Tải bản đầy đủ (.doc) (147 trang)

Luận văn đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.86 KB, 147 trang )

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc xác
định đúng đối tợng chứng minh và chứng minh đầy đủ nó
không những đảm bảo cho việc giải quyết vụ án đợc đúng
đắn mà còn rút ngắn đợc thời gian, giảm chi phí, góp phần
nâng cao hiệu quả của việc đấu tranh phòng chống tội
phạm. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy do không xác định đối tợng chứng minh của từng vụ án một cách chính xác nên dẫn
đến việc Toà án hoặc Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Cơ
quan điều tra để điều tra bổ sung, điều tra lại hoặc dẫn
đến việc giải quyết vụ án sai sót, không phù hợp với quy định
của pháp luật, làm oan ngời vô tội, bỏ lọt tội phạm. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nh: quy định của
pháp luật TTHS về đối tợng chứng minh còn có những điểm
bất cập, trình độ nhận thức cha cao, ý thức chấp hành pháp
luật cha nghiêm của ngời tiến THTT nên việc nghiên cứu
một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về
đối tợng chứng minh trong TTHS, đánh giá thực trạng quy
định của luật TTHS Việt Nam về đối tợng chứng minh và
thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự Việt Nam
liên quan đến đối tợng chứng minh để từ đó đề ra giải
pháp hoàn thiện về mặt lập pháp và giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng nó trong giải quyết vụ án hình sự là vấn
đề có ý nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết, góp phần
nâng cao chất lợng giải quyết vụ án hình sự. Đây cũng là lý

1


do tác giả chọn đề tài i tng chng minh trong t tng hỡnh


s cho luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Về Đối tợng chứng minh trong TTHS trong một số giáo
trình luật TTHS của một số trờng đại học cũng nh một số
khoá luận cử nhân luật đề cập đến dới góc độ là một vấn
đề của quá trình chứng minh, hoặc do yêu cầu, mục đích
của việc nghiên cứu không tập trung chính vào đối tợng
chứng minh hay việc đề cập đến đối tợng chứng minh mới
chỉ dừng ở việc phục vụ cho học tập cơ bản để hiểu về vấn
đề nên việc nghiên cứu mới dừng lại ở mức độ nhất định,
mang tính khái quát sơ bộ về vấn đề. Chẳng hặn nh: trong
Giáo trình luật TTHS Việt Nam của Trờng Đại học Luật Hà Nội
năm 2000, ở Chơng III - Chứng cứ có đề cập đến: khái niệm
đối tợng chứng minh và phân loại đối tợng chứng minh. Trong
khoá luận tốt nghiệp Cử nhân luật học về đề tài: Chứng
minh trong tố tụng hình sự Việt Namcủa tác giả Phạm Thế
Lực - K41B -

Khoa Luật - Đại học QGHN, có đề cập đến:

những vấn đề cần phải chứng minh trong TTHS Việt Nam.
Trong khoá luận tốt nghiệp cử nhân Luật học về đề tài: Đối
tợng chứng minh và phơng tiện chứng minh trong vụ án giết
ngờicủa tác giả Nguyễn Văn Hoan - K41C - Khoa luật - ĐHQG
Hà Nội, có đề cập đến: đối tợng chứng minh trong vụ án
hình sự - trong đó gồm các vấn đề: khái niệm, nội dung và
phân loại đối tợng chứng minh - Nhng việc nghiên cứu cha
thật sâu sắc và toàn diện. Trong luận án Tiến sỹ Luật học
về đề tài Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong
điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay của tác giả Đỗ


2


Văn Đơng - bảo vệ năm 2000, có đề cập đến: đối tợng
chứng minh - nhng đây không phải là đối tợng nghiên cứu
chính của luận án, nên tác giả cũng chỉ giải quyết vấn đề
một cách khái quát chung và làm rõ mối quan hệ của nó với
các vấn đề khác trong luận án để từ đó nhằm phục vụ cho
việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề chính của luận án
Nh vậy, có thể nói rằng cha có công trình nào nghiên cứu
một cách toàn diện và sâu sắc về đối tợng chứng minh
trong TTHS với quy mô là một đề tài độc lập, chuyên biệt về
vấn đề. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về đối tợng chứng
minh trong TTHS là cần thiết.
3. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tợng và
phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích, yêu cầu: Làm rõ một cách cơ bản và
toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về đối tợng
chứng minh trong tố tụng hình sự.
Phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật
TTHS nớc ta về đối tợng chứng minh có so sánh với quy định
của luật TTHS một số nớc trên thế giới về vấn đề này, đánh
giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở Việt
Nam liên quan đến đối tợng chứng minh, tìm ra những
điểm còn tồn tại, bất cập từ đó bớc đầu đề xuất một số giải
pháp góp phần hoàn thiện về mặt lập pháp có liên quan
đến đối tợng chứng minh và nâng cao hiệu quả áp dụng nó
trong thực tiễn, từ đó góp phần nâng cao chất lợng giải
quyết vụ án hình sự.


