Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

TÌM HIỂU Văn hóa champa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 25 trang )

MỤC LỤC

1. MỞ ĐẦU. ........................................................................................................ 2
2. NỘI DUNG. .................................................................................................... 3
2.1

. Khái quát về đất nước Champa. ............................................................. 3

2.2

Các yếu tố văn hóa của Champa................................................................ 5

2.3

Các dấu ân đặc trưng văn hóa tiêu biểu .................................................... 6

2.4

Nhận xét. .................................................................................................. 23

3. KẾT LUẬN. .................................................................................................. 25

1


Đề tài: Lịch sử văn hóa Champa, các dấu ấn chính và ý kiến nhận xét?
1. MỞ ĐẦU.
Trong quá khứ, trên dãy đất Việt Nam này có sự tồn tại một nền văn minh: Vương
quốc Champa. Vương quốc Champa có lãnh thổ trải dài từ mũi Hoành sơn phía bắc, nam
giáp Đồng Nai, tây giáp nam Lào, đông giáp biển Đông, thuộc miền Trung ngày nay.
Hầu hết lãnh thổ trải dài theo dãy Trường sơn và biển Đông. Có những cánh đồng nhỏ


nằm dọc theo những con sông đổ ra biển. Phía tây dãy trường sơn là những bình nguyên
Tây nguyên rộng lớn. Khí hậu có hai mùa mưa và nắng rỏ rệt. Vương quốc Champa
chuyên canh cây lúa, đậu, ngô, mía… dọc theo những con sông từ Tây nguyên đổ ra biển.
Vùng Tây nguyên có những tài nguyên quí giá như: trầm hương, mun, tre… Ngoài ra Tây
nguyên Champa còn cung cấp nhiều khoáng sản quí như: vàng, bạc, đồng, sắt. Động vật
gồm: voi, tê giác, sư tử, hưu trắng…nhiều vô kể. Vương quốc Champa hiện tại tuy nó đã
được sát nhập vào nước Việt Nam, nhưng chúng ta không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của
nền văn hóa Champa, trong quá khứ cũng như hiện tại, đối với tổng thể văn hóa 54 dân
tộc anh em Việt Nam. Nhất là văn hóa tộc người Champa có ảnh hưởng rất lớn. Văn hóa
Champa đã phát triển một nền văn minh rực rở, bậc nhất Đông Nam Á suốt gần 18 thế
kỷ. Bởi quá trình tồn tại, định hình lịch sử và văn hóa phát triển, có bề dày đáng kể trên
bốn ngàn năm (Từ người Champa cổ Bàu Trá thời đại đá, văn hóa Sa Huỳnh thời đại kim
khí, cho đến ngày hôm nay). Vì muốn thảo thêm vài nét vẽ cho bức tranh lịch sử, văn hóa
nền văn minh Champa còn bỏ ngỏ, nên tôi một người con trong dòng tộc Champa mạo
muội đặt vấn đề cho đề tài này.
Trên dải đất Việt Nam ngày nay vào thời xưa đã từng tồn tại ba quốc gia. Về đại thể
thì miền bắc là lãnh thổ Đại Việt, miền trung là địa bàn của vương quốc Chămpa và miền
nam là một phần lãnh thổ của vương quốc Phù Nam. Các kết quả nghiên cứu về khảo cổ
học, dân tộc học, sử học… ngày càng chứng minh rõ ràng hơn về cội nguồn của ba quốc
gia cổ đại ấy. Có thể nói một cách khái quát là văn minh Đại Việt bắt nguồn từ văn hóa
Đông Sơn, văn minh Chămpa phát triển từ văn hóa Sa Huỳnh, văn minh Phù Nam mà
một phần quan trọng là văn hóa Óc Eo có nguồn gốc từ văn hóa Đồng Nai. Vào thời ấy
cương vực, bờ cõi, biên giới giữa các quốc gia cổ đại luôn là vấn đề không bao giờ rành
mạch rõ ràng. Tuy vậy nếu theo phân bố hành chánh ngày nay thì có thể coi các tỉnh ven
biển miền Trung – từ Quảng Bình đến Bình Thuận – và các tỉnh khu vực Tây Nguyên là
thuộc địa bàn của vương quốc Chămpa cổ xưa.
Trải dài hàng ngàn năm lịch sử, thăng trầm trong vinh quang, khổ đau, tủi hờn rồi thất
bại. Thế là họ bắt đầu hình thành sự khác biệt, dù rằng họ cùng một nguồn cội, có chung
một dòng máu.


2


2. NỘI DUNG.
2.1 . Khái quát về đất nước Champa.
Trong quá trình phát triển vương quốc Chămpa được ghi chép trong các biên niên sử
với các tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương, từ thế kỷ IX là Chămpa (hay Chiêm Thành).
Vương quốc Chămpa có nhiều thành phần tộc người, xuất hiện từ đầu công nguyên. Tại
khu di tích Mỹ Sơn (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) có một tấm bia của vua
Paksadarma Vikrantavarma I (nửa đầu thế kỷ VII) ghi lại truyền thuyết về sự hình thành
vương quốc Chămpa. Theo đó thì đã có một người Ấn Độ tên là Kaudinay (có nghĩa là
người Bàlamôn vĩ đại nhất) đến và lấy nữ chúa Soma, con gái vua rắn Naga và sáng lập
ra một vương triều. Đây là một huyền thoại phổ biến ở khu vực Đông Nam Á – như sự
hình thành vương quốc Phù Nam cũng là một người Kaudinay lấy nữ chúa Liễu Diệp –
huyền thoại thể hiện truyền thống văn hóa bản địa mang đậm tính chất Mẫu hệ có từ
trước khi nền văn minh phụ hệ/ phụ quyền từ Ấn Độ ảnh hưởng đến khu vực này. Lịch sử
vương quốc Chămpa qua sử liệu các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Đại Việt,
Khmer, Java… phản ánh những nét khái quát như sau. Thư tịch cổ của Trung Quốc đã
ghi chép những cuộc nổi dậy của nhân dân huyện Tượng Lâm (huyện cực nam vùng đất
mà nhà Hán chiếm đóng những năm đầu công nguyên). Đến năm 192 nhân lúc nhà Hậu
Hán loạn, nhân dân Tượng Lâm nổi dậy giết huyện lệnh, giành tự chủ. Người đứng đầu
cuộc khởi nghĩa là Khu Liên (có thể tên này là ghi âm lại từ kurung của ngôn ngữ cổ
Đông Nam Á, có nghĩa là tộc trưởng – vua). Theo sách Thủy kinh chú quốc gia mới
thành lập này có tên Lâm Ấp, “phía nam giáp nước Phù Nam… lợi dụng núi non hiểm
trở, họ không chịu quy phục Trung Quốc” như Tấn thư chép khoảng năm 280. Lương sử
(khoảng đầu thế kỷ VII) còn ghi lại phổ hệ những ông vua Chămpa sau Khu Liên như
Phạm Hùng, Phạm Dật, Phạm Văn, Phạm Tư Đạt… đều là những tên gọi phiên âm ra
tiếng Hán từ chữ Ấn Độ cổ. Những kết quả nghiên cứu mới nhất của nhiều học giả trong
và ngoài nước thì vương quốc Chămpa được hình thành bởi một hệ thống gọi là mandala
hay là một vương quốc bao gồm một liên minh/ liên lập của nhiều tiểu quốc có địa bàn kề

cận nhau và tương đồng về văn hóa tộc người. Thuật ngữ mandala được các nhà nghiên
cứu dùng để diễn tả một hệ thống chính trị – kinh tế được phát hiện ở hầu hết các vương
quốc cổ ở Đông Nam Á. Trong mỗi tiểu quốc của mandala có một vị tiểu vương thường
được thần linh hóa và tự xưng là thủ lĩnh của các tiểu vương khác – mà trên lý thuyết là
những chư hầu của họ. Như đã nói ở trên, địa bàn vương quốc Chămpa ở miền Trung,
khu vực địa hình hẹp chiều ngang tây – đông mà kéo dài theo chiều bắc – nam, lại bị chia
cắt bởi các đèo cắt ngang do núi ăn lan ra biển. Song song với những con đèo này là
những dòng sông bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy xuôi ra biển theo hướng tây – đông.
Những dòng sông này và chi lưu của nó là những đường giao thông chủ yếu trong từng
khu vực. Vùng hạ lưu hình thành dải đồng bằng tuy nhỏ hẹp nhưng là cơ sở của nền kinh
tế nông nghiệp, cửa sông rộng nối với biển Đông hình thành các bến cảng – đầu mối liên
hệ với các tiểu vùng khác bằng đường biển. Địa hình này tạo thành những tiểu vùng –
tiểu quốc tập hợp thành vương quốc Chămpa. Những chuyến điền dã của giáo sư Trần
Quốc Vượng và cộng sự tại miền Trung trong suốt thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã phát hiện
3


