Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Tài liệu tập huấn kỹ năng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.01 KB, 42 trang )

KỸ NĂNG TỔ CHỨC DIỄN ĐÀN, ĐỐI THOẠI, HỘI THẢO
I. MỤC ĐÍCH Ý NGHĨA CỦA DIỄN ĐÀN, ĐỐI THOẠI, HỘI THẢO:
1. Diễn đàn, đối thoại, hội thảo là các phương thức khác nhau trong công tác tập hợp và giáo
dục thanh thiếu niên, tuy nhiên chúng có mục đích và ý nghĩa giống nhau. Đó là nơi để thanh thiếu nhi được
dịp tự thể hiện, tự khẳng định mình, phát huy được dân chủ trong sinh hoạt. Mỗi người được tự do phát biểu,
trình bày ý kiến, quan điểm của mình với bạn bè, đồng chí, với lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể. Qua
diễn đàn, đối thoại, hội thảo, mỗi bạn trẻ có thể biểu hiện thế giới nội tâm của mình trước công chúng từ tâm
trạng đến tình cảm, từ cá tính đến phương pháp tư tưởng... Tự thể hiện không chỉ có mục đích tự thân, nó còn
là một trong những lý do tồn tại của con người với tư cách là một cá nhân cần được khẳng định về trí tuệ và
nhân cách, về quan điểm và thái độ hành động trong cuộc sống.
2. Mục đích cần đạt tới của diễn đàn, đối thoại, hội thảo là những chân lý cụ thể, là câu trả lời
hợp lý hoặc giải pháp tối ưu cho một vấn đề, do vậy khoảng cách về cấp, chức, độ tuổi, địa vị xã hội. .. bị mờ
nhạt đi tạo nên bầu không khí dân chủ thực sự, tất cả các thành viên đều đóng vai trò của người nói và người
nghe, đều bình đẳng trong việc trình bày những quan điểm riêng của mình, bảo vệ đến cùng những quan điểm
đó, khi chưa có những quan điểm khác thuyết phục hơn. Tất cả đều tự do trong việc thừa nhận, ủng hộ hay
phản bác quan điểm này hay quan điểm khác. Vì vậy, các kỹ năng diễn thuyết trước công chúng của thanh
thiếu nhi cũng được hình thành và phát triển.
3. Diễn đàn, đối thoại, hội thảo đều hướng vào một chủ đề nhất định do đó trong quá trình
chuẩn bị và tiến hành thực hiện mỗi bạn trẻ có điều kiện tự nghiên cứu, tìm hiểu và trao đổi rộng rãi với nhiều
người ở mọi lứa tuổi, nghề nghiệp khác nhau. Đó cũng là một quá trình giúp đỡ họ tự giáo dục theo chủ đề
được Đoàn, Hội, Đội đặt ra có mục đích.
II. PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC.
1. Diễn đàn
a) Khái niệm:
Diễn đàn là nơi thanh thiếu nhi công khai bày tỏ ý kiến, quan điểm, tình cảm của mình về một
vấn đề nào đó.
Có 2 loại diễn đàn: Diễn đàn trực tiếp: Người phát biểu và người nghe trực diện nhau. Diễn
đàn gián tiếp là loại diễn đàn thông qua đài, báo chí và các phương tiện khác. Chẳng hạn, đoàn viên thanh niên
có thể sử dụng Báo Tiền phong, Thanh niên, còn thiếu nhi có báo Thiếu niên tiền phong, Nhi đồng,...
Diễn đàn là nơi thanh niên có dịp bày tỏ quan điểm của mình về một vấn đề nào đó. Quan điểm
đó có thể chưa đúng hay lệch lạc nhưng không phải vì thế mà bị "truy chụp" bị đánh giá về tư tưởng và phẩm


chất đạo đức. Vấn đề quan trọng của diễn đàn là thông qua tranh luận để định hướng nhận thức và hành động
cho thanh thiếu nhi.
b) Cách tổ chức
- Bước chuẩn bị:
+ Thông báo chủ đề (những chủ đề đưa ra diễn đàn phải là những vấn đề mà thanh thiếu nhi
quan tâm). Hướng dẫn kỹ những nội dung chính của chủ đề để từ đó thanh niên tự tìm hiểu và sẵn sàng chuẩn
bị tham gia.
+ Chuẩn bị ý kiến nòng cốt. Những ý kiến nòng cốt thường là những ý kiến nhìn từ nhiều góc
độ khác nhau, cả mặt phải, cả mặt trái của vấn đề nhằm tạo ra những tình huống có vấn đề, để cuộc tranh luận
phong phú, đa dạng, sôi nổi.
+ Chuẩn bị một số câu hỏi liên quan đến những nội dung chính của chủ đề. Câu hỏi phải hết
sức cụ thể dễ hiểu, có thể dưới dạng xử lý tình huống, trình bày quan điểm đối với những ý kiến "ngược"
+ Lựa chọn hình thức diễn đàn để từ đó thiết kế chỗ ngồi, bài trí phòng họp và kịch bản cho
buổi diễn đàn (hình thức có thể lựa chọn: hái hoa dân chủ, kịch bản sân khấu hoá, báo tường)
- Bước tổ chức diễn đàn
+ Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu (Mục đích, ý nghĩa, lý do diễn đàn; thành phần đại biểu
mời và đại biểu tham gia diễn đàn)
+ Đoàn viên, thanh niên phát biểu về các nội dung thuộc chủ đề diễn đàn (những ý kiến nòng
cốt có thể phát biểu trước hoặc sau do không khí sôi nổi hay trầm lắng của diễn đàn, có thể nêu ra một vài tình
huống có vấn đề để tranh luận)
+ Kết thúc diễn đàn phải có bài tổng kết nhằm định hướng vấn đề và gợi những suy nghĩ tiếp.
Người tổng kết diễn đàn có thể mời các nhà khoa học, các nhà hoạt động chính trị - xã hội có hiểu biết sâu sắc về
chủ đề của diễn đàn.
c) Một số điều chú ý
- Tuỳ theo số lượng người tham gia và hình thức thể hiện mà bố trí địa điểm diễn đàn cho phù
hợp. Trang trí hội trường phải nêu rõ chủ đề của diễn đàn.
Số lượng người tham gia có thể mở rộng tới những người quan tâm đến chủ đề của diễn đàn (ngoài
đoàn viên, thanh niên)
- Có chủ toạ điều khiển ( có thể trực tiếp, có thể thông qua người dẫn chương trình) và thư ký
ghi chép để làm cơ sở cho việc tổng kết diễn đàn.

- Trong quá trình diễn đàn nên xen kẽ các hình thức văn nghệ (hát, tấu, thơ ca...) để làm cho
buổi diễn đàn vui vẻ, hấp dẫn. Nếu phần văn nghệ cũng tập trung vào chủ đề của diễn đàn thì hiệu quả diễn
đàn càng cao.
2. Đối thoại
a) Khái niệm
Đối thoại là loại hình trao đổi trực tiếp về một vấn đề nào đó mà thanh niên quan tâm.
"Nghe thanh niên nói, nói cho thanh niên hiểu" chính là hình thức đối thoại, nhằm giải đáp thắc
mắc, nguyện vọng của thanh niên, giúp thanh niên nhận thức đúng về một vấn đề nào đó để có tình cảm đẹp, ý
chí lớn và hành động tích cực, tự giác.
Đối thoại chính là cách thức người nói và người nghe có "trao đi đổi lại" một cách trực tiếp.
Người nghe không còn đóng vai trò thụ động mà phát huy được tính chủ động, chính kiến riêng sáng tạo của
mình.
b. Cách tổ chức
- Bước chuẩn bị
+ Thu thập những thắc mắc, những vấn đề mà thanh niên quan tâm. Có 2 cách thu thập ý kiến:
nghe phản ánh trực tiếp; thông qua thư từ khiếu nại, kiến nghị hoặc những câu hỏi của thanh niên.
+ Phân loại ý kiến: Mỗi nhóm vấn đề, nội dung thường có nhiều câu hỏi đề cập, do vậy phân
loại sẽ giúp cho đối thoại không bị trùng lặp ý kiến và đảm bảo tính chặt chẽ, logic của vấn đề cần đề cập.
+ Chuyển các ý kiến của thanh niên tới các cơ quan ban ngành, đến các cá nhân có liên đới
trách nhiệm nghiên cứu và chuẩn bị đối thoại với thanh niên.
- Bước tổ chức đối thoại:
+ Đối thoại là hình thức giáo dục, nên việc tổ chức đối thoại cần phải mang lại hiệu quả giáo
dục cao. Có chuẩn bị địa điểm, hội trường chu đáo, trân trọng người đến đối thoại.
+ Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu
+ Giới thiệu chủ đề, nội dung của buổi đối thoại và người lên đối thoại
+ Tiến hành đối thoại. Trong quá trình đối thoại điểm nào chưa rõ, người nghe có quyền chất
vấn để làm sáng tỏ vấn đề nhưng cần tránh biến "đối thoại" thành cuộc cãi vã vô tổ chức, vô kỷ luật (Đối thoại
là một khía cạnh của dân chủ nhưng không phải là dân chủ vô tổ chức).
+ Sau đối thoại, ban tổ chức lên cảm ơn người đối thoại và kết luận những vấn đề đã được giải
quyết. Những vấn đề chưa thoả đáng đề nghị người đối thoại tiếp tục nghiên cứu và trình bày sau

c. Một số điều chú ý.
- Nên tổ chức đối thoại theo chủ đề. Tránh tràn lan. Người đối thoại với thanh niên phải nắm vững
nội dung thanh niên cần đối thoại. Tránh trả lời qua loa đại khái, né tránh.
- Người đối thoại không nên hứa trước thanh niên những việc ngoài khả năng giải quyết của
mình. Những vấn đề ngoài phạm vi chủ đề đối thoại hoặc chưa đủ căn cứ để giải quyết trong đối thoại cần bảo
lưu để giải quyết sau hoặc kiến nghị lên cấp cao hơn
- Có thể xen kẽ một số hoạt động văn hoá tạo không khí giao lưu vui vẻ giữa người đối thoại
với thanh niên.
3. Hội thảo.
a. Khái niệm: Khác với diễn đàn thanh niên, hội thảo là nơi diễn ra cuộc thảo luận về một vấn
đề nào đó có tính khoa học, lý luận và thực tiễn đang đặt ra.
Mục đích của hội thảo là làm sáng tỏ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của vấn đề, để đề xuất kiến
nghị một cách có cơ sở khoa học mang tính khả thi.
Nội dung của hội thảo là những vấn đề xuất phát từ nhu cầu bức bách của cuộc sống, từ đòi hỏi
của phong trào TTN, giúp các cấp bộ Đoàn định hướng và phương pháp giải quyết những khó khăn đang đặt
ra.
b. Cách tổ chức hội thảo
- Bước chuẩn bị:
+ Thông báo nội dung hội thảo tới đoàn viên, thanh niên để họ chuẩn bị ý kiến, thu thập tư liệu
+Ban tổ chức cần chuẩn bị đề dẫn. Đề dẫn có tính chất gợi ý những vấn đề cần thảo luận.
+ Căn cứ vào chủ đề có thể phân công các tham luận tại hội thảo. Phần thảo luận là một sinh
hoạt có tính khoa học, do đó các tham luận khi chuẩn bị cần có căn cứ khoa học, có biểu mẫu thống kê, điều
tra xã hội học, các số liệu, tư liệu, các dẫn chứng để minh họa, chứng minh cho các quan điểm của mình.
- Bước tiến hành hội thảo
+ Tuyên bố lý do giới thiệu đại biểu và các thành phần tham gia hội thảo
+ Đề dẫn hội thảo
+ Các tham luận và các phát biểu tranh luận về các nội dung của hội thảo
Để vấn đề nêu ra trong hội thảo được xem xét một cách toàn diện, các tham luận phải được đề
cập từ nhiều góc độ. Cần có những phản biện để làm sáng tỏ vấn đề một cách khách quan biện chứng và phải
luôn luôn lấy thực tiễn làm thước đo chân lý.