3


- Nhiệm vụ: Để đạt đợc mục đích trên, trong quá
trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về đối tợng chứng minh trong TTHS;
Nghiên cứu và so sánh những quy định của luật
TTHS Việt Nam và luật TTHS của một số nớc trên thế
giới về đối tợng chứng minh;
Đánh giá thực tiễn hoạt động của các cơ quan
THTT hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối tợng
chứng minh;
Đa ra những giải pháp hoàn thiện quy định của
luật TTHS Việt Nam về đối tợng chứng minh và
giải pháp nâng cao hiệu quả thực tiễn áp dụng
những quy định đó của các cơ quan THTT hình
sự ở Việt Nam.
- Đối tợng: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận
chung về đối tợng chứng minh trong TTHS. Nghiên cứu, so
sánh những quy định của luật TTHS Việt Nam và luật TTHS
một số nớc trên thế giới về đối tợng chứng minh. Đánh giá thực
trạng hoạt động của các cơ quan THTT hình sự ở Việt Nam
liên quan đến đối tợng chứng minh.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu về đối tợng chứng minh
trong TTHS một cách tổng thể trong phạm vi chung của tất
cả các giai đoạn tố tụng: điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự ở Việt Nam từ năm 1998 đến nay, chủ yếu tập trung
trong phạm vi khoa học và thực tiễn luật TTHS. Ngoài ra ở
chừng mực nhất định có liên quan đến khoa học luật hình

sự, tội phạm học và khoa học điều tra hình sự. Nghiên cứu

4


quy định của BLTTHS Việt Nam, BLTTHS Liên bang Nga,
BLTTHS Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, BLTTHS Cộng hoà
Pháp về đối tợng chứng minh. Đánh giá thực trạng hoạt động
của các Cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan đến đối
tợng chứng minh trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phơng pháp nghiên
cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lê Nin, quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta về
đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và về giải quyết
vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa học:
triết học, luật hình sự, luật TTHS, lôgic học, tội phạm học,
điều tra hình sự và các học thuyết chính trị pháp lý.
- Cơ sở sự thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên
cứu luật TTHS thực định và hoạt động chứng minh, giải
quyết vụ án hình sự của các cơ quan THTT cũng nh các văn
bản của 3 ngành Công an, Kiểm sát, Toà án hớng dẫn về hoạt
động, điều tra, xử lý vụ án hình sự.
- Phơng pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phơng pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Kết hợp với một số phơng pháp nghiên cứu cụ thể
nh phơng pháp: hệ thống, lôgic, phân tích, tổng hợp, so
sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh
nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề phải chứng
minh trong tố tụng hình sự, từ đó làm sáng tỏ nội dung của

luận văn.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn

5


- Bổ sung và hoàn thiện thêm những vấn đề lý luận
chung về đối tợng chứng minh trong TTHS.
- Phát hiện những điểm còn bất cập trong luật TTHS
Việt Nam về đối tợng chứng minh. Những thiếu sót, hạn chế
trong hoạt động của các cơ quan THTT hình sự Việt Nam
liên quan đến đối tợng chứng minh, tìm ra những nguyên
nhân của những thiếu sót, hạn chế đó. Đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện những quy định của luật TTHS Việt Nam
về đối tợng chứng minh và nâng cao hiệu quả áp dụng
những quy định của luật TTHS về đối tợng chứng minh.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn.
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu
của Luận văn có thể đợc khai thác sử dụng trong công tác
nghiên cứu lý luận của các cơ quan THTT hình sự và có thể
làm tài liệu tham khảo trong xây dựng, sửa đổi BLTTHS và
một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến đối tợng
chứng minh để hoàn thiện hơn.
- Về mặt thực tiễn: Các cơ quan THTT có thể khai
thác vận dụng những kết quả nghiên cứu của Luận văn để
nâng cao chất lợng, hiệu quả hoạt động của mình trong
quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự.
7.Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục
tài liệu còn tham khảo, Luận văn gồm 3 chơng với 8 mục.


6


Chơng 1
Một số vấn đề lý luận chung về đối t ợng chứng
minh trong tố tụng hình sự

1.1- Chứng minh trong tố tụng hình sự

Chứng minh là một hoạt động nhận thức chân lý của
con ngời. Hoạt động chứng minh của con ngời đợc tiến hành
trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong mỗi lĩnh vực
khác nhau, thì hoạt động chứng minh có những nét khác
nhau. Tuy nhiên, hoạt động chứng minh có đặc điểm chung
là việc chủ thể sử dụng những phơng tiện để làm sáng tỏ
sự thật khách quan, khẳng định tính đúng đắn của một
vấn đề nào đó để tìm ra chân lý.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự trải qua nhiều giai
đoạn nh: giai đoạn khởi tố; giai đoạn điều tra và truy tố; giai
đoạn xét xửở mỗi giai đoạn có nhiệm vụ và định hớng
khác nhau nhng đều hớng tới mục đích giải quyết vụ án
khách quan, toàn diện đúng quy định của pháp luật và do
các cơ quan THTT thực hiện. Quá trình này đợc bắt đầu từ
việc cơ quan có thẩm quyền nhận đợc tin báo, tố giác về các
sự kiện phạm tội (hoặc sự kiện có dấu hiệu của tội phạm) đã
xảy ra trong đời sống xã hội, chính vì vậy, để giải quyết vụ
án hình sự thì vấn đề mang tính tất yếu và đợc pháp luật
TTHS quy định là: các cơ quan THTT phải tiến hành chứng
minh để làm rõ và khôi phục lại toàn bộ sự thật khách quan

của vụ án và làm sáng tỏ những vấn đề khác có liên quan
đến vụ án.
Quá trình chứng minh khôi phục lại sự thật khách quan
của vụ án chính là quá trình nhận thức chân lý khách quan

