Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG QUA MÔN NGỮ VĂN 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.32 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO .....
TRƯỜNG THPT .....

CHUYÊN ĐỀ : GIÁO D ỤC K Ỹ N ĂNG
S ỐNG QUA MÔN NG ỮV ĂN 6

Họ và tên: ......
Tổ: .........


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

1. Cơ sở lí luận:
Hiện nay, nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được nhiều quốc gia trên thế
giới đưa vào dạy cho học sinh các trường phổ thông, dưới nhiều hình thức khác
nhau. Chương trình hành động Dakas về Giáo dục cho mọi người(Senegal-2000)
đã đặt ra cho người học được tiếp cận với chương trình giáo dục kĩ năng sống phù
hợp và kĩ năng sống cần được coi như là một nội dung của chất lượng giáo dục.
Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng
nhu cầu phát triển của người học và nhu cầu hội nhập quốc tế, và nhằm tiếp cận kĩ
năng :Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung
sống, giáo dục phổ thông đã và đang từng bước đổi mới theo hướng từ chủ yếu là
trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho học sinh phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, tăng cường khả năng làm việc theo
nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Nhận thức rõ tầm quan trọng, cần
thiết của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông nói chung, Bộ Giáo
dục và đào tạo đã đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống lồng ghép trong các môn học
và hoạt động giáo dục ở các cấp học.
Nội dung giáo dục kĩ năng sống trong các nhà trường phổ thông được tích


hợp trong các môn học nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ
và kĩ năng phù hợp; tạo cơ hội thuận lợi cho học sinh phát triển toàn diện về thể
chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức. Bên cạnh đó, Giáo dục kĩ năng sống cũng là nội


dung được đông đảo phụ huynh, dư luận quan tâm bởi đây là một chương trình
giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh.
Đặc biệt, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một trong
những nội dung cơ bản của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” trong các nhà trường phổ thông hiện nay.

2. Cơ sở thực tiễn
Thực hiện Quyết định 2994/QĐ-BGD&ĐT ngày 20 tháng 7 năm 2010 của
Bộ GD&ĐT, các nhà trường phổ thông đã đưa chương trình dạy kĩ năng sống tích
hợp trong các môn học và hoạt động ngoại khóa.
Giáo dục kĩ năng sống được lồng ghép vào chương trình học, các môn học,
các hoạt động trong nhà nhà trường chứ không tạo thành môn học riêng. Trong
năm học vừa qua, nhiều trường học đã chú trọng rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh nhưng tài liệu hướng dẫn còn chưa chi tiết, cụ thể nên mỗi trường thực hiện
mỗi kiểu.
Thực tế hiện nay, có một bộ phận nhỏ học sinh trong các trường thiếu hụt
hiểu biết về môi trường xung quanh, lúng túng khi ứng xử trong cuộc sống. Điều
này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối
sống đạo đức của nhiều học sinh. Bởi lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành
những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song
còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo,
kích động….Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện
nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực có,
tiêu cực cũng có. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, thiếu kĩ năng sống, các
em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, thực dụng,

dễ bị phát triển lệch lạc nhân cách.
Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là điều cần thiết.Với đối
tượng là học sinh Trung học cơ sở, đặc biệt là họa sinh lớp 6, các em vừa chuyển từ
cấp Tiểu học lên, bắt đầu một chu trình mới thì việc giáo dục kĩ năng sống là điều
vô cùng hệ trọng để ngay từ năm đầu cấp học này, các em sẽ được trang bị những
kiến thức, giá trị, thái độ, kĩ năng để phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh
thần, đạo đức.


Là một giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn , tôi nhận thấy Ngữ văn không chỉ
có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt, có
những hiểu biết về xã hội, văn hóa, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm con người
mà còn giúp các em bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm xúc, thẩm mĩ và định
hướng thị hiếu để hoàn thiện nhân cách. Như vậy, giáo dục kĩ năng sống được tích
hợp trong môn Ngữ văn là việc cần thiết để tạo điều kiện giúp học sinh nâng cao
năng lực lĩnh hội trong học tập, hình thành thái độ, hành vi, có động lực tìm hiểu,
cân nhắc, lựa chọn và có quyết định đúng đắn để giải quyết mọi vấn đề.
Chính sự cần thiết ấy, bản thân tôi cũng như bao đồng nghiệp khác luôn trăn
trở làm sao để có hiệu quả khi lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống vào trong
phân môn mình được phân công giảng dạy. §ã lµ lý do khiến tôi chọn ®Ò tµi nµy.

3. Mục đích của đề tài:
Trang bị cho học sinh những kiến thức, thái độ, kĩ năng phù hợp. Trên cơ sở
đó hình thành cho các em những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực, loại bỏ
hành vi và thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, tình huống và hoạt động hằng
ngày. Cụ thể:
Học sinh biết lựa chọn cách sử dụng từ ngữ, phương thức biểu đạt phù hợp
mục đích giao tiếp
Giúp học sinh mạnh dạn trong trình bày suy nghĩ, ý tưởng, thảo luận và chia
sẻ những cảm nhận cá nhân. Từ đó các em ý thức được giá trị của bản thân trong

mối quan hệ xã hội, có hành vi và thói quen ứng xử văn hóa.
Giúp các em có đủ khả năng thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ,
độc lập, tự tin khi giải quyết công việc
.


