nhận”. [17, tr.1].

10


Từ những phân tích trên, trong khuôn khổ luận văn này nhân học du
lịch là nghiên cứu về con người trong hoạt động du lịch, đối tượng nghiên
cứu của nhân học du lịch là khách du lịch (đại diện cho nền văn hóa mới) và
cộng đồng địa phương (văn hóa truyền thống ) nơi diễn ra hoạt động du lịch.
1.2. Tộc người Hmông, Dao từ góc nhìn nhân học du lịch
1.2.1. Tổng quan về Sa Pa và địa bàn nghiên cứu
Sa Pa là một huyện nằm ở phía Bắc tỉnh Lào Cai, cách thành phố Lào
Cai 38 km về phía Tây Nam, cách Hà Nội gần 300 km về phía Tây Bắc. Từ
Hà Nội lên Sa Pa, nếu đi đường bộ, du khách có thể đi ôtô theo tuyến đường
cao tốc Nội Bài - Lào Cai mất khoảng 4 giờ đồng hồ, sau đó tiếp tục đi thêm
khoảng một giờ đồng hồ nữa là tới thị trấn Sa Pa, huyện Sa Pa. Nếu đi bằng
đường sắt, du khách đi từ ga Trần Quý Cáp (Hà Nội) tới ga Lào Cai khoảng
10 giờ đồng hồ, sau đó đi xe ôtô thêm khoảng một giờ đồng hồ thì tới Sa Pa.
Tổng dân số của huyện Sa Pa là 52.899 người (năm 2009). Huyện Sa
Pa có 7 tộc người sinh sống, trong đó người Hmông 51.65%, Dao 23.04%,
Kinh 17.91%, Tày 4.74%, Giáy 1.36%, Xá Phó (Phù Lá) 1.06%, Hoa và các
tộc người khác 0,23%[ 6]; người Kinh chủ yếu sống ở thị trấn và làm dịch vụ
kinh doanh du lịch và thương mại. Các nhóm tộc người thiểu số như Hmông,
Dao chủ yếu làm nghề nông nghiệp và sống ở những xã nghèo của huyện Sa

Pa, kể từ khi có hoạt động du lịch ở Sa Pa thì một số nhóm người tham gia
hoạt động bán hàng và làm các dịch khác phục vụ khách du lịch tại thị trấn và
các tuyến du lịch...
Sa Pa có đỉnh Phan Xi Păng cao 3.143 m. Thị trấn Sa Pa nằm ở độ cao
trung bình từ 1500 đến 1800 m so với mực nước biển, nên khí hậu ít nhiều lại
mang sắc thái của xứ ôn đới, với nhiệt độ trung bình từ 150 C đến 180 C. Từ
tháng 5 đến tháng 8 mưa nhiều.

11


Đơn vị hành chính của huyện Sa Pa có 17 xã, một thị trấn, đa phần các
xã hoạt động sản xuất nông nghiệp là chính, một số xã phát triển về du lịch
như: San Sả Hồ, Thanh Kim, Thanh Phú, Lao Chải, Tả Van, Tả Phìn. Hiện
nay huyện Sa Pa đang triển khai kế hoạch xây dựng và nâng cấp tuyến du lịch
liên xã để thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương.
Xã Tả Phìn là một xã thuộc khu vực III miền núi của huyện Sa Pa, cách
trung tâm thị trấn huyện 12 km. Xã có 6 thôn, tổng diện tích đất tự nhiên là 2178
ha, với 601 hộ gia đình và 3043 nhân khẩu, trong đó nam giới 1507 khẩu (chiếm
49,52%), nữ 1536 khẩu (chiếm 50,48%). Số người Hmông có 332 hộ (55,2%);
Dao có 219 hộ (35,44%); Giáy 01 hộ (0,17%); Tày 02 hộ (0,33%); Kinh 47 hộ
(7,82%)[36]. Trong 06 thôn thì có 03 thôn của người Dao (Thôn Sả Xéng, Tả
Chải và Lủ Khấu), thôn Sả Xéng là thôn trung tâm của xã và cũng là nơi diễn ra
hoạt động du lịch chính của xã Tả Phìn.
Xã Lao Chải là xã nằm ở phía Đông Nam và cách huyện lỵ Sa Pa
khoảng 7km, với số dân đa số là người Hmông, phân bố ở các thôn Lý, thôn
Hàng, thôn San 1, San 2, thôn Lồ. Tên gọi của các thôn ở đây gắn với tên của
dòng họ có vai trò trong việc lập thôn. Toàn xã có 631 hộ và 3919 nhân khẩu.
Thôn Lý có 175 hộ (người Hmông có 158 hộ chiếm 90,3%; người Kinh 17 hộ
chiếm 9,7%), thôn Lý dòng họ chiếm số đông là họ Lý, ngoài ra còn có một