mô hình một tiểu quốc Chămpa dựa trên trục quy chiếu là các dòng sông lớn ở mỗi tiểu
vùng địa hình. Theo mô hình này thì mỗi tiểu quốc phải có ba thiết chế – ba trung tâm,
tính theo dòng chảy của sông từ núi (tây) ra biển (đông) là: trung tâm tôn giáo, hay là
thánh địa, thường ở phía thượng nguồn các dòng sông – trung tâm chính trị, hay là thành
cổ, thường ở vùng đồng bằng hạ lưu và ở phía nam dòng sông – trung tâm kinh tế thương
nghiệp, thường là các cảng nơi cửa sông, cửa biển. Điển hình như tiểu quốc Amavarati
vùng Quảng Nam, với dòng sông Thu Bồn ta thấy có thánh địa Mỹ Sơn, thành cổ Trà
Kiệu và cảng thị Đại Chiêm – Đại Chiêm hải khẩu (Hội An). Do địa hình chung của cả
vương quốc như vậy nên mỗi tiểu vùng – tiểu quốc phát triển tương đối độc lập và luôn
tranh giành ảnh hưởng và địa vị đứng đầu cả vương quốc. Tiểu quốc và vị Tiểu vương
nào hùng mạnh hơn sẽ có ảnh hưởng bao trùm và trở thành trung tâm và Quốc vương
đứng đầu cả vương quốc. Tiểu vùng Amavarati lớn mạnh hơn cả có lẽ nhờ thương cảng
Đại Chiêm hải khẩu Chămpapura, đã tập hợp được các tiểu quốc thành vương quốc, đặt

kinh đô đầu tiên ở thành phố Sư tử Trà Kiệu Simhapura và Mỹ Sơn
Srisambhubhadresvara là thánh địa. Đây là một trong những trung tâm quy mô và quan
trọng nhất của vương quốc Chămpa. Các trung tâm lớn – tiểu vùng quan trọng – khác là
Bình Định (Vijaya), Phú Yên – Khánh Hòa (Kauthara) và Ninh Thuận - Bình Thuận
(Panduranga).
Vương quốc Chămpa cổ từng có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng. Họ tôn thờ Nữ Thần Mẹ
của vương quốc là Pô Inư Nagar theo truyền thống tín ngưỡng Mẫu hệ lâu đời của cư dân
Đông Nam Á. Tín ngưỡng này còn tồn tại khá đậm nét trong xã hội người Chăm hiện
nay. Từ khi tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hóa – văn minh Ấn Độ người Chăm cổ
theo Ấn Độ giáo, quốc vương là người quyết định tôn giáo chính thống của vương quốc.
Tôn giáo chính của người Chăm là Ấn Độ giáo, thờ một hay cả ba vị Thần của Tam vị
nhất thể là Brahma – Visnu – Siva. Tuy nhiên người Chăm cổ tôn sùng thần Siva hơn cả.
Các văn bia cổ bằng chữ Phạn (Sanskrit) trong khu Mỹ Sơn đã tôn Siva là Chúa tể của
muôn loài, là cội rễ của nước Chămpa. Thần Siva thường được thờ bằng ngẫu tượng sinh
thực khí nam giới. Ngoài ra người Chăm cổ còn theo cả Phật giáo với trung tâm Đồng
Dương (Quảng Nam) phát triển cực thịnh hồi thế kỷ IX – X. Bên cạnh việc tiếp nhận tôn
giáo Ấn Độ, người Chăm cổ đã tiếp thu cả mô hình tổ chức chính quyền nhà nước mà
nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra đặc trưng chủ yếu là vương quyền kết hợp với thần quyền,
các quốc vương Chămpa thường được đồng nhất với thần Siva.
Người Chăm cổ có nền kinh tế đa thành phần, đó là nông nghiệp đa canh: trồng lúa,
dâu tằm, bông, hoa màu… Lâm nghiệp: khai thác gỗ và hương liệu quý… Ngư nghiệp:
đánh bắt thủy hải sản và thủ công nghiệp: làm gốm, thủy tinh, rèn sắt, chế tác đồ trang
sức và mỹ nghệ vàng bạc… Đặc biệt người Chăm cổ giỏi nghề buôn bán bằng đường
biển và đường sông. Để thích ứng với vùng đất gần như quanh năm khí hậu khô hạn,
người Chăm cổ đã có những hệ thống thủy lợi từ việc lợi dụng những mạch nước chảy từ
núi, đồi gò mà xây dựng giếng, hồ đập… Sự phong phú và đa dạng của những di tích di
vật Chămpa còn lại đến nay cho thấy một xã hội rất phát triển trên cơ sở một nền kinh tế
có cơ cấu thích hợp mà nổi bật là tính hướng biển. Vương quốc Chămpa nổi tiếng trong
4



lịch sử cổ trung đại với hệ thống cảng thị phục vụ cho việc đánh cá ngoài khơi xa, buôn
bán, trao đổi giao lưu với những quần đảo ở biển Đông và xa hơn, đến Trung Quốc và Ấn
Độ do nằm trên trục giao thông đường biển quan trọng nối liền hai trung tâm văn minh
lớn của thế giới. Truyền thống văn hóa bản địa của cư dân cổ Đông Nam Á ngoài văn hóa
nông nghiệp (lúa cạn và lúa nước) còn có văn hóa thương nghiệp đường biển của những
tộc người cư trú ven biển và trong các quần đảo trong biển Đông, trong đó có người
Chăm.
2.2 Các yếu tố văn hóa của Champa.
Từ nhiều thế kỷ trước công nguyên, người Trung Hoa và người Ấn Độ đã vượt biển
đi buôn bán trao đổi với nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có vùng Đông Nam Á. Vì
vậy dấu tích của họ để lại khá rõ nét trong nhiều nền văn hóa ở khu vực này.
Trên cơ sở nền tảng là văn hóa Sa Huỳnh, vương quốc Chămpa những thế kỷ đầu khi
mới giành được độc lập cũng chịu khá nhiều ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa mà chứng
tích để lại là những đồng tiền Ngũ Thù thời Tây Hán (từ 206 trước công nguyên đến năm
25 sau công nguyên), tiền Vương Mãng triều Tân từ năm 8 - 25 sau công nguyên, sưu tập
gương đồng tìm thấy ở khu vực miền Trung có niên đại thế kỷ I – III, nhiều tượng Phật,
mảnh gốm men ngọc, men màu, vũ khí sắt… trong một khung niên đại khá dài. Tư liệu
lịch sử còn ghi chép việc các vua Chămpa “xây cung điện theo kiểu Trung Quốc, có
những buồng những cột, cách đào hào đắp lũy để bao bọc lấy thành thị, cách đóng xe
dùng trong trận mạc và nhiều loại vũ khí, dạy cho thợ làm nhạc khí…”. Những đầu ngói
ống trang trí mặt hề, động vật tìm thấy tại những di tích thành cổ Chămpa được coi là có
nguồn gốc từ văn hóa Hán.
Những yếu tố của văn hóa Ấn Độ hiện diện rất sớm trên địa bàn của vương quốc
Chămpa. Đó là những đồ trang sức và kỹ thuật chế tác đồ trang sức bằng mã não, thủy
tinh, đá ngọc trong các mộ chum thuộc văn hóa Sa Huỳnh. Trong các di tích thuộc văn
hóa Sa Huỳnh giai đoạn muộn chuyển sang văn hóa Chămpa sớm ở Trà Kiệu, còn tìm
thấy loại đồ gốm ở miền Đông Ấn Độ có niên đại từ thế kỷ III trước công nguyên đến thế
kỷ I sau công nguyên. Từ khi giành được độc lập thì những mối quan hệ giao lưu kinh tế
– văn hóa với Ấn Độ càng được tăng cường bằng phương thức khá hòa bình là theo

những đoàn thương gia và tu sĩ truyền đạo nên được cư dân bản địa dễ dàng tiếp thu và
chấp nhận. Vì vậy, ảnh hưởng nhiều mặt của văn minh Ấn Độ đã hầu như trở thành chủ
đạo trong vương quốc Chămpa.
Sử liệu chữ viết về vương quốc Chămpa có niên đại sớm nhất là tấm bia Võ Cạnh
(Nha Trang) được xác định niên đại thế kỷ III. Nhưng những chứng tích phong phú và đa
dạng, phản ánh khá toàn diện về vương quốc Chămpa thì thể hiện tập trung tại các khu di
tích đền tháp Chămpa.
Khu vực Quảng Bình – Quảng Trị – Thừa Thiên Huế: hiện biết khoảng 30 di tích văn
hóa Chămpa, tập trung thành từng nhóm ở bờ nam sông Gianh tiêu biểu là thành Cao Lao
Hạ, những minh văn trong hang động Phong Nha ở Quảng Bình. Nhóm ven sông Thạch
5