II . PHẠM VI VÀ THỜI GIAN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:

1. Phạm vi đề tài:
Đề tài này được thực hiện trong phạm vi một số tiết theo quy
đdịnh ở khối lớp 6 với đối tượng là học sinh khối lớp 6 (6B) nói riêng của trường
THCS Hương Ngải.- Thạch Thất- Thành phố Hà Nội

2. Thời gian thực hiện đề tài :
Thực hiện trong các năm học: 2010-2011 và 2011-2012


PHẦN II : NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I . THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH QUA KHẢO SÁT ĐIỀU TRA.
Thực hiện Quyết định 2994/QĐ-BGD&ĐT ngày 20 tháng 7 năm 2010
của Bộ GD&ĐT, các nhà trường phổ thông đã đưa chương trình dạy kĩ năng sống
tích hợp trong các môn học và hoạt động ngoại khóa. Qua một năm thực hiện, bản
thân tôi nhận thấy:
Theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT thì có quá nhiều kĩ năng, khó khăn lớn
nhất khi giảng dạy kĩ năng sống cho học sinh là phần lớn giáo viên chưa quen việc,
chưa được đào tạo cơ bản để dạy về kĩ năng sống , hoang mang không biết dạy
như thế nào nên vẫn dạy theo lối mòn đã chuẩn bị trong giáo án như trước đây.
Thực tế trong chương trình, nội dung kiến thức các bài học đã nhiều, thời lượng
mỗi tiết có 45 phút nên rất khó lồng ghép kĩ năng sống vào. Hoặc có khi giáo viên
chưa chuẩn bị chu đáo, hướng dẫn học sinh thực hành kĩ năng sống chưa cụ thể,

chưa dễ hiểu.Hoặc do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp
với tâm sinh lí lứa tuổi học trò nên hiệu quả lồng ghép, tích hợp chưa cao.
Về phía học sinh Trung học cơ sở, đặc biệt là khối lớp 6, các em đã có sự
phát triển về trí tuệ, tâm hồn; thích để ý quan sát hơn, khả năng tư duy và tình
cảm nhạy cảm hơn so với tuổi còn ngồi trên ghế của trường Tiểu học . Khi được
giáo dục kĩ năng sống qua các môn học, các em rất khó xác định mình vừa tiếp cận
kĩ năng nào , mình đã có được kĩ năng nào và vận dụng kĩ năng nào cho phù hợp


mục đích giao tiếp. Khi được hỏi về kĩ năng sống, có một số em chưa hiểu và quan
điểm kĩ năng sống là một cái gì đó mơ hồ, không thiết thực…
Về phía phụ huynh học sinh, có ý kiến cho rằng việc giáo dục con em chủ
yếu nhờ thầy cô giáo, nhà trường dạy như thế nào thì các em sẽ như thế đó. Đa
số phụ huynh chưa hiểu kĩ năng sống thực chất là gì, chưa hiểu được giáo dục kĩ
năng sống không phải chỉ trong ngày một ngày hai mà là một quá trình lâu dài, liên
tục . Vì vậy, hơn bao giờ hết giáo dục kĩ năng sống cần có sự phối hợp chặt chẽ
giữa Nhà trường- Gia đình- Xã hội.
Năm học 2010-2011, khi triển khai chương trình dạy kĩ năng sống tích hợp
vào môn Ngữ văn theo tài liệu hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, tôi đã chọn một số kĩ
năng cần thiết nhất để lồng ghép vào nội dung những tiết dạy theo quy định trong
tài liệu hướng dẫn.
Ví dụ cụ thể : Khi học văn bản: Bài học đường đời đầu tiên ( Trích Dế mèn
phiêu lưu kí-Tô Hoài), đến phần Luyện tập, tôi đã ra câu hỏi tại lớp 6A:

? Hãy trình bày suy nghĩ của em về cách xử sự của các nhân vật trong đoạn
trích? Từ nội dung câu chuyện, em xác định cho mình lối sống như thế nào cho
hữu ích?
* Gợi ý: Các kĩ năng cần đạt được theo yêu cầu của đề bài trên:
-Kĩ năng tự nhận thức: Tự nhận thức và xác định cách ứng xử
+ Sống khiêm tốn.

+ Biết tôn trọng người khác.
-Kĩ năng giao tiếp:
+ Biết lắng nghe tích cực.
+ Trình bày suy nghĩ, ý tưởng, cảm nhận của bản thân về nội
dung, nghệ thuật.
+ Thảo luận nhóm, chia sẻ suy nghĩ.
+ Phản hồi ý kiến.


* Thực tế học sinh đã thực hành còn những tồn tại sau:
-

Chưa mạnh dạn thể hiện kĩ năng của bản thân.

-

Ngại nói, ngại bộc lộ chia sẻ.

-

Kĩ năng phản hồi ý kiến còn hạn chế.

* Kết quả thu được như sau:
Số bài KT

Có hình thành kĩ

Kĩ năng tốt

Kĩ năng chưa tốt


năng
Số lượng
43

5

Tỉ lệ
11,6%

Số lượng
17

Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

39,5%

21

48,9%

II. NHỮNG BIỆN PHÁP TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP KHOA HỌC
ĐÃ TIẾN HÀNH

1.Nắm vững nội dung giáo dục kĩ năng sống
*Thứ nhất: muốn dạy kĩ năng sống cho học sinh, trước hết giáo viên phải

nắm vững một số khái niệm liên quan:
- Kĩ năng sống: Là những kĩ năng tâm lí- xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn
tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trong cuộc sống có
nhiều thách thức nhưng cũng có nhiều cơ hội trong thực tại… Kĩ năng sống đơn
giản là tất cả những điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích
ứng với những thay đổi diễn ra trong cuộc sống.
- Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phải đảm bảo các yếu tố: Giúp HS ý
thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội, giúp HS hiểu biết về thể