số người dòng họ khác. Nguồn thu nhập chủ yếu của thôn là làm nông nghiệp
và tham gia hoạt động du lịch.[34]

12


Hình 1.1. Các điểm thăm quan du lịch ở Sa Pa
[nguồn truy
cập ngày: 01/03/2016].

13


1.2.2. Một số đặc điểm lịch sử và văn hóa tộc người Hmông
1.2.2.1. Lịch sử tộc người
Người Hmông ở Việt Nam có 4 nhóm chính, đó là: Hmông Xanh, Hmông
Trắng, Hmông Hoa và Hmông đen [37.tr.400]. Họ vốn có nguồn gốc từ phía nam
Trung Quốc. Lịch sử thiên di của người Hmông cũng là lịch sử đấu tranh không
ngừng chống phong kiến áp bức dân tộc. Đến Việt Nam họ mong muốn có cuộc
sống ổn định và ấm no hơn. Trong đồng bào có lưu truyền rằng “Việt Nam là nơi
đất đai màu mỡ dễ làm ăn, nơi có quả bí to như cái Vạc mà lợn rừng có thể khoét
lỗ chui vào đó đẻ, nó vừa là ổ, vừa là thức ăn cho lợn, nơi trồng cây lương thực,
gốc có củ, thân có bắp, ngọn trổ lúa” [37,tr.401].
Người Hmông ở tỉnh Lào Cai cũng có 4 nhóm: Hmông hoa (Hmông
lềnh) là ngành có số dân đông nhất, chiếm tới 70% số người Hmông ở Lào
Cai, cư trú ở 8 huyện nhưng tập trung ở Bắc Hà, Mường Khương, Sa Pa, Bảo
Thắng và Bảo Yên; Hmông đen (Hmông đu) cư trú tại Bát Xát, Sa Pa; Hmông
xanh (Hmông súa) cư trú tập trung ở xã Nậm Xé, huyện Văn Bàn và Hmông
trắng (Hmông đơ) cư trú ở huyện Bắc Hà, Bát Xát, Văn Bàn, Sa Pa


[27, tr.9-10].

Người Hmông di cư đến Lào Cai cách ngày nay hơn hai trăm năm. Đợt di cư
đầu tiên vào Lào Cai gồm 80 gia đình [27, tr.10]. Thủ lĩnh dẫn đầu đoàn di cư
người Hmông đến Lào Cai là ông Hoàng Sín Dần, một tộc trưởng có uy tín và
giỏi võ nghệ. Họ sinh sống ở Bắc Hà được ba đời thì có ba gia đình lại tiếp
tục di cư sang Sa Pa. Đoàn di cư do ông Lý Thàng Pua dẫn đầu. Người
Hmông dù đến cư trú ở Lào Cai sớm hay muộn đều coi Lào Cai là quê hương,
Việt Nam là tổ quốc mình.
Người Hmông ở huyện Sa Pa phần lớn là Hmông Đen (Hmông đu),
ngoài ra còn có nhóm Hmông hoa và người Hmông xanh. Người Hmông Đen
di cư từ vùng Quý Châu, Trung Quốc sang Sa Pa (Việt Nam). Nhóm Hmông
ở thôn Lý, xã Lao Chải là Hmông đen.
14


