Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Ôn tập môn những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa mác lenin phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.97 MB, 20 trang )

MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.......................................................................................................... 2
VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ NÀY TRONG HỌC TẬP VÀ TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY.......................................................................................3
VẬN DỤNG TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC.............................................................................................. 3
SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CNXH Ở VIỆT NAM:........................................................................................... 4
XUẤT PHÁT TỪ THỰC TIỄN, TÔN TRỌNG KHÁCH QUAN............................................................................................................................. 5
BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC............................................................................................................................................................ 6
LẤY VD TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HOẶC TRONG HỌC TẬP CỦA BẢN THÂN (1.5Đ).........................................................................................6
NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN..................................................................................................................................... 7
SỰ VẬN DỤNG CỦA BẢN THÂN TRONG HỌC TẬP VÀ TRONG CUỘC SỐNG:..................................................................................................... 8
TÁC ĐỘNG CỦA ĐỔI MỚI GIÁO DỤC ĐẾN CUỘC SỐNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ KINH TẾ - XÃ HỘI............................................................................9
SỰ VẬN DỤNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM....................................................................................................................... 9
NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN............................................................................................................................................... 10
LIÊN HỆ BẢN THÂN..................................................................................................................................................................... 11
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM............................................................................................................................................ 11
QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP........................................................................................... 11
KHÁI NIỆM QUY LUẬT.................................................................................................................................................................... 11
VÌ SAO SINH VIÊN MUỐN PHÁT TRIỂN CẦN PHẢI TỰ HỌC....................................................................................................................... 13
QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH...................................................................................................................................... 14
KHÁI NIỆM QUY LUẬT.................................................................................................................................................................... 14
VẬN DỤNG QUY LUẬT NÀY VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐCSVN.................................................................................................................. 15
VẬN DỤNG QUY LUẬT NÀY ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM.......................................................................................................... 15
VẬN DỤNG VÀO VẤN ĐỀ HỌC TẬP:................................................................................................................................................... 16
VẬN DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG:............................................................................................................................................................ 16
QUY LUẬT QHSX PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LLSX............................................................................................. 16
KHÁI NIỆM LLSX – CẤU TRÚC CỦA LLSX – KHÁI NIỆM QHSX:............................................................................................................... 16
* KHÁI NIỆM QUAN HỆ SẢN XUẤT:.................................................................................................................................................. 17
MQH BIỆN CHỨNG GIỮA LLSX VÀ QHSX......................................................................................................................................... 17
CƠ SỞ HẠ TẦNG – KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG:....................................................................................................................... 17
HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI.................................................................................................................................................... 17
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VỀ CON NGƯỜI.......................................................................................................... 17
A. KHÁI NIỆM CON NGƯỜI............................................................................................................................................................. 17



NGUỒN GỐC TỰ NHIÊN VÀ NGUỒN GỐC XÃ HỘI CỦA CON NGƯỜI........................................................................................................... 17
B. BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI........................................................................................................................................................ 18
LIÊN HỆ THỰC TIỄN XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI XHCN HIỆN NAY:.......................................................................................................... 19


Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức


Vật chất và ý thức là ai phạm trù cơ bản của triết học. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề
cơ bản của Triết học.

Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Duy vật và chủ nghĩa Kinh nghiệm phê phán”, Lênin định nghĩa: “Vật chất là
một phạm trù Triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
Về bản chất, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc con người, là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội.
- Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ này, vật chất có trước,
ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song, ý thức không hoàn toàn thụ động
mà nó có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn con người.
a. Vai trò của vật chất đối với ý thức:


Vật chất là cái có trước ý thức là cái có sau: ý thức là sản phẩm của bộ óc người – bộ óc người là kết
quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là SP của thế giới vật chất.

VD: Hoạt động ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của não người. Nếu não
người (vật chất) bị tổn thương thì hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn



Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: ý thức nảy sinh từ BỘ ÓC NGƯỜI– đó là sản phẩm của
thế giới vật chất, bộ não PHẢN ÁNH thế giới vật chất và làm xuất hiện ý thức. Thế giới vật chất là
NGUỒN GỐC kết quả của ý thức.

VD: Ở Việt Nam, nhận thức của một số học sinh cấp 2, 3 về công nghệ thông tin là yếu kém tại một số
vùng. Nguyên nhân là do cơ sở về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên còn thiếu. Nếu vấn đề cơ sở vật chất
được giải quyết thì khả năng sử dụng công nghệ và ý thức của các em sẽ tốt hơn rất nhiều. Có thể nói, điều
kiện vật chất thế nào thì quyết định ý thức thế đó.


Vật chất quyết định nội dung của ý thức: ý thức là HÌNH ẢNH CHỦ QUAN về thế giới vật chất nên
NỘI DUNG của ý thức phải bắt nguồn từ vật chất. Mọi sự vận động, phát triển của ý thức đều
PHẢN ÁNH sự vận động, phát triển, BIỂU HIỆN của thế giới vật chất.



Vật chất quyết định bản chất, phương thức và kết cấu của ý thức: sự năng động, sáng tạo của ý thức
LỆ THUỘC thế giới khách quan. Sự chuyển biến tâm tư, tình cảm, niềm tin, ý chí,… của con người
lệ thuộc hoàn cảnh khách quan và TÁC ĐỘNG của thế giới vật chất. Các hình thức biểu hiện của ý
thức đều chịu sự CHI PHỐI của các QL sinh học, các quy luật xã hội và môi trường sinh thái. Chính
thế giới vật chất QĐ các hình thức biểu hiện, phương thức, kết cấu và mọi sự thay đổi của ý thức. Sự
vận động, chuyển hóa, biến đổi của thế giới vật chất làm thay đổi quan điểm, quan niệm và ĐÁNH
GIÁ của con người, của xã hội loài người.

b. Vai trò của ý thức đối với vật chất:
Thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức tác động trở lại thế giới vật chất, tác động trở lại môi
trường sống.


2


Nói đến vai trò của ý thức đối với vật chất là nói đến vai trò của con người trong hoạt động thực tiễn.
Ý thức trang bị cho con người sự hiểu biết về hiện thực khách quan, nhờ đó giúp con người xác định
mục tiêu, đề ra phương hướng , xây dựng kế hoạch,lựa chọn phương pháp , phương tiện, công cụ,
thiết lập quan hệ xã hội để đạt mục tiêu đề ra.




Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người có thể
diễn ra theo hai chiều hướng:

+ Hướng tích cực: Ý thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan, giúp con người nắm bắt và vận dụng tốt
các quy luật khách quan, nhờ đó con người có thể cải tạo tốt thế giới hiện thực với tình cảm, ý chí kiên
cường, vượt qua mọi thử thách để vươn tới mục tiêu và hoàn thiện bản thân.
VD: Với nhận thức đúng đắn về thực tại của kinh tế đất nước, từ sau đại hội VI, Đảng ta đã chuyển hướng từ
nền kinh tế tự trị tự cung tự cấp, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nhờ đó mà sau gần 20 năm,
kinh tế nước ra đã thay đổi hẳn.
+ Hướng tiêu cực: Ý thức phản ánh lệch lạc hiện thực khách quan sẽ làm cho con người không nhận thức và
vận dụng tốt các quy luật khách quan, qua đó con người gây tác hại thế giới vật chất, cản trở tiến bộ xã hội
và có thể tự hủy hoại bản thân. Nhưng tác động kìm hãm của ý thức đối với thế giới vật chất chỉ là tạm thời
vì theo quy luật khách quan, ý thức tiến bộ sẽ thay thế ý thức lạc hậu, không phù hợp.
VD: Các nhà máy xử lý rác thải nếu không nắm rõ về hiện thực khách quan, việc xử lý rác thải sẽ không phù
hợp sẽ dẫn đến phá hoại môi trường.
Như vậy:
Không ở đâu và không bao giờ ý thức có thể quyết định vật chất, ý thức chỉ có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự tác động này phụ thuộc vào
trình độ phản ánh của ý thức, mức độ THẨM THẤU của ý thức vào những HÀNH ĐỘNG, TRÌNH ĐỘ TỔ
CHỨC của con người và những ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN định hướng cho hoạt động của con người. Sự
tác động của ý thức đối với vật chất dù đến mức độ nào đi nữa vẫn phải dựa trên cơ sở phản ánh thế giới vật

chất.

Vận dụng mối quan hệ này trong học tập và trong đời sống hằng ngày.


Thứ nhất,vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải xuất
phát từ thực tế khách quan. Đầu tiên, bản thân mỗi người phải tự xác định được các điều kiện khách
quan ảnh hưởng đến cuộc sống học tập của bản thân. Sinh viên chú ý tôn trọng tính khách quan và
hành động theo các quy luật mang tính khách quan, thể hiện qua một số hành động như: tuân thủ
theo thời khóa biểu mà mỗi khoa đã giao cho học sinh để đi học đúng giờ, tham dự các tiết học đầy
đủ, ...



Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động chủ
quan tức0o là phải phát huy tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức. Là sinh viên thì cần phải
tích cực trong học tập, chủ động tìm hiểu và khai thác vấn đề, khi học bài không quá phụ thuộc vào
giảng viên mà thay vào đó nên suy nghĩ những ý tưởng mới của riêng mình.



Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ. Cụ thể là cần phải
tiếp thu có chọn lọc những ý kiến mới, việc hôm nay không nên để ngày mai, không chủ quan trước
mọi tình huống, phải biết lắng nghe và tiếp thu sự góp ý của người khác. (VD như nhận xét thuyết
trình, v.v)



Thứ tư, khi giải thích các hiện tượng xã hội cần phải tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh
thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố khách quan. Ví dụ đối với việc đăng ký học phần, sinh viên

cần phải tính đến năng lực học tập của bản thân, điều kiện tài chính của gia đình, v.v

Vận dụng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3


Sự vận dụng của Đảng ta vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam:
Đầu tiên là thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ X của
Đảng đã chỉ rõ: Tranh thủ thời cơ thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để
rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Điều này trước hết được thể hiện qua việc thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Đảng đã phát huy, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng về tài nguyên, lợi thế so sánh và con
người để nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đảng cũng tăng cường ổn
định bền vững kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất lao động quốc gia và đóng góp của năng suất các yếu tố
tổng hợp trong mô hình tăng trưởng theo hướng thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ và xây dựng hệ
thống đổi mới sáng tạo. Đồng thời, Đảng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. (Báo Diễn đàn doanh nghiệp)
Ngoài ra, Đảng ta còn vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong việc xây dựng cơ sở
vật chất cho CNXH, nâng cao đời sống vật chất của quần chúng nhân dân lao động. Điều đó thể hiện ở Nghị
quyết 168 về chuyển đổi cơ cấu sản xuất, các chính sách đất đai cho người dân tộc, chính sách tái định cư,
cứu đói giảm nghèo, v.v.. Nhờ đó đời sống nhân dân được cải thiện, tỉ lệ hộ đói nghèo giảm mạnh từ 20%
xuống 11%, thu nhâp hộ thành thị tăng từ 10 triệu/ năm lên 50 triệu/ năm. Tại đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII, Đảng ta xác định:“Quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã
hội; thực hiện tốt chính sách người có công; nâng cao chăm sóc sức khỏe nhân dân; xây dựng môi trường
sống lành mạnh, văn minh, an toàn”. Bên cạnh đó, nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 cũng nhấn mạnh:
“Nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ
thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây dựng
mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện được hưởng

trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội…” (BỘ LAO ĐỘNG-THƯƠNG BINH VÀ
XÃ HỘI)
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta tiếp tục phát huy vai trò sáng tạo của con người trong nhận thức các quy
luật khách quan. Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ kinh nghiệm thành công, thất bại trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là “Mọi đường lối, chủ
trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Đất nước ta đang bước vào thời
kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH, Đảng chủ trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài
nước, đặc biệt là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi

4


mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”
Đầu tiên là việc khẳng định tinh thần yêu nước là một nhân tố quan trọng tạo thành động lực phát triển đất
nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) nhấn mạnh tinh thần yêu nước là một trong những giá trị, thuận lợi cơ bản của Việt Nam: “Chúng ta
có nhiều thuận lợi cơ bản:... nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái.
Đồng thời Đảng tiếp tục khẳng định tinh thần yêu nước là nội dung quan trọng trong phương hướng, nhiệm
vụ xây dựng khối đại đoàn kết: “đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để
tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân
với Đảng, Nhà nước”. Việc tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước; phát triển các phong trào thi đua yêu
nước luôn được Đảng yêu cầu qua các kỳ Đại hội Đảng; tiếp tục được phát triển trong các văn kiện Đại hội
XII của Đảng. Trong đổi mới giáo dục, bên cạnh việc nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, thì nội dung quan trọng cần thường xuyên được thực hiện là giáo dục tinh thần yêu nước: phát triển các
phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, từ lao động, sản xuất, học tập, chiến đấu,
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân,... đến ưu tiên sử dụng hàng hóa được sản xuất trong nước, các việc
thiện nguyện, các hoạt động bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường...; giữ gìn hình ảnh đất nước trong
con mắt bạn bè quốc tế; xây dựng và phát huy tự hào dân tộc; tinh thần tự lực tự cường, xây dựng khối đại

đoàn kết toàn dân.

Xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng khách quan
Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng và
vận dụng tư tưởng lý luận đó vào thực tế cách mạng nước ta để đề ra đường lối, chủ trương, chính
sách qua từng thời kỳ. Một trong những vận dụng cơ sở lý luận của triết học Mác Lênin vào công
cuộc đổi mới đất nước mà Đảng đã khởi xướng bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ IV là nguyên tắc
khách quan, một nguyên tắc được rút ra từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
- Phạm trù vật chất, phạm trù ý thức, mối liên hệ (câu 2)
- Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, một nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc
khách quan. Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý
thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực khách
quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, “phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ
cho mọi hoạt động của mình”. Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải
xuất phát từ chính bản thân sự vật với những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của nó, những
quy luật khách quan, phải có thái độ tôn trọng sự thật, không được lấy ý muốn chủ quan của mình
làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược cách mạng.
- Dẫn chứng:
Trong công cuộc đổi mới từ năm 1986, trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, Đảng và Nhà nước
đã điều chỉnh lại theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả
năng thực tế", tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất
lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chương
trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản
xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa.

Bản chất của ý thức

5



Lấy VD trong đời sống xã hội hoặc trong học tập của bản thân (1.5đ)


Ý thức là hình ảnh của quan của thế giới khách quan, hay nói cách khác, hiện thực khách quan thế
nào thì sẽ tạo ra ý thức thế đó. Trong hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học, hiện thực khách
quan là các kết quả nghiên cứu thu được thông qua thí nghiệm, thực nghiệm khảo sát. Các kết quả đó
sẽ được phản ánh một cách đầy đủ và chính xác vào trong ý thức con người.



Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới: Cùng một sự việc hiện thực là thực tập sư phạm, nhưng mỗi
sinh viên sẽ có cách nhìn khác nhau đối với việc học. Có người sẽ xem đây là một nỗi sợ, có người
lại xem đây là một cơ hội để phát triển thêm kiến thức, kỹ năng. Thông qua những trải nghiệm và
hoạt động thực tiễn khác nhau, sinh viên sẽ có cách nhìn khác nhau đối với cùng sự việc và sẽ có
những cách giải quyết khác nhau.



Bản chất của ý thức mang bản chất xã hội: Ý thức của người Việt Nam đối với việc giới trẻ muốn
sống tự lập từ trung học phổ thông khác với ý thức của người Mỹ cùng vấn đề. Ở xã hội của nước
Mỹ thì cha mẹ lại ủng hộ và cố gắng để con sống độc lập, ý thức của người Mỹ về vấn đề tự lập là
khác. Còn trong xã hội Việt Nam thì tự lập từ tuổi THPT là còn quá sớm, chưa đủ tự tin để có thể
sống một mình.

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Phép siêu hình (metaphysics) xem xét sự vật một cách hoàn toàn cô lập, tách rời với sự vật khác,
không có sự tác động qua lại cũng như chuyển hóa lẫn nhau, như Engel từng viết: “Quan điểm siêu
hình chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn
6



tại của sự vật mà không thấy sự hình hành và tiêu vong của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật
và không thấy trạng thái động của sự vật, chỉ thấy cây mà không thấy rừng”. Ngược lại, phép biện
chứng (dialectics) cho rằng mọi sự vật đều tồn tại trong mối liên hệ với sự vật khác, chúng nương
tựa, ràng buộc lẫn nhau, thường xuyên xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau. Đề cập đến biện chứng là đề
cập đến mối liên hệ và sự vận đông phát triển. Đây cũng được coi là hai đặc trưng cơ bản nhất, cũng
như là từ khóa của phép biện chứng.
a. Khái niệm về mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự qui định, sự tác động và chuyển hóa
lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong
thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện
tượng của thế giới, trong đó, những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự
vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng, đó là các mối liên
hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng…Như vậy,
giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù vừa tồn tại những mối
liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định, nhưng đồng thời cũng tồn tại những mối liên hệ phổ
biến nhất, trong đó, những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong
những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống
nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các mối liên hệ trong
giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
b. Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản của các mối
liên
hệ.
- Tính khách quan của các mối liên hệ.
Theo quan điểm biện chứng duy vật: các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có
tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự qui định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn
nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong chính bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc
lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối
liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.

Ví dụ: Mối quan hệ giữa trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường, khi MT thay đổi thì cơ thể
sống của sinh vật sẽ có những biến đổi để thích nghi với môi trường. Mối LH đó không phải do ai
sáng tạo ra mà nó là cái vốn có của thế giới vật chất.
- Tính phổ biến của các mối liên hệ.Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự vật, hiện
tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác; đồng
thời cũng không có bất cứ sụ vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm
những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng
là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương tác và
làm biến đổi lẫn nhau.
Ví dụ: Yếu tố dân số ảnh hưởng tới các yếu tố xã hội khác như: giáo dục, y tế, an ninh, … hay con
người tồn tại trong nhiều mối quan hệ (bạn bè, thầy cô, đồng nghiệp, ...); Mỗi cơ thể sống là một hệ
thống cấu trúc tạo nên khả năng tự trao đổi chất với môi trường, nhờ đó mà tồn tại và phát triển
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ.Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mac-Lênin không
chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong
phú, đa dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ được thể hiện ở chỗ:
các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vai
trò, vị trí khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định
của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Sự phân chia
từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ
phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa
lẫn nhau do chính sự vận động của sự vật. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò
7


cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với những sự vật nhất định, trong những điều kiện xác
định. Đó là mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, liên hệ chủ yếu
và thứ yếu…
Ví dụ: Trong kinh doanh, nếu các doanh nghiệp hoạt động độc lập, tách rời thì mối liên hệ giữa
chúng là mối liên hệ bên ngoài. Tuy nhiên, nếu vì mục đích phát triển, các doanh nghiệp độc lập này

tập hợp lại thành tổng công ty, hoạt động như một tổ chức thống nhất thì khi ấy mối liên hệ giữa
chúng lại là mối liên hệ bên trong.
Quan điểm về tính phong phú đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về sự thể hiện
phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi
hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần xem xét sự vật
trong mối liên hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự
vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể
nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. như vậy, quan
điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và thực tiễn.
Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các
mặt, tất cả các mối liên hệ “và quan hệ giao tiếp” của sự vật đó”
- Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn khi đã thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp với quan điểm
lịch sử - cụ thể.Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình
huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn; phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi
mối liên hệ cụ thể trong những điều kiện cụ thể để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và có
hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những
cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan
điểm chiết trung, ngụy biện.
Sự vận dụng của bản thân trong học tập và trong cuộc sống:
Trong học tập:
Bản thân là sinh viên, trong học tập cần xác định mục tiêu, động cơ và thái độ đúng đắn thì mới có
kết quả học tập cao. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể trong học tập sẽ
giúp định hướng học tập tốt hơn. Khi lên kế hoạch học tập cần xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến
quá trình học tập của bản thân tại từng giai đoạn cụ thể (khả năng học tập, điều kiện kinh tế gia