7


về vụ án. Cơ sở lý luận của hoạt động nhận thức này chính
là lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin. Lý luận nhận
thức Mác - Lênin khẳng định rằng: nhận thức là sự phản ánh
biện chứng tích cực, sự phản ánh đó là một quá trình vận
động và phát triển không ngừng từ không biết đến biết, từ
biết ít đến biết nhiều, từ hiện tợng đến bản chất, từ thấp
đến cao, từ nông đến sâu để nắm đợc bản chất quy luật
của sự việc và hiện tợng. Trong thế giới khách quan, không có
cái gì là con ngời không thể nhận thức đợc, mà chỉ có
những cái con ngời cha nhận thức đợc nhng dần dần cũng sẽ
nhận thức đợc.
Nh vậy, theo nguyên lý của lý luận nhận thức thì không
có sự vật, hiện tợng gì mà con ngời không nhận thức đợc, vì
thế không thể có tội phạm không bị phát hiện, chỉ có điều
chúng ta có vận dụng một cách khách quan quy luật nhận
thức trong quá trình chứng minh làm rõ vụ án hay không.
Trong thực tế tuy rằng không phải mọi tội phạm đều đợc phát
hiện khám phá, nhng điều đó không có ý nghĩa rằng vể
bản chất của con đờng nhận thức sự thật khách quan của vụ
án là có giới hạn mà ở đây chỉ là do sự hạn chế về khả năng
nhận thức của từng cá nhân và sự khó khăn về điều kiện
nhận thức trong từng trờng hợp cụ thể đó.

Nhng quá trình nhận thức sự thật khách quan của vụ án
hình sự không phải là quá trình nhận thức trực tiếp mà là quá
trình nhận thức gián tiếp về vụ án. Bởi vì, khi đó sự việc
phạm tội không phải là đang xảy ra một cách hiện hữu để
chúng ta nhận thức, mà trên thực tế sự việc phạm tội đã xảy ra,
vì vậy các cơ quan THTT phải nhận thức khôi phục lại nó thông
qua việc phát hiện thu thập và đánh giá những dấu vết mà nó

8


để lại trong hiện thực khách quan.
Theo nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì:
thế giới thống nhất ở tính vật chất, thế giới vật chất luôn vận
động và phát triển, mọi sự vật hiện tợng trong thế giới luôn
có mối liên hệ, tác động với nhau, ràng buộc lẫn nhau, quy
định và chuyển hoá lẫn nhau. Phép biện chứng cũng chỉ ra
rằng phản ánh là thuộc tính của chung của mọi đối tợng vật
chất, V. I -Lênin viết: Hết thảy mọi vật chất đều có một
đặc tính về bản chất gần giống nh cảm giác, đặc tính
phản ánh[8, tr 104]. Bởi vậy về nguyên tắc, hoạt động của con
ngời nói chung và hành vi phạm tội nói riêng bao giờ cũng để
lại dấu vết trong thế giới khách quan. Những dấu vết của
hành vi phạm tội có thể đợc thể hiện dới dạng vật chất hoặc
đợc phản ánh ghi nhận trong trí nhớ của con ngời. Vì vậy,
thông qua việc thu thập những dấu vết này một cách có hệ
thống trong quá trình THTT sẽ đa đến sự nhận thức đúng
đắn bản chất của vụ án, dựng lại đợc toàn bộ diễn biến của
sự việc phạm tội. Quá trình thu thập những dấu vết của tội
phạm và những thông tin có liên quan đến vụ án (thu thập

chứng cứ) để nhận thức khôi phục lại sự thật khách quan của
vụ án - chính là quá trình chứng minh trong TTHS.
Hoạt động chứng minh trong TTHS do những chủ thể
nhất định tiến hành bằng việc phát hiện, thu thập chứng cứ
từ các nguồn khác nhau và sử dụng chứng cứ từ những nguồn
này làm phơng tiện chứng minh làm rõ các vấn đề cần phải
chứng minh trong vụ án. Những vấn đề về chủ thể chứng
minh, chứng cứ, các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án
hình sự, cũng nh trình tự thủ tục trong quá trình chứng
minh đều đợc pháp luật quy định. Tuy nhiên, trong lịch sử

9


hoạt động t pháp, ở những giai đoạn lịch sử nhất định tuỳ
thuộc vào trình tự tố tụng đợc tiến hành theo các kiểu khác
nhau hoặc do quan điểm, cơ sở phơng pháp luận dựa trên
cơ sở các học thuyết khác nhau nên pháp luật ở các giai
đoạn lịch sử khác nhau, ở các nớc khác nhau quy định về
chủ thể có nghĩa vụ chứng minh, chứng cứ, những vấn đề
cần phải chứng minh trong vụ án hình sự có sự khác nhau.
1.1.1. Chủ thể chứng minh trong tố tụng hình sự
Chứng minh là hoạt động nhận thức chân lý khách
quan của con ngời nên ở phơng diện chung nhất con ngời là
chủ thể của hoạt động chứng minh. Nhng hoạt động chứng
minh đợc tiến hành trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội,
mà trong từng lĩnh vực chứng minh khác nhau có một phạm
vi những cá nhân con ngời cụ thể nhất định tham gia vào
hoạt động chứng minh đó - tức là hoạt động chứng minh
trong mỗi lĩnh vực khác nhau thì có những chủ thể cụ thể

khác nhau tiến hành hoạt động chứng minh đó.
Hoạt động chứng minh trong TTHS là hoạt động có mục
đích làm sáng tỏ nội dung của vụ án và những tình tiết có
liên quan đến vụ án, nên những những ngời tham gia vào
hoạt động này là những chủ thể chứng minh trong TTHS. Tuy
nhiên tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ hoặc tuỳ thuộc vào
quyền và lợi ích v.v của các chủ thể có sự khác nhau nên
mức độ tham gia cũng nh giai đoạn tham gia vào hoạt động
chứng minh của từng chủ thể có sự khác nhau.
Thông thờng thì chủ thể chứng minh trong TTHS chủ
yếu là các cơ quan THTT và ngời THTT. Theo luật TTHS Việt
Nam thì đó là các cơ quan THTT và ngời THTT nh: Cơ quan