1.2.2.2. Một số đặc điểm văn hóa mưu sinh
Trước đây, đồng bào trồng đậu răng ngựa, củ đao, khoai lang, khoai sọ,
rau cải, rau muống… chủ yếu cung cấp cho sinh hoạt hàng ngày, nếu có nhiều
thì mang trao đổi với những người trong bản. Hiện nay, đồng bào trồng rau
cải mèo, bắp cải, cải trắng... một phần phục vụ cho sinh hoạt, phần khác cung
cấp cho các nhà hàng, khách sạn ở thị trấn Sa Pa. Ngoài ra, đồng bào còn
trồng đào, mận để ăn và bán tại địa phương, và cũng để cho khách du lịch
mua về làm quà khi đến Sa Pa. Thu hoạch xong, đồng bào chủ yếu mang ra
thị trấn Sa Pa bán vào thứ 6, thứ 7 và chủ nhật vì thời điểm này khách du lịch
đến Sa Pa đông nhất trong tuần. Còn nếu gia đình nào trồng số lượng lớn thì
mang bán cho những hộ kinh doanh ở thị trấn.
Trước đây đồng bào trồng 3 loại ngô: ngô nếp (po cừ lảu), ngô trắng
(po cừ đây), ngô vàng (po cừ đằng). Theo kinh nghiệm của đồng bào thì ngô
trắng để lâu hay bị sâu, ngô đỏ để lâu thì không bị sâu và ngô trắng mềm hơn.

Trước đây đồng bào trồng toàn ngô trắng, còn bây giờ trồng hai loại như
nhau. Ngô nếp trồng để cho con người ăn, nhất là bán cho khách du lịch,
không dùng cho chăn nuôi, ngoài ra còn làm bánh ăn vì có vị dẻo, thơm.
Đồng bào toàn ăn ngô trắng, cách chế biến là xay ngô thành bột để làm mèn
mén ăn. Ngô nếp cũng ăn nhưng không ăn nhiều, chỉ ăn một vài bữa, không
ăn liên tục được. Trước đây, một số gia đình hết gạo trước tết từ một đến hai
tháng thì bắt đầu ăn ngô thay thế, hoặc dùng ngô độn với cơm để ăn. Đồng
bào ở đây trồng ngô sớm để thu hoạch sớm, để có cái ăn vào ngày làm mùa.
Đến tháng chín mới thu hoạch lúa và có lúa ăn.
Hiện nay, với sự trợ giúp của khoa học kĩ thuật và sự quan tâm của
chính quyền địa phương nên đồng bào không phải ăn ngô nữa, mà ngô bây
giờ chỉ để chăn nuôi. Cho nên những người trẻ bây giờ không biết làm mèn
mén. Đồng bào ít ăn ngô dần từ khoảng năm 1995, 1996 đến nay. Thời kì đó
15


bắt đầu có giống lúa mới cho năng suất cao hơn nên có đủ gạo ăn. Bây giờ
trồng giống ngô mới, những gia đình nghèo thì nhà nước cho, còn những gia
đình khác tự mua. Ngô không chỉ để bổ sung cho khẩu vị ăn khi hết gạo, mà
còn dùng để nấu rượu, một loại rượu đặc trưng của người Hmông. Rượu vừa
được để dùng trong cuộc sống hàng ngày và bán cho khách du lịch khi du lịch
ngày càng phát triển.
“Gia đình tôi trước đây trồng ngô chủ yếu để ăn khi hết gạo, sau khi có giống thóc mới
từ nhà nước, thì gia đình từ thiếu ăn sang đủ ăn và không phải ăn ngô nữa. Ngô được
dùng trong chăn nuôi lợn, gà. Rượu ngô thì gia đình tôi cũng làm từ lâu và cũng chỉ để
dùng hàng ngày và sử dụng trong các nghi lễ của năm. Từ khi có khách du lịch đến Sa
Pa, người kinh doanh trên thị trấn xuống có tìm mua rượu trong thôn, và lúc đó gia đình
tôi cũng bán cho họ. Nhưng do số lượng rượu làm ra thì ít, mà nhu cầu họ mua thì
nhiều, nên họ có đặt gia đình tôi và vài gia đình khác trong thôn làm rượu ngô cung cấp
cho họ số lượng nhiều và thường xuyên”.