Hãn của đồng bằng Quảng Trị có Cổ thành, tháp Hà Trung. Nhóm ở đồng bằng Thừa
Thiên Huế: thành Lồi, tháp Liễu Cốc, tháp Vân Trạch Hòa, tháp Mỹ Khánh…
Khu vực Quảng Nam – Quảng Ngãi: đây được xem là vùng trung tâm của vương
quốc Chămpa. Tại đây tập trung những di tích quan trọng và lớn nhất, với nhiều loại hình
di tích nhất. Đó là khu di tích Trà Kiệu (xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam), ở đây còn dấu tích của thành cổ, nơi cư trú… được các nhà nghiên cứu cho rằng
đây là kinh thành Sư Tử Sinhapura. Xung quanh Trà Kiệu gần đây đã phát hiện và khai
quật nhiều di chỉ cư trú hay phế tích kiến trúc như Gò Cấm, Chùa Vua, Triền Trang,
Chiêm Sơn Đông, Chiêm Sơn Tây. Thánh địa Mỹ Sơn – trung tâm tôn giáo lớn nhất của
người Chăm – là một khu đền tháp tập trung trong một thung lũng, cách Trà Kiệu khoảng
20km về phía Tây. Hiện nay khu di tích này còn khoảng 70 đền tháp khá nguyên vẹn và
rất nhiều đền tháp bị hư hỏng do thời gian và chiến tranh. Trung tâm Phật giáo Đồng
Dương và là kinh thành Indrapura của vương quốc Chămpa trong thế kỷ IX – X. Tại đây
còn dấu tích tường thành, đền tháp, di tích cư trú, nhiều tượng Phật giáo bằng đồng nổi
tiếng đã được phát hiện tại đây.
Ngoài các trung tâm trên, khu vực Quảng Nam - Quảng Ngãi còn có các di tích:
Khương Mỹ, Chiên Đàn, Bằng An (Quảng Nam), thành Châu Sa, di tích Chánh Lộ,

Khánh Vân, An Tập, Cổ Lũy… phần lớn còn lại là phế tích (Quảng Ngãi).
Khu vực Bình Định: Là một kinh đô của người Chăm trong gần 5 thế kỷ, từ thế kỷ XI
– XV, vì vậy ở đây có tới 4 di tích thành cổ (Thị Nại, Thành Tra, Đồ Bàn, Chánh Mân),
hàng chục đền tháp khá nguyên vẹn như khu tháp Bánh Ít, Dương Long, Hưng Thạnh…
và nhiều phế tích đền tháp khác. Ngoài ra, Bình Định còn nổi tiếng với trung tâm sản
xuất gốm Gò Sành.
Khu vực Phú Yên – Khánh Hòa: Các di tích ở hạ lưu sông Đà Rằng thuộc đồng bằng
Tuy Hòa là Tháp Nhạn và Thành Hồ cùng với hàng chục phế tích khác. Nổi tiếng là khu
tháp Pô Nagar ở Nha Trang – được coi là thánh địa phía Nam của Chămpa và đến nay
vẫn còn thờ Thiên Yana – một tín ngưỡng cổ của người Chăm.
Khu vực Ninh Thuận – Bình Thuận: có nhiều di tích từ niên đại sớm đến muộn, như
Hòa Lai, Pô Klaung Garai, Pô Romê ở Ninh Thuận; Pô Dam, Phú Hài ở Bình Thuận…
Nơi đây hiện là địa bàn cư trú chính của người Chăm nên các khu đền tháp vẫn là nơi để
người Chăm sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo.
Khu vực Tây Nguyên có một số di tích đền tháp và phế tích Chămpa ở Đắc Lắc, Gia
Lai, Kon Tum nhưng niên đại khá muộn.

2.3 Các dấu ân đặc trưng văn hóa tiêu biểu .
6


Có thể nói rằng vương triều Champa đã sụp đỗ hoàn toàn nhưng những gì còn lại của
nó thì không thể không phủ nhận hết được. Và đâu đó còn nhiều lời giải thích là một ẩn
số vơi nhiều nhà khoa hoc.
 Văn hóa xây dựng đền tháp:
Người Chăm Ahier có một đặc trưng là xây dựng tháp để thờ các thần Brahmaism,
hoặc các vị vua, các vị thủy tổ của dân tộc họ, những anh hung dân tộc nên nó tạo thành
một đặc trưng nổi trội nhất của văn hóa Chăm ở Việt Nam.
Chứng tích phổ biến và tiêu biểu nhất của vương quốc Chămpa là những kiến trúc đền
tháp có mặt ở tất cả các khu vực và trong mọi giai đoạn lịch sử. Trải qua hàng chục thế

kỷ nhiều nhóm đền tháp đã trở nên hoang phế, không còn đầy đủ các công trình tạo lập
thành một tổng thể như khi mới khởi dựng, mà hầu như chỉ còn lại một công trình đứng
đơn lẻ, nhất là các di tích ven biển miền Trung. Thật ra các nhóm đền tháp Chămpa bao
giờ cũng có một nhóm, một tổng thể hoàn chỉnh phản ánh vũ trụ quan Ấn Độ. Theo đó vũ
trụ có hình vuông, chung quanh có núi và đại dương bao bọc, chính giữa là một trục
xuyên đến mặt trời. Đền thờ Ấn Độ giáo thể hiện rõ vũ trụ quan này với khuôn viên được
quy định vuông vắn, tường bao quanh xây cao, vuông góc với nhau tượng trưng là núi.
(Tuy nhiên do địa hình nên nhiều khi không hoàn toàn tuân thủ nguyên tắc này). Các
công trình trong tổng thể được bố cục theo một đường trục chạy giữa, hướng chính là
hướng đông – hướng của thần thánh, của sự sinh sôi nảy nở.
Tháp Chăm, hay còn gọi là tháp Chàm, là một dạng công trình thuộc thể loại kiến trúc
đền tháp Champa, thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng Chàm( còn gọi là dân tộc Chăm
sinh sống ở Nam Trung Bộ Việt Nam hiện nay). Có thể thấy vị trí phân bổ của các đền
tháp là những nơi tưng là nơi ở của người Champa, xa hơn nữa còn có những ngôi tháp
có thể coi là tháp Champa trên đất nước Campuchia như tháp Damray Krap. Nguộc lại
những yếu tố Java hay Khơmer cũng được thấy trên các tháp Champa như Khương Mỹ,
Hưng Thanh, Dương Long, hay có những ngôi tháp còn được người Chăm gọi là “ Tháp
Khowmer” như tháp Chăm Hòa Lai.

7


Tháp Chăm cổ nhất ở Huế đang được bảo quản.
Các tháp Chăm là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch nung màu đỏ sẫm lấy từ
đất của địa phương, phía trên mở rộng và thon vút như hình bông hoa. Mặt bằng đáy tháp
đa số là hình vuông có không gian bên trong chật hẹp, có một cửa duy nhất mở về hướng
Đông (mặt trời mọc). Trần được cấu tạo vòm cuốn, trong lòng tháp đặt một bệ thờ thần
bằng đá. Nghệ thuật chạm khắc, đẽo gọt công phu hình hoa lá, chim muôn, vũ nữ, thần
thánh thể hiện trên bề mặt ngoài của tháp. Các viên gạch liên kết với nhau rất rắn chắc,
bền vững hàng chục thế kỷ.