10


điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; Thủ trởng, Phó Thủ trởng Cơ
quan điều tra, Điều tra viên, Viện trởng, Phó viện trởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm
phánnhóm chủ thể này giữ vai trò chính trong hoạt động
chứng minh toàn bộ nội dung của vụ án và những tình tiết
có liên quan đến nội dung của vụ án và kết quả chứng minh
của họ mang tính pháp lý cao. Tuy nhiên do chức năng, nhiệm
vụ của từng chủ thể có sự khác nhau nên giai đoạn tham gia
chứng minh cũng nh phạm vi, mức độ chứng minh của họ
cũng có sự khác nhau nhất định.
Theo luật TTHS Việt Nam thì các cơ quan Bộ đội Biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lợng cảnh sát biển và các cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân
cũng đợc giao tiến hành một số hoạt động điều tra khi phát

hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu TNHS
trong lĩnh vực quản lý của mình thì Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, Lực lợng cảnh sát biển có thẩm quyền: đối
với tội phạm ít nghiêm trọng trong những trờng hợp phạm tội
quả tang, chứng cứ và lai lịch ngời phạm tội rõ ràng, thì ra
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra
vụ án và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền
trong thời hạn hai mơi ngày kể từ ngày ra quyết định khởi
tố vụ án. Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhng phức
tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt
động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều
tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày ra
quyết định khởi tố vụ án; trong Công an nhân dân, Quân
đội nhân dân, các cơ quan khác khi đợc giao tiến hành một

11


số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình
nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thì có quyền
khởi tố vụ án, tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu
và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
Nh vậy những cơ quan này cũng là chủ thể chứng minh
trong TTHS, nhng phạm vi tham gia cũng nh mức độ tham gia
chứng minh của các cơ quan này chỉ ở một giới hạn và chừng
mực nhất định mà không giống nh các cơ quan THTT.
Ngời bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng là
những chủ thể chứng minh trong TTHS. Mục đích tham gia

chứng minh của họ là để bảo vệ quyền lợi của mình nên
phạm vi tham gia và mức độ chứng minh của họ chủ yếu
nhằm chứng minh họ không có tội hoặc chứng minh các tình
tiết giảm nhẹ TNHS và giảm nhẹ mức bồi thờng thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra.
Ngời bị hại, nguyên đơn dân sự, ngời có quyền lợi liên
quan là chủ thể tham gia chứng minh để bảo vệ quyền và lợi
ích của mình. Sự tham gia của họ thờng tập trung vào
những việc họ bị tội phạm gây thiệt hại, mức độ thiệt hại
để từ đó đa ra yêu cầu bồi thờng.
Bị đơn dân sự, ngời có nghĩa vụ liên quan cũng là
chủ thể tham gia chứng minh nhằm bác yêu cầu của nguyên
đơn, ngời có quyền lợi liên quan nhằm giảm trách nhiệm,
nghĩa vụ của họ.
Ngời bào chữa, ngời bảo vệ quyền lợi của đơng sự
tham gia chứng minh những tình tiết liên quan đến việc
bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc liên quan đến việc bảo

12


vệ quyền lợi cho đơng sự tức là chứng minh những tình tiết
có lợi cho bị can, bị cáo hoặc đơng sự.
Tuy ngời bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngời
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngời có quyền
lợi và nghĩ vụ liên quanlà những chủ thể có quyền tham
gia chứng minh nhng không phải là vụ án nào cũng có tất cả
những ngời tham gia mà tuỳ theo từng vụ án cụ thể có thể
chỉ có một số ngời tham gia, cũng có thể có vụ án không có
ngời nào trong số những ngời này tham gia chứng minh vì

đó là quyền của họ. Mặt khác sự chứng minh của họ đôi khi
vì những lý do cá nhân mà không thể hiện tính khách quan
cao. Theo luật TTHS thờng thì kết quả chứng minh của
những ngời này cha có giá trị pháp lý chính thức mà vẫn
phải thông qua sự đánh giá, kết luận của các cơ quan THTT.
Ngoài ra, trong TTHS còn có sự tham gia của ngời làm
chứng, ngời phiên dịch và đôi khi còn có sự tham gia của các
cơ quan, tổ chức xã hội, cá nhân khác. Sự tham gia của
những ngời này nhằm cung cấp những tài liệu, chứng cứ
phục vụ cho quá trình chứng minh. Những ngời này không
phải chủ thể chứng minh bởi vì họ không có mục đích trực
tiếp nhằm chứng minh nội dung vụ án và các tình tiết liên
quan đến vụ án. Họ cũng chỉ tham gia tố tụng khi đợc các
cơ quan THTT yêu cầu.
1.1.2. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình
sự
Nh chúng ta đã biết có rất nhiều chủ thể chứng minh
trong TTHS. Nhng trong số những chủ thể đó, có những chủ
thể thì việc tham gia chứng minh là quyền của họ nên họ có