(Ông L.A.P(1957) và bà T.T.V,(1958), thôn Lý, xã Lao Chải).

Đồng bào Hmông ở đây chủ yếu canh tác trên ruộng bậc thang với cây
trồng chính là lúa nước. Trong những năm qua, do công tác thủy lợi được
tăng cường, ruộng bậc thang đã dần dần được khai phá thêm nhiều. Ruộng
thường được cầy ải, bừa kĩ, cấy trồng, bón phân và được làm cỏ hai đến ba
lần. Việc chọn giống, mặc dù chỉ theo thói quen nhưng đồng bào thường chọn
được giống tốt, thích hợp với điều kiện thiên nhiên của địa phương. Loại hình
ruộng bậc thang ở đây cũng là một nhân tố thu hút khách du lịch đến tham
quan, trải nghiệm. Vào mùa lúa chín khoảng tháng tám, tháng chín âm lịch,
khách du lịch đi từ thị trấn Sa Pa theo tuyến Lao Chải - Tả Van được ngắm
những ruộng lúa chín và chụp hình làm lưu niệm. Cũng vào thời kì này, lượng
khách đến Lao Chải rất đông, đặc biệt là khách nước ngoài.
“Vào thời kì lúa chín, thì dòng khách đến và đi qua xã tăng một cách đột biến, tuy hình
thức này không mang lợi nhuận gì trực tiếp cho cộng đồng, nhưng đây lại là cầu nối cho
việc quảng bá hoạt động du lịch của Lao Chải”
(Theo Ông Hoàng Ngọc Kiến, Chủ tịch UBND xã Lao Chải)

16


Đa số đồng bào trong thôn nuôi lợn, gà, vịt; một số gia đình nuôi trâu,
bò, dê. Các vật nuôi này một phần được phục vụ cho các nghi lễ vòng đời,
ngoài ra nó còn là nguồn cung cấp thực phẩm cho các nhà hàng ở thị trấn Sa
Pa. Trường hợp nhà ông L.S.C thôn Lý;
“Trước đây nhà tôi chăn nuôi cũng không nhiều, từ khi gia đình có mở dịch vụ homestay
thì có khách du lịch đến ở, rồi họ hỏi có bán lợn cho họ để họ thịt ăn tại nhà. Có công ty
du lịch mà nơi con gái tôi làm hướng dẫn viên trên thị trấn, cũng hay gửi khách về nhà tôi
để ngủ, họ cũng có đặt mua lợn, gà và có ý muốn gia đình tôi cung cấp cho họ lượng thực
phẩm hàng ngày cho khách du lịch, từ đó nhà tôi có nuôi nhiều lợn, gà và ngan, vịt hơn”.

(ông L.S.C, 42 tuổi, thôn Lý, xã Lao Chải, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai).