+ Tổng kết hội thảo: Khẳng định những vấn đề đã được hội thảo nhất trí, trên cơ sở đó mà đề
xuất kiến nghị cách giải quyết vấn đề. Những vấn đề chưa được khẳng định cần hướng cho các thành viên của
hội thảo tiếp tục suy nghĩ, đồng thời bám sát thực tiễn cuộc sống đề điều chỉnh quan điểm của mình.
c. Một số điều chú ý:
- Hình thức hội thảo cũng như diễn đàn thanh niên. Có trang trí hội trường nêu bật chủ đề của
hội thảo. Có đoàn chủ tịch điều hành và thư ký ghi chép thảo luận. Thành phần hội thảo ngoài đoàn viên,
thanh niên cần mời thêm các nhà khoa học, những người quan tâm đến nội dung hội thảo cùng tham dự và
đóng góp ý kiến.
- Khi tiến hành hội thảo cần có phát biểu tranh luận không nên chỉ lần lượt đọc các tham luận
đã được chuẩn bị sẵn mà thiếu đi phần thảo luận tự do của những người tham gia hội thảo.
- Những tham luận có thể được biên tập in thành kỷ yếu hội thảo cho mọi người tham khảo,
khi phát biểu không nhất thiết phải đọc lại tất cả những gì đã có trong kỷ yếu
- Trong quá trình hội thảo có thể kết hợp sinh hoạt văn nghệ làm cho buổi hội thảo thực sự
mang màu sắc thanh niên (nhưng không được lạm dụng)
Bài 14
KỸ NĂNG TỔ CHỨC CÁC HỘI THI
I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CÁC HỘI THI.
1. Mục đích.
- Hội thi là hệ thống cách thức, biện pháp tác động vào thanh thiếu nhi, kích thích họ tích cực
tìm hiểu, tiếp thu, rèn luyện và thể hiện năng lực hành động, năng lực hiểu biết về một chủ đề nhất định, đạt
những chỉ tiêu nhất định do ban tổ chức hội thi đặt ra.
- Hội thi là một trong những phương thức hoạt động hấp dẫn của Đoàn, Hội, Đội nhằm giáo
dục bồi dưỡng rèn luyện thanh thiếu nhi về truyền thống, phẩm chất đạo đức, lối sống, về kỹ năng nghiệp vụ...
để giải quyết những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra hay do nhiệm vụ học tập lao động, công tác, nhiệm
vụ chính trị ở địa phương, đơn vị đòi hỏi.
- Thông qua các hội thi tuyên truyền ảnh hưởng, uy tín của tổ chức Đoàn, Hội, Đội đối với
toàn xã hội, đối với công tác giáo dục thế hệ trẻ.
2. Ý nghĩa.
- Hội thi là dịp để các tổ chức cơ sở Đoàn thu hút đông đảo thanh thiếu nhi vào tổ chức, vào các
hoạt động tập thể. Quá trình chuẩn bị và tham gia hội thi, thanh thiếu nhi tích cực tự giác chủ động tìm hiểu, luyện

tập để nâng cao nhận thức, trình độ và có được những kỹ năng hoạt động tập thể cần thiết
- Hội thi là môi trường, tạo cơ hội cho thanh thiếu nhi bộc lộ năng khiếu, năng lực và kiểm
nghiệm khả năng trình độ của mình về một vấn đề nào đó, từ đó góp phần điều chỉnh nhận thức hành vi của
mình trong học tập, lao động công tác và trong cuộc sống hàng ngày.
- Hội thi còn là diễn đàn để thanh thiếu nhi bày tỏ quan điểm, nhận thức, tình cảm của mình về
các vấn đề mà họ quan tâm (theo chủ đề hội thi). Thông qua đó các cấp, các ngành, các đoàn thể và toàn xã
hội thấy rõ trách nhiệm của mình trong công tác thanh thiếu nhi.
II. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH MỘT HỘI THI
1. Công tác chuẩn bị
- Xây dựng kế hoạch hội thi: Kế hoạch phải thật chi tiết, xác định rõ chủ đề của hội thi, mục
đích yêu cầu, qui mô thời gian, địa điểm, đối tượng, thành phần dự thi; các nội dung chính của hội thi, thể lệ
cuộc thi; Ban tổ chức, Ban giám khảo hội thi; các giải thưởng của hội thi và biện pháp thực hiện.
- Báo cáo chủ trương, kế hoạch hội thi với cấp uỷ và lãnh đạo địa phương, đơn vị; báo cáo và
xin ý kiến chỉ đạo của Đoàn cấp trên (nếu hội thi không phải do cấp Đoàn trên tổ chức). Tranh thủ sự trợ giúp
kinh phí vật chất và các điều kiện khác của các ngành, các đoàn thể, các tổ chức kinh tế - xã hội.
- Triệu tập cuộc họp cán bộ Đoàn mở rộng và các đại diện của các đơn vị tham gia hội thi quán
triệt chủ trương phổ biến kế hoạch, bàn biện pháp thực hiện.
- Các đơn vị, cá nhân tham gia hội thi tiến hành họp bàn biện pháp thực hiện, thống nhất chọn
cử đại biểu dự thi (trừ hội thi bắt buộc tất cả dự thi). Tổ chức tập dượt theo các nội dung của hội thi.quán triệt
nội qui và thể lệ cuộc thi cho các đối tượng tham gia hội thi.
- Tuỳ thuộc vào tính chất và yêu cầu của hội thi mà ban tổ chức cuộc thi có thể tiến hành tập
huấn kỹ cho thanh thiếu nhi tham gia hội thi về những vấn đề cơ bản nhất để đảm bảo chất lượng và sự thống
nhất trong quá trình thực hiện các nội dung của hội thi.
- Chọn địa điểm, thời gian thích hợp với chủ đề của Hội thi. Xây dựng, duyệt và thực hiện
makét trang trí đảm bảo nêu bật được chủ đề, tính hấp dẫn của hội thi.
- Thiết kế chương trình công diễn của hội thi, tổ chức tổng duyệt (nếu thấy cần thiết) hoặc phổ
biến cho các đối tượng dự thi để có kế hoạch thực hiện đúng theo kịch bản.
2. Tổ chức hội thi
Hội thi có thể tiến hành qua vòng loại, vòng sơ khảo và vòng chung khảo, tuỳ thuộc theo từng
chủ đề nhất định. Vòng chung khảo là thời điểm thể hiện kết quả của từng thí sinh (đơn vị) về các nội dung dự

thi. Để hội thi đạt kết quả cao cần chú ý một số vấn đề sau (đối với các Hội thi cần thể hiện trước công chúng)
a) Bài trí sân khấu
- Phông màn nên chọn gam màu sáng, qua ánh đèn tôn vẻ tươi trẻ phù hợp với ma két trang trí
đã được duyệt. Tuy nhiên tuỳ tình hình cụ thể mà có những sửa đổi điều chỉnh hay thay đổi cho hợp lý.
- Có hệ thống đèn đủ sáng, có đèn màu càng tốt. Phân công người phụ trách ánh sáng để điều
phối màu cho phù hợp theo nội dung thi. Nên có cây cảnh đặt trên sân khấu, đảm bảo khung cảnh hội thi gần
với thiên nhiên.
- Âm thanh: Nên có máy "tăng âm", Micro tốt (vì chất lượng âm thanh góp phần lớn vào sự
thành công của hội thi).. Có Micro cho thí sinh và người dẫn chương trình, cho ban giám khảo (nếu thấy cần
thiết)
- Các thí sinh có chỗ ngồi, có phòng tập kết, nơi trang điểm, thay trang phục.
- Sắp xếp chỗ ngồi của ban giám khảo hợp lý đảm bảo theo dõi thí sinh thực hiện các nội dung
hoàn chỉnh từ đầu đến cuối hội thi.
b) Chương trình hội thi (công diễn)
- Ổn định tổ chức bằng chương trình văn nghệ chào mừng hoặc một số bài hát cá nhân hay tập
thể.
- Khai mạc hội thi, giới thiệu đại biểu, giới thiệu người dẫn chương trình.
- Người dẫn chương trình tự giới thiệu (có thể 2 người) giới thiệu Ban giám khảo và điều khiển
thực hiện các nội dung hội thi theo kịch bản.
- Các thí sinh tham gia thực hiện các nội dung của hội thi. Xen kẽ giữa các phần thi có các tiết
mục văn nghệ để các thí sinh có thời gian thay trang phục chuẩn bị cho các phần thi tiếp theo. Đồng thời ban
giám khảo có thời gian đánh giá kết quả những nội dung đã thực hiện.
- Công bố kết quả và trao thưởng cho những thí sinh, đơn vị đoạt giải.
- Bế mạc hội thi
c. Với các đối tượng dự thi và tổ chức hội thi
- Với thí sinh:
Cần bình tĩnh, tự tin, không "tự nhiên chủ nghĩa", cần tránh các biểu hiện khiếm nhã trước
khán giả như bĩu môi, vò đầu, bứt tai, so vai, rụt cổ, dạng chân, khuỳnh tay v.v... Tránh chào và chúc quá
nhiều đặc biệt là đối với ban giám khảo.
- Với người dẫn chương trình:

+ Cần nghiên cứu kỹ các đối tượng dự thi, chuẩn bị kỹ kịch bản từ lời giới thiệu, thuyết minh
ngắn gọn dí dỏm, hấp dẫn phù hợp với từng thí sinh đến một vài lời bình để chuyển tiếp nội dung hợp lý.
+ Cần tuân thủ chương trình, kịch bản đã định không tuỳ hứng thay đổi làm thí sinh mất bình
tĩnh thiếu tự tin.
+ Khi đọc câu hỏi cho thí sinh (nếu có) cần rõ ràng mạch lạc kết hợp với ánh mắt, nụ cười, tạo
cho họ niềm tin, bình tĩnh trả lời. Biết động viên khích lệ thí sinh nhưng không nên đánh giá chất lượng câu
trả lời của thí sinh.
+ Không nói quá dài, đi lại quá nhiều trên sân khấu, không được nhầm lẫn họ tên, số báo danh
thí sinh.
+ Trước các tình huống bất ngờ cần bình tĩnh chủ động xử lý. Trường hợp ngoài giới hạn cho
phép cần xin ý kiến của Ban tổ chức hội thi hay Ban giám khảo.
- Với Ban giám khảo:
+ Cần thống nhất nội dung đáp án và thang điểm cho từng nội dung thi.
+ Chuẩn bị hệ thống câu hỏi phụ về xử lý tình huống để chủ động hỏi thí sinh (nếu hội thi có
yêu cầu dùng hình thức này).
+ Cần có phiếu điểm chấm cho từng thí sinh, có thư ký tổng hợp ngay sau từng nội dung mà thí
sinh đã thực hiện xong.
+ Sau khi thí sinh thi xong nên có thời gian nhất định để thống nhất đánh giá xếp loại, trên cơ
sở tổng hợp của thư ký, cần có những điều chỉnh cho hợp lý và thoả đáng đảm bảo công minh, chính xác.
- Với Ban tổ chức:
+ Cần chỉ đạo việc thực hiện nội dung, chương trình theo kế hoạch đã được thống nhất, khéo
léo xử lý những tình huống phát sinh, đảm bảo hội thi đạt mục tiêu, yêu cầu như đã xác định.
+ Chọn người dẫn chương trình nhanh nhẹn, hoạt bát, có giọng nói ấm truyền cảm không nói
ngọng, nói lắp. Nên có tổng duyệt trước khi hội thi công diễn chính thức.
+ Cần bố trí thời gian tập huấn, trao đổi giải đáp những vấn đề mà thí sinh còn vướng mắc
trong quá trình chuẩn bị cho các nội dung thi.
+ Quan hệ liên kết phối hợp và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các ngành, các tổ chức đoàn
thể, các cá nhân tạo điều kiện tốt nhất cho hội thi.
+ Hội thi không chỉ đơn thuần là chọn và trao giải thưởng cho những thí sinh điển hình nhất
mà chính là tạo được phong trào thi đua sôi nổi của mọi thanh thiếu nhi hướng về hội thi. Mặt khác không

phải hội thi nào cũng phải được tổ chức công diễn ở sân khấu và tuỳ vào tính chất, mục đích, nội dung của
từng hội thi để ban tổ chức hội thi quyết định hình thức và biện pháp tiến hành cho phù hợp.
III. GIỚI THIỆU MỘT SỐ HỘI THI VÀ CUỘC THI.
1. Các cuộc thi vui chơi tổ chức trong phòng, hội trường.
a) Thi hát liên khúc
Chọn chủ đề như mưa, nắng, sông, biển, hoa, tuổi trẻ. .. Chia nhóm, các nhóm lần lượt hát các
bài hát có nội dung theo chủ đề được chọn, nhóm nào hát trùng với các bài hát đã hát trước đó hoặc không tìm
được bài hát nào nữa coi như thua cuộc.
b) Thi đố vui.
Chia nhóm, các nhóm lần lượt ra câu đố hoặc câu đối để nhóm khác trong vòng một thời gian
nhất định tìm ra câu trả lời đúng hoặc câu đối chỉnh nhất.
Sau một số câu đố hay câu đối do quản trò quy định thì cộng điểm xếp loại thắng thua cho các
nhóm.
c) Thi tài trí với các nội dung sau:
- Tự giới thiệu
- Nhận thức
- Đố vui với 3 nội dung: Giải thích một đồ vật, bình chú cho một bức tranh và một hành động
kỳ quặc.
- Thi năng khiếu
- Thi hùng biện
Tất cả những nội dung trên đều phải hướng về một chủ đề bắt buộc được qui định trước
d) Thi ứng xử
Quản trò đặt ra những tình huống có vấn đề, các cá nhân hay các nhóm xử lý các tình huống
đó.
Ngoài ra còn có thể tổ chức thi kể chuyện vui, thi vẽ, thi nói dối, thi ảo thuật, thi quản trò, thi
hát dân ca, thi vũ hội v.v...
2. Một số cuộc thi trong hội trại.
a) Trò chơi lớn:
Là cuộc chơi với qui mô lớn về số lượng người tham gia, thời gian, địa điểm và nội dung chơi.
Cụ thể:

- Thi phát và nhận tín hiệu Morse, Semafore
- Thi hành quân theo dấu đường
- Thi dịch và thực hiện theo mật thư
- Thi các trò chơi nhỏ (những trò chơi qui định trong khi hành quân theo dấu đường và thực
hiện mật thư)
b) Thi kỹ năng dựng lều
- Thi cắm trại nhanh: Các nhóm dự thi với số lượng người như nhau, các điều kiện các phương
tiện như nhau nhưng phải đảm bảo dựng lều đúng kỹ thuật và nhanh nhất.
- Thi trại đẹp: Đẹp bao gồm sự thông minh sáng tạo trong cách trình bày, đúng kỹ thuật qui
định, hình thức hài hoà cân đối, trật tự, vệ sinh nội vụ gọn gàng, sạch sẽ.
c. Các cuộc thi khác: Thi kéo co, thi cắm hoa, thi đấu thể thao, thi trò chơi, thi văn nghệ, thi
hoá trang, thi hùng biện.
Tổ chức vui chơi cho thanh thiếu nhi thông qua hình thức hội thi là một vấn đề cần được
nghiên cứu và phổ biến rộng rãi. Các cuộc thi chính là động lực thúc đẩy các bạn trẻ phát huy tinh thần sáng
tạo và khả năng ứng xử trong mọi hoạt động. Các cuộc thi trong vui chơi của thanh thiếu nhi bao giờ cũng nhẹ
nhàng và mang tính giáo dục cao. Nếu biết kết hợp các trò chơi dân gian, các trò chơi truyền thống với các trò
chơi hiện đại sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu giải trí cho giới trẻ và định hướng giá trị cho họ trong công việc và
trong cuộc sống hàng ngày.
Tuỳ hoàn cảnh cụ thể, tuỳ điều kiện cở vật chất và tuỳ từng đối tượng cụ thể mà đưa ra các
cuộc thi cho phù hợp, có hiệu quả giáo dục cao. Không nên tổ chức các cuộc thi như cá cược, ganh đua hay vụ
lợi làm ảnh hưởng đến những giá trị truyền thống tốt đẹp vốn có của các Hội thi.
4. Hội thi thanh lịch
a) Mục đích ý nghĩa
- Thông qua hội thi giúp thanh niên nâng cao nhận thức về chính trị, văn hoá, xã hội từ đó có
thái độ hành vi đúng đắn trong học tập, lao động, công tác và trong cuộc sống hàng ngày.
- Hội thi thanh lịch là môi trường và cơ hội tốt nhất để thanh thiếu nhi được bộc lộ, được thể
hiện hết những khả năng, năng lực của mình cả về nhận thức, cả về kỹ năng ứng xử giao tiếp trong công việc
và trong cuộc sống.
- Hội thi thanh lịch còn là diễn đàn của tuổi trẻ về nếp sống văn hoá, về những giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc và thời đại.

- Là một phương thức có hiệu quả để đoàn kết tập hợp thanh thiếu nhi. Thông qua hội thi, tổ
chức Đoàn, Hội, Đội được củng cố, xây dựng và phát triển. Hội thi thu hút các ban ngành, các đoàn thể các
lực lượng xã hội cùng quan tâm đến công tác thanh thiếu nhi, có những giải pháp tích cực, đồng bộ, có hiệu
quả trong sự nghiệp chăm lo giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ.
b. Đối tượng tham gia
Mọi thanh thiếu nhi có thể tham gia hội thi, được lựa chọn từ chi đoàn, chi hội, chi đội, nhóm,
câu lạc bộ, từ các đơn vị học tập, lao động, công tác.
Nếu số lượng tham gia thi đông thì hội thi có thể tiến hành nhiều vòng loại với nhiều hình thức
khác nhau để từ đó tuyển chọn số người cần thiết tham gia thi chung khảo.
c. Những nội dung cơ bản
Căn cứ vào từng đối tượng, từng lĩnh vực khác nhau mà đề ra nội dung cho phù hợp. Có thể
tạm đưa ra những nội dung chính sau:
- Thi nhận thức: Thông qua hệ thống câu hỏi để kiểm tra mức độ nhận thức của thí sinh về
nghề nghiệp chuyên môn, về chính trị, văn hoá, xã hội.
- Thi ứng xử: Những tình huống đưa ra trong hội thi nhằm đánh giá khả năng ứng xử của thí
sinh có chính xác thông minh và linh hoạt không.
- Thi năng khiếu: đó là sự bộc lộ những khả năng của thí sinh về mọi mặt. Nội dung này sẽ
giúp cho hội thi thêm phần hấp dẫn, sinh động.
- Thi thời trang là nét đặc trưng cho các hội thi thanh lịch. Đó là những trang phục tự chọn,
trang phục bắt buộc mà thí sinh phải thể hiện sao cho hợp thời trang, hợp mốt được cộng đồng chấp nhận.
- Ngoài ra còn có thể thi hùng biện hay thi kỹ năng hoạt động xã hội
5. Thi cán bộ Đoàn giỏi
Thi cán bộ Đoàn giỏi (Bí thư chi đoàn) là một trường hợp đặc biệt của hội thi thanh lịch. Tuy
nhiên, các nội dung thi cần được điều chỉnh cho thích hợp với đối tượng dự thi.
- Phần nhận thức: Kiểm tra sự hiểu biết của thí sinh về các chủ trương công tác của Đoàn, nhiệm vụ
chính trị của địa phương.
- Phần ứng xử: nêu các tình huống về nghiệp vụ công tác Đoàn (như bầu cử trong Đại hội, chuyển
sinh hoạt Đoàn cho một đoàn viên nào đó, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng,...)
- Phần năng khiếu, có thể là năng khiếu văn nghệ, thể thao, có thể là khả năng nói trước công chúng...
Có thể kiểm tra về kỹ năng tổ chức một số hoạt động cụ thể do Đoàn cơ sở tổ chức...