chất, tinh thần của bản thân mình, có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu
biết và chấp hành pháp luật…Tuy nhiên, giáo dục kĩ năng sống đẻ đạt hiệu quả đòi
hỏi nhiều yếu tố chưa không chỉ từ bài giảng.
-Kĩ năng sống là cái có sau những trải nghiệm thực tế nên việc lồng ghép
này sẽ không dừng lại ở mức giảng dạy lí thuyết mà sẽ cụ thể hóa thành từng
trường hợp, hoàn cảnh và yêu cầu học sinh xử lí.
-Trong chương trình dạy kĩ năng sống, không có khái niệm vâng lời, chỉ có
khái niệm lắng nghe, đồng cảm, chia sẻ. Mục tiêu của giáo dục kĩ năng sống là
rèn luyện cách tư duy tích cực, hình thành thói quen tốt thông qua các hoạt động và
bài tập trải nghiệm. Giúp học sinh hiểu công dân toàn cầu là người biết suy nghĩ
bằng cái đầu của mình, biết phân tích đúng sai, quyết định làm điều này điều khác
và chịu trách nhiệm về điều đã làm chứ không chỉ có biết nghe lời.
*Thứ hai: Giáo viên phải nắm vững một số kĩ năng sống được lồng ghép
trong môn Ngữ văn:
Kĩ năng tự nhận thức.

Kĩ năng ra quyết định.

Kĩ năng xác định giá trị.


Kĩ năng tự giải quyết vấn đề.

Kĩ năng thể hiện sự tự tin.

Kĩ năng kiên định.

Kĩ năng giao tiếp.

Kĩ năng giải thích.

Kĩ năng lắng nghe tích cực.

Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm.

Kĩ năng thể hiện sự cảm thông.

Kĩ năng đặt mục tiêu.

Kĩ năng hợp tác.

Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông

Kĩ năng tư duy sáng tạo.

tin.


Thứ ba: Giáo viên cần nắm vững nguyên tắc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.



-Tương tác: Khi cho học sinh hoạt động nhóm, các em cùng thảo luận về câu hỏi
chốt kiến thức hoặc bình những câu văn, ý thơ hay , nhiều kĩ năng sống được hình
thành trong quá trình tương tác với bạn cùng học và những người xung quanh( kĩ
năng thương lượng, giải quyết vấn đề…) Khi tham gia hoạt động có tính tương tác,
các em có dịp thể hiện ý tưởng của mình, xem xét ý tưởng của người
khác…
-Trải nghiệm: Qua các tình huống thực tế như các câu hỏi tình
huống, câu hỏi thảo luận nhóm, các em được trải nghiệm để từ đó hình thành
những kĩ năng sống hữu ích.
-Tiến trình: Giáo dục kĩ năng sống không chỉ hình thành trong ngày một, ngày hai
mà đòi hỏi cả một quá trình: nhận thức- hình thành thái độ-thay đổi hành vi.
-Thay đổi hành vi: Qua các bài học được lồng ghép kĩ năng sống, học sinh có dịp
thay đổi hay định hướng lại các giá trị, thái độ, hành động của mình…
Ví dụ: Sau khi học văn bản Bài học đường đời đầu tiên, các em sẽ rút ra được bài
học hữu ích cho mình từ bài học đường đời đầu tiên của Dế Mèn, sẽ không dẫm
lên vết xe đổ của Mèn (huênh hoang, tự đắc, kiêu ngạo ) mà sống vui vẻ, hòa đồng,
đoàn kết hơn, biết giúp đỡ người khác khi họ gặp khó khăn…
-Thời gian, môi trường giáo dục: Giáo dục kĩ năng sống cần thực hiện ở mọi nơi,
mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em.

2. Những công việc giáo viên cần chuẩn bị:
a. Chọn những kĩ năng sống thiết thực, phù hợp với nội dung bài học và thực tế
địa phương.
Giáo viên chọn những kĩ năng phù hợp, gần gũi, thiết thực với học sinh để các
em có khả năng thực hành kĩ năng sau khi tiếp cận.
Ví dụ 1: Trong các tiết Luyện nói ( 29, 43, 83-84, 96) , giáo viên chọn kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng thể hiện sự tự tin giúp học sinh ứng xử lịch sự, xưng hô đúng mực
trong giao tiếp, nói năng lưu loát trước tập thể.
Ví dụ 2: Trong các tiết Tiếng Việt ( Từ và cấu tạo từ Tiếng Việt-tiết 3, Từ mượntiết 6, Nghĩa của từ-tiết 10…giáo viên chọn kĩ năng ra quyết định lựa chọn cách
dùng từ theo những tình huống cụ thể, kĩ năng giao tiếp , kĩ năng đặt mục tiêu