Trong thôn có nhiều người đàn ông đi rừng lấy cây thuốc và phong lan
về để bán cho khách du lịch tại thị trấn, nhất là vào những ngày cuối tuần khi
lượng khách đến đông. Đây cũng là một nguồn thu nhập khá tốt cho những
gia đình có người đi tìm cây lan và cây thuốc trong rừng.
Trước đây, hoạt động săn bắt thú thường diễn ra vào mùa đông, lúc đó
trời không mưa. Trước đây người dân săn bắt được chồn, gấu, khỉ, hươu nai...
Đồng bào thường đi vào mùa đông, mùa hè mưa nhiều nên không đi được,
đồng bào thường đi ba, bốn người vì sợ con hổ. Lên đến rừng thì chia ra mỗi
người đi một hướng nên một số người mất tích. Những người đi săn có làm
lán trên núi, nấu ăn đốt lửa sưởi. Họ đi đến đâu thì làm lán ở đó. Đi một ngày
thì tới nơi và làm lán. Ngày hôm sau mới đi tìm thuốc. Một năm đi hai lần
ngoài ra một số người thì đi ba lần. Mỗi lần đi khoảng bốn, năm ngày thì về.
Khi đi thì họ mang gạo, mang nồi để nấu. Trong đoàn ai biết đường đi, chỗ để
kiếm thuốc thì đi đầu, dẫn đường. Còn bây giờ nhà nước cấm lấy gỗ, cấm săn
thú. Bây giờ thì đồng bào chỉ lấy măng, và cây thuốc “lá”.
Ngày xưa đồng bào thường đi chợ ở thị trấn Sa Pa để mua muối, dầu
thắp sáng, mua vải may quần áo. Bây giờ đồng bào đi chợ Sa Pa mua vải, áo,
giầy, chăn màn, bàn ghế… còn mua xe máy và ti vi thì xuống Lào Cai mua.
Những thực phẩm hàng ngày như muối, thịt, kẹo xà phòng, nước mắm thì
17


mua tại thôn, các cửa hàng gần nhà. Những thực phẩm như gà, vịt, thịt chó,
thịt trâu, thịt bò… một phần thì gia đình nuôi, còn những thứ mà gia đình
không có thì lên Sa Pa mua, vì những thứ này chỉ Sa Pa mới có.
Trong cùng thôn, cùng xểnh (họ), hàng xóm mua thóc gạo, gà, vịt của
nhau hoặc theo hình thức trao đổi. Nếu trong thôn không có thì họ đi sang
thôn khác. Tuy nhiên, đồng bào thích mua trong thôn hơn, vì ở gần hơn.

Trước đây đồng bào thường lên rừng lấy gỗ, măng đi bán, sau đó đi đào vàng
bán, đến khi bị cấm thì có khách du lịch đến thôn và một số người đi bán hàng
cho khách du lịch để có tiền.
1.2.2.3. Một số đặc điểm văn hóa vật chất
Đồng bào Hmông có nhiều nghề truyền thống như dệt vải, làm giấy
bản, rèn đúc nông cụ, đa phần các nghề này chỉ diễn ra khi lúc nông nhàn.
Nghề dệt vải là một nghề có từ lâu đời của người Hmông. Trước đây họ dệt
vải để dùng, để trao đổi trong thôn bản, và những cộng động tộc người khác.
Ngày nay, không những sản xuất ra hàng để dùng, trao đổi trong thôn,
xã mà còn phục vụ khách du lịch khi đi đến Lao Chải. Thời kì đầu hàng thổ
cẩm dệt thành sản phẩm đều được bán hết vì nhu cầu của khách du lịch mong
muốn có được tấm thổ cẩm về để dùng. Dần dần du khách đến ngày càng
đông, sản phẩm không kịp làm ra, một số người dân đi mua hàng thổ cẩm từ
các gia đình ở sâu trong rừng và từ các thôn bản khác, thậm chí cả xã khác về
bán cho khách du lịch. Từ đó trong thôn cộng đồng chuyên tâm vào dệt thổ
cẩm sau những công việc nương rẫy.
Cho đến ngày nay, thì hàng thổ cẩm của đồng bào không còn sản xuất
nhiều nữa, một phần là thời gian làm thành một cái áo tốn nhiều công sức và
thời gian, phần nữa là sản phẩm làm ra bán giá cao, khách du lịch thường
không mua được với giá đó. Lúc đầu, một số người đi mua đồ thổ cẩm cũ của
đồng bào mang bán cho khách, nhưng lượng hàng cũ mà còn dùng được cũng
18