13


thể thực hiện quyền đó hoặc không thực hiện quyền đó.
Ngợc lại có những chủ thể luật TTHS quy định họ có nghĩa
vụ phải chứng minh - tức là họ bắt buộc phải tham gia vào
hoạt động chứng minh. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng giai
đoạn lịch sử, tuỳ thuộc vào trình tự tố tụng đợc tiến hành
theo các kiểu khác nhau hoặc cơ sở, phơng pháp luận dựa
trên các học thuyết khác nhau nên luật TTHS ở các nớc khác

nhau, ở các giai đoạn lịch sử khác nhau quy định về chủ thể
có nghĩa vụ chứng minh có sự khác nhau.
Với hình thức tố tụng kiểu tố cáo, Luật La Mã quy định
nghĩa vụ chứng minh thuộc về ngời tố cáo. Ngoài việc tố cáo,
ngời tố cáo còn đa ra những chứng cứ liên quan đến việc tố
cáo ấy, vì vậy lời tố cáo của một ngời nào đó về tội phạm
vừa là căn cứ xuất hiện trình tự để giải quyết vụ án, vừa là
căn cứ buộc tội đối với ngời bị tố cáo. Khi hình thức tố tụng
kiểu thấm vấn ra đời thay thế hình thức tố tụng kiểu tố các
thì Biện lý xuất hiện. Biện lý là ngời đại diện cho quyền lực
nhà Vua có trách nhiệm điều tra, thu thập chứng cứ và duy
trì sự buộc tội trớc toà án. Hình thức tố tụng kiểu thẩm vấn
phát triển mạnh ở Pháp vào thế kỷ XIV, ở Đức thế kỷ XVI.
Khoảng đầu thế kỷ XVIII ở nớc Nga xuất hiện Cơ quan công
tố, cơ quan này chịu trách nhiệm chứng minh hầu hết các vụ
án hình sự, chỉ trừ một phạm vi rất nhỏ những vụ án t tố mà
ở đó ngời bị hại có nghĩa vụ chứng minh tính có căn cứ của
sự việc mà họ tố cáo. Ngày nay trong luật TTHS của các nớc t
bản, nghĩa vụ chứng minh là do Cơ quan điều tra, Cơ quan
công tố thực hiện, có nớc còn do Thẩm phán thực hiện nh ở
Italia. Tuy nhiên ở các nớc t bản Luật s cũng có quyền thu thập
chứng cứ, trách nhiệm của Luật s là tìm kiếm, thu thập

14


những bằng chứng ngoại phạm, những chứng cứ giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho bị can và chuẩn bị thẩm tra nhân
chứng trớc toà.
Trong hệ thống pháp luật XHCN, luật TTHS quy định

nghĩa vụ chứng minh thuộc về các cơ quan THTT, cụ thể, tại
Điều 11 BLTTHS năm 1988 và Điều 10 BLTTHS năm 2003 của
nớc ta quy định: Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc
về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhng không
buộc phải chứng minh là mình vô tội. Việc quy định nghĩa
vụ chứng minh thuộc về các cơ quan THTT, bởi lẽ: quan hệ
pháp luật hình sự có nội dung là mối quan hệ giữa nhà nớc
và ngời phạm tội, nhà nớc với t cách là chủ thể của quan hệ
pháp luật hình sự có quyền quy định hành vi nào là tội
phạm, đồng thời buộc ngời có hành vi phạm tội phải gánh
chịu những hậu quả pháp lý bất lợi bằng bản án, Quyết định
của Toà án hoặc các Quyết định của cơ quan có thẩm
quyền. Để truy cứu trách nhiệm hình sự một ngời, nhà nớc
phải có những chứng cứ chứng minh hành vi của họ là phạm
tội, nếu không đủ chứng cứ thì không thể buộc tội và truy
cứu TNHS họ. Vì vậy, để có chứng cứ chứng minh hành vi
của ngời nào đó là tội phạm, nhà nớc thành lập ra các cơ
quan chuyên trách làm nhiệm vụ chứng minh tội phạm. ở nớc
ta, các cơ quan đó là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà
án. Bị can, bị cáo có quyền đa ra những chứng cứ chứng
minh mình vô tội hoặc có quyền đa ra các tình tiết giảm
nhẹ TNHS đối với họ, nhng đây không phải là nghĩa vụ của
họ.

15


Để làm sáng tỏ vụ án hình sự, ngoài nghĩa vụ chứng
minh của các cơ quan THTT, thì đòi hỏi có sự tham gia tích
cực của những ngời tham gia tố tụng và các chủ thể khác. Tuy

nhiên sự tham gia của các chủ thể này không phải là họ có
trách nhiệm chứng minh vụ án mà là họ có trách nhiệm cung
cấp những tài liệu, thông tin liên quan đến vụ án và cơ quan
THTT có thể sử dụng những tài liệu, thông tin này làm chứng
cứ chứng minh trong vụ án hình sự.
1.1.3. Đối tợng chứng minh trong tố tụng hình sự
ở phơng diện chung nhất thì toàn bộ thực tiễn khách
quan là đối tợng của nhận thức nhằm tìm ra những quy luật
của thế giới tự nhiên, xã hội và t duy. Nhng ở giai đoạn lịch sử
cụ thể thì đối tợng của nhận thức lại có phạm vi nhất định.
Mặt khác, tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của từng lĩnh
vực hoạt động nhận thức cụ thể mà trong mỗi lĩnh vực của
hoạt động nhận thức lại có đối tợng nhận thức riêng. Hoạt
động chứng minh trong TTHS chính là quá trình nhận thức
làm sáng tỏ nội dung của vụ án và các tình tiết có liên quan
đến vụ án. Suy cho cùng mục đích của hoạt động chứng
minh trong TTHS là để phục vụ cho việc giải quyết đúng
đắn vụ án hình sự và phục vụ cho việc đấu tranh phòng
chống tội phạm. Bởi vậy, đối tợng chứng minh trong TTHS là
tổng hợp những vấn đề cha biết nhng các cơ quan THTT
cần phải biết để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và
đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm và những vấn đề
này đợc luật TTHS quy định các cơ quan THTT phải chứng
minh làm rõ.