Hầu hết các tháp Chăm đều xây dựng gần giống với đền tháp ở Ấn Độ, Angwkor
(Campuchia) nằm trên những ngọn núi cao, bao quanh bởi đồi núi, được che chắn bảo vệ
bởi những thành lũy tự nhiên hiểm trở (giữa các đồi núi có sông, suối, thung lũng...)
Di vật trong văn hóa Chămpa vô cùng phong phú và đa dạng về chất liệu và loại
hình. Từ những tác phẩm điêu khắc trên đá sa thạch, trên gạch, gốm, những bức tượng
đồng đến những đồ thờ cúng và trang sức bằng vàng bạc… Tuy nhiên, gắn liền một cách
hữu cơ với kiến trúc đền tháp là những tác phẩm điêu khắc trên đá, trên gạch xây dựng,
thể hiện dưới hai loại hình: 1- các tác phẩm điêu khắc độc lập dùng để trang trí hay thờ
cúng; và 2- các tác phẩm điêu khắc mang chức năng liên kết tham gia vào công trình kiến
trúc tháp (tấm lá nhĩ, trụ cửa, mi cửa). Kiến trúc đền tháp quy định nội dung và hình thức
thể hiện của điêu khắc, ngược lại, điêu khắc góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa của việc xây
dựng các công trình đền tháp. Điêu khắc Chămpa phổ biến trên chất liệu đá Silic màu
xám, độ cứng cao, bề mặt thô và đá Granit màu xám xanh, thớ mịn. Kích thước hiện vật
thường lớn. Phần lớn di vật điêu khắc Chămpa là dạng phù điêu nổi cao gần như tượng
tròn, dù thể hiện nội dung, hình tượng nào thì vẫn mang tính hiện thực sâu sắc, nghệ thuật
tả chân dung sinh động, tượng người và động vật đạt trình độ cao về giải phẫu sinh học,
đề cao đặc điểm nhân chủng trong tượng người và các vị thần được nhân hóa. Điêu khắc
8


Chămpa còn phản ánh hiện thực xã hội từ cuộc sống sinh hoạt đời thường đến những
nghi lễ tôn giáo của vương quốc Chămpa.
Ngày 1 tháng 10 năm 2006, trung tâm quản lý di tích, di sản Quảng Nam chính
thức công bố thông tin: Các nhà khoa học đại học Milan, Ý khi đang làm việc trung tu
nhóm tháp G – Thuộc thánh địa Mỹ Sơn đã nhân biết được loại vật liệu kết dính để xây
dựng tháp Champa cách đây vài triệu năm. Đó là một loại keo tinh chết từ một loài thực
vật vốn có rất nhiều trong khu vực quanh di sản Mỹ Sơn, mà người dân địa phương hay
gọi là cây dầu rái. Ngoài ra họ còn phát hiện một loại hợp chất có nguồn gốc từ thực vật
bản địa nói trên trong gạch để xây tháp. Như vậy những điều bí ẩn xung quanh vật liệu
được người Champa sử dụng để xây các công trình tôn giáo ở Việt Nam sau hơn 100 năm

đã được giải mã. Trước đó, một người thợ thủ công tên là Lê Văn Chỉnh (Quảng Nam)
cũng đã bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu phương pháp xây dựng tháp Chăm đã phát hiện
được hợp chất dầu rái trong gạch để xây tháp và chất dính.
Các đền tháp thường được gia cố phần đế móng rất kỹ bằng những lớp các, đá
cuội, đá dâm. Tường, mái là những viên gạch những chi tiết trang trí bằng đá sa thạch,
được xếp khít với nhau, không thấy được mạch vữa ở giữa. Dù thời tiết rất khắc nghiệt
nhưng hàng nghìn năm qua những công trình ấy vẫn không bị lún, nứt hay đỗ vỡ (chỉ bị
sụp đỗ do con người, chiến tranh phá hủy...) không có rong rêu bám phủ trên tường tháp
(Trong khi những mảnh tường gạch mới được phục chế vào cuối thập kỷ 20 lại bị rong
rau phủ đầy). Cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào xác định được chính
xác chất kết dính giữa các viên gạch, hay chi tiết bằng đá là gì
(lê
tuấn
anh
2004.182). Lueba (1923) cho rằng người chăm đã dùng gạch mộc chồng khít lên nhau rồi
nung toàn bộ tháp. Theo Ngô Văn Doanh (1978) thì vữa là nước cây xương rồng trộn với
mật mía. Trần Kỳ Khương(1980) thì cho rằng đó là nhựa cây dầu rái. Hoặc được xây
bằng vữa đất sét rồi nung lại (Awawrzenczak và Skibinski,1987. Cũng có ý kiến cho rằng
tháp được xây dựng bằng cách mài và xếp khít gạch (mài chập) (Trịnh cao tưởng,1985
hoặc Nguyễn Văn Chinh) hay mài xếp phần vỏ vad sử dụng vữa làm bột mịn có độ nung
như gạch xây tháp trộn với nước tạo nên ( Lê Đình Phụng, 1990). Bên cạnh dùng nhựa
cây, người Chăm còn dùng nhớt của các loài lá: ô dước, bời lời, dâm bụt...( Trần Bá
Việt,2007). Các ý kiến trên đều có phần đúng nhưng vẫn chưa có ý kiến nào được các
nhà khảo cổ học chấp nhận.
Theo quan niệm của người Chăm, đền tháp là nơi linh thiêng, tôn nghiêm nơi cầu
đáo thần linh người dân bình thường không được lui tới, chỉ có những tu sĩ Balamon,
những người thuộc tầng lớp quý tộc Chăm mới được đến cử hành lễ (lê tuấn anh
2004.176)
Đền tháp Champa thường đứng một mình ( Tháp Nhạn, tháp Thủ Thiệm) hoặc
được xây dựng thành cụm ( Khu đền tháp Mỹ Sơn). Kết cấu mỗi cụm gồm một đền thờ

chính (kalan) xung quanh có những đền nhỏ hoặc công trình phụ. Ngôi đền chính
(thường nằm ở giữa một cụm đền tháp) tựơng trưng cho núi Meru – Trung tâm vụ trụ nơi hội tụ của thần linh nên được thờ mộ bộ linga biểu tượng của thần Siva. Các đền tháp
9


còn lại có công năng khác như tháp cổng (tháp Đồng Dương), có hai của thông nhau theo
hướng đông – tây, đền phụ (miếu phụ) thờ các vị thần trông coi hướng trời, các công
trình làm nơi chuẩn bị lễ vật trước khi hành lễ hay là kho cất giữa đồ tế lễ... Những tháp
phụ thường có mái hình thuyền úp, lợp ngói hoặc ghép gạch (Tháp phụ ở tháp Bánh Ít,
Chiên Đàn). Đặc điểm đền thờ của người Chăm thường không có của sổ, nếu tháp nào có
thì đó là công trình phụ (lê tuấn anh 2004.181-182).

tháp Chàm PO KLAONG GIRAI
Một ngôi tháp thường có kết cấu ba phần: đế, thân và mái. Theo quan niệm của
người Chăm, đế tháp tượng trưng cho đế thế giới trần tục, thân tháp tượng trưng cho thế
giới tâm linh, nơi con người gội rửa bụi trần, thoát tục để xin tiếp xúc với tổ tiên và hòa
nhập với thần linh. Còn mái tháp thì tượng trưng cho thế giới thần linh.
Đế tháp: thường được xây dựng trên nền hình vuông hoặc hình chữ nhật, bằng
gạch hoặc bằng đá phiến to ( tháp B1 ở khu tháp Mỹ Sơn). Xung quanh đế được trang trí
theo mô tip hoa văn, hình con thú, hình con người cầu nguyện đứng trong các vòm cuốn
nhỏ, mặt quái vật (kali), thủy quái (makara), hay các vũ nữ, nhạc công...
Thân tháp: thường được ghép hoàn toàn bằng gạch, tường rất dày (độ dày trên
dưới 1 mét), chiều cao ở mỗi đền tháp khác nhau, cửa ra vào có trụ, lanh tô bằng đá. Mặt
ngoài thân tháp trang trí rất đa dạng: trụ áp tường, của giả thường hình vòm cuốn mềm
mại bên trong vòm cuốn chạm rồi các hình trang trí thường thấy là hình người đứng chắp
tay cầu nguyện rất thành kính.
Hầu hết các đền tháp đều có cửa chính xoay về hướng đông (hướng của thần sấm
sét Indra). Một số đình có cửa chính hướng tây hoặc thêm cửa hướng tây ( hướng của các
vị vua Champa thường chọn cho mình khi về khi rời khỏi trần thế trở về với sự thanh
cao). Mặt tường phía trong lòng để trơn, ở một số ngôi đền chính thường có một số ô ở

trên tường làm nơi đặt đèn. Không gian trong đền chật chội, thiếu ánh sáng. Một đài thờ
10


biểu tượng cho thần Siva (bộ Linga) đặt chính giữa nền chiếm gần hết diện tích và chỉ
chừa một lối đi hẹp xung quanh để hành lễ.