không có nhiều. Một số gia đình có con làm nghề hướng dẫn viên giao lưu
với khách du lịch nhiều, tiếp cận với các hộ buôn bán ngoài thị trấn và đã tìm
được mối hàng thổ cẩm mua với giá rất rẻ mà bán cho khách du lịch giá hợp
lý, cho nên một số hộ bán hàng thổ cẩm trong thôn đã mua hàng thổ cẩm từ
những người bán buôn ở ngoài thị trấn về để bán cho khách du lịch. Từ đó,
các hộ trong thôn dần dần không dệt thổ cẩm bán cho khách nữa, mà mua

hàng thổ cẩm từ những người bán buôn về để bán. Hàng mua buôn về thì giá
rẻ và mẫu mã đa dạng và bắt mắt hơn, bán được nhiều hơn mà công sức, thời
gian bỏ ra không nhiều. Còn hàng thổ cẩm mà họ dệt thì chủ yếu để dùng
trong gia đình. Từ một vài gia đình dần dần đến nhiều gia đình trong thôn
không ai dệt thổ cẩm để bán cho khách du lịch nữa, trừ những trường hợp đặc
biệt khi khách có nhu cầu đặt mua thì lúc đó mới làm cho khách đặt.
Các nghề truyền thống khác như nghề làm giấy, nghề rèn thì chủ yếu
phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của cộng đồng. Nhưng ngày nay, nghề làm
giấy hầu như không còn nhiều người làm, vì giấy bây giờ sẵn có và các sản
phẩm giấy để thực hiện các nghi lễ trong năm đồng bào mua ở thị trấn, ở thị
trấn đều có sẵn những mặt hàng và đa dạng mẫu mã bắt mắt hơn, nên đồng
bào không làm giấy như trước đây nữa.
Trang phục của đồng bào cũng như trang phục của những nhóm
Hmông ở thôn bản khác. Trang phục của cộng đồng gồm có quần đối với nam
và váy đối với nữ trang phục của nam giới đơn giản hơn gồm có một chiếc
mũ và một chiếc áo được khâu bằng tấm vải thổ cẩm màu đen. Hầu như
không có trang trí hoa văn gì ở áo trong của nam, còn áo khoác ngoài thì có
thêu vài đường hoa văn với màu sắc giản dị, quần nam giới kiểu dáng giống
quần tây, ống quần rộng và dài màu đen bằng thổ cẩm. Ngày nay, chỉ những
người đàn ông lớn tuổi còn mặc trang phục truyền thống, còn phần lớn thanh
niên đều đã thay đổi và mặc trang phục phổ biến kiểu Âu, ngoài ra đàn ông
19


người Hmông họ mặc thêm những áo phao bán ở thị trấn để ứng phó với khí
hậu của vùng.
Khác với nam giới, phụ nữ Hmông có trang phục cầu kì hơn, trang
phục phụ nữ gồm có khăn vấn đầu, quần áo nền màu đen và áo thêu nhiều hoa
văn, màu sắc hoa văn sặc sỡ hơn nam giới, nữ giới mặc váy, có quấn chiếc
khăn vải ở bắp chân dưới. Ngoài ra đi kèm với trang phục là những phụ kiện