16


Do tính chất, mức độ và hoàn cảnh của các tội phạm
không giống nhau nên đối tợng chứng minh ở mỗi vụ án có

những phạm vi và yêu cầu khác khác nhau. Tuy vậy, tội phạm
đều có những đặc điểm, quy luật chung giống nhau và đợc khái quát thành những vấn đề chung nhất mà những vấn
đề này đơc luật TTHS quy định một cách trực tiếp cụ thể
hoặc quy định một cách gián tiếp và thờng phải chứng minh
trong bất kỳ vụ án nào.Chẳng hạn luật TTHS Việt Nam quy
định phải chứng minh: có hành vi phạm tội xảy ra hay
không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của
hàng vi phạm tội; ai là ngời thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi
hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực TNHS hay
không; mục đích, động cơ phạm tội; những tiết tăng nặng,
giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào
tính chất, hoàn cảnh của từng vụ án cụ thể mà có thể có
những vấn đề không cần phải chứng minh vì nó rõ ràng là
đã không xảy ra trong vụ án đó. Ví dụ: trong vụ án mà ngời
phạm tội mới có hành vi chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm
trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng thì bị phát hiện,
xử lý. Nh vậy, trong vụ án này rõ ràng là hậu quả của tội phạm
cha xảy ra nên không phải chứng minh nó.
Mặt khác, trong luật TTHS còn quy định phải chứng
minh các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, mà những
tình tiết này có thể chỉ phải chứng minh trong vụ án cụ thể
nào đó chứ không phải chứng ming trong bất kỳ vụ án nào.
Hoặc có những tình tiết, vấn đề chỉ phải chứng minh khi
phát sinh những hoạt động tố tụng có liên quan. Chẳng hạn
nh: những tình tiết là căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam

17



chỉ phải chứng minh nó khi các cơ quan THTT áp dụng biện
pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo.
Đối tợng chứng minh trong TTHS - là nội dung chính của
Luận văn nên những vấn đề liên quan đến nó sẽ tiếp tục đợc
làm rõ ở một số mục tiếp theo của Luận văn.
1.1.4. Qúa trình chứng minh
Trong TTHS, chứng minh đợc hiểu là việc sử dụng các
chứng cứ để làm sáng tỏ bản chất và các tình tiết của vụ án.
Trong quá trình chứng minh vụ án hình sự bao gồm các bớc sau:
phát hiện, thu thập, kiểm tra, và đánh giá chứng cứ.
Phát hiện chứng cứ là tìm ra những sự vật, hiện tợng,
tài liệu có mang dấu vết, thông tin liên quan đến vụ án hình
sự. Việc phát hiện chứng cứ đợc tiến hành bằng nhiều biện
pháp do luật TTHS quy định nh: Khám nghiệm hiện trờng,
xác minh sự việc
Thu thập chứng cứ là việc ghi nhận, thu giữ và bảo
quản chứng cứ của các cơ quan THTT làm cho chứng cứ có
đầy đủ giá trị chứng minh. Việc thu thập chứng cứ do
những chủ thể đợc luật TTHS quy định tiến hành bằng
những biện pháp cũng do luật TTHS quy định.
Kiểm tra chứng cứ là việc xem xét xác định tính xác
thực, tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của
chứng cứ. Chỉ những tài liệu đã đợc kiểm tra và có các đặc
điểm của chứng cứ thì mới đợc coi là chứng cứ để sử dụng
chứng minh vụ án. Việc tiến hành kiểm tra chứng cứ đợc tiến
hành bằng các biện pháp nh: phân tích từng thuộc tính của
chứng cứ xem các thuộc tính đó có phù hợp với thực tế khách

18



quan hay không, có bảo đảm giá trị chứng minh hay không;
so sánh giữa các chứng cứ đã thu thập đợc với nhau xem có
phù hợp không, nếu có mâu thuẫn thì do đâu, từ đó tìm
các chứng cứ mới để làm sáng tỏ những chứng cứ đã thu thập
đợc.
Đánh giá chứng cứ là hoạt động phân tích nhằm xác
định giá trị chứng minh của chứng cứ đối với những vấn đề
cần làm rõ trong vụ án hình sự. Khi đánh giá chứng cứ cần
phải dựa trên cơ sở pháp luật hình sự, pháp luật TTHS, ý thức
pháp luật và niềm tin nội tâm của ngời đánh giá để xác định
giá trị, ý nghĩa của chứng cứ trong mối liên hệ với những vấn
đề cần phải chứng minh, xem chứng cứ này có giá trị chứng
minh vấn đề gì trong vụ án, và tổng hợp các chứng cứ đã đủ
cơ sở làm rõ và kết luận về vụ án cha, nếu cha đủ chứng cứ
để kết luận về vụ án thì cần phải tiếp tục thu thập thêm
chứng cứ.
Nh vậy: Chứng minh trong TTHS là quá trình các cơ
quan THTT, ngời THTT trên cơ sở tuân thủ các quy định của
pháp luật TTHS tiến hành phát hiện, thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ và sử dụng các chứng cứ này làm phơng
tiện, căn cứ để xác định, làm rõ tất cả những vấn đề liên
quan đến vụ án hình sự mà những vấn đề này luật quy
định các cơ quan THTT cần phải biết khi giải quyết vụ án
hình sự.
1.1.5. Chứng cứ trong tố tụng hình sự
Trong TTHS chứng cứ đợc dùng làm căn cứ chứng minh.
Bởi vậy, để đảm bảo cho những vấn đề đợc chứng minh là