Mái tháp: thường được cấu tạo nhiều tầng, càng lên cao càng thu hẹp. Ở nhiều đền
tháp, tầng trên thường được mô phỏng đầy đủ cấu trúc cửa, chi tiết như tần dưới. Mô típ
trang trí rất đa dạng: tượng, vật cưỡi của các vị thần trong Ấn Độ giáo như chim thần,
ngỗng thần, bò thần, voi, sử tử...các đường gờ, cột ốp hay hoa văn. Tại các góc thường có
mô hình tháp nhỏ hay vật trang trí phụ bằng đá hoặc gạch. Những tháp phụ mái thường
có hình thuyền úp, phần trang trí không cầu kỳ. Đỉnh mái có hai dạng hình chóp và hình
thuyền. Vật liệu làm đỉnh tháp có khi la khối đá tạo thành hình chóp hoặc bằng gạch ghép
lại (lê tuấn anh 2004. 184-185)
Xác định niên đại và phong cách nghệ thuật cho di tích kiến trúc và tác phẩm điêu
khắc Chămpa là một vấn đề cho đến nay chưa có sự nhất trí hoàn toàn giữa các nhà
Chămpa học. Những nhà nghiên cứu phải dựa vào sự phát triển nghệ thuật kiến trúc và
điêu khắc Chămpa, đồng thời phải so sánh đối chiếu với các nền nghệ thuật có liên quan
như Ấn Độ, Môn, Khmer, Đại Việt, Java… để có thể định niên đại và phân chia giai đoạn
cho kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc Chămpa từ thế kỷ VII đến thế kỷ XV. Vì vậy cho
đến nay có nhiều cách phân chia những giai đoạn và phong cách của nghệ thuật Chămpa,
những cách này có khác nhau đôi chút về tên gọi và niên đại. Theo nhà nghiên cứu Trần
Kỳ Phương, dựa vào kết quả nghiên cứu của P. Stern, theo nghệ thuật trang trí, bình đồ
kiến trúc cùng với sự phân tích kỹ thuật xây dựng của từng giai đoạn kiến trúc, đồng thời
so sánh với những biến cố lịch sử có liên quan đến sự hưng vong của các vương triều
Chămpa, dựa trên những minh văn liên quan đến từng di tích, quá trình chuyển hóa của
nghệ thuật Chămpa, có thể sắp xếp phế tích đền tháp Chămpa theo những giai đoạn và
phong cách một cách chi tiết như sau.
Phong cách Trà Kiệu sớm – cuối thế kỷ VII. Đây là giai đoạn và phong cách cổ

nhất của nghệ thuật Chămpa. Hiện vật hầu hết tìm thấy từ Quảng Bình đến Quảng Nam,
tiêu biểu là đài thờ Trà Kiệu niên đại cuối thế kỷ VII, hiện đang trưng bày ở Bảo tàng
11


điêu khắc Chămpa (Đà Nẵng). Phong cách này chịu nhiều ảnh hưởng của miền
Amavarati (Nam Ấn Độ).
Phong cách An Mỹ – đầu thế kỷ VIII. Tiêu biểu là sưu tập các bức tượng bán thân
các vị thần Ấn giáo phát hiện ở An Mỹ (Tam Kỳ, Quảng Nam). Bên cạnh sự ảnh hưởng
của nghệ thuật Ấn Độ, nghệ thuật Môn (miền trung Thái Lan) phong cách này mang yếu
tố bản địa Chămpa rõ hơn.
Phong cách Mỹ Sơn E1 – thế kỷ VIII - IX. Hiện vật của phong cách này tìm thấy
ở nhiều nơi nhưng tập trung trong khu Mỹ Sơn. Tác phẩm tiêu biểu là đài thờ và mi cửa
kalan E1 và pho tượng Ganesa đứng ở E5 Mỹ Sơn. Giai đoạn này ảnh hưởng Ấn Độ mờ
dần, mối liên hệ với khu vực láng giềng như Môn, Khmer được tăng cường, tính chất bản
địa ngày càng khẳng định.
Phong cách Đồng Dương – nửa cuối thế kỷ IX – đầu TK X: Phần lớn hiện vật
thuộc phong cách này tìm thấy ở Đồng Dương (Thăng Bình, Quảng Nam) và ở khu Mỹ
Sơn, trong đó có tấm bia tìm thấy tại Đồng Dương có niên đại năm 875 nói về việc xây
dựng một Phật điện lớn. Phong cách này đạt đến đỉnh cao của những yếu tố bản địa, nhất
là trong việc bộc lộ nội tâm con người.
Phong cách Khương Mỹ – thế kỷ X. Phong cách này kế thừa phong cách bản địa
trước đó và có thêm ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer. Các tác phẩm diễn tả chân thực,
mộc mạc, mang vẻ đẹp hiện thực.
Phong cách Trà Kiệu muộn – cuối thế kỷ X. Phong cách này thể hiện sự hiền hòa,
duyên dáng, tiêu biểu là các vũ nữ Trà Kiệu trên các bệ thờ tại đây. Đây là giai đoạn đạt
đỉnh cao của nghệ thuật Chămpa cùng với giai đoạn Đồng Dương, nhưng phong cách Trà
Kiệu muộn còn có sự tiếp thu yếu tố của nghệ thuật Java và Khmer.
Phong cách Chánh Lộ – thế kỷ XI. Đây là khu phế tích kiến trúc, các hiện vật tìm
thấy ở đây mang những đặc điểm bảo lưu và kế thừa của phong cách Trà Kiệu muộn.

Trong giai đoạn này có các nhóm tháp Chiên Đàn (Quảng Nam), Pô Nagar (Nha Trang),
Bánh Ít, Tháp Bạc, Bình Lâm (Bình Định),Tháp Nhạn (Phú Yên), một số tháp trong khu
Mỹ Sơn.
Phong cách Tháp Mẫm – thế kỷ XII đến XIII. Chủ yếu thể hiện trên các nhóm
tháp và tác phẩm tìm thấy từ Quảng Ngãi đến Bình Định. Nổi bật là tính hoành tráng và
những đặc trưng thống nhất dễ nhận biết bở các tác phẩm. Tấm bia ở nhóm G khu Mỹ
Sơn có niên đại năm 1157 xác định niên đại cho phong cách này. Ngoài ra có thể nhận
thấy ảnh hưởng của nghệ thuật Bayon, Angkor Vat, và nghệ thuật Đại Việt thời Lý trong
phong cách này.
Phong cách Pô Klaung Garai – cuối thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XVI. Đây là phong
cách cuối cùng của nghệ thuật Chămpa, thể hiện ở vùng Ninh Thuận – Bình Thuận và
Tây Nguyên. Sau giai đoạn này nghệ thuật Chămpa dần dần mai một. Có thể tham khảo
12


thêm cách một phân chia phong cách nghệ thuật Chămpa trong một công trình nghiên
cứu gần đây:
Phong cách Mỹ Sơn E1: phong cách cổ, thế kỷ VIII.
Phong cách Hòa Lai: cuối thế kỷ VIII – giữa thế kỷ IX.
Phong cách Đồng Dương: Giữa thế kỷ IX – đầu thế kỷ X.
Phong cách Mỹ Sơn A1: Thế kỷ X
Phong cách Chiên Đàn: Thế kỷ XI – XII.
Phong cách Bình Định: Thế kỷ XII, XIII, XIV.
Phong cách Pô Klaung Garai: Thế kỷ XIV – XVI
Những năm gần đây loại hình di tích thành cổ Chămpa đã được phát hiện và khai
quật ở nhiều tỉnh miền Trung nước ta. Người Chăm đã xây đắp nhiều tòa thành cổ có
chức năng quân sự và làm trung tâm chính trị của từng tiểu vương quốc cũng như của cả
vương quốc Chămpa. Các tòa thành cổ được ghi chép trong sử liệu cũng như được phát
hiện trên thực địa đều có một số đặc điểm chung:
Thành thường được xây dựng ở vị trí trọng yếu của các đồng bằng lớn ven biển

miền trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa… ven các
con sông lớn Thu Bồn, Trà Khúc, Sông Côn, Đà Rằng…
Quy mô các thành khá lớn, quy chỉnh hình vuông hay chữ nhật, có hệ thống hào
nước bao quanh tạo thành căn cứ vững chắc.
Kỹ thuật xây thành tương đối giống nhau, đắp đất và xây gạch bên ngoài.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử những tòa thành ấy đã mất dần vai trò quan trọng của
chúng. Do chiến tranh hay thiên nhiên phá hủy rồi dần bị lãng quên, hay được thời sau sử
dụng lại nên ở nhiều di tích thành cổ yếu tố văn hóa Chămpa không còn nhiều mà thường
bị phủ một lớp văn hóa muộn hơn.
 Lễ Ka-te và nét văn hóa của cộng đồng Chăm.
Trước năm 1965, Kate chỉ là một lễ tục trên đền tháp, có sự hiện diện của một số tín
đồ chăm Ahier, rất thưa thớt. Vì theo phong tục, dâng hiến lễ vật cho thần linh trong ngày
Kate trên đền tháp không phải là sự bó buộc. Chính vì thế quang cảnh Kate trước năm
1965 không mấy linh đình và không có nhiều quần chúng và khán giả tham dự.
Và năm 1965 ông Dương Tấn Sớ lúc đó là quận trưởng quận An Phước đề nghị với
các chức sắc Ahier cho phép đưa vào lễ tục Kate phần văn nghệ để đón chào phái đoàn
Việt Nam đến viếng thăm dân tộc Chăm nhân dịp lễ Kate. Kể từ khi đó, lễ tục Kate co
thêm phần hội, rồi về sau càng ngày càng phong phú, linh đình cho đến ngày nay.
13