để các em … không lạm dụng hoặc “sính chữ” khi dùng từ mượn vừa để để giữ
gìn sự trong sáng của Tiếng Việt vừa đạt được hiệu qủa giao tiếp như mong muốn.
Ví dụ 3: Khi học tiết Chương trình Ngữ văn địa phương( tiết 70-71- 139) giáo
viên chọn kĩ thuật động não để học sinh suy nghĩ, phân tích các ví dụ để rút ra
những bài học thiết thực về cách sử dụng từ địa phương, chọn kĩ năng giao tiếp,
chia sẻ, để các em tự tin tương tác chia sẻ học hỏi những kinh nghiệm cá nhân về
cách dùng từ địa phương…
b. Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo giáo án có lồng ghép kĩ năng sống
-Thể hiện rõ trong giáo án: Ghi rõ kĩ năng, phương pháp, kĩ thuật giáo dục kĩ năng
sống trong Mục tiêu cần đạt và thể hiện cụ thể trong các câu hỏi thảo luận nhóm,
trong các bài tập vận dụng hoặc bài tập củng cố.
-Thể hiện ở các phương tiện cần thiết phục vụ cho tiết dạy( Bảng phụ, tranh ảnh, tư
liệu, máy chiếu…)
c. Hướng dẫn học sinh làm quen các kĩ năng sống: Giáo viên phải chuẩn bị các
câu hỏi gợi ý, tình huống để hướng dẫn các em tự xác định, làm quen các kĩ năng
sống cần đạt.
Ví dụ 1: về cách đưa câu hỏi khi dạy các văn bản.
- Vấn đề chính được đề cập trong bài học là vấn đề gì?
-Trọng tâm bài học là ở phần nào?
-Sau khi học xong bài học em rút ra điều gì bổ ích cho mình?
-Em sẽ xử sự như thế nào? Làm gì trong cuộc sống hằng ngày nếu gặp
những trường hợp như trong bài học?

Giáo viên hướng dẫn học sinh áp dụng phương pháp, kĩ thuật động não để suy
nghĩ, thảo luận nhóm để trình bày, cặp đôi để chia sẻ- hợp tác … để tự tin bộc lộ
những suy nghĩ của mình.
Ví dụ 2: về tình huống:



Khi dạy văn bản: Bức tranh của em gái tôi (tiết 81-82) ở phần Tổng kết-Luyện tập,
giáo viên đưa tình huống: Khi bố mẹ vắng nhà, anh trai ( hoặc chị gái ) cứ hay xét
nét những việc em làm, bắt em làm hết các công việc bố mẹ giao, thế nhưng khi bố
mẹ về lại tranh công bảo rằng mình đã làm hết công việc. Nếu là người em gái đó,
em sẽ nói gì với bố mẹ? xử sự như thế nào với người anh( chị) đó?
Giáo viên hướng dẫn học sinh áp dụng phương pháp, kĩ thuật động não để suy
nghĩ, cặp đôi để chia sẻ, kĩ năng giải thích, kiên định với ý kiến của mình, kĩ năng
lắng nghe, kĩ năng thể hiện sự cảm thông.…
Gợi ý: -Em sẽ giải thích để bố mẹ hiểu .
- Đề nghị anh làm lại những công việc đó , bố mẹ nhìn chất lượng công việc
sẽ biết ai đã làm.
- Lúc vắng mặt anh, em sẽ tâm sự với mẹ về thái độ của người anh để mẹ
nhắc nhở anh rút kinh nghiệm, không tái phạm…
d. Dự đoán kĩ năng: Trong bước hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài , giáo viên yêu
cầu học sinh đọc nội dung bài học, gợi ý dự đoán các kĩ năng và yêu cầu của kĩ
năng cần đạt được sau nội dung bài học.
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài văn bản: Bức thư của thủ lĩnh da đỏtiết 125-126, giáo viên yêu cầu các em đọc kĩ nội dung văn bản, phần chú thích và
trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa, sau đó đưa một số câu hỏi:
- Văn bản đem đến cho chúng ta những giá trị thiết thực nào với cuộc sống?
Em dùng kĩ năng nào để xác định được giá trị đó?
Sau khi học sinh suy nghĩ, giáo viên gọi 1-2 em trả lời. Khi học sinh trả lời cũng là
lúc các em rèn kĩ năng giao tiếp, tự tin, lắng nghe…
Định hướng: Kĩ năng giao tiếp để trao đổi, trình bày suy nghĩ, ý tưởng, cảm nhận
của bản thân về những giá trị của bức thư.Kĩ năng tự nhận thức về giá trị của lối
sống tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên, môi trường sống. Kĩ năng làm chủ bản thân,
nâng cao ý thức giữ gìn và bảo vệ môi trường.

3. Tổ chức cho học sinh thực hành kĩ năng sống vừa được học.



Tùy theo nội dung từng bài học, giáo viên tổ chức cho các em hoạt động
ngay tại lớp với các tình huống tương tự bài học để học sinh tìm ra hướng giải
quyết vấn đề, sau đó học sinh tự nêu ra kĩ năng mà các em đã ứng dụng để giải
quyết vấn đề đó.
Ví dụ : Khi dạy văn bản Ếch ngồi đáy giếng, ở phần Luyện tập tôi ra tình huống:
Trong lớp em có một bạn học thì không giỏi nhưng kiêu căng, tự đắc, lúc
nào cũng ra vẻ ta đây hiểu biết hết mọi thứ trên đời, không cần biết đến ai và bạn
còn tự đặt cho mình một cái tên rất “VÍP”. Nhiều bạn trong lớp không ưa tính tình
ấy của bạn và không thích chơi cùng với bạn ấy ,lại còn nói bóng gió bạn là “Ếch”.
Em có tán thành với thái độ của các bạn trong lớp như vậy không? Cách xử sự của
em sẽ như thế nào ?
Ở tình huống này, học sinh cần vận dụng kĩ năng cảm thông, giải thích, chia
sẻ, giao tiếp để bạn có tính kiêu căng đó tự nhận ra giá trị của bản thân, biết cách
ứng xử khiêm tốn, học hỏi. Còn các bạn trong lớp hiểu ra vấn đề sẽ không có thái
độ kì thị, định kiến mà phải sống đoàn kết, hòa đồng. Từ đó, các em hiểu sâu sắc
hơn ý nghĩa , bài học từ những câu chuyện ngụ ngôn để sống tốt đẹp hơn.