19



đúng đắn phù hợp với sự thật khách quan thì đòi hỏi không
những hoạt động chứng minh phải dựa trên những cở, phơng
pháp luận khoa học mà còn đòi hỏi những quy định của
pháp luật về chứng cứ nh: chứng cứ là gì, cái gì đợc coi là
chứng cứ cũng phải bảo đảm tính khoa học.Nhng nghiên
cứu trong lịch sử pháp lý cho thấy đã từng có các quan điểm
khác nhau về chứng cứ trong TTHS nh:
Quan điểm thần học, tôn giáo xuất phát từ phơng pháp
luận duy tâm cho rằng Đấng tối cao, Thần linh, Chúa
trời đã tạo ra thế giới, tạo ra con ngời, tạo ra tội phạm thì
cũng là ngời phán xét tội phạm. Theo quan điểm này, ngời bị
tình nghi phạm tội phải chịu những thử thách vô lý, dã man
nh: Nhúng tay vào nớc sôi trong khoảng thời gian nhất định
hoặc đập đầu vào đá... nếu tay họ không bị bỏng hoặc
đầu không bị chảy máu thì họ đợc coi là vô tội, còn ngợc lại
thì họ bị coi là thủ phạm. Hoặc quan toà tổ chức cho ngời
bị tố cáo và ngời tố cáo quyết đấu, chiến thắng đợc coi là
chứng cứ có giá trị nhất và ngời chiến thắng đợc Toà án
tuyên không có tội hoặc lời xám hối của các Con chiên về các
hành vi tội lỗi của mình trớc bề trên đợc coi là chứng cứ buộc
tội. Từ những điều trên, cho thấy quan điểm duy tâm,
tôn giáo về chứng cứ là sự thể hiện t tởng thần quyền
của các nhà nớc thời trung cổ, nó không mang tính khoa
học, trái với quy luật khách quan.
Quan điểm về chứng cứ của trình tự tố tụng kiểu tố
cáo coi lời tố cáo của một ngời nào đó chính là chứng cứ
buộc tội đối với ngời bị tố cáo. Nếu ngời bị tố cáo không có
chứng cứ hoặc không có khả năng bác bỏ lời tố cáo thì họ sẽ

bị coi là phạm tội. Lời nhận tội của ngời bị tố cáo đợc coi là

20


chứng cứ có giá trị nhất, nên quan toà thờng áp dụng cực
hình đối với ngời bị tố cáo để họ nhận tội. Vì vậy, chứng cứ
của trình tự tố tụng kiểu tố cáo thể hiện sự đơn giản hoá
trong việc chứng minh vụ án hình sự, thờng dẫn đến sự
đánh giá sai lệch, không khách quan của quan toà khi giải
quyết vụ án hình sự.
Trong trình tự tố tụng kiểu thẩm vấn lại có quan điểm
hình thức về chứng cứ. Theo đó, hệ thống chứng cứ là một
loạt các quy tắc đợc quy định trớc trong luật, có tính chất
bắt buộc đối với các cơ quan THTT khi giải quyết vụ án hình
sự. Cụ thể, những gì là chứng cứ để chứng minh tội phạm
và đối với mỗi loại tội phạm thì cần chứng cứ gì, số lợng bao
nhiêu đều đợc quy định sẵn trong luật. Các cơ quan THTT
chỉ cần tìm đủ số lợng và chủng loại chứng cứ đợc quy
định trong luật đối với loại tội phạm đó mà họ không cần
phải tìm thêm chứng cứ nào khác khi kết luật tội phạm, ngợc
lại khi không tìm đủ số lợng và chủng loại chứng cứ mà luật
đã quy định thì không có căn cứ kết luận tội phạm. Quan
điểm hình thức về chứng cứ tuy hạn chế đợc sự tuỳ tiện
của các cơ quan tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự, nhng
nó cũng buộc lộ nhiều hạn chế nh: hạn chế khả năng thu
thập, phân tích, đánh giá chứng cứ của các cơ quan THTT,
không bảo đảm đầy đủ tính khoa học, khách quan trong
quá trình chứng minh vụ án hình sự dẫn đến bỏ lọt tội
phạm hoặc làm oan ngời vô tội. Quan điểm hình thức về

chứng cứ phát triển và ảnh hởng đến hầu hết các BLTTHS
của các nớc châu Âu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, ngày
nay nó vẫn còn đợc biểu hiện trong Luật TTHS của một số nớc
trong hệ thống pháp luật Anh - Mỹ.

21


Quan điểm nhân chủng học về chứng cứ cho rằng,
quá trình thu thập chứng cứ trong việc giải quyết vụ án
hình sự là quá trình xác định cấu trúc, đặc điểm cơ thể
và tính cách con ngời. Tuy quá trình này đợc dựa chủ yếu
bằng phơng pháp nhận dạng và giám định pháp y nên về
hình thức dờng nh nó có căn cứ khoa học. Nhng trên thực
tiễn cho thấy cấu trúc cơ thể con ngời không phải là nguyên
nhân làm phát sinh tội phạm và do vậy không thể lấy cấu
trúc cơ thể con ngời thông qua giám định pháp y làm chứng
cứ để chứng minhh tội phạm, mà quá trình hình thành
hành vi phạm tội cuả con ngời chịu sự tác động của các hiện
tợng, hoàn cảnh, môi trờng của xã hội.
Đến giữa Thế kỷ XVIII quan điểm hình thức về chứng
cứ bị phản bác, thay vào đó là quan điểm niềm tin nội tâm
tự do của Thẩm phán về chứng cứ. Theo quan điểm này thì
vai trò của Thẩm phán đợc đề cao trong hoạt động chứng
minh tội phạm, đợc toàn quyền quyết định về tội phạm một
cách tuỳ thuộc vào niềm tin nội tâm của mình, không phải
đa ra bất kỳ căn cứ nào miễn là khẳng định đợc sự tin tởng
vào sự đúng đắn của các quyết định.
Theo lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì:
Con ngời có khả năng nhận thức các quy luật, hiện tợng của

thế giới khách quan, tìm ra chân lý. Quá trình nhận thức của
con ngời từ trực quan sinh động đến t duy trừu tợng, từ cha
biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tợng đến
bản chất. Về nguyên tắc, không có sự vật, hiện tợng nào là
không thể nhận thức đợc, mà chỉ có sự vật, hiện tợng cha đợc nhận thức mà thôi. Bởi vậy, mọi tội phạm xảy ra trên thực