đình, thời khóa biểu môn học, yêu cầu môn học, v.v) để có thể lựa chọn số lượng kiến thức phù hợp,
cách học hiệu quả để đạt được kết quả cao nhất có thể.
Bên cạnh việc học lý thuyết người học còn phải chú trọng thực hành, nắm vững kiến thức nền tảng,
chuyên sâu để vận dụng vào cuộc sống; học tập còn phải gắn liền với rèn luyện phẩm chất đạo đức,
sức khỏe, trao dồi kỹ năng sống để trở thành con người hoàn thiện.
Trong cuộc sống: Không nên đánh giá người khác một cách hời hợt, phiếm diện. Khi xem xét một
sự việc hoặc đánh giá một ai đó, cần phải tiếp xúc lâu dài, nhìn nhận trên nhiều phương diện khác
nhau, đặt con người, sự việc trong các mối liên hệ (bạn bè, gia đình, v.v). Trong cách ứng xử phải
xem xét hoàn cảnh để tùy từng người, từng thời điểm sẽ có cách giao tiếp, đối xử phù hợp.
Tác động của ĐỔI MỚI GIÁO DỤC đến cuộc sống và các vấn đề kinh tế - xã hội
1- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội.
8


2- Đổi mới giáo dục Việt Nam hiện nay là công tác đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo
đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị
của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người
học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, ta đã kế thừa, phát huy
những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế
giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc.
3- Phát triển giáo dục và đào tạo đã góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Việc chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng
lực và phẩm chất người học đã giúp đào tạo ra những thế hệ học sinh đáp ứng nhu cầu của thời đại
mới: có kiến thức, có kỹ năng, có phẩm chất và đạo đức tốt, năng động và sáng tạo hội nhập.
4- Đổi mới giáo dục đã góp phần giải quyết nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc;
thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ.
5 - Công tác đổi mới đã góp phần thúc đẩy việc đáp ứng yêu cầu chủ động, tích cực hội nhập quốc

tế để phát triển đất nước.
Sự vận dụng trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam

9


Nguyên lý về sự phát triển
Phát triển là một quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi tiến; là sự biến
đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn. Quá
trình đó diễn ra vừa đều đặn, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong
hiện thực khách quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường
thẳng, mà rất quanh co, phát triển thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời. Nguyên lí về mối liên
hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát triển có mối quan hệ mật thiết với nhau, vì nhờ có các mối liên
hệ phổ biến thì mới có sự vận động, phát triển.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, các quá trình phát triển đều có ba tính
chất cơ bản: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú. Đầu tiên là tính khách quan,
sự phát triển mang tính khách quan bởi vì nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật; là
quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Nhờ đó, sự vật luôn luôn phát triển. Vì
thế, sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người.
Thứ hai là tính phổ biến, sự phát triển mang tính phổ biến vì sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh
vực (tự nhiên, xã hội và tư duy); ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. Ngay cả
các khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển;
chỉ trên cơ sở của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù mới
có thể phản ánh đúng đắn hiện thực luôn vận động, phát triển thúc đẩy cái mới ra đời theo quy luật
khách quan.
Ví dụ: sự phát triển của tư duy: không biết – biết ít – biết nhiều, hiểu biết từ trình độ thấp đến
trình độ cao; trong tự nhiên: quá trình phát triển của sâu bướm: trứng – sâu non – nhộng- bướm
trưởng thành; trong xã hội: sự PT của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao: CXNT – CH nô
lệ - Phong kiến – tư bản CN – Xã hội CN
Thứ ba là tính đa dạng, phong phú, sự phát triển có tính đa dạng, phong phú vì phát triển là

khuynh hướng của mọi sự vật, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không
giống nhau. Tồn tại ở không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau.
Cụ thể, ở cùng một độ tuổi thì trẻ em ngày nay phát triển về chiều cao và thể chất nhanh hơn rất
nhiều so với thế hệ đi trước. Ngoài ra, trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác
động của các sự vật, hiện tượng khác của rất nhiều yếu tố, điều kiện trong hiện thực. Chẳng hạn như
trong thời kỳ cổ đại, dưới tác động của điều kiện tự nhiên, ở Phương đông, nền kinh tế chính của
các quốc gia cổ đại là nông nghiệp trồng lúa nước. Còn ở phương Tây là thủ công nghiệp và thương
nghiệp. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, hiện tượng thậm chí
có thể làm cho sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển ở mặt này, thoái hóa
ở mặt khác khiến sự phát triển diễn ra quanh co, phức tạp.
Bên cạnh đó, quan điểm biện chứng của sự phát triển còn làm rõ: Cách thức của sự phát triển
là từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại, thông qua các bước nhảy.
Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu thuẫn nội tại của nội tại sự vật, hiện tượng; là thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Khuynh hướng của sự phát triển là phủ đinh của phủ định –
sau mỗi chu kỳ phủ điinh của phủ định, cái mới ra đười dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở
cao hơn, hoàn thiện hơn (phát triển xoáy trôn ốc).
Như vậy, khuynh hướng chung của mọi sự vật hiện tượng là phát triển, phát triển lại có tính khách
quan và tính phổ biến. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta phải có quan điểm
phát triển.

Ý nghĩa pp luận
10


Nguyên lí về sự phát triển cho thấy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người
phải tôn trọng quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm phát triển đòi hỏi khắc
phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển. Trong nhận thức và thực tiễn,
phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó. Đồng thời phải nhận thức được tính
quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển ở từng giai đoạn khác nhau,
trong mối quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trên cở sở khuynh hướng phát

triển đi lên. Hơn nữa còn phải có sự lạc quan, tin tưởng vào sự ra đời của cái mới. Bởi lẽ, nguyên lí
về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
LIÊN HỆ BẢN THÂN
Trong học tập, là một sinh viên, chúng ta cần phải không ngừng rèn luyện phát triển tư duy. Khi học
các môn học, chúng ta không thể chỉ đơn thuần học thuộc lòng tất cả lý thuyết trong sách, bên cạnh
đó, chúng ta cần phải tìm hiểu thêm những thông tin bên ngoài có liên quan đến bài học, cũng như
phải rèn luyện khả năng tự học, tự tìm hiểu bài học dưới sự hướng dẫn của giảng viên. Không
những thế, khi không đạt được kết quả như mong muốn trong các bài thuyết trình, kiểm tra,...chúng
ta không nên nản chí, buông xuôi mà phải nhận ra bản thân còn yếu kém ở điểm nào, thiếu sót ở đâu
để học hỏi thêm kinh nghiệm, tích lũy kiến thức dần dần để lần sau sẽ làm tốt hơn. Đặc biệt, chúng
ta cũng phải biết rằng phát triển là quá trình quanh co, phức tạp, khó khăn, nên không thể nóng vội,
đốt cháy giai đoạn, thay vào đó là bình tĩnh, thay đổi từng ngày, từng tuần, từng tháng, từng học
kì…chỉ cần bản thân qua mỗi giai đoạn đều có sự tiến bộ so với lúc trước.
Trong cuộc sống, là một công dân, chúng ta cũng cần phải thay đổi cách suy nghĩ của mình, tránh
những lối suy nghĩ lạc hậu, bảo thủ, trì trệ, không phù hợp với xã hội hiện đại như: chồng chỉ biết đi
kiếm tiền, vợ chỉ biết lo việc nhà; phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong việc lựa chọn ngành
nghề… Bên cạnh đó, khi đánh giá, nhận xét một con người, chúng ta luôn phải xét đến quá trình
phát triển của người đó. Ví dụ, khi nhìn thấy một đứa trẻ lười biếng, chúng ta không thể ngay lập
tức kết luận sau này đứa trẻ này sẽ không làm gì nên chuyện, hay không làm được việc lớn, mà phải
xem xét cả quá trình lớn lên của nó mới có thể đưa ra kết luận chính xác. Đồng thời, chúng ta cũng
cần phải tin tưởng vào tương lai của đất nước. Có thể hiện tại Việt Nam chúng ta chỉ ở mức độ phát
triển trung bình, bị thụt lùi so với những nước khác nhưng trong tương lai có thể chúng ta lại tiến xa
hơn, thậm chí có thể sánh vai cùng cường quốc năm châu. Nhận thức được điều đó, chúng ta lại
càng phải nỗ lực học tập, làm việc để dựng xây, cải tạo đất nước.
Sự phát triển kinh tế của Việt Nam
Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới kinh tế từ năm 1986. Kể từ đó, Việt Nam có
nhiều thay đổi lớn, trước hết là sự thay đổi về tư duy Kinh tế; chuyển từ cơ chế Kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện tốt quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối
ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế.