*Nguồn gốc và ý nghĩa của tên gọi Kate
Dựa theo từ điển của E. Aymonier – A. Cabaton, Kate là danh từ có nguồn gốc từ
Katik của Hindu (Hindu giáo) và từ kattika của Phạn ngữ (Sanskrit) Ấn Độ. Ý nghĩa của
từ Kate này được dịch theo nghĩa hẹp là lễ cúng vào tháng 7 lịch Chăm. Tuy nhiên, một
điều chú ý ở đây là Ấn Độ không có tục lễ cúng này.
Ngoài ý nghĩa được dịch theo từ Kate của Hindu và Ấn Độ, Kate còn có ý nghĩa
chung rộng hơn là một lễ tưởng nhớ tổ tiên, một số vị thần linh, một số vua chúa và các
nhân vật có công với đất nước và dân tộc. Ý nghĩa này được thể hiện rõ qua nội dung tổ
chức lễ hội kate theo văn bản chữ Chăm (akkar thrah) bao gồm: kinh hành lễ Kate (danak

ngap yang Kate), bài thánh ca của các vị thần (damnây dom po yang) và những lời cầu
nguyện của người tham dự lễ (panuec alankar po yang).
Từ những điều lý giải trên, ta có thể kết luận Kate là một nghi lễ có nguồn gốc bản
địa (tín ngưỡng địa phương) mang bản sắc riêng của Champa xưa. Tuy nhiên, về sau lễ
hội Kate có một số yếu tố ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ và Hồi giáo. Minh chứng
cho chúng ta thấy rõ, tuy ba cộng đồng tôn giáo Chăm Ahier, Chăm Awal và Chăm Islam
đều có chung một lễ nghi, lễ tục ban đầu. Tuy nhiên, về sau khi chịu sự ảnh hưởng từ Hồi
giáo và Ấn giáo nên có sự khác biệt theo tín ngưỡng và lễ cúng riêng.
*Lễ hội Kate của người Chăm xuất hiện khi nào?
Nếu để chọn một khoảng thời gian chính xác để nói về sự ra đời và hình thành của
lễ hội Kate thì thật khó, vì chiến tranh giữa vương quốc Champa với các triều đại phong
kiến Việt Nam đã hủy hoại rất nhiều tài liệu.
Để xác định rõ hơn mốc thời gian và quá trình hình thành nên lễ hội Kate ta có thể
nhìn nhận lại quá trình lịch sử từ thế kỷ II đến thế kỷ XII khi Champa còn là một vương
quốc thịnh vượng. Đáng nói hơn, đây là giai đoạn mà Ấn độ giáo du nhập vào và phát
triển mạnh mẽ tại Champa. Sự du nhập này đã hình thành nên các nghi lễ cúng tế của
người Chăm trong những sự kiện quan trọng như hoàn thiện công trình đền tháp, thu
hoạch mùa màng, đánh thắng trận, đăng cơ của vua chúa… Tuy nhiên, thời kỳ này cũng
chưa có một minh chứng nào cụ thể nói về sự hình thành của lễ hội Kate. Đa phần chỉ nói
về những lễ nghi, lễ tục, nghi thức thờ cúng trong những dịp trọng đại.
Mãi cho đến thế kỷ XV (1471), khi thủ đô Vijaya (Bình Định) bị suy tàn, đánh dấu
cho nền văn minh Champa đã sụp đổ, kéo theo đó là ảnh hưởng của Ấn Độ giáo cũng đi
xuống và nhường chỗ lại cho Hồi giáo. Dựa theo nhiều ghi chép về tiếng Phạn trên các
bia ký và tài liệu của Champa trong giai đoạn này. Hồi giáo đã bắt đầu phát triển mạnh và
ảnh hưởng ở phía Nam Champa, vùng Panduranga (Ninh Thuận và Bình Thuận nay) và
đã xác lập một nền văn minh mới. Tuy phát triển cực thịnh nhưng nền văn minh này còn
lưu giữ lại một số tàn dư của Ấn Độ giáo kết hợp với những tín ngưỡng địa phương.
Cũng từ đây, các tín ngưỡng thờ cúng trong Ấn Độ giáo, Hồi giáo và tín ngưỡng địa
phương đã dần hình thành nên nghi thức cúng tế thường niên vào tháng 7 lịch Chăm.
14



Sau quá trình du nhập và phát triển của Hồi giáo vào thế kỷ XV tại xứ
Panduranga. Một nghi thức cúng tế, kèm theo đó là các lễ nghi, lễ tục đã hình thành theo
phương thức mới bao gồm các tín ngưỡng của Ấn Độ giáo, Hồi giáo và tín ngưỡng địa
phương. Để minh chứng cho điều này, ta có thể thấy rất rõ, trong lễ hội Kate có chứa
đựng các yếu tố: Ấn Độ giáo (tục cúng tế đền tháp, tượng thờ, tầng lớp tu sĩ (Basaih) và
lời văn cúng tế thền Siva (Po Ginuer Mantri) của Chăm Aheir), Hồi giáo (cúng tế tượng
thần Poklong Grai và Po Rome có đội một loại mũ hình ống). Và có lẽ, lễ hội Kate có thể
hình thành trong giai đoạn này với các yếu tố rõ nét và riêng biệt nhất định.
Thông qua những điều trên, ta có thể nhận định rằng: Lễ hội Kate được hình thành
trên những nền tảng về tục cúng lễ và tín ngưỡng của Ấn Độ giáo từ thế kỷ II đến thế kỷ
II. Về sau, nó được lan tỏa và hình thành nên lễ hội khi có sự ảnh hưởng và dung hòa của
Hồi giáo từ thế kỷ XV và tín ngưỡng địa phương.
*Ai là chủ nhân chính trong việc tổ chức lễ hội Kate?
Trong suốt tiến trình lịch sử được tiếp biến bao tín ngưỡng, tôn giáo từ bên ngoài
vào. Người Chăm đã có sự phân chia cộng đồng về mỗi tín ngưỡng tôn giáo nhất định.
Cụ thể bao gồm Chăm theo Hồi giáo, Chăm theo Ấn giáo, Chăm theo Hồi giáo truyền
thống, Chăm Thiên chúa giáo và Chăm Tin lành. Tuy nhiên, đến ngày nay chỉ còn hai bộ
phận chính là Chăm Ahier theo tôn giáo Bà La Môn và Chăm Awal theo tôn giáo Bà Ni.
Theo đó, Chăm Ahier theo tôn giáo Bà La Môn nổi bật với lễ hội Kate còn Chăm
Awal theo tôn giáo Bà Ni thì nổi bật với lễ hội Ramưwan. Hai cộng đồng dân tộc Chăm
này tuy tách rời nhau về các phong tục, tập quán tín ngưỡng nhưng vẫn thường xuyên
liên hệ qua lại với nhau khi các lễ hội, lễ tục của dân tộc mình được diễn ra. Điều này
thông qua sự kính viếng, dâng kính lễ vật để cầu an và tham gia trực tiếp vào lễ hội.
Chính vì thế, mà lễ hội của cộng đồng nào thì cộng đồng đó là người chủ trì buổi lễ trong
suốt quá trình diễn ra. Tuy nhiên, đối với lễ hội Kate của người Chăm thì còn có sự góp
mặt của một dân tộc nữa có vai trò quan trọng, đó là cộng đồng người Raglai.
Nhắc đến bộ phận người tham gia trực tiếp vào lễ hội Kate, ngoài bộ phận người
Chăm Awal đến tham viếng và dâng kính lễ hội. Bộ phận người Raglai là bộ phận đóng