c
Bài 12
HÁT, MÚA TẬP THỂ TRONG SINH HOẠT CỘNG ĐỒNG
I. HÁT TẬP THỂ
1. Mục đích, ý nghĩa
Trong một cuộc gặp mặt đông vui, trước cuộc họp chi đoàn, chi hội, chi đội, những khuôn mặt trẻ
trung, rạng rỡ, những lời ca tiếng hát cùng tiếng vỗ tay và tiếng cười sảng khoái. Đó là hình ảnh đẹp đẽ thể
hiện tình bạn, tình đồng chí của mỗi tập thể thanh thiếu nhi.
Hát tập thể trong sinh hoạt Đoàn, Hội, Đội, sinh hoạt thanh thiếu nhi là hoạt động cần thiết không thể
thiếu được của giới trẻ. Nó là nhịp cầu, là sự giao lưu, khởi động đầy hứng thú sôi nổi, tạo ấn tượng mạnh mẽ
cho từng cá nhân và cho cả tập thể. Đồng thời với ý nghĩa, nội dung của từng thể loại, bài hát sẽ tạo được tình
cảm với những sắc thái khác nhau, góp phần giáo dục ý thức tập thể, tinh thần đoàn kết thân ái trong một tập
thể vững mạnh.
Hát tập thể góp phần giáo dục ý thức thẩm mỹ, sự cảm thụ nghệ thuật cho mỗi thành viên, Nó luôn
kích thích lôi cuốn người tham dự cùng hát, cùng vỗ tay theo từng lời, tiết tấu, nhịp điệu của bài hát.
2. Những điều cần chú ý khi điều khiển hát tập thể.
a) Lựa chọn bài hát cho phù hợp, đây là bước rất quan trọng không thể tuỳ tiện. Bài hát được lựa chọn
cần phù hợp với số lượng thành viên tham dự, phù hợp với chủ đề của buổi sinh hoạt, phù hợp với không gian,
địa điểm nơi diễn ra cuộc họp. Chẳng hạn, trong một hội nghị với hàng trăm người tham dự với thành phần rất
khác nhau thì nên chọn một bài hát thật quen thuộc và dễ hát. Nhưng trong sinh hoạt chi đoàn, chi hội với số
lượng ít thì có thể hát những bài mà các bạn trẻ ưa thích.
b) Giới thiệu bài hát, mời hát linh hoạt kèm theo những động tác cần thiết cũng là một nghệ thuật của
người điều khiển. Bắt nhịp bài hát rõ ràng, chính xác, đúng nhịp phách, đúng cao độ, trường độ, sẽ làm tăng
hiệu quả của việc hát tập thể. Khéo xử lý tình huống bất trắc có thể xảy ra (bắt giọng cao hay thấp quá) cũng
tạo nên bầu không khí vui tươi, phấn khởi trong tập thể.
c) Có thể chọn một số bài hát mới đơn giản để tập cho mọi người trước buổi sinh hoạt tập thể. Những
nhạc sĩ có tài thường sáng tác được những bài hát như vây. Ví dụ bài "Nụ cười hồng" của Lê Quốc Thắng chỉ
có 4 câu rất dễ thuộc, dễ nhớ, nhịp phách đơn giản rất dễ hát. Trong 5 phút mọi người có thể thuộc và hát
được ngay.
d) Kết hợp hát tập thể với trò chơi tập thể là một nét độc đáo trong phong cách điều khiển của ngươì

cán bộ Đoàn, Hội, Đội. Hát liên khúc, hát đuổi, hát theo nhịp vỗ tay... có thể sử dụng các hình thức, phương
pháp của câu lạc bộ các bạn yêu nhạc do đài truyền hình phối hợp với Đài tiếng nói Việt Nam tổ chức trong
sinh hoạt văn nghệ tập thể (thi hát theo từng chủ đề: Cây, con, sông, biển).
3. Tập hát cho tập thể
a) Đây là một việc làm tưởng dễ, nhưng không phải bất kỳ ai hễ cứ thuộc bài hát là có thể tập được
cho người khác. Hướng dẫn một bài hát mới cho tập thể cũng cần có phương pháp, nghĩa là làm cho mọi
người dễ thuộc, dễ tiếp thu và có thể tự hát được một cách nhanh nhất.
b) Tập hát cho tập thể, có thể tiến hành theo các bước sau đây:
- Hát trước 1-2 lần để cho mọi người cảm nhận tiết tấu, giai điệu của bài hát.
- Chép lời của bài hát (trên bảng nếu có) và phân tích ý nghĩa của lời ca để mọi người bước đầu nhận
biết được tính chất, thể loại của bài hát (hành khúc, trữ tình, dân ca...)
Tập từng câu một với giọng vừa phải (không cao quá, không thấp quá), chú ý những chỗ khó hát
(luyến, láy ngắt âm)
- Bài hát có thể có nhiều đoạn, có thể tập từng đoạn một, thuộc hết đoạn này mới sang đoạn khác.
- Sửa ngay những chỗ mà nhiều người hát sai (về cao độ, trường độ) nhất là những lỗi theo quán tính
(đã biết sơ sơ nhưng không chính xác)
- Nếu có thời gian, cần gọi một vài bạn lên hát đơn ca, hoặc chia nhóm để thi xem nhóm nào hát đúng,
hát hay (nhận xét lẫn nhau)
- Ôn luyện thường xuyên, mỗi cá nhân cần tự nhẩm lại bài hát sau khi tập. Có như vậy mới chóng
thuộc và có thể tham gia hát tập thể một cách vui vẻ, tự nhiên.
- Tập hát cho tập thể, nên điều quan trọng là thuộc bài hát, sau mới lưu ý đến hát đều (cao độ, trường
độ, ngân, nghỉ). Khi tất cả cùng thuộc bài hát vừa tập mới quan tâm đến việc thể hiện tình cảm của bài hát.
- Có thể "nhại lại" (mang tính chất vui vẻ) những chỗ hát sai, hát ê-a, để tạo dấu ấn, giúp mọi người
nhanh chóng tự sửa lỗi của mình.
- Có thể hát mẫu khi sử dụng những yếu tố sơ đẳng của kỹ thuật thanh nhạc: lấy hơi, nhả chữ, giọng
cổ, giọng mũi, ngân dài...
4. Các loại bài hát tập thể thông dụng
a) Các bài hát theo qui định (nghi lễ nghi thức)
- Quốc ca
- Quốc tế ca

- Lãnh tụ ca
- Ca ngợi Đảng Cộng sản Việt Nam
- Thanh niên làm theo lời Bác
- Lên đàng
- Tiến lên đoàn viên
b) Những ca khúc cách mạng quen thuộc
- Màu cờ tôi yêu (Phạm Tuyên)
- Việt Nam ơi mùa xuân đến rồi (Huy Du)
- Tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ (Triều Dâng)
- Hành khúc thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh (Văn Dung)
- Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân (Huy Thục)
- Đêm Trường Sơn nhớ Bác
- Như có Bác trong ngày vui đại thắng (Phạm Tuyên)
- Cuộc đời vẫn đẹp sao (Phan Huỳnh Điểu)
(Có thể tham khảo tập bài hát "100 ca khúc chào thế kỷ" Nxb Thanh niên Hà Nội, 2000 do Ban Tư
tưởng Văn hoá Trung ương Đoàn phát hành đến tận cơ sở).
II. NHẢY MÚA TẬP THỂ
1. Vài nét về nghệ thuật nhảy múa sinh hoạt
Nghệ thuật nhảy múa rất đa dạng, nhiều màu sắc cả về nội dung và hình thức. Đó vừa là một bộ môn
của nghệ thuật sân khấu, vừa là một món ăn tinh thần hàng ngày của quần chúng, đặc biệt là thanh thiếu nhi.
Nhảy múa trong sinh hoạt cộng đồng là loại hình sinh hoạt phổ cập có tính chất truyền thống ở nhiều
nước trên thế giới. Chúng ta đã từng chứng kiến nhiều điệu nhảy thú vị như: Xoè vòng của dân tộc Thái ở Tây
Bắc, "Lăm Vông" của các bộ tộc Lào, Tăng-gô, Van-Xơ ở Châu Âu, Cha-Cha-Cha, Rum Ba ở Châu Mỹ,...
- Nhảy múa sinh hoạt phát triển các yếu tố dân gian, các động tác đơn giản được lặp đi lặp lại, dễ học,
dễ nhớ và mang tính quần chúng cao, từ các cháu mẫu giáo, thanh thiếu nhi đến những người cao tuổi.
Nhảy múa sinh hoạt là một hoạt động văn hoá lành mạnh làm cho cuộc sống thêm vui tươi, phấn khởi,
lạc quan, yêu đời, đồng thời cũng có tác dụng thư giãn sau những giờ lao động mệt mỏi. Đó là phương tiện
giao lưu tình cảm thắt chặt tình đoàn kết, hiểu biết lẫn nhau, xích lại gần nhau giữa các thành viên trong cộng
đồng.
Nhảy múa sinh hoạt là hình thức vận động, kết hợp nhiều yếu tố: nghe, nhìn, nhảy múa, ca hát làm cho