Con đường đổi mới đã giúp nước ta giảm nhanh tình trạng đói nghèo, bước đầu xây dựng nền kinh
tế công nghiệp hóa, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng và văn minh xã hội.
Sự phát triển kinh tế đã giúp nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng GDP cao, chuyển đổi tính chất sản
xuất tự cung tự cấp của nền kinh tế sang sản xuất hàng hóa phát triển với mặt hàng xuất khẩu chủ
lực là gạo, nông thủy sản. Cơ cấu KT quốc dân chuyển biến theo hướng tích cực: giảm tỉ trọng nông
- lâm - ngư nghiệp, tăng tỉ trọng ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.
Tuy nhiên, Kinh tế Việt Nam sau 20 năm đổi mới vẫn còn nhiều bất cập. Tốc độ tăng trưởng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, có sự chênh lệch giữa các vùng, các ngành và các địa phương.
Ngành dịch vụ tăng trưởng còn chưa nhanh dù gần đây đã có xu hướng phát triển tích cực. Trong
quá trình sản xuất vẫn còn tồn tại tính tự phát, manh mún và tự cấp tự túc tại một số địa phương,
gây khó khăn cho công tác quản lí, quy hoạch.

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Khái niệm quy luật
11


Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc
tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Các quy luật của tự nhiên, xã hội cũng như của tư duy con người đều mang tính khách quan. Con
người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật mà chỉ nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Như chúng ta đã biết, quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các
yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Các quy
luật đều mang tính khách quan, vì vậy con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật mà chỉ
nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn. Từ việc tìm hiểu nội dung quy luật mâu thuẫn và áp dụng
quy luật này vào cuộc sống, sinh viên phải lấy tự học, tự nghiên cứu, tự rèn luyện là chính, và phải
biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.
Đầu tiên là tìm hiểu về nội dung quy luật mâu thuẫn. Quy luật này vạch rõ nguồn gốc và
động lực cơ bản, phổ biến của mọi qua trình vận động, phát triển chính là sự thống nhất và đấu tranh

giữa các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái mới ra đời
và thay thế cái cũ. Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên thệ thống
nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau. Như vậy, nhân tố tạo thành mâu thuân là mặt đối lập, khái niệm mặt đối lập
dùng để chỉ những mặt có đặc điểm, thuộc tính, tính quy định, những khuynh hướng vận động trái
ngược nhau nhưng lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ,
tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Sự tồn tại của các mặt đối lập là khách
quan và phổ biến trong tất cả các sự vật. Chẳng hạn như điện tích âm và điện tích dương trong một
nguyên tử, đồng hóa và dị hóa của một cơ thể sống, tốt và xấu trong đạo đức của một con người..
Mâu thuẫn bao gồm tính khách quan và tính phổ biến. Về tính khách quan, mâu thuẫn là cái
vốn có, bên trong sự vật, hiện tượng, được hình thành và phát triển do cấu trúc bên trong của sự vật
quy định, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người hay bất kì lực lượng siêu nhiên nào.
Khi mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác đồng thời xuất hiện làm cho sự vật vừa là nó, vừa
khác nó. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc
phát triển của nhận thức. Về tính phổ biến, mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã
hội. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật tồn tại cho đến khi kết thúc, trong mọi không gian và thời gian.
Bên cạnh đó, mâu thuẫn còn mang tính đa dạng, phong phú. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có thể bao
hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử cụ thể, giữ
vị trí, vai trò riêng với các thức giải quyết riêng trong quá trình phát triển sự vật, hiện tượng. Đó là:
mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản, mẫu thuẫn chủ yếu và thứ
yếu,..
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau
tạo ra nguồn gốc cho sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thống nhất của các mặt đối
lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự
tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Sự thống nhất này cũng bao hàm sự đồng nhất của nó, vì các mặt đối
lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, tương tự
nhau. Do đó sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuân đến một lúc nào
đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau. Ví dụ như trong 1 nguyên tử, có các hạt proton và
notron tạo thành hạt nhân (mang điện dương), còn các electron quay xung quanh với tốc độ rất lớn
(mang điện âm), hạt nhân và electron đối lập nhau nhưng những mặt đối lập, trái ngược nhau ấy lại

có sự liên hệ với nhau, không thể thiếu nhau.
Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ
định nhau lẫn nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập rất phong phú, đa dạng tùy thuộc vào
tính chất, mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh đó. Thực chất
sự đấu tranh này gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn. Lúc mới xuất
hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập này
xung đột với nhau gay gắt và điều kiện đã chín muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn
12