4.Thực hiện đúng quy trình lên lớp với các tiết có nội dung lồng ghép
giáo dục kĩ năng sống.
Bước 1: Khám phá.
Mục đích: Kích thích học sinh tự tìm hiểu xem các em đã biết gì về những
khái niệm, kĩ năng, kiến thức…sẽ được học. Giáo viên đánh giá , xác định được
thực trạng( kiến thức, kĩ năng…) của học sinh trước khi giới thiệu vấn đề.
Phương pháp: Giáo viên đặt câu hỏi nhằm gợi lại những hiểu biết đã có
nhằm giúp học sinh xử lí, phân tích các hiểu biết hoặc trải nghiệm.
Giáo viên đóng vai trò khởi động, nêu vấn đề; học sinh chia sẻ, trao đổi,
phản hồi, xử lí thông tin…
Bước 2: Kết nối



Mục đích: giới thiệu thông tin, kiến thức và kĩ năng mới thông qua việc tạo
cầu nối liên kết cái đã biết và cái chưa biết. Cầu nối này sẽ kết nối kinh nghiệm
hiện có của học sinh với bài học mới.
Phương pháp: Giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn, học sinh phản hồi,
trình bày quan điểm, ý kiến, trả lời. Có thể chia nhóm để học sinh thảo luận hoặc
đóng vai…
Bước 3: Thực hành, luyện tập:
Mục đích: Tạo cơ hội cho học sinh thực hành vận dụng kiến thức và kĩ năng
vào một bối cảnh, hoàn cảnh, điều kiện có ý nghĩa, định hướng để các em trả lời
đúng , điều chỉnh những hiểu biết hoặc kĩ năng cong sai lệch
Phương pháp: Giáo viên thiết kế, chuẩn bị hoạt động mà theo đó yêu cầu học
sinh phải sử dụng kiến thức, kĩ năng mới, Học sinh làm việc theo nhóm hoặc hoạt
động độc lập. Ở bước này , giáo viên giám sát tất cả mọi hoạt động và đều chỉnh
khi cần thiết, khuyến khích học sinh thể hiện những điều các em suy nghĩ hoặc mới
lĩnh hội được, tuyệt đối không áp đặt học sinh..
Bước 4: Vận dụng
Mục đích: Tạo cơ hội cho học sinh tích hợp mở rộng và vận dụng kiến thức,
kĩ năng có được vào các tình huống mới.
Phương pháp: Giáo viên lập kế hoạch hoạt động( các câu hỏi, bài tập, tình
huống) học sinh làm việc theo nhóm hoặc độc lập và trình bày kết quả vận dụng.
Cuối cùng, giáo viên đánh giá kết quả học tập của các em .
Các bước trên được áp dụng lồng ghép vào các bước lên lớp trong một tiết
dạy như sau:
-Ổn định tổ chức.
-Kiểm tra bài cũ.
-Bài mới.
+ Giới thiệu bài, viết tên bài học lên bảng( Khám phá)



+Tìm hiểu bài ( Kết nối)
+ Luyện tập: ( Thực hành, vận dụng)
-Củng cố, hướng dẫn về nhà.(vận dụng)
Ví dụ cụ thể: Trong phạm vi đề tài, tôi xin chọn bài dạy
Tiết 23: CHỮA LỖI

DÙNG TỪ

A. Mục tiêu bài học:
*Kiến thức: Xác định được các lỗi khi dùng từ : lặp từ và lẫn lộn từ gần âm
*Kĩ năng: Tránh dược lỗi lặp từ và lẫn lộn từ gần âm trong giao tiếp.
* Thái độ: Có ý thức lựa chọn từ thích hợp để nói, viết rõ ràng, rành mạch.
Đề xuất các cách sửa lỗi dùng từ tiếng Việt.
*Các kĩ năng sống được hình thành:
-Ra quyết định: nhận ra và lựa chọn cách sửa lỗi dùng từ thường gặp .
-Giao tiếp: trình bày suy nghĩ, ý tưởng, thảo luận và chia sẻ kinh nghiệm cá
nhân về cách sử dụng từ.
* Các phương pháp và kĩ thuật dạy học được sử dụng:
-Thực hành có hướng dẫn: phát hiện lỗi và cách sửa lỗi dùng từ tiếng Việt
thường gặp.
-Động não: suy nghĩ, phân tích các ví dụ để rút ra những bài học thiết thực
về cách dùng từ tiếng Việt.
-Lập bản đồ tư duy về các lỗi dùng từ thường gặp và cách chữa.
B. Chuẩn bị:
GV: Phương tiện cần có: Bảng phụ ghi bài tập , máy chiếu.
C. Tiến trình lên lớp:
Kiểm tra bài cũ:
Bài mới:



1. KHÁM PHÁ
a.Giới thiệu bài: Giáo viên nêu các câu hỏi:
-Khi nói hoặc viết, đã bao giờ em mắc lỗi dùng từ chưa? Em hay mắc lỗi
dùng từ nào nhất?
-Nếu bạn trong lớp hay mắc lỗi dùng từ khi giao tiếp, em sẽ xử sự như thế
nào?
b. Tìm hiểu bài. Cho học sinh đọc các bài tập trong sách giáo khoa có các trường
hợp mắc lỗi dùng từ( GV bật máy chiếu hoặc bảng phụ) .
Giáo viên sử dụng kĩ thuật động não theo nhóm để học sinh thực hiện theo
yêu cầu:
-Hãy xác định từ lặp trong câu: Truyện dân gian thường có nhiều chi tiết
tưởng tượng kì ảo nên em rất thích đọc truyện dân gian.
- Nêu những hạn chế về diễn đạt do lỗi đó gây ra?
Học sinh cần nêu được:
-Từ lặp: Truyện dân gian.
-Từ lặp đó đem tới một số hạn chế về diễn đạt cho câu trên:
+ Gây trùng lập, tạo cảm giác nhàm chán.
+ Câu văn dài dòng hơn nhưng nội dung thông báo không có gì thay đổi.
2. KẾT NỐI:
Hoạt động 1: Chữa lỗi lặp từ.
Nhiệm vụ: Học sinh nêu ra các phương án chữa lỗi
Cách 1: yêu cầu học sinh nêu phương án chữa lỗi và lớp lựa một phương án tốt
nhất làm kết quả chung.
Cách 2: Gv trình chiếu trên máy chiếu kết quả chữa lỗi:


Em rất thích đọc truyện dân gian vì nó có nhiều chi tiết tưởng tượng, kì ảo.
Học sinh nhận xét kết quả chữa lỗi bằng kĩ năng thảo luận theo cặp sau đó đề xuất
phương án chữa lỗi của mình.
Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh nêu phương án chữa mới, dùng kĩ thuật tranh

luận để tổ chức cho học sinh bảo vệ phương án của nhóm mình, đánh giá sự thay
đổi của câu đã chữa:
-Truyện dân gian thường có nhiều chi tiết tưởng tượng kì ảo nên em rất thích
đọc( phương án tốt nhất)
- Truyện dân gian thường có nhiều chi tiết tưởng tượng kì ảo nên em rất thích đọc
loại truyện này.
- Truyện dân gian thường có nhiều chi tiết tưởng tượng kì ảo nên em rất thích đọc
thể loại này.
Nhiệm vụ 2: So sánh sự lặp từ trong ví dụ a-b sách giáo khoa.
-Nhận xét về tác dụng của sự lặp từ trong đoạn văn: “Gậy tre, chông tre chống lại
sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước,
giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre anh
hùng lao động!Tre anh hùng chiến đấu!” (1)
Giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện :
-Xác định số lần lặp lại các từ tre, giữ, anh hùng.?
-Thay thế từ tre bằng từ khác hoặc bớt đi các từ tre: “ Gậy, chông tre có tác dụng:
chống lại sắt thép của quân thù; xung phong vào xe tăng, đại bác; giữ làng, giữ
nước, giữ mái nhà tranh; hi sinh để bảo vệ con người… (2)
-So sánh khả năng biểu cảm, hấp dẫn giữa hai đoạn văn (1) và (2)?
Sau khi học sinh định hướng vẻ đẹp của đoạn văn (1), học sinh dũng kĩ năng phân
tích, tranh luận, trao đổi cặp để lí giải được sự cuốn hút của đoạn văn: Đoạn văn
(1) hấp dẫn hơn, có sức biểu cảm hơn nhờ phép lặp từ, nó có sự diễn đạt mạch lạc,
chặt chẽ nhưng lại rất uyển chuyển, mềm mại.


Giáo viên nêu nhận định khái quát: Trong một số trường hợp, việc lặp lại từ ngữ là
việc làm có ý thức của người nói, người viết nhằm tăng cường hiệu quả diễn đạt
trong giao tiếp.
Giáo viên tiếp tục nêu câu hỏi để học sinh suy nghĩ với hình thức trao đổi cặp đôi,
chia sẻ, tranh luận:Theo em, lỗi lặp từ và phép lặp từ trong giao tiếp khác

nhau như thế nào?
Định hướng:
Lỗi lặp từ
Ý thức
sử dụng

Phép lặp

Là sự thiếu cân nhắc, không Là sự lựa chọn tinh tế, có chủ đích
chủ đích

Tác động

Nhàm chán, nặng nề

Lôi cuốn, uyển chuyển

Hiệu quả

Dài dòng nhưng nghèo thông Chặt chẽ, giàu sức gợi tả gợi cảm.
tin, không biểu cảm.

Hoạt động 2: Chữa lỗi lẫn lộn từ gần âm.
Để thực hiện hoạt động, giáo viên dụng kĩ thuật hỏi và trả lời, suy nghĩ- thảo luận
theo cặp đôi- chia sẻ.( Hai HS trao đổi theo bàn- gọi 1-2 cặp trình bày trước lớp)
-Giáo viên cho học sinh đọc bài tập (SGK) hướng dẫn học sinh tra từ điển Tiếng
Việt để hiểu nghĩa các từ: thăm quan, nhấp nháy, linh động, bàng quang, thủ tục.
Từ đó hiểu được các từ này có nghĩa không phù hợp văn cảnh.
Ví dụ: Ông già ấy cứ nhấp nháy bộ ria.( nhấp nháy: trạng thái lúc sáng lúc tắtnghĩa không phù hợp văn cảnh)