con người thêm nhanh nhẹn hoạt bát. Đồng thời qua đó góp phần giáo dục ý thức thẩm mỹ lành mạnh, tiến bộ.
2. Phương pháp tổ chức nhảy múa tập thể
a) Đội hình thường gặp là nhảy vòng tròn, nhảy đôi hoặc nhảy tự do
Đội hình vòng tròn thường được sử dụng trong các đêm lửa trại (kết thành nhiều vòng tròn mà tâm là
đống lửa trại), trong các cuộc vui liên hoan khi gặp mặt hoặc chia tay.Nhảy múa tập thể với đội hình vòng tròn
thường được thực hiện theo nhạc của những bài hát sinh hoạt cộng đồng như Nối vòng tay lớn của Trịnh Công
Sơn, Như có Bác trong ngày vui đại thắng của Phạm Tuyên hoặc các bài hát dùng trong Đêm lửa trại. Đặc
điểm là dễ tập, dễ nhảy, kể cả những người chưa biết cũng có thể tham gia, như bạn bè người xung quanh học
và làm theo các động tác của họ.
Nhảy đôi thường được áp dụng cho các điệu vũ quốc tế như Cha-cha-cha, Rum-Ba,Van-xơ khi hội vui
lên cao trào, mọi người có thể nhảy tự do (theo cách là được học hoặc tự nhảy theo ý của mình). Khi nhảy tự
do điều quan trọng không còn là ở chỗ phải đúng động tác, đúng qui cách nữa mà chủ yếu là để thể hiện lòng
say mê, hứng khởi của bản thân đối với bạn bè, đồng chí, với tập thể, thể hiện "vui hết mình"
b) Tổ chức nhảy múa tập thể
- Phải có người chủ trò, vừa đóng vai người dẫn chương trình, vừa điều phối phát động lực lượng nòng
cốt châm ngòi, từ đó cuốn hút mọi người cùng tham gia đông đảo.
- Người chủ trò chỉ huy dàn nhạc (hoặc đàn oóc, hoặc băng nhạc có sẵn) một số bạn có giọng hát tốt
hát theo dàn nhạc để làm nền cho điệu nhảy.
- Đặc biệt trong các cuộc vui liên hoan của thanh niên, thường có các vị đại biểu của cấp uỷ Đảng,
chính quyền, đại diện các đoàn thể khác (công đoàn, phụ nữ...) tham dự. Vì vậy cần cử một số bạn trẻ đến mời
các vị đại biểu cùng tham gia nhảy múa chung vui cùng thanh niên.
- Chú ý nên kết thúc khi cuộc vui đạt đến đỉnh cao, không nên để đến lúc cuộc vui đã tàn dễ gây tâm lý
nhàm chán. Kết thúc như vậy sẽ gây được dấu ấn sâu sắc trong lòng người tham dự.
- Cũng hết sức tránh hiện tượng có một số bạn nhân cuộc vui mà đưa vào những trò đùa quá chớn như
xuyên tạc bài hát, xuyên tạc các điệu nhảy múa, gây cười thiếu văn hoá...
Bài 11
KỸ NĂNG TỔ CHỨC TRẠI
I. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA
Trại là hình thức hoạt động thích hợp với thanh thiếu nhi. Thanh thiếu nhi thích giao lưu thông
qua hoạt động tập thể, thích khám phá những điều mới lạ, gần gũi với thiên nhiên và vận dụng những hiểu biết

của mình trong cuộc sống, lao động, sáng tạo. Trại sẽ đáp ứng được nhu cầu sở thích của thanh thiếu nhi và
nâng cao hiểu biết về mọi mặt, rèn luyện các kỹ năng cần thiết trong hoạt động xã hội.
Trại là hình thức lập "làng" lưu động mà ngày xưa dân du mục thường dùng, quân đội thường
đóng trại trong các cuộc hành quân, các tổ chức đoàn thể, trường học thường dùng hình thức trại để tổ chức
cuộc liên hoan họp bạn, tổng kết mừng công, tập huấn chuyên đề...
Trại là nơi tạo điều kiện cho thanh thiếu nhi hoà nhập vào cuộc sống tập thể với các hình thức
học mà chơi, chơi mà học. Hoạt động của trại mang tính đồng đội cao, vì vậy rèn luyện được ý thức tổ chức
kỷ luật, trách nhiệm của mỗi một thành viên đối với cộng đồng, xây dựng được bầu không khí thân ái, đoàn
kết, gắn bó trong quá trình hoạt động ở trại và sau những ngày trại.
II. KỸ NĂNG TỔ CHỨC TRẠI
1. Một số loại hình chủ yếu
- Trại dã ngoại: Thường gắn với các hoạt động tham quan, dã ngoại, pícníc. thường tổ chức
với mục đích là nghỉ ngơi, thư giãn.
- Trại ngắn tổ chức trong khoảng thời gian 1 đến 2 ngày với mục đích để học tập, thay đổi
không khí sinh hoạt hoặc tham gia công tác xã hội tại địa phương nào đó.
- Tại tập huấn: Nhằm mục đích huấn luyện cho thanh thiếu nhi về chuyên môn, về kỹ năng
nghiệp vụ công tác Đoàn, Hội, Đội.
- Trại bay: Dùng cho những hoạt động dài ngày ở nhiều địa điểm khác nhau. Có nơi gọi là trại
cơ động chỉ tổ chức cho thanh thiếu nhi thực sự tháo vát, có sức khoẻ và giỏi về công tác hoạt động xã hội.
- Hội trại thi tài: Thường tổ chức gắn với từng địa phương đơn vị, với mục đích nâng cao kiến
thức nghề nghiệp, tay nghề chuyên môn bằng những hình thức thi thố tài năng, trao đổi kinh nghiệm học tập
lẫn nhau.
- Hội trại truyền thống: là một hình thức hoạt động sáng tạo của phong trào thanh thiếu niên
giúp cho thanh thiếu nhi nhận thức rõ hơn về truyền thống của Đảng, dân tộc, Đoàn, địa phương, đơn vị, của
cách mạng tạo cho họ cảm xúc sâu sắc, khơi dậy trong họ niềm tin đi tới tương lai. Hội trại truyền thống
thường được tổ chức vào những ngày kỷ niệm, ngày lễ lớn và các sự kiện chính trị trọng đại khác.
- Trại liên hoan họp bạn: Nhằm mục đích hội họp những người có cùng chung một sở thích,
nhu cầu, cùng lứa tuổi hay nghề nghiệp, nhằm để giao lưu trao đổi kinh nghiệm. Trại liên hoan họp bạn có thể
tổ chức ở qui mô lớn: tỉnh, khu vực, quốc gia...
2. Chuẩn bị cho một cuộc trại

- Xác định mục tiêu và thời điểm tổ chức trại, đặc biệt loại trại, chủ đề của trại, qui mô trại;
thành lập ban chỉ huy trại.
- Xây dựng kế hoạch chương trình chi tiết thảo luận và thống nhất trong tập thể lãnh đạo Đoàn,
Hội, Đội
- Làm việc với chính quyền địa phương hay lãnh đạo đơn vị nơi cắm trại.
- Thông báo chủ trương, kế hoạch, chương trình cho các đơn vị tham gia để xúc tiến các hoạt
động chuẩn bị cho cuộc đi trại.
- Trước ngày đi trại (hoặc khai mạc hội trại ) cần họp Ban chỉ huy trại để đánh giá tình hình
chuẩn bị, bổ khuyết kịp thời những thiếu sót, đảm bảo cuộc đi trại (hội trại) diễn ra đúng kế hoạch, chương
trình đã thống nhất.
3. Phương pháp xây dựng kế hoạch cho một cuộc cắm trại (hội trại).
Kế hoạch gồm 3 phần chính sau:
Phần thứ nhất: XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỤ THỂ
Phần thứ hai: XÁC ĐỊNH NỘI DUNG, BIỆN PHÁP
- Chủ đề của trại
- Qui mô, thời gian và địa điểm
- Đối tượng, thành phần tham gia
- Những nội dung diễn ra trong quá trình tổ chức trại.
- Phương pháp thực hiện từng nội dung
- Trách nhiệm của các đơn vị và cá nhân tham gia trại
Phần thứ ba: CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
- Phân công trách nhiệm cụ thể trong quá trình chuẩn bị và tổ chức thực hiện cho Ban chỉ huy
trại (từng tiểu ban và từng thành viên)
- Công tác chuẩn bị: Tiến độ thời gian, yêu cầu cần đạt được của từng đơn vị tham gia.
Căn cứ vào kế hoạch xây dựng chương trình chi tiết cho các hoạt động ở trại (kịch bản) từ đó
phân công thực hiện khép kín.
Để đảm bảo thống nhất trong quá trình thực hiện các nội dung của trại cần thiết phải xây dựng
nội dung và thể lệ các cuộc thi, hội thi (nếu có) và phổ biến trước cho các đơn vị, cá nhân tham gia trại.
4. Một số hoạt động cơ bản có thể tổ chức ở trại (hội trại)
- Tuỳ theo loại trại, mục đích yêu cầu, qui mô của trại mà đề ra những hoạt động thích hợp:

a) Các trò chơi tập thể
- Trò chơi lớn: Tổng hợp nhiều trò chơi với qui mô lớn, nhiều người tham gia trong phạm vi
địa bàn rộng, thời gian kéo dài (có sử dụng dấu đi đường, truyền tin, mật thư...)
- Các trò chơi dân gian, trò chơi nhỏ
b) Các cuộc thi
+ Thi trò chơi
+ Thi dựng lều nhanh, trại đẹp
+ Thi truyền tin (morse, Semaphore)
+ Thi thể thao: Cờ vua, cờ tướng, cầu lông, bóng bàn, bóng chuyền, bóng đá, kéo co v.v...
+Thi cắm hoa
+ Thi nấu ăn
+ Thi văn nghệ
+ Đồng diễn thể dục, võ thuật
c) Múa hát tập thể
d) Các cuộc gặp gỡ, giao lưu giữa các đơn vị
e) Tham quan, viếng nghĩa trang
f) Các hoạt động nhân đạo từ thiện
h) Lửa trại: tổ chức vào buổi tối với nhiều loại hình khác nhau.
5. Lập chương trình của một cuộc cắm trại (Hội trại)
a) Tập kết đến địa điểm trại
- Kiểm tra lại số lượng người tham gia, các dụng cụ mang theo
- Nghỉ 30'
- Ban chỉ huy chỉ dẫn địa điểm dựng trại cho các đơn vị
Có thể bắt đầu tập kết đến địa điểm thông qua trò chơi lớn, khi đến địa điểm dựng trại dùng
mật thư hay truyền tin để chỉ dẫn cho các đơn vị, vị trí dựng trại nhằm tạo không khí sôi động của trại ngay từ
những hoạt động trên.
- Các đơn vị dựng lều, cột cờ, lều chỉ huy, lều cứu thương, bố trí các địa điểm hoạt động... có
thể tổ chức thi dựng lều nhanh giữa các đơn vị.
b) Khai mạc trại:
- Các trại viên tập trung về địa điểm để làm lễ khai mạc