22


tế con ngời đều có thể phát hiện chứng minh đợc. Cũng
theo lý luận duy vật biện chứng thì mọi sự vật đều có thuộc
tính phản ánh. Với thuộc tính phản ánh của sự vật nên mọi
hoạt động của con ngời trong đó các hành vi phạm tội đều
để lại dấu vết trong thế giới khách quan. Dấu vết của hành vi
phạm tội có thể đợc thể hiện dới dạng vật chất nh: Dấu vết
trên công cụ, phơng tiện phạm tội, dấu trên để lại trên hiện trờng hoặc đợc phản ánh, ghi nhận trong trí nhớ của con ngời,
có thể là nạn nhân hay nhân chứng. Từ việc thu thập đầy
đủ, có hệ thống các dấu vết này con ngời có thể nhận thức
đợc diễn biến của hành vi phạm tội đã xảy ra. Chính từ việc
dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
nên khoa học luật TTHS của các nớc đi theo con đờng XHCN
đã xác định chứng cứ là những tài liệu thực tế, là những gì
có thật để chứng minh tính chân lý của vụ án.
Khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1988 cũng nh Khoản 1 Điều
64 BLTTHS năm 2003 của nớc ta quy định: Chứng cứ là
những gì có thật, đợc thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Toà án dùng làm căn cứ xác định có hay không có hành vi
phạm tội, ngời thực hiện hành vi phạm tội cũng nh những
tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ

án.
Theo quy định trên cho thấy chứng cứ có các đặc
điểm sau:
1/ Tính khách quan: Tức là những tài liệu, sự vật, hiện
tợng là chứng cứ phải có thật tồn tại khách quan, độc lập với ý
thức của con ngời.
23


2/ Tính liên quan: Tức là những sự vật, hiện tợng có
thật, tồn tại khách quan chỉ đợc coi là chứng cứ khi có liên
quan đến vụ án, khi nó chứng minh cho vấn đề cần biết nhng cha biết trong vụ án hình sự.
3/ Tính hợp pháp: Tức là chứng cứ đợc chứa đựng ở
những nguồn và thu thập bằng biện pháp do luật TTHS quy
định.
Theo quy định của luật TTHS Việt Nam thì chứng cứ
đợc phản ánh và chứa đựng trong các nguồn sau: vật chứng;
lời khai của ngời làm chứng, ngời bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, ngời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, ngời bị bắt, ngời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận
giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các
tài liệu, đồ vật khác.
1.2. Đối tợng chứng minh trong vụ án Hình sự

1.2.1. Khái niệm
Trong giải quyết vụ án hình sự, để ra đợc các quyết
định hoặc bản án đúng đắn, khách quan phù hợp với quy
định của pháp luật thì về nguyên tắc, đòi hỏi các cơ quan
THTT phải làm sáng tỏ bản chất của vụ án và những vấn đề
có liên quan đến vụ án - Tức là phải làm rõ các vấn đề nh: sự

việc phạm tội, ngời thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự đối với ngời phạm tội,
nhân thân ngời phạm tội bởi lẽ, chính những vấn đề này
là cơ sở để xác định tội phạm, xác định trách nhiệm hình
sự đối với ngời phạm tội, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn

24


cũng nh xác định trách nhiệm bồi thờng thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra của ngời phạm tội Việc giải quyết vụ án
hình sự chỉ phát sinh sau khi có tội phạm xảy ra, vì vậy để
xác định đợc bản chất diễn biến của vụ án, các cơ quan
THTT phải tiến hành thu thập chứng cứ và sử dụng chứng cứ
để chứng minh làm rõ các vấn đề trong vụ án, mà các vấn
đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự này đợc khoa
học luật TTHS gọi là đối tợng chứng minh trong vụ án hình sự.
Nhng trong vụ việc phạm tội có rất nhiều tình tiết, có
tình tiết có ý nghĩa, giá trị làm cơ sở cho việc giải quyết,
xử lý đúng đắn vụ án, có những tình tiết lại hầu nh không
có ý nghĩa gì trong việc giải quyết vụ án. Chẳng hạn nh
trong một vụ trộm cắp tài sản - Ngời phạm tội là A đã dùng
kìm bẻ gẫy khuy cửa nhà của gia đình hàng xóm rồi vào
nhà lấy trộm chiếc tivi mang về nhà mình cất giấu. ở đây,
các tình tiết nh việc A dùng kìm bẻ gẫy khuy cửa, A vào nhà
hàng xóm lấy trộm ti vi là những tình tiết có ý nghĩa thể
hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của A. Còn tình tiết
A cầm kìm bẻ khuy cửa bằng tay phải hay tay trái, khi lấy ti
vi A bê hay xách ti vi thì hầu nh không có ý nghĩa pháp lý gì
đối với việc giải quyết vụ án cũng nh không ảnh hởng gì

đến việc kết luận hành vi phạm tội của A và việc xử lý đối
với A. Bởi vậy, đối tợng chứng minh trong vụ án hình sự
không phải là tất cả các tình tiết, các vấn đề của sự việc
phạm tội xảy ra trên thực tế, cũng nh không phải tất cả các
vấn đề liên quan đến vụ án mà chỉ cần chứng minh những
vấn đề có ý nghĩa để làm rõ nội dung, bản chất của vụ án.
Những vấn đề liên quan đến TNHS của ngời phạm tội và các

25


×