một vai trò hết sức quan trọng để tạo nên tính thành công của lễ hội. Bởi lẽ, chính người
Raglai là người giữ những đồ vật quan trọng của vua chúa như áo, váy, khăn mão, còng
tay, hoa tai, cùng với đó là các đồ vật cúng lễ như tô, bát, chén… được làm bằng vàng và
bạc. Ngoài ra, những lễ vật cúng tế như trầu cau, đậu, dê, nếp… cũng đều do người
Raglai chuẩn bị.
Dựa theo tiến trình lịch sử và văn hóa của tài liệu Chăm ghi chép. Theo đó, người
Raglai là một bộ phận thần dân của Champa xưa và người Raglai chính là người em út
của người Chăm theo sự lưu truyền trong tập quán mẫu huệ. Chính vì thế mà mối gắn kết
giữa hai dân tộc chính là mối gắn kết của chị em ruột chung một mẹ goi là Chăm sa – ai
Raglai ader. Quan trọng hơn nữa, trong tập quán mẫu hệ, người em út chính là người thừa
15


kế tài sản, giữ đồ gia bảo vả thờ phụng tổ tiên. Chính vì thế, mà hầu hết các đồ vật quan
trọng người Raglai đều lưu giữ và bảo quản hết.
Tóm lại, khi nói về tính chủ đích trong việc tổ chức lễ hội kate thì người Chăm và
người Raglai đóng vai trò quan trọng nhất để quyết định tính thành công của lễ hội. Còn
người Chăm Awal cũng như một số tín đồ khác chỉ đóng vai trò đến tham gia và công
hiến lễ vật để cầu nguyện chứ họ không đứng ra tổ chức. Thế nhưng, nếu xét về phương
diện văn hóa, lịch sử và cộng đồng thì lễ hội Kate là di sản vắn hóa của cả chúng Champa
vùng Panduranga.
*Thời gian và địa điểm tổ chức lễ hội Kate
Lễ hội kate của người Chăm tại Ninh Thuận được diễn ra trong vòng 3 ngày.
Thường được bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 theo lịch Chăm (khoảng 25/9 – 5/10 dương
lịch). Địa điểm được hơn để tổ chức là đền tháp Po Nagar (thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu,
huyện Ninh Phước), tháp Po Klaong Garai (phường Đô Vinh, TP. Phan Rang – Tháp
Chàm) và tháp Po Rome (thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước), tỉnh Ninh
Thuận.
Theo trình tự tổ chức của lễ hội, quy trình được bắt từ từ đền tháp cho đến các
làng xã và mỗi gia đình. Theo đó, tên gọi của từng nơi tổ chức là: đền tháp (Bi môn, Ka

lan), làng (Paley) và từng gia đình (Nga wôm). Quy trình này được xem như một dòng
chảy phong phú theo suốt thời gian hàng ngàn năm nay.
*Quá trình tổ chức lễ hội Kate
Quá trình tổ chức lễ hội Katê của người Chăm tại Ninh Thuận diễn ra ở 3 đền tháp
trong cùng ngày, cùng giờ. Các nghi lễ cơ bản giống nhau về nội dung, nghi thức hành lễ.
Thời gian diễn ra lễ hội dễ kéo dài trong vòng ba ngày. Ngày đầu tiên sẽ diễn ra ở trên
các đền tháp, ngày thứ hai tại làng và ngày thứ ba là tại nhà.
*Trên đền tháp
Bắt đầu tiến hành nghi lễ cúng tế trên đền tháp là sự chủ trì của thầy cả sư hay còn
gọi là vị chủ lễ thực hiện nghi thức đầu tiên trên đền tháp. Cùng với vị cả sư là thầy kéo
đàn Kanhi hát thánh ca, bà bóng dâng lễ vật lên các vị thần, ông từ chủ trì lễ tắm tượng
cùng một số tu sĩ Bà la môn phụ lễ.
Các lễ vật dâng cúng Katê tại đền tháp bao gồm: 1 con dê, 3 con gà làm lễ tẩy uế ở
tháp, 5 mâm cơm, canh cúng với thịt dê, 1 mâm cơm với muối vừng, 3 ổ bánh gạo và hoa
quả. Ngoài ra còn có rượu, trứng, trầu cau, xôi chè… Đây là những lễ vật được bay cúng
trên các tháp, riêng dưới chân tháp còn có hàng trăm mâm lễ vật khác cũng được bày ra
từ những người đi tham gia lễ.

16


*Trình tự theo các bước, nghi thức cúng tế sẽ được thực hiện theo quá trình như sau:
Đầu tiên là lễ đón rước y phục do người em út Raglai đem từ trên núi xuống lên
trên các đền tháp. Lễ rước y phục của vị thánh mẫu Po Ina Nagar, buổi lễ thường được
bắt từ 7 giờ sáng. Các đồ vật trong lễ được đón rước một cách trang nghiêm và cẩn trọng
trước khi thực hiện các nghi lễ tiếp theo.
Tiếp theo là lễ mở cửa tháp diễn ra tại 3 đền tháp gồm tháp Po Nagar (thôn Hữu
Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước), tháp Po Klaong Garai (phường Đô Vinh, TP.
Phan Rang – Tháp Chàm) và tháp Po Rome (thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh
Phước) tháp tại cụm tháp Po Klaong Garai).

Sau lễ mở cửa tháp là lễ tắm tượng thần, gọi theo tiếng Chăm là Manei yang, lễ
mặc y phục cho tượng thần (Anguei khan aw kapo) và cuối cùng là phần đại lễ (adaoh
tama). Phần đại lễ thường bắt đầu từ 9h sáng kéo dài đến 11h trưa. Hầu hết, tất cả các lễ
thực hiện tại đền tháp đều diễn ra cùng thời gian và cùng địa điểm.
Tại làng và tại gia đình
Sau phần lễ cúng tế trên các đền tháp là nghi thức cúng lễ tại làng. Song song
trong nghi thức cúng lễ tại làng này là phần hội. Để chuẩn bị cho phần lễ và phần hội tại
làng, dân làng phân công nhau quét dọn đền thờ, ngôi nhà chung của làng, chuẩn bị sân
khấu, sân bãi… Cùng thời gian đó một bộ phận khác lại chuẩn bị lễ vật cúng thần.
Nghi thức làm lễ tại làng cũng được tổ chức trang trọng không kém gì như ở trên
các đền tháp. Vì tín ngưỡng là mỗi làng thờ một vị thần riêng nên trong lễ cúng tế thần
17


làng, chủ tế lễ không phải là chức sắc tôn giáo mà thường được dân làng tôn vinh hoặc
người có uy tín và tinh thông phong tục tập quán. Ông là người thay mặt cho dân làng
dâng cúng lễ vật cho thần và cầu mong thần sẽ phù hộ, độ trì ban phước lành cho làng.
Khác với những nghi thức trang trọng được tổ chức tại các đền tháp. Quá trình lễ
diễn ra ở làng là lúc tổ chức các hoạt động gắn kết cộng đồng như thi dệt vải (làng Mỹ
Nghiệp), thi đội nước, đá bóng, văn nghệ…
Kết thúc lễ Katê ở làng là lễ Katê ở các gia đình. Chủ lễ cúng Katê là người trong
gia đình hoặc là người lớn tuổi trong tộc họ. Cũng như những ngày quan trọng trong văn
hóa người của người Việt, vào ngày này, mọi thành viên trong gia đình đều có mặt đông
đủ để cầu mong tổ tiên, thần linh phù hộ cho làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn. Không
chỉ vậy, đây cũng là dịp ông bà, cha mẹ, giáo dục con cháu kính trọng tổ tiên. Điều đặc
biệt, lễ kate tổ tại gia đình là khoảng thời gian sum hợp tràn ngập tiếng cười.
*Nội dung và ý nghĩa của lễ hội Kate.
Lễ hội Kate được tổ chức mỗi năm một lần vào tháng 7 lịch Chăm nhằm để tưởng
nhớ các vị Nam Thần như Pơ Klaong Garai, Po Rome... Lễ hội được diễn ra trên không
gian rộng lớn từ đền tháp (bimong – kalan) – làng (palei) – đến gia đình (sang danaok).

Lễ hội được lần lượt tổ chức theo thứ tự trước sau tạo thành một dòng chảy lễ hội Chăm
phong phú, đa dạng.