làm bằng bạc hoặc bằng những chất liệu rẻ tiền, trước đây thì toàn bộ trang
sức bằng bạc, nhưng nay do bạc hiếm nên đồng bào dùng ít hơn hoặc thay vào
đó là những trang sức rẻ tiền mua ở chợ Sa Pa.
Trang phục của nam nữ người Hmông đều được khách du lịch ưa
chuộng, khách du lịch nam thường thích mua chiếc mũ của nam giới và chiếc
áo mặc trong của đàn ông người Hmông, vì chất liệu bằng vải sợi nhuộm và
chiếc mũ được thêu nhiều màu sắc rất bắt mắt, còn đối với khách du lịch là nữ
thì họ thích những chiếc khăn và những chiếc áo của phụ nữ người Hmông.
Ở đây, một số gia đình Hmông có nuôi cá tầm và cá hồi, đây là hai loại
cá nổi tiếng ở Sa Pa mà trước đây đồng bào nuôi ít, chỉ đủ cung cấp cho
những người trong thôn, xã. Cá có nhiều cách chế biến khác nhau, nhưng nổi
bật nhất là món “gỏi cá hồi” là cách chế biến được nhiều người lựa chọn. Do
lượng nhu cầu ở các nhà hàng ngoài thị trấn nhiều nên cộng đồng ở đây có
nhiều hộ tham gia nuôi cá. Từ đó cũng làm cho thu nhập gia đình ngày càng
cao, kinh tế ổn định và có tiền tích lũy cũng như đầu tư cho con cái học hành.
Với đặc điểm khí hậu của vùng mát quanh năm thuận lợi cho trồng
nhiều loại cây ăn quả và rau các loại. Cây trồng vừa đảm bảo cho đủ cái ăn
hàng ngày, vừa là nguồn cung cấp rau, quả cho thị trấn, nhất là các nhà hàng
phục vụ ăn uống cho khách du lịch.
Món xôi ngũ sắc là món ăn truyền thống của cộng đồng. Ngoài ra, xôi
còn dùng để cúng tổ tiên và các vị thần linh. Xôi ngũ sắc được chế biến từ các
20


loại thảo mộc khác nhau, kết hợp với gạo nếp nương (loại gạo hạt dài, nhìn
giống màu kem sữa). Để có xôi màu hồng hoặc đỏ, đồng bào luộc một loại lá có
tên theo tiếng địa phương là (Laz) lấy nước ngâm gạo trước khi cho lên chõ đồ.
Muốn có màu vàng, người ta lấy nước luộc của cây (Đanx). Muốn có màu tím
lấy lá cây (Ziav langx) chín tới, đun lấy nước ngâm gạo rồi mới đồ. Các loại gạo
sau khi được tạo màu có thể đồ riêng, cũng có thể trộn lẫn với nhau rồi trộn với

gạo nếp trắng để đồ thành một loại xôi nhiều màu hấp dẫn.
Đối với các dân tộc thiểu số nói chung và người Hmông ở thôn Lý nói
riêng, rượu là một loại thức uống không thể thiếu. Rượu được chưng cất từ
ngô, là một loại rượu đặc trưng của đồng bào. Rượu được sử dụng trong cuộc
sống hàng ngày, khách đến nhà quí nhau thể hiện qua chén rượu, trong các
nghi lễ truyền thống (đám cưới, lễ tết…) thiếu rượu là điều tối kị đối với đồng
bào. Ngày nay, rượu không chỉ được sử dụng trong cộng đồng thôn, xã, mà nó
là thức uống không thể thiếu đối với khách du lịch khi tới Sa Pa (đặc biệt là
khách Việt Nam). Khi tới Sa Pa, du khách luôn mong muốn tìm được một ít
rượu ngô mang về uống (nhất là nam giới). Đó là lý do rượu ngô luôn là một
món quà thân thiết đối với khách du lịch khi tới Sa Pa.
Ở mỗi một ngôi nhà truyền thống của người Hmông đều có ma nhà. Ma
nhà che chở những người trong ngôi nhà đó. Tuy nhiên, ma nhà chỉ che chở
những người đã nhập vào ma nhà thông qua nghi lễ. Do đó, mặc dù người lạ
sống chung dưới cùng một ngôi nhà hơn 10 năm, người lạ đó không được ma
nhà che chở. Và con gái đã đi lấy chồng không được ma nhà che chở nữa bởi
vì cô gái đó đã đi lấy chồng nhập vào ma của bên nhà chồng. Sau khi đi lấy
chồng, ma nhà ở bên chồng che chở cô gái đó. Ở trường hợp mà con trai con
gái đi học ở xa và ở riêng lâu, con trai con gái đó vẫn được ma nhà che chở
khi về nhà vì họ vẫn thuộc về ma nhà đó. Sau khi con nuôi nhập vào ma nhà,
con nuôi đó cũng được ma nhà che chở giống như thành viên khác. Như vậy,
21


×