-Hãy tìm từ khác có nghĩa thích hợp với các văn cảnh trên để hoàn thiện nội dung
thông báo của từng câu?( các từ thay thế: Tham quan, mấp máy, sinh động, bàng
quan, hủ tục. )
Ví dụ: Ông già ấy cứ mấp máy bộ ria( Mấp máy: Hoạt động nâng lên, hạ xuống)
-Các từ vừa tìm về mặt ngữ âm có gì giống các từ đã cho?( Gần giống về ngữ
âm- lẫn lộn từ gần âm)
-Nguyên nhân lẫn lộn từ gần âm? Cách sửa? ( Không nhớ hình thức ngữ âm của
từ- muốn không mắc lỗi cần phải nhớ rõ hình thức ngữ âm, đúng nghĩa đúng văn
cảnh)
3. LUYỆN TẬP
Học sinh giải các bài tập trong sách giáo khoa vào vở bài tập Ngữ văn.
Phần này giáo viên lưu ý học sinh khi dùng từ tránh lỗi lặp từ, nó không chỉ làm
cho sự diễn đạt thưà thông tin mà còn dẫn đến sự thiếu mạch lạc, tạo cảm giác
nhàm chán. Vậy trong giao tiếp,chúng ta rất cần đến sự diễn đạt chặt chẽ, mạch lạc,
đảm bảo sự trong sáng của Tiếng Việt.
4.VẬN DỤNG (củng cố- hướng dẫn về nhà)
-Chép lại một đoạn thơ/ văn có sử dụng phép lặp. (VD một số đoạn trong văn bản
Tre Việt Nam, Lượm…)
-Nêu một số từ dễ bị lẫn lộn các từ gần âm khác?(VD mong manh- phong thanh…)
-Tiếp tục chữa lỗi dùng từ ở tiết 27( học sinh đọc bài tập trong SGK, tập trả lời
các câu hỏi. Dùng bản đồ tư duy để khái quát kĩ năng chữa lỗi dùng từ.)
Sau tiết học này, đa số học sinh đạt được một số kĩ năng như đã nêu trong
yêu cầu. Song bên cạnh đó có một số học sinh chưa đồng đều về kĩ năng hoặc chưa
kiên định với ý kiến của mình khi nhóm bạn phản hồi ý kiến.

III. Hiệu quả của các biện pháp đã thực hiện:
Qua việc tiến hành soạn giảng, kết hợp các biện pháp đề xuất thực
tế, kết quả giảng dạy giáo dục kĩ năng sống cho đối tượng học sinh khối 6



trong năm học 2010-2011 và tiếp tục thực hiện trong năm học 2011-2012, cho đến
thời điểm này tơi thấy kết quả tương đối khả quan:
Về phía giáo viên: chủ động nắm vững các cơng cụ giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh, linh hoạt hơn khi đặt ra những câu hỏi và dẫn dắt các em thảo luận nhóm để
tìm ra hướng giải quyết tích cực; đưa ra các tình huống để các em sắm vai và khám
phá ra những cách giải quyết vấn đề; tổ chức những trò chơi để thơng qua trò chơi các
em sẽ được rèn luyện những kỹ năng cần thiết cho mình; có thêm vốn sống để đồng
hành và định hướng cho các em, giúp các em xây dựng được năng lực tâm lý xã hội
để từ đó các em có thể giải quyết hiệu quả những vấn đề của mình.
Về phía học sinh: Là học sinh đầu cấp, các em bước đầu đã nhận thức được
các kĩ năng sống, hiểu được mục đích của giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường,
từ đó chủ động hơn, biết mình là ai, mình muốn gì, có mục đích gì trong cuộc
sống, biết dung hòa giữa cái tơi và ta, có những chọn lựa và quyết định kịp thời .
Học sinh còn được rèn các kỹ năng như: ý thức về bản thân, thơng cảm với người
khác, suy nghĩ sáng tạo và có phán đốn, giải quyết vấn đề và giao tiếp có hiệu
quả hơn ...
Cụ thể:
- Các em không còn rụt rè, e ngại, thiếu tự tin khi đứng trước
đám đông mà thay vào đó là sự tự tin, thái độ cởi mở hơn.
- Không khí lớp học có sự hào hứng, sôi nổi, các em thích được
học bộc lộ những điều mình suy nghĩ để chia sẻ cùng các bạn.
- Cái được lớn nhất trong giờ Ngữ văn có tích hợp giáo dục kĩ năng sống là
các em khơng chỉ được củng cố về kiến thức về văn học, dùng từ tiếng Việt mà
còn nâng cao kĩ năng tự nhận thức về giá trị của lối sống đẹp, hữu ích, kĩ năng làm
chủ bản thân , kĩ năng giao tiếp, kĩ năng động não phân tích tình huống, kĩ năng
thực hành, trình bày trước tập thể…
Đáng mừng hơn, năm học 2011-2012, trường THCS Hương Ngải được
đón đồn đánh giá ngồi của Sở GD&ĐT về kiểm định chất lượng giáo dục( Tháng
3- 2012) khi được phỏng vấn đa số học sinh đã tự tin khi trả lời các câu hỏi của

thành viên đồn kiểm định, các em đã mạnh dạn để trình bày, phát biểu ý kiến
của mình. Đó cũng là một trong những thành tích để góp phần làm nên kết quả
kiểm định chất lượng của nhà trường : Đạt cấp độ 3 .