- Chào cờ
- Trại trưởng đọc lời khai mạc, nêu mục đích nội dung và chương trình
- Phát biểu chào mừng của đại biểu thanh niên địa phương
- Các hoạt động phục vụ cho lễ khai mạc: Thể dục nhịp điệu, võ thuật, biểu diễn nghệ thuật
vv...
- Các đại biểu và ban chỉ huy đi thăm các đơn vị và chấm trại lần 1
c) Hoạt động trại: Tuỳ theo quy mô, thời gian và số lượng các đơn vị mà lựa chọn tổ chức các
hoạt động (ở mục 4) cho phù hợp.
d) Tổng kết, bế mạc
- Công bố kết quả và trao giải thưởng cho các cuộc thi
- Trại trưởng đánh giá kết quả của các đơn vị tham gia hoạt động và tuyên bố bế mạc
- Hạ lệnh nhổ trại, thu dọn đồ đạc, làm vệ sinh khu vực cắm trại, hành quân ra về
6. Một số kỹ năng phục vụ cho hoạt động trại
- Trại viên phải biết thực hiện các loại gút:
+ Gút đầu dây: Đơn, kép, số 8
+ Gút nối: Dẹt, bò, thợ dệt, nối câu
+ Gút níu: Mỏ chim, thòng lọng, sơn ca
- Kỹ năng truyền tin.
+ Truyền tin bằng Morse: Dùng tay, dùng còi, dùng đèn pin
+ Truyền tin bằng tín hiệu Semaphore: Dùng cờ theo quy định
- Kỹ năng soạn thảo và dịch mật thư: dạng Morse, dạng Semaphore, dạng chủ thay chữ, số thay
chữ, dạng chuyển dịch vị trí, toạ độ, ẩn ngữ vv... Đã có những tài liệu chuyên đề về các kỹ năng nói trên (do
Trung ương Hội LHTN Việt Nam biên soạn)
Trò
chơi TTN
15:42 15/08/2005
Bài 10
KỸ NĂNG TỔ CHỨC TRÒ CHƠI
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU CỦA VIỆC TỔ CHỨC TRÒ CHƠI TTN.
1. Đáp ứng nhu cầu giao lưu, vui chơi giải trí của thanh thiếu nhi, phù hợp với đặc điểm tâm lý

lứa tuổi, tạo sức hấp dẫn của tổ chức Đoàn, Hội đối với thanh thiếu nhi.
2. Thông qua trò chơi nhằm tạo môi trường tiên tiến để thanh thiếu nhi rèn luyện nhân cách và
các kỹ năng cần thiết trong giao tiếp ứng xử.
3. Tạo cơ hội cho thanh thiếu nhi thể hiện khả năng, năng khiếu, óc sáng tạo của mình trong những
tình huống có vấn đề.
II. KỸ NĂNG QUẢN TRÒ.
Muốn tổ chức trò chơi, người điều khiển trò chơi (quản trò) phải có một số kỹ năng cơ bản.
Nội dung trò chơi phong phú hấp dẫn, người chơi tham gia nhiệt tình nhưng quản trò vụng về thì cuộc vui
chơi tập thể sẽ kém hiệu quả và khó thành công. Vì vậy rèn luyện kỹ năng quản trò là vấn đề hết sức quan
trọng và cần thiết đối với cán bộ thanh thiếu nhi ở cơ sở.
1. Người quản trò phải biết nhiều trò chơi.
Biết nhiều trò chơi là một yêu cầu không thể thiếu được của người quản trò. Trước hết, trong
cẩm nang của quản trò phải có đủ các loại trò chơi có thể phân loại theo tính chất, nội dung, theo đội tuổi,
theo địa hình (vị trí chơi), theo yêu cầu, theo quy mô v.v... để từ đó có thể sử dụng cho cuộc chơi bất kỳ lúc
nào, ở đâu, cho bất kỳ đối tượng nào. Đặc biệt, quản trò cần nắm vững một số trò chơi hay nhất, dễ thực hiện
nhất đã được người chơi hưởng ứng và đã được tổ chức thành công để khởi đầu cho những trò chơi mới lạ
tiếp theo.
2. Biết cách sử dụng trò chơi đúng đối tượng và hợp với tâm trạng người chơi.
Khi chuẩn bị cuộc chơi, quản trò phải quan sát trạng thái tâm lý, niềm say mê nhiệt tình của
người chơi từ đó lựa chọn những trò chơi phù hợp. Hãy chọn những trò chơi đơn giản và mọi người có thể dễ
dàng hưởng ứng. Khi người chơi đã nhập cuộc thì bắt đầu đưa vào những trò chơi đòi hỏi cao hơn, phức tạp
hơn. Cũng cần có những trò chơi làm cho người chơi có cảm giác cuộc chơi còn tiếp tục mãi, để họ hào hứng
sẵn sàng tham gia.
3. Bắt đầu cuộc chơi một cách dí dỏm, hài hước, hấp dẫn.
Điều kiện để cuộc chơi thành công là người chơi muốn chơi, chăm chú nghe quản trò và nắm
vững luật chơi, tự nguyện, nhiệt tình chủ động tham gia trò chơi.
Vì vậy, trước hết cần dùng những lời nói hết sức ngắn gọn, hài hước, dí dỏm, giới thiệu tên trò
chơi, mục đích ý nghĩa của nó. Tiếp theo cần nêu rõ cách chơi và những "luật lệ" cần tuân thủ. Sau cùng là
nêu trước ý định sẽ thưởng phạt những ai chơi tốt hay phạm luật.
Cần cho mọi người chơi thử một lần (chơi nháp), sau đó tiến hành chơi thật và cử "trọng tài"

bắt lỗi những ai phạm luật.
4. Biết điều hành trò chơi một cách linh hoạt, thông minh.
Dự kiến những tình huống bất trắc và xử lý tình huống một cách hợp lý.
Quản trò phải di chuyển sao cho có thể quan sát được toàn bộ cuộc chơi, nhanh chóng phát
hiện ra những người lanh lợi, hoạt bát, dí dỏm làm nòng cốt cho cuộc chơi.
Nghiêm túc tuân thủ luật chơi đảm bảo thực sự công bằng, bình đẳng, song vẫn vui vẻ, thoải
mái và hào hứng.
Cuộc chơi bắt đầu từ những trò chơi đơn giản nhất và phức tạp dần lên. Biết dùng những trò
chơi phụ làm hình phạt tạo điều kiện cho mọi người được thư giãn và biết chấm dứt cuộc chơi đúng thời điểm
(tốt nhất là vào lúc cao điểm) hay đã phân định thắng thua rõ ràng. Cố gắng duy trì một bầu không khí hoàn
toàn thoải mái, thư giãn thật sự, không kể gì thắng hay thua.
5. Biết cách luyện tập tác phong phù hợp trong khi điều khiển trò chơi.
Dáng điệu, cử chỉ phải gây được thiện cảm, tạo được sự chú ý ban đầu, tạo nên sự gần gũi thân
quen trong suốt cuộc chơi.
Tâm hồn trong sáng cởi mở toàn tâm toàn ý cho cuộc vui chung. Biết hành động, biết nói sao
cho đúng lúc, đúng đối tượng, biết khích lệ động viên sự cố gắng của mọi người đảm bảo hiệu quả giáo dục
sâu sắc thông qua cuộc chơi.
Có bản lĩnh vững vàng, ứng xử nhanh nhẹn, không cáu gắt la mắng và sẵn sàng nhường "diễn
đàn" cho những quản trò khác mà không mặc cảm.
Biết cách sẵn sàng thay đổi trò chơi theo yêu cầu của người chơi, nhanh chóng phát hiện và chỉ
định quản trò cho phù hợp với từng trò chơi.
6. Biết tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm, thực sự cầu thị
Qua quan sát những quản trò khác, người chơi trong cuộc mà rút ra những kinh nghiệm bổ ích
cho bản thân về vốn trò chơi, kỹ năng tổ chức chơi và phong cách của người quản trò. Đồng thời chú ý lắng
nghe, quan sát thái độ của người chơi để điều chỉnh những gì chưa hợp lý.
Quản trò cần thuộc và hát đúng một số bài hát cộng đồng (đơn giản, dễ nhớ, dễ hát) để phục
vụ cho trò chơi.
Nên có cuốn sổ để sưu tầm, sáng tác trò chơi, những bài hát cộng đồng và những băng reo
trong sinh hoạt tập thể.
7. Mạnh dạn, tự tin, khiêm tốn:

Khi có cơ hội phải mạnh dạn tham gia các cuộc chơi khác nhau, là người chơi tích cực, hăng
hái, nhiệt tình trong các cuộc chơi. Phải xuất hiện đúng lúc, mạnh dạn thực hiện vai trò của mình một cách tự
tin, gây ấn tượng, tránh đứng ngoài cuộc bình phẩm, chê bai người khác.
8. Những điều nên tránh:
- Đưa ra trò chơi không phù hợp với tâm trạng mọi người, trò chơi chưa nắm vững luật chơi,
chưa có sự chuẩn bị chu đáo.
- Những trò chơi xúc phạm đến nhân cách của người chơi, những trò chơi thiếu văn hoá, thiếu
tính giáo dục.
- Dùng hình phạt thô bạo hay kéo dài thời gian phạt đối với người phạm luật hay người thua,
dễ gây nhàm chán.
- Dáng vẻ quá đạo mạo, nghiêm nghị khi điều hành như là một trọng tài của cuộc thi đấu thể
thao.
- Thiên vị hoặc quá dễ dãi đối với người phạm luật, người thua.
- Kéo dài những động tác thừa làm cho người chơi cảm thấy mệt mỏi, khó chịu.
- Tự ái, nóng nảy bỏ dở cuộc chơi khi bị người chơi chê trách.
III. KỸ NĂNG XỬ LÝ MỘT SỐ TÌNH HUỐNG
1. Bắt đầu cuộc chơi tập thể mất trật tự, thiếu tập trung chú ý.
Tình huống này thường gặp ngay cả trong các buổi sinh hoạt, hội họp của Đoàn, Hội, Đội. Để
tạo sự chú ý ban đầu, quản trò có thể:
- Thực hiện một số băng reo "tràng pháo tay"; "mưa rơi"; "vỗ tay theo qui ước"...
- Điều khiển một trò chơi thông qua bài hát cộng đồng mà mọi người đều thuộc.
- Dùng còi hay tiếng vỗ tay (tạo tiếng vỗ khác thường) để tập trung chú ý, sau đó thực hiện
một vài trò chơi đơn giản.
- Sử dụng một vài "hình phạt vui" để buộc những người khác phải cố gắng để không phạm
luật.
- Sử dụng nhóm "thành viên tích cực" (ngay từ đầu đã trật tự chăm chú lắng nghe) làm nòng cốt
cho một trò chơi đơn giản. Khi đó những người khác buộc phải dừng các "việc riêng" khác, "tò mò" quan sát, sau
đó sẽ tự nguyện nhập cuộc.
- Hát ngay một bài hát (không cần giới thiệu) rất tự nhiên và tỏ ra say sưa, từ đó tạo sự chú ý
cho mọi người...