được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi mâu thuẫn mới hình thành và quá trình này lại được tiếp diễn.
Thực tế mà nói, có thể thấy trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội luôn tồn tại mâu thuẫn. Khi trong xã
hội có đối kháng về giai cấp sẽ nảy sinh nhu cầu giải quyết sự đối kháng này, con người đã hợp lại
với nhau làm cách mạng để lật đổ chế độ đó và xây dựng chế độ xã hội mới. Nhưng chính chế độ
mới cũng lại nảy sinh những mâu thuẫn và con người lại tiếp tục đấu tranh. Như vậy con đường tiến
bộ của nhân loại là con đường đấu tranh giải quyết các mâu thuẫn của xã hội theo từng thời kỳ và
từng mức độ trình độ từ thấp đến cao.
Về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh, cả hai gắn liền với nhau, nếu không có
thống nhất sẽ không có đấu tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh, đấu tranh trong tính thống
nhất của chúng. Tuy nhiên, cả hai có sự khác biệt nhau, sự đấu tranh la tuyệt đối còn sự thống nhất
là tương đối, có điều kiện, tạm thời. Tóm lại, nhờ có sự thống nhất mà sự vật, hiện tượng mới tồn
tai, nhưng nhờ có sự đấu tranh mà sự vật, hiện tượng mới phát triển.
Để nhận thức đúng đắn bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng cùng giải pháp đúng cho
hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Phải thừa nhận tính
khách quan của mâu thuẫn, yêu cầu này đòi hỏi chúng ta phải biết phân tích quá trình phát sinh, vị
trí, mối quan hệ tác động qua lại, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập của mâu
thuẫn. Đồng thời phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí
và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự
vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn. Ví dụ như trên
trái đất tồn tại ngày và đêm, điều này chúng ta không kiểm soát được, ta chỉ có thể tính toán quy

luật của nó và phân định ra thời gian. Bên cạnh đó, vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy
trong việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, tức là biết phân
tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp. Đồng thời, cần phân biệt
đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định; những đặc
điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn
nhất.
Vì sao sinh viên muốn phát triển cần phải tự học
Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên cần phải phân tích, sự vật, hiện tượng để
tìm ra những mâu thuẫn trong các mặt, khuynh hướng và mối liên hệ giữa chúng mà giải quyết,
tránh việc điều hòa các mâu thuẫn đó. Có thể nói, trong cuộc sống và đặc biệt là trong học tập luôn
tồn tại những mâu thuẫn, khi sinh viên tự học, tự nghiên cứu, rèn luyện thì bản thân sinh viên đã có
sự phát hiện, phân tích về bản chất, nguồn gốc, mối quan hệ tác động đến việc xuất hiện những mâu
thuẫn ấy. Tự học là tự giác, chủ động trong học tập nhằm vươn lên nắm bắt tri thức . Tự học không
chỉ đơn thuần là tiếp nhận kiến thức từ thầy cô mà là còn học hỏi ở bạn bè , tìm tòi nghiên cứu sách
vở hay học hỏi, quan sát từ thực tế. Trong thời đại Khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, nhà
trường dù tốt đến đâu cũng không thể đáp ứng hết tất cả nhu cầu học tập cũng người học cũng như
đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội. Tri thức của nhân loại ngày một phát triển nhanh chóng,
chỉ có tự học bằng nhiều con đường, nhiều hình thức khác nhau mới có thể giúp sinh viên bù đắp
những khiếm khuyết về tri thức, trau dồi những kỹ năng cần thiết để có thể đáp ứng được yêu cầu
của xã hội. Vấn đề tự học, tự đào tạo cũng đã được Đảng và nhà nước ta quan tâm trong những năm
qua. Nghị quyết Trung ương 5 khóa 8 đã nêu rõ: “ Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học,
tạo ra năng lực tự học, tự sáng tạo của học sinh, đảm bảo mọi điều kiện và thời gian tự học cho học
sinh, phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên trong toàn dân”.
Có thể nói, tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học và giáo dục. Bồi dưỡng năng lực
tự học cho chính bản thân mình là cách tốt nhất để tạo ra động lực học tập, giúp sinh viên chiếm
lĩnh tri thức một cách chủ động, sáng tạo biến tri thức của nhân loại thành tri thức của bản thân. Tự
học sẽ giúp cho người học chủ động trong cả quá trình học tập suốt đời.

Quy luật phủ định của phủ định


Khái niệm quy luật
13


Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc
tính bên trong mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Các quy luật của tự nhiên, xã hội cũng như của tư duy con người đều mang tính khách quan. Con
người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật mà chỉ nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn.
Quy luật PĐ của PĐ là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. QL này
vạch ra KHUYNH HƯỚNG của sự phát triển.

14


Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để nhận thức về xu hướng vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng. Quá trình đó không diễn ra theo đường thẳng mà là con đường quanh co, phức tạp, gồm
nhiều giai đoạn, nhiều quá trình khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp của quá trình phát
triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo quy luật. Cần phải
nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng để tác động tới sự phát triến,
phù hợp với yêu cầu hoạt động, nhận thức, biểu hiện của thế giới quan khoa học và nhân sinh quan
cách mạng trong mọi hoạt động của chúng ta và trong thực tiễn. Không nên bi quan trước những
thất bại tạm thời, tin tưởng rằng cái mới nhất định thay thế cái cũ, cái tiến bộ sẽ thắng cái lạc hậu,
cái mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật.
- Trong đời sống xã hội, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có mục đích, có ý thức tự giác và sáng
tạo của con người. Vì vậy, cân nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt động, có
niềm tin vào sự tất thắng của cái mới. ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi. Do đó, cần
khắc phục tư tưởng bảo thủ, trị trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái với quy
luật phủ định của phủ định.
Khi phủ định phải biết kế thừa những nhân tố tích cực đã đạt được từ cái cũ và phát triển sáng tạo

trong điều kiện mới. Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái cũ
phải theo quy tắc kế thừa có phê phán, kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt qua, cải
tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển theo hướng tiến bộ
Vận dụng quy luật này với sự phát triển của ĐCSVN
– Quy luật này chỉ ra cách thức của sự phát triển là sau các lần phủ định sự vật dường như quay trở
lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Lịch sử XH loài người tất yếu sẽ phủ đinh các chế độ tư
hữu xây dựng chế độ công hữu, giải phóng con người khỏi áp bức bất công…
– Quy luật này chỉ ra sự phát triển theo đường xoáy ốc, quá trình phát triển có bước quanh co phức
tạp thậm chí có bước thụt lùi tam thời nên khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ Đảng và Nhà
nước ta không do dự lựa chọn lại con đường đi lên CNXH. ..
15


– Hiện nay CNXH hiện thực đang đứng trước những khó khăn không nhỏ , nhưng những khó khăn
đó chỉ là tạm thời, nhất định theo quy luật tất yếu của nhân loại tiến bộ sẽ xây dựng thành công
CNXH…
Vận dụng quy luật này đối với sự phát triển của Việt Nam
- Đảng ta khẳng định, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta “là một quá trình cách mạng
sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát
triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”
- Theo sự khái quát của Đảng, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình cách mạng sâu
sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Trong thời kỳ quá độ, ở nước ta sẽ diễn ra sự
biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản và toàn diện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; và
quá trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển. thực tiễn lịch sử đã chứng minh, con
đường phát triển của Việt Nam là một con đường dài, với nhiều bước đi, nhiều giai đoạn, trong đó
có cũng cả những bước lùi tương đối. Con đường phát triển của Việt Nam hiện nay có thể còn bao
gồm cả sự rút ngắn và bỏ qua. Sự rút ngắn trong con đường phát triển hoàn toàn có thể thực hiện
được nếu có những điều kiện thích hợp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tiến trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập trong lĩnh vực kinh tế. Như vậy, để

đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển, yêu cầu của hội nhập quốc tế, không bị tụt hậu với thế giới,
chúng ta đã mở cửa để hội nhập. Đây cũng chính là điều kiện và cơ hội để ta có thể có những bước
nhảy vọt trong sự phát triển về kinh tế ¬ xã hội, từ đó rút ngắn con đường phát triển của mình. Trên
cơ sở vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác ¬ Lê¬nin và những điều kiện thực tiễn của
Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa Như vậy, khi nhìn nhận và đánh giá về sự phát triển thì chúng ta không chỉ thấy sự
phát triển theo đường thẳng, đi lên theo bậc thang từ thấp đến cao, mà còn phải thấy được những
bước rút ngắn, bỏ qua khi có điều kiện thích hợp. I. Lê¬nin đã từng nói, “Cho rằng lịch sử thế giới
phát triển đều đặn không va vấp, không đổi khi nhẩy lùi những bước rất lớn là không biện chứng,
không khoa học, không đúng về lý luận” . Con đường phát triển của Việt Nam chắc chắn cũng
không nằm ngoài quy luật vận động chung này.
Vận dụng vào vấn đề học tập:
- Kiến thức, học vấn là một vấn đề sâu rộng và phát triển không ngừng. Sẽ xuất hiện những tri thức
mới, những phương pháp mới trong học vấn cao hơn, phát triển hơn những tri thức cũ, những điều
còn lạc hậu hoặc chưa được phát hiện ra.Chúng ta cần liên tục cập nhật, trao dồi những tri thức mới,
những điều mà môn học chúng ta cần, loại bỏ những gì sai hoặc đã lỗi thời, phát triển nhưng cũng
giữ lại những cái nền căn bản, những điều làm nên bước nền vững chắc cho những tri thức ấy.
- Phương pháp học cũng sẽ phát triển hơn, dựa vào những phương pháp học cũ mà ta có thể rút ra
kinh nghiệm để thay đổi sao cho phù hợp về thời gian, độ tập trung, tài liệu học tập, học nhóm…
Giữ lại những cái có lợi, cái hay như làm việc nhóm, học nhóm, tra cứu nhiều tài liệu khác nhau và
loại bỏ những sai lầm trong học tập như mất quá nhiều thời gian cho một vấn đề, dễ xao nhãng, dễ
nản chí. Song song đó ta cũng phát triển lên những cái đã có như tìm cách làm việc nhóm hiệu quả
hơn, biết chọn lọc tài liệu học tập, cũng như thay đổi những cái không hay trước đây như khắc phục
ý chí, tinh thần trong học tập bằng nhiều cách, phân phối thời gian hợp lý cho từng môn học cụ thể.
Đó là cách vận dụng quy luật phủ định của phủ định để vấn đề học tập sẽ ngày càng tốt hơn.
Vận dụng vào đời sống:
- Cuộc sống là một chuỗi những sự vật, hiện tượng xung quanh con người. và theo như quan điểm
của quy luật phủ định của phủ định, cuộc sống là một chuỗi sự phủ định biện chứng dài vô tận của
các sự vật hiện tượng, thay thế cái cũ bằng cái mới cao hơn. Chính vì thế, chúng ta cũng cần phải
thay thế những cái cũ, cái lạc hậu, những cái xấu cũ trong cuộc sống của mỗi người như nếp sống

lười nhác, dễ nản lòng, dễ thay đổi, không có ý chí,… để thay vào đó là những cái mới tốt hơn như
biết chủ động trong mọi việc, có kế hoạch trong cuộc sống, có chính kiến,… Song đó ta cũng cần
giữ lại những cái có lợi và phát triển thêm như trao dồi thêm những kiến thức mà ta đang có, tăng
16


thêm những mối quan hệ xung quanh, phát triển tính cách sôi nổi và thích khám phá của tuổi trẻ,…
để cuộc sống của ta ngày càng phát triển cao hơn trong mọi mặt về đời sống cũng như tinh thần.

Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
Khái niệm LLSX – cấu trúc của LLSX – khái niệm QHSX:
* Khái niệm LLSX:
- LLSX là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối
quan hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất
vật chất, nghĩa là tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo
nhu cầu của con người và xã hội.
- LLSX biểu hiện mối quan hệ của con người với thế giới tự nhiên nghĩa là trong quá trình sản xuất,
con người chinh phục giới tự nhiên bằng các hoạt động thực tiễn.
- LLSX là thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất và con người với kinh nghiệm, kĩ năng, tri
thức lao động của họ. Trong đó người lao động là nhân tố có tính quyết định. Tư liệu sản xuất bao
gồm công cụ lao động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là một bộ phận của giới tự nhiên
được đưa vào sản xuất, được con người sử dụng. Công cụ lao động, là “sức mạnh của tri thức đã
được vật thể hóa” có tác dụng “nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người. Trong
các nhân tố của TLSX thì công cụ lao động đóng vai trò hàng đầu.
- Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, ngày nay khoa học kĩ thuật phát triển đến mức trở thành
nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống, đã tạo ra những kĩ thuật
công nghệ mới làm cho năng suất lao động tăng cao, tạo ra một nền sản xuất tự động hóa. Khoa học
đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của LLSX.
* Khái niệm Quan Hệ Sản Xuất:
- QHSX là quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).

QHSX mang tính khách quan vì được hình thành trong quá trình phát triển lịch sử chứ không thuộc
ý muốn chủ quan của con người. QHSX là quan hệ cơ bản quyết định mọi QH xã hội khác của con
người.
- QHSX được cấu thành từ ba mặt:
+ Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ trong tổ chức và quản lý quá trình sản xuất.
+ Quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất.
- QHSX là tiêu chí quan trọng để phân biệt hình thái kinh tế xã hội này với hình thái kinh tế xã hội
khác, là tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một phương thức sản xuất xã hội nhất định.
- QHSX là hình thức xã hội của quá trình sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội.
Ba mặt hợp thành quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn
định tương đối so với sự vận động không ngừng của LLSX, trong đó quan hệ sở hữu về TLSX giữ
vai trò quyết định.
MQH biện chứng giữa LLSX và QHSX
Trang 45 – tài liệu Trung cấp chính trị

Cơ sở hạ tầng – kiến trúc thượng tầng:
Tài liệu lớp Mác Lenin – Trang 9
Tài liệu trung cấp chính trị trang 43

Hình thái kinh tế xã hội
Tài liệu lớp Mác Lenin – Trang 13, trang 15
17


Quan điểm của chủ nghĩa duy vật về con người
a. Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chững giữa hai
phương diện tự nhiên và xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của con người

Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người là giới tự
nhiên, do đó trước hết con người có bản tính tự nhiên. Nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự
nhiên và nguồn gốc tựnhiên của con người là cơ sở khoa học để con người hiểu biết về chính bản
thân mình, tiến đến làm chủ bản thân trong mọi hành vi hoạt động sáng tạo ra lịch sử. Bản tính tự
nhiên của con người thể hiện trên hai giác độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên, cơ sở khoa học của
kết luận này đã được chứng minh bằng sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên,
đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là bộ phận của giới tự nhiên do đó những biến đổi của giới tự nhiên và tác động
của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã
hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người với giới tự nhiên; ngược lại, sự
biến đổi và hoạt động của con người luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên và làm biến đổi môi
trường tự nhiên.
Tuy nhiên, con người cũng không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó có đặc
tính xã hội. Bản tính xã hội của con người là bản tính đặc thù của nó trong quan hệ với các tồn tại
khác của giới tự nhiên. Bản tính xã hội của con người thể hiện ở các mặt sau:
Một là, nguồn gốc hình thành con người không chỉ là quá trình tiến hóa của giới tự nhiên mà trước
hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua loài
động vật để tiến hóa và phát triển thành người.
Hai là, sự tồn tại và phát triển của con người luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật
xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng biến đổi và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân
lại trở thành tiền đề cho sự phát triển xã hội.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất của nó, quy
định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng
tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính mình. Vì vậy, để lý giải bản tính sáng tạo
của con người cần kết hợp chặt chẽ cả hai phương diện tự nhiên và xã hội nhằm tránh rơi vào phiến
diện, không triệt để, dẫn đến những sai lầm trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
b. Bản chất của con người
Theo C.Mác, “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”(C.Mác và

Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.11).
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan điểm khác nhau và bản chất, “bản tính người”
của con người song về cơ bản những quan niệm đó đều mang tính phiến diện, trừu tượng và duy
tâm thần bí, tuyệt đối hóa phương diện tự nhiên của con người, xem nhẹ việc lý giải con người từ
phương diện lịch sử xã hội.
Quan điểm của C.Mác đã khắc phục được hạn chế của quan điểm duy vật siêu hình về con người,
trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ
lịch sử xã hội, từ đó phát hiện ra bản tính xã hội của nó, hơn nữa chính bản tính xã hội của con
người là phương diện bản chất nhất của con người, là cái phân biệt con người với các tồn tại khác
của giới tự nhiên. Luận đề của C.Mác đã khẳng định: không có con người trừu tượng, thoát ly mọi
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn cụ thể ... mang tính xã hội. (tài liệu lớp T3,
trang 21)
Có thể nói con người luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. Con người làm ra lịch sử của
chính mình. Theo quan điểm duy vật biện chứng về bản chất xã hội của con người thì sự hình thành
và phát triển của con người cùng những khả năng sáng tạo lịch sử của nó là xuất phát từ sự hình
18


thành và phát triển của những quan hệ xã hội của nó trong lịch sử., khi những quan hệ này thay đổi
thì cũng có sự thay đổi về bản chất của con người. Vì vậy, sự giải phóng bản chất con người cần
phải hướng vào sự giải phóng những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội của nó, thông qua đó mà phát
huy khả năng sáng tạo lịch sử của con người.
Không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Con
người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại
sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó. Đây là biện chứng của mối quan hệ giữa con người – chủ
thể của lịch sử với chính lịch sử do nó tạo ra và đồng thời lại bị quy định bởi chính lịch sử đó.
Với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn tác động vào giới tự nhiên, cải
biến giới tự nhiên theo nhu cầu của mình thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính
nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
Ý nghĩa phương pháp luận:

Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người, có thể rút ra ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng sau đây:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người phải căn cứ cả vào phương diện tự
nhiên và phương diện xã hội, trong đó vấn đề có tính quyết định là phương diện bản tính xã hội của
nó, từ những quan hệ kinh tế xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của tiến bộ và phát triển của xã hội là năng lực sáng tạo lịch sử của con
người, vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người là phát huy nguồn động lực quan trọng
thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải là
hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế - xã hội. Trên ý nghĩa phương pháp luận đó
có thể thấy một trong những giá trị căn bản nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là ở
mục tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng sáng tạo
lịch sử của con người. Thông qua cuộc cách mạng đó nó cũng thực hiện sự nghiệp giải phóng toàn
nhân loại bằng phương thức xây dựng mối quan hệ kinh tế - xã hội xã hội chu nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa nhầm xác lập và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở thành điều
kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. Đó cũng chính là thực hiện triết lý đạo đức nhân sinh
cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”.
Liên hệ thực tiễn xây dựng con người mới XHCN hiện nay:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (1-2016), một lần nữa đã xác định một
nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt nhiệm kỳ là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực
làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII - Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016) Trước tình hình và đặc điểm mới, phức tạp hiện
nay và những năm sắp tới, đây là nhiệm vụ cực kỳ to lớn, nặng nề, đồng thời là một thách thức gay
gắt đối với toàn Đảng, toàn dân ta. Hoàn thành tốt hay không nhiệm vụ trọng tâm đó sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến toàn bộ các lĩnh vực trọng yếu của đời sống đất nước.
Yêu cầu: Tài liệu lớp T3 – trang 23
Nội dung:

Biện pháp:

19


Văn kiện Đại hội XII đặt nhiệm vụ lớn lao, nặng nề đó cho toàn xã hội, song, trước hết cho lĩnh vực
được khẳng định là quốc sách hàng đầu - đó là giáo dục, đào tạo. Nhằm thực hiện được mục tiêu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, Đại hội yêu cầu một sự chuyển hướng quan
trọng nhất đối với giáo dục là “chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học” (văn kiện - tr.114). Tư tưởng này đòi hỏi
ngành giáo dục phải đổi mới sâu sắc, toàn diện tư duy, năng lực chỉ đạo và tổ chức lĩnh vực giáo
dục, vượt qua những “căn bệnh” đã tồn tại từ lâu trên lĩnh vực này như chất lượng, hiệu quả giáo
dục còn thấp, chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc, nặng
lý thuyết, nhẹ thực hành,… Giáo dục, đào tạo phải tạo cho được sự phát triển của con người, đặc
biệt của thế hệ trẻ, thông qua quá trình giáo dục nhằm phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng
tạo, phẩm hạnh, nhân cách của mỗi cá nhân, tạo cho bằng được những thế hệ con người Việt Nam
“yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả” (Văn kiện - tr. 115).
Con người phát triển hay bị tha hóa, biến chất phụ thuộc vào môi trường văn hóa - nơi con
người sinh sống, lao động, học tập, quan hệ cộng đồng. Vì vậy, nói đến xây dựng đời sống văn hóa,
trước hết là xây dựng môi trường văn hóa cho con người, vì con người, kể từ môi trường trực tiếp
và nhỏ nhất như gia đình, thôn xóm, bản làng, các đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu,…
Nghĩa là, để có được nhân cách văn hóa phát triển đúng hướng và toàn diện, phải văn hóa hóa toàn
bộ hoạt động và quan hệ đa dạng của con người trong xã hội. Xuất phát từ quan điểm đó, Đại hội
XII của Đảng khẳng định: “Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ
thống chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân
cách, đạo đức, lối sống” (Văn kiện - tr. 127 - 128).

20




×