Kết quả cụ thể sau khi nghiên cứu đề tài:
Đề tài này được thực hiện trong năm học 2010-2011 và được tiếp tục thực
hiện trong năm học 2011-2012. Xin dẫn ra số liệu cụ thể qua khảo sát ở lớp 6Bnhư
sau:
Số bài KT

HS có kĩ năng tốt

Số lượng
35

18

Tỉ lệ
51,4%

HS có hình thành
được kĩ năng

Số lượng
13

HS có kĩ năng
chưa tốt


Tỉ lệ

Số lượng

Tỉ lệ

37,2%

4

11,4%

(Ghi chú: số liệu trên được lấy từ kết quả kiểm định một thành viên đoàn đánh
giá ngoài- năm học 2011-2012 )

PHẦN III: KẾT LUẬN
NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Qua việc nghiên cứu đề tài, tôi thấy việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
là việc làm cần thiết, quan trọng, song quá trình thực hiện lại không phải dễ dàng.
Tuy vậy , bằng kinh nghiệm còn hạn chế của mình, sau khi áp dụng đề tài, tôi tự
rút ra cho mình một vài kinh nghiệm:
Giáo viên cần nắm được phương pháp đặc trưng trong công tác giáo dục kĩ
năng sống để lựa chọn kĩ năng phù hợp đối tượng học sinh từng khối lớp và địa
phương, lựa chọn kĩ thuật dạy học phù hợp kết hợp hình thức hợp lí nhằm phát huy
tính chủ động tích cực của học sinh, giúp các em phát huy cao độ trí tuệ, cảm xúc,
năng động, sáng tạo trong học tập và giao tiếp.
Cuộc sống luôn biến đổi, do vậy không thể có một giáo trình cứng nhắc về
kĩ năng sống. Một trong những yêu cầu quan trọng để thực hiện việc lồng ghép
giáo dục kĩ năng sống vào bài học trên lớp là giáo viên phải tìm ra được mối quan



hệ giữa kĩ thuật dạy học với nội dung rèn luyện kĩ năng sống. Chẳng hạn để hình
thành kĩ năng tự nhận thức( nhận thức bản thân, xây dựng kế hoạch, xác định điểm
mạnh, điểm yếu của bản thân, khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu, tư duy tích cực
và tư duy sáng tạo…) giáo viên cần sáng tạo nhiều câu hỏi, tình huống trong bài
học để học sinh qua đó hình thành các kĩ năng sống. Để làm tốt nhiệm vụ này, đòi
hỏi ở giáo viên một tinh thần trách nhiệm và khả năng sáng tạo cao.
Giáo dục kĩ năng sống chỉ thật sự có hiệu quả khi người thầy có lòng yêu
nghề, có tâm huyết , sự kiên nhẫn và nhất là phải đầu tư thời gian soạn giáo án, có
phương pháp hợp lí, sinh động dạy vừa đủ, vừa thấm, không dư, không thiếu.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phải đảm bảo các yếu tố: Giúp học ích ý
thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội, giúp các em hiểu biết về
thể chất, tinh thần của bản thân mình, có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa…
Tuy nhiên, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh để đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố
chứ không phải chỉ từ các bài giảng. Nhân tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục kĩ
năng sống trong nhà trường chính là thầy cô giáo, ngoài cộng đồng chính là các
bậc phụ huynh, người thân trong gia đình, thôn xóm và các tập thể xã hội khác.
KIẾN NGHỊ:
Để nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh , tôi xin kiến
nghị :
Với Phòng GD&ĐT : tổ chức chuyên đề , hội thảo về tiết dạy có lồng ghép,
tích hợp kĩ năng sống cho học sinh để giáo viên các trường có tiếng nói chung về
phương pháp và có điều kiện giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của nhau.
Với Nhà trường: Nhà trường kiểm tra sát sao hơn giáo án bộ môn có lồng
ghép kĩ năng sống, Liên Đội tổ chức thêm giờ hoạt động ngoại khóa để các em
được rèn luyện thêm các kĩ năng sống.
Với phụ huynh : Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình ,đầu tư
nhiều về thời gian cho con cái học tập . Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc
sách;chia sẻ, tư vấn, định, bồi dưỡng tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi
trong việc bộc lộ và phát triển cảm xúc, tình cảm trong giao tiếp.

LỜI KẾT:


Có thể nói, học sinh chính là chủ nhân tương lai của đất nước, là những
người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước. Khi có kĩ năng sống, các em
sẽ ln vững vàng trước thử thách, biết ứng xử, giải quyết vấn đề một cách tích
cực và phù hợp, làm chủ được chính mình. Ngược lại nếu thiếu kĩ năng sống , các
em sẽ thường bị vấp váp, dễ thất bại, chậm trễ trong khâu tự quyết định nên hay lỡ
mất cơ hội…Do vậy giáo dục thế hệ trẻ khơng chỉ chú trọng “dạy chữ” mà còn
phải quan tâm đúng mức đến nhiệm vụ “dạy người”. Con người khơng chỉ có tri
thức mà còn phải biết sống đúng, sống đẹp, sống có ích.
Trong phạm vi cấp học phổ thơng , việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh bước đầu hình thành và phát triển cho các em khả năng ứng xử phù hợp,
phát huy tính tích cực, tự giác, tự chủ, tư duy, sáng tạo, có ý thức vươn lên trong
học tập. Đó chính là chìa khoá để các em thành công trong cuộc sống
sau này.
Trên đây là kinh nghiệm tơi đã áp dụng thực hiện trong hai năm học qua. Có
lẽ những kinh nghiệm trên khơng tránh khỏi những hạn chế nên tơi vẫn chưa hết
trăn trở để tiếp tục tìm hiểu nghiên cứu , học hỏi kinh nghiệm ở các đồng nghiệp
với mong muốn có thêm những phương pháp dạy học có hiệu quả hơn. Rất mong
nhận được những ý kiến góp ý và sự chỉ đạo của Hội đồng khoa học các cấp .
Xin chân thành cảm ơn !



×