2. Không khí nặng nề trầm lắng, người chơi rụt rè, thiếu mạnh dạn.
- Nếu thực hiện ngay trò chơi sẽ dễ dàng thất bại
- Nên bắt đầu bằng một "trò ảo thuật" hoặc kể một câu chuyện tiếu lâm.
- Tiếp đó thực hiện một số trò chơi tương ứng
- Tăng dần liều lượng những trò chơi mang tính chất thi đua giữa các nhóm. Khi các nhóm đã
vào cuộc để giành thắng lợi là bạn đã thành công.
- Quản trò cũng có thể bắt đầu bằng cách cho cả tập thể hát một bài. Một bông hoa hay cái mũ
được truyền từ tay người này sang người khác theo nhịp của bài hát. Khi bài hát kết thúc hoặc quản trò (quay
mặt hướng khác) bất ngờ thổi một tiếng còi thì người đang cầm bông hoa hay cái mũ ở thời điểm đó sẽ là
người bắt buộc phải hát một bài, cứ như vậy trò chơi tiếp tục.
3. Người chơi nhiệt tình, nhưng có sự ganh đua quá mức giữa các nhóm chơi.
Đây là điều thường xảy ra, nếu như quản trò không có biện pháp xử lý thoả đáng thì cuộc chơi
có thể mất hết ý nghĩa.
- Trước hết quản trò phải nhanh chóng phát hiện nguyên nhân. Thông thường là do luật chơi
không chặt chẽ, quản trò thưởng phạt không công minh, người chơi khích bác chê bai nhau v.v...
- Sau khi phát hiện đúng nguyên nhân, quản trò công khai tuyên bố trước mọi người, rồi mới
tiếp tục trò chơi cũ hoặc chuyển sang trò chơi mới và bắt đầu bằng những qui ước chặt chẽ, kín kẽ hơn.
- Khi chia nhóm chơi nên cử trưởng nhóm và chọn một số trọng tài "công minh" không nằm
trong các nhóm chơi.
- Linh hoạt thay đổi trò chơi hay phương pháp điều khiển để tạo điều kiện cho nhóm nào cũng
có thể thắng cuộc.
- Khi cuộc chơi ở mức cao trò, có thể chuyển sang các hình thức hoạt động khác tạo sự hoà
hợp giữa các nhóm.
4. Người chơi mệt mỏi và bắt đầu tỏ vẻ chán chường.
Có nhiều nguyên nhân như: Trò chơi quá khó, cuộc chơi quá dài hay luật chơi bắt một người
phải lặp đi lặp lại nhiều động tác đứng lên, ngồi xuống, chạy, đổi vị trí... trò chơi đơn điệu không hấp dẫn
hoặc không phù hợp. Từ những nguyên nhân cụ thể mà quản trò lựa chọn biện pháp xử lý thích hợp. Nhưng
nói chung có thể chọn một trò chơi thật nhẹ nhàng, hấp dẫn hay một bài hát tập thể để chấm dứt cuộc chơi.
Cũng có thể chuyển sang thực hiện những trò chơi trí tuệ như "Đố vui có thưởng", "Hát đối" hoặc "Kể chuyện
vui"

5. Không khí trầm lắng thiếu sôi nổi.
Đây cũng là tình huống thường gặp trong các buổi họp mặt hay trên đường đi tham quan, dã
ngoại. Trong trường hợp nên sử dụng một số loại trò chơi như: "Nối từ" (chia nhóm, nhóm này nêu ra một từ,
nhóm tìm từ khác nối vào sao cho hai từ đó có nghĩa, cứ vậy cho đến khi nhóm nào không tìm được thì thua.
Ví dụ: màu xanh - xanh tươi - tươi mát - mát mẻ - mẻ chua - chua ngoa - ngoa ngoắt... "hát liên khúc", "hát
nối"; "Đố vui", thi kể chuyện tiếu lâm...
6. Người chơi đề nghị thực hiện những trò chơi ngoài dự kiến
Trong trường hợp này quản trò nhanh chóng khéo léo thực hiện đề nghị đó, xem như đó cũng
là trò chơi được dự định từ trước (nếu quản trò hiểu rõ những trò chơi đó). Cũng có thể khéo léo giới thiệu
ngay người đề nghị điều khiển trò chơi cho tập thể, khi đó mình đóng vai "quản trò phụ".
7. Chỉ định ai làm gì nhưng họ không thực hiện
Muốn thoát khỏi tình huống khó khăn này có ba cách như sau:
Thứ nhất, phát cho mỗi người một mẩu giấy trắng nhỏ. Người chơi với sự quen biết của mình
trong tập thể sẽ ghi vào mẩu giấy của mình đề nghị ai đó làm một việc gì hợp với khả năng của họ. Quản trò
thu lại và đọc từng mẩu giấy.
Thứ hai, dùng những trò chơi nhỏ để bắt lỗi. Những người bị phạm luật sẽ là những người
buộc phải thực hiện một yêu cầu hợp lý của quản trò.
Thứ ba, quản trò chuẩn bị một số mẩu giấy trong đó ghi rõ yêu cầu phổ thông nhất: hát, kể
chuyện, đọc thơ, cười, khóc... Sau đó chọn một trong các mẩu giấy gài vào một bông hoa. Cả tập thể hát một
bài và bông hoa được chuyển từ người này sang người khác. Khi bài hát kết thúc, bông hoa ở trên tay ai thì
người đó sẽ mở mẩu giấy đọc cho mọi người biết và thực hiện yêu cầu ghi trên mảnh giấy đó.
8. Những người phạm lỗi không muốn thực hiện hình phạt của cuộc chơi.
Trong trường hợp này có thể vì hình phạt ngoài khả năng của người phạm lỗi, cũng có thể vì
nhút nhát không dám thực hiện hoặc do quản trò không nghiêm minh phạt những người phạm lỗi trước đó. Vì
vậy trước hết quản trò chọn những hình phạt dễ thực hiện, chọn những trò chơi phụ để phạt như: "Phỏng
vấn", "Tìm người yêu"; "Tìm chỉ huy" v.v... Nếu người phạm lỗi quá nhút nhát có thể tiếp tục trò chơi khác để
bắt lỗi tập thể và dùng hình phạt chung cho tập thể những người phạm lỗi, khi đó mọi người sẽ mạnh dạn
thêm lên.
Ngoài 8 tình huống thường gặp nêu trên còn có biết bao những tình huống khác cần xử lý kịp
thời. Bí quyết thành công là ở chỗ người quản trò nắm vững tâm lý, nhu cầu của người chơi, thường xuyên

rèn luyện kỹ năng quản trò và thu thập, phân loại các trò chơi, thực sự "ham chơi" khi cần thiết.
IV. PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG "CẨM NANG" TRÒ CHƠI
1. Sưu tầm trò chơi
Mỗi cán bộ Đoàn, Hội, Đội nên có bộ sưu tập trò chơi theo thể loại: Trò chơi dân gian, trò
chơi sinh hoạt tập thể và trò chơi thể thao từ các nguồn sau:
- Các loại trò chơi đã được in thành sách
- Các loại trò chơi đã được in trong các báo viết và giới thiệu trên truyền hình.
- Các trò chơi trong sinh hoạt cộng đồng mà bản thân được tham dự, được quan sát, sau đó ghi
chép lại
- Các trò chơi được người khác phổ biến lại...
2. Tổ chức thi sưu tầm và điều khiển trò chơi
Thông qua các cuộc sinh hoạt cộng đồng, các lớp tập huấn cán bộ Đoàn, Hội, Đội có thể tổ chức
cuộc thi sưu tầm và điều khiển trò chơi phục vụ cho từng chủ đề nhất định. Sau đó chọn lọc biên tập lại, nếu có
điều kiện thì tổ chức chơi mà mỗi trò chơi đều do người sưu tầm đứng ra làm quản trò.
3. Sáng tác trò chơi
a) Tổ chức thi sáng tác trò chơi: Bằng phương pháp đã nêu trên có thể tổ chức cuộc thi sáng
tác trò chơi trong cán bộ, đoàn viên, hội viên theo các hướng sau:
- Sáng tác trò chơi phục vụ cho từng đối tượng: thiếu niên, nhi đồng, thanh niên nông thôn,
thanh niên trường học, thanh niên quân đội...
- Sáng tác trò chơi theo chủ đề gắn với các ngày lễ lớn trong năm, gắn với các vấn đề dân số,
sức khoẻ, môi trường và sinh hoạt thường ngày của các bạn trẻ.
- Sáng tác trò chơi phục vụ cho từng loại hình sinh hoạt như: Cắm trại dã ngoại, CLB gia đình
trẻ, CLB ngoại ngữ, CLB toán, CLB thơ v.v...
Mỗi trò chơi khi sáng tác cần thuân thủ những quy định chặt chẽ: mục đích, yêu cầu, ý nghĩa
của trò chơi; đối tượng, số lượng người chơi, luật chơi và cách tổ chức.
Sau mỗi cuộc thi cần biên tập lại, bổ sung, sửa đổi và phổ biến cho mọi người thông qua chơi
thử. Những trò chơi nào đạt yêu cầu cần đưa ngay vào "bộ sưu tập".
b) Từ một trò chơi đã có, thiết lập nguyên tắc đưa ra nhiều trò chơi khác tương tự.
Trên thực tế có những trò chơi hay có thể phát triển thành nhiều trò chơi khác (là hệ quả của
nó) mà người chơi không cảm thấy bị trùng lặp. Bí quyết chính là ở chỗ tìm thấy nguyên tắc của nó rồi dựa

vào từng hoàn cảnh, từng đối tượng cụ thể để hình thành các trò chơi khác.
4. Sưu tập các mẩu chuyện vui, các câu đố
Những mẩu chuyện vui, các loại câu đố dân gian hàng ngày là kho tư liệu quí cho chúng ta
trong điều hành cuộc chơi. Người quản trò nhất thiết phải có vốn đó để sử dụng khi cần thiết như làm thư giãn
cuộc chơi, hay chuyển sang trò chơi trí tuệ (đố vui) hoặc trò chơi mang tính vui chơi giải trí (thi kể chuyện
vui) v.v...
Ngoài những phương pháp trên có thể tận dụng mọi điều kiện, mọi nơi, mọi lúc để ghi chép
những kinh nghiệm, tư liệu của người khác mà mình bất chợt bắt gặp hay những ý nghĩ xuất hiện trong đầu.
Nếu quan tâm thường xuyên đến những vấn đề trên bạn sẽ trở thành người quản trò "giàu có" -
một hành trang không thể thiếu được của người cán bộ thanh thiếu thiếu nhi hôm nay.
Kỹ năng
tổng hợp
15:41 15/08/2005
Bài 9
KỸ NĂNG TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG TỔNG HỢP
I. XÁC ĐỊNH MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU ĐÚNG ĐẮN, VỪA SỨC.
1. Thu hút tập hợp đoàn kết đông đảo thanh niên vào tổ chức, vào các phong trào và chương
trình hành động cách mạng của Đoàn, Hội.
2. Đáp ứng được nhu cầu đa dạng và nguyện vọng chính đáng của mọi đối tượng thanh thiếu
nhi ở địa phương, cơ sở.
3. Thông qua các hoạt động tổng hợp tạo môi trường rèn luyện thể chất, giáo dục truyền thống,
kích thích tính tích cực chính trị - xã hội của đoàn viên, đội viên, thanh thiếu nhi trong việc tham gia giải
quyết nhiệm vụ chính trị của địa phương đơn vị.
II. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ
1. Tìm hiểu, nghiên cứu chủ trương của Đảng, Nhà nước, của Đoàn, Đội nhiệm vụ chính trị
của địa phương, của đơn vị từ đó xác định sự cần thiết tổ chức hoạt động tổng hợp vào những thời điểm nào,
ở đâu? .
2. Điều tra, khảo sát, nắm vững tình hình thanh niên về trình độ, điều kiện, hoàn cảnh, nhu
cầu, nguyện vọng, xu hướng phát triển và những khó khăn yếu kém của thanh thiếu nhi, từ đó xác định các
nội dung và loại hình hoạt động cho phù hợp.

3. Thống nhất chủ trương và xây dựng kế hoạch tổng thể trong BCH Đoàn, BCH Đội xin ý
kiến chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, sự hỗ trợ và tạo điều kiện về mọi mặt của chính quyền và các đoàn thể, các
ngành, các cấp trong địa bàn tổ chức hoạt động.
4. Thành lập Ban tổ chức, phân công nhiệm vụ tiến hành tập huấn, tập dượt các nội dung đảm
bảo thống nhất và có hiệu quả.
III. LẬP KẾ HOẠCH.
1. Mục đích, yêu cầu của các hoạt động tổng hợp.
- Căn cứ vào thời điểm, địa bàn tổ chức, tính chất, ý nghĩa của ngày lễ hay sự kiện chính trị để
xác định chủ đề của hoạt động tổng hợp. Từ chủ đề mà đặt ra các mục đích, yêu cầu cho phù hợp.
- Mục đích, yêu cầu phải tính đến hiệu quả giáo dục, hiệu quả kinh tế, hiệu quả xây dựng tổ
chức Đoàn, Đội, tính hấp dẫn và uy tín của Đoàn, Đội đối với thanh thiếu nhi.
2. Nội dung các hoạt động tổng hợp.
Trên cơ sở mục đích, yêu cầu xác định các nội dung hoạt động. Căn cứ vào nhu cầu, nguyện
vọng, khả năng của các đối tượng thanh thiếu nhi, vào năng khiếu, trình độ năng lực của cán bộ Đoàn, Đội và
điều kiện cơ sở vật chất kinh phí mà xác định các loại hình hoạt động, quy mô thời gian cho phù hợp. Lựa
chọn thực hiện một số trong những nội dung hoạt động sau:
- Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao.
- Các hoạt động nhân đạo từ thiện, xã hội
- Các hoạt động giáo dục về Đảng, Đoàn, dân tộc, lãnh tụ...
- Các hoạt động vui chơi giải trí
- Các hoạt động kỹ năng công tác thanh thiếu nhi
Tuỳ tình hình cụ thể mà lựa chọn hình thức: cuộc thi, hội thi, tham quan dã ngoại, cắm trại,
diễn đàn thanh niên, đối thoại, sinh hoạt chủ đề, mít tinh, nghe nói chuyện, giao lưu, dạ hội, hái hoa dân chủ,
thăm hỏi, tiểu phẩm, hài kịch, tấu...
Khi xác định nội dung hoạt động tổng hợp cần đảm bảo tính lôgíc, sự liên kết giữa các nội
dung khác nhau đồng thời lựa chọn các hình thức hấp dẫn lôi cuốn thanh thiếu nhi, nhưng phải phù hợp với
chủ đề của hoạt động tổng hợp.
Cần xây dựng chương trình chi tiết (kịch bản) thực hiện các nội dung hoạt động. Trước khi
tiến hành tuỳ vào tình hình chuẩn bị có thể tổng duyệt hoặc kiểm tra kỹ các yêu cầu đặt ra để có biện pháp
khắc phục điều chỉnh những thiếu sót yếu kém.

3. Biện pháp tổ chức thực hiện.
- Phân công trách nhiệm Ban tổ chức: Trưởng ban chịu trách nhiệm quán xuyến điều hành
chung; phó ban giúp việc cho trưởng ban, thành lập và điều hành các tiểu ban (bộ phận) nhằm thực hiện nội
dung chương trình kế hoạch đã đề ra; các uỷ viên phụ trách từng nội dung công việc cụ thể (yêu cầu, tiến độ
thực hiện). Xây dựng phương án dự phòng cho tất cả các công việc.
- Phân công trách nhiệm cho các cơ sở Đoàn, đoàn viên thanh niên, đội viên tham gia chuẩn bị
các nội dung hoạt động và các công việc tổ chức thực hiện chương trình.
- Xây dựng kế hoạch kinh phí, cơ sở vật chất phương tiện phục vụ cho các hoạt động chung và
riêng (trách nhiệm của Ban tổ chức, của các đơn vị và thành viên tham gia)
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
Đây là bước quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của toàn bộ công việc.
Trong quá trình thực hiện cần tuân thủ theo kế hoạch đã đề ra và bám sát chương trình chi tiết (kịch bản). Tuy
nhiên, tuỳ từng trường hợp và hoàn cảnh cụ thể cần hội ý thống nhất để có sự điều chỉnh, xử lý những vấn đề
phát sinh, kiểm tra giám sát chặt chẽ từng khâu từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc đánh giá kết quả. Cần tôn
trọng và phát huy tính chủ động sáng tạo tích cực của mọi thành viên tham gia nhưng không nên để tuỳ hứng
đưa thêm vào chương trình những nội dung mới mà chưa có sự đồng ý của Ban tổ chức.
- Thường xuyên hội ý Ban tổ chức nắm chắc tình hình, giải quyết từng bước có hiệu quả các
khó khăn nảy sinh, cố gắng phát huy khả năng, năng khiếu của mọi thành viên, tạo điều kiện để những nội
dung chính được thực hiện có hiệu quả.
- Khai thác sử dụng tối đa năng lực các chuyên gia, các cộng tác viên và các thành viên tích
cực trong quá trình thực hiện, đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho đoàn viên, đội viên, thanh thiếu nhi
tham gia nhiệt tình sáng tạo và tự giác trong những hoạt động mà họ ưa thích.
V. TỔNG KẾT ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ.
1. Đánh giá tổng thể việc thực hiện nội dung, chương trình rút ra những kết luận về những
thành công, kết quả đạt được; về những hạn chế, yếu kém, sai sót trong quá trình chuẩn bị và tiến hành thực
hiện; về những nguyên nhân khách quan, chủ quan và những kinh nghiệm được rút ra từ các nội dung hoạt
động từ khâu chuẩn bị cho đến kết thúc hoạt động.
2. Đánh giá kết quả tham gia của các thành viên Ban tổ chức, các đơn vị, mọi đoàn viên thanh
niên nhằm biểu dương những thành tích của các cá nhân và tập thể, kích thích tính tích cực chính trị- xã hội
của đoàn viên thanh niên, tạo sức mạnh xây dựng củng cố tổ chức, mở rộng phạm vi ảnh hưởng của tổ chức

Đoàn trong thanh niên và trong xã hội.
3. Đánh giá kết quả sự phối hợp, liên kết giữa tổ chức Đoàn, Đội với các ban, ngành, đoàn thể,
các tổ chức kinh tế - xã hội nhằm giúp họ ngày càng hiểu và gắn bó hơn với tổ chức Đoàn, Đội hơn.
Phương
pháp công tác
15:39 15/08/2005
Bài 8
PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC
CỦA NGƯỜI CÁN BỘ ĐOÀN HỘI ĐỘI Ở CƠ SỞ
I- KHÁI NIỆM PHƯƠNG PHÁP:
Đối với người cán bộ Đoàn, Hội, Đội, bên cạnh những kiến thức chính trị xã hội, cơ sở phương pháp
luận về công tác thanh thiếu nhi, kỹ năng công tác thanh thiếu nhi, nghiệp vụ xây dựng các tổ chức Đoàn,
Hội, Đội, điều quan trọng là phải rèn luyện để có được một phuơng pháp công tác khoa học, phù hợp với đối
tượng mà mình tác động, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thanh thiếu nhi.
Phương pháp (theo từ điển tiếng Việt) là hệ thống các cấp sử dụng để tiến hành một hoạt động nào đó.
Chúng ta thường gặp các thuật ngữ phương pháp học tập, phương pháp giảng dạy...
Vì thế phương pháp công tác có thể hiểu là hệ thống các cách sử dụng để tiến hành công tác có hiệu
quả. Đối với công tác thanh thiếu niên, phương pháp công tác chính là hệ thống các cách sử dụng để tác động
vào đối tượng thanh thiếu niên theo những mục tiêu xác định trên từng lĩnh vực công tác cụ thể: Tuyên
truyền, giáo dục, thuyết phục, xây dựng tổ chức, hoạt động, vui chơi giải trí....
Dưới đây, xin được nêu lên 10 nét đặc trưng quan trọng nhất trong phương pháp công tác của người
cán bộ Đoàn, Hội, Đội.
II- NHỮNG ĐẶC TRƯNG TRONG PHƯƠNG PHÁP CÔNG TÁC CỦA NGƯỜI CÁN BỘ ĐOÀN,
HỘI, ĐỘI
1-Kế hoạch hóa
-Đây là đặc trưng quan trọng nhất của mỗi người cán bộ, đặc biệt đối với đội ngũ công tác thanh thiếu
nhi. Bản chất của đặc trưng này là làm bất kỳ một việc dù lớn, dù nhỏ đều phải có kế hoạch. Kế hoạch có
nhiều loại, nhiều cấp độ, tùy theo cương vị, chức trách, nhiệm vụ được phân công. Bản thân mình còn là
thành viên trong gia đình, có bạn bè riêng, có kế hoạch cá nhân, kế hoạch của đơn vị, của tổ chức, của tập thể,
kế hoạch của cấp trên, kế hoạch của cấp dưới, có kế hoạch hàng năm, hàng tuần, hàng tháng, hàng quý, nửa

năm và cả năm...
-Nhưng dù là loại kế hoạch nào, thì cũng phải bao gồm được các nội dung quan trọng sau đây: Những
việc cần phải làm, mục tiêu, hiệu quả cần đạt được, thời gian bắt đầu, thời hạn hoàn thành, địa điểm tiến
hành, ai là người thực hiện, ai là người kiểm tra, đôn đốc, lực lượng cộng tác viên, cơ sở vật chất và kinh phí

×