Lễ hội Kate là một lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa của người Chăm.
Nơi ấy chính là tấm gương phản chiếu sinh hoạt của một cộng đồng, là nơi hội tụ những
18


giá trị, tinh hoa văn hóa. Do đó lễ hội không chỉ gắn liền với đền tháp cổ kính – nơi
ngưng tụ những giá trị kỹ thuật và mỹ thuật cao nhất của nền văn hóa Chăm, mà còn đem
đến một phần khác của văn hóa như đồ cúng tế, y phục, nhạc cụ, những bài thánh ca, ca
ngợi các vị vua hiền có công với dân, và hát kể về công việc đồng án, mùa màng, sản vật
trăm hoa trăm quả trăm nghề. Lễ hội còn xuất trình trước công chúng một nền nghệ thuật
ca – múa – nhạc dân gian mang lại một phong cách riêng biệt và độc đáo.
Lễ hội Kate là giây phút thiêng liêng của người Chăm hành hương về cuội nguồn dân tộc,
đánh thức tháp chăm cổ kính lặng ngủ dưới lớp bụi thời gian bừng dậy, sáng lòa tỏa ra
trăm ngàn hương trong vườn hoa văn hóa của đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lễ hội Kate là biểu hiện của một nữa cấu trúc lưỡng hợp thuộc về đương đối lập
với yếu tố âm – Lê cabur ( lễ cúng các vị nữ thần và tháng 9 lịch Chăm). Sự đối lập, liên
kết giũa Nam thần (po) – Nữ thần (bia), Trời – Đất (lingik – tanah), Đực – Cái (likei –
kumei), Mẹ - Cha (ama – amaik), Tối – Sáng hoặc Mặn – Lạt (yuer – klam)... Là nét đặc
trưng phổ quát trong nền văn hóa Chăm được thể hiện sâu sắc trên nhiều bình diện như
nghi lễ hội hè, ăn mặc, màu sắc cho đến loại hình biểu diễn nghệ thuật khác. Tất cả yếu tố
trên toát lên nội dung, hàm chứa một ý nghĩa phồn thực với sự liên kết lứa đôi, cầu mòn
cho sự sinh sôi nảy nở của con người, vật nuôi, cây trồng... Bản thân lễ hội Kate chứa
đựng cốt lõi nội dung và ý nghĩa ấy.
 Các hoạt động sinh hoạt tạo nên nét văn hóa đặc sắc.
Trong quá trình hình thành và phát triển của vương quốc Champa, trải qua những thời
kỳ phát triển nhất trong lịch sử. Đã cho chúng ta thấy được rằng một cộng đồng đã từng
phát triển mà ở đó người việt chúng ta phải học hỏi theo. Người Chăm cổ có nền kinh tế

đa thành phần, đó là nông nghiệp đa canh: trồng lúa, dâu tằm, bông, hoa màu… Lâm
nghiệp: khai thác gỗ và hương liệu quý… Ngư nghiệp: đánh bắt thủy hải sản và thủ công
nghiệp: làm gốm, thủy tinh, rèn sắt, chế tác đồ trang sức và mỹ nghệ vàng bạc… Đặc biệt
người Chăm cổ giỏi nghề buôn bán bằng đường biển và đường sông. Để thích ứng với
vùng đất gần như quanh năm khí hậu khô hạn, người Chăm cổ đã có những hệ thống thủy
lợi từ việc lợi dụng những mạch nước chảy từ núi, đồi gò mà xây dựng giếng, hồ đập…
Sự phong phú và đa dạng của những di tích di vật Chămpa còn lại đến nay cho thấy một
xã hội rất phát triển trên cơ sở một nền kinh tế có cơ cấu thích hợp mà nổi bật là tính
hướng biển.
 Thương nghiệp – ngoại thương
Vương quốc Chămpa nằm trong khu vực Đông Nam Á nên đã mang đầy đủ các đặc
điểm của khu vực Đông Nam Á. Được bao bọc bởi bán đảo Malacca, quần đảo Inđônêsia
và quần đảo Philippin, chính vì vậy mà khu vực này được mệnh danh là Địa Trung Hải ở
phương Đông.
Vương quốc Chămpa với các loại lâm thổ sản, thuỷ hải sản quý hiếm: trầm hương,
quế, ngà voi, sừng tê giác. Những tài nguyên quý hiếm cộng với những thuận lợi về
19


đường biển đã khiến cho Chămpa trở nên có một lực hấp dẫn lớn đối với tàu buôn nước
ngoài.
Theo tài liệu của Trung Quốc thì Chămpa lấy việc trao đổi buôn bán làm nghề
chính. Họ đem nguồn tài nguyên phong phú của mình như: trầm hương, quế, ngà voi,
sừng tê giác… để đổi lấy những vật dụng thiếu như: gấm vóc, đá quý…
Do vị trí địa lý thuận lợi, nhất là những lợi thế về đường biển nên việc giao thương
bằng đường biển rất phát triển. Đồng thời với giao thương bằng đường biển, nghề đóng
tàu cũng có cơ hội phát triển.
Quá trình giao lưu buôn bán giữa Chămpa và các nước diễn ra rất sớm và có thể
coi đây là cửa ngõ của sự tiếp nhận các luồng văn hoá từ Âu tới Á du nhập sang. Đặc
biệt, vương quốc Chămpa đã chịu ảnh hưởng rất lớn của văn minh Hồi giáo và Ấn Độ.

Với lợi thế về đường biển cộng với tài nguyên thiên nhiên phong phú, Chămpa đã
có những hải cảng và đây là cửa ngõ trao đổi mua bán, chính vì vậy mà vương quốc
Chămpa đã phát triển rất nhanh.
Tuy rằng ngoại thương phát triển ở các giai đoạn với những mức độ khác nhau, nhưng
nó đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển chung của vương quốc
Chămpa.
 Hoạt động ngư nghiệp
Lãnh thổ vương quốc Chămpa nằm dọc theo bờ biển miền Trung Việt Nam, đã nổi
tiếng với nhiều sản vật. Đây là nơi “bốn mùa ấm áp không sương tuyết”, “cây cỏ mùa
đông tươi tốt”… cho nên có điều kiện thuận lợi cho ngư nghiệp phát triển. Di chỉ cồn sò
điệp Bàu Dũ (Quảng Nam – Đà Nẵng) đã chứng minh cho hoạt động ngư nghiệp này.
Người Chăm giỏi đi biển, đánh cá, ngoài đánh cá họ còn bắt các loại thuỷ sản như:
điệp, ngao, ốc, cá… với số lượng lớn đến mức hình thành cồn sò điệp. Thuỷ sản quý là
đồi mồi, bối… cũng được cũng được đưa tặng vua chúa Trung Quốc.
Người Chăm không phải là cư dân biển thuần tuý cũng không sống bằng nghề cướp
biển. Buôn bán giữ một vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế Chămpa. Việc trao đổi
hàng hoá dẫn đến xuất hiện các thương cảng trên suốt dọc bờ biển miền Trung nước ta,
tạo điều kiện để trang bị các thiết bị cho tàu thuyền đánh bắt cá, thúc đẩy ngư nghiệp phát
triển.
 Nghề Gốm.
Cho đến nay nghề làm đồ gốm của người Chăm chỉ còn hoạt động tại hai làng thuộc
hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, là nghề “mẹ truyền con nối”.

20


Kỹ thuật chế tác gốm của người Chăm tuy còn khá đơn giản – được làm bằng tay
với công cụ phụ trợ và cách đi xoay người chung quanh nhưng với trình độ tay nghề
thuần thục điêu luyện của các nghệ nhân đã làm cho những cáinồi, cái chảo, cái trả… trở
nên xinh xắn, có kích cỡ như nhau.

Các đồ gốm được chế tác hiện nay gồm các sản phẩm: nồi, trách, lu, chảo, trả,
khuôn bánh… tất cả đều làm bằng đất sét pha cát mịn do bàn tay duyên dáng của người
phụ nữ Chăm làm ra, với kiểu dáng, hoa văn rất phong phú, đa dạng.
Hoa văn trang trí của người Chăm có nhiều loại nhưng phổ biến là loại hoa văn
khắc vạch đã khắc sẵn ở cả hai mặt.

21


Nghề gốm của người Chăm ở Việt Nam có từ lâu đời, được bắt nguồn từ nền văn
hoá sa Huỳnh cách ngày nay 1500 đến 2500 năm, đặc biệt vào thế kỷ VI – VII SCN. Cho
đến nay đã xuất hiện nhiều đồ gốm phong phú về kiểu dáng thể hiện trên các tháp cổ
những hoa văn rất độc đáo và điêu luyện trên khắp các tỉnh miền Trung.
Qua nghiên cứu nghề gốm của người Chăm cho chúng ta thấy một số đặc điểm
sinh hoạt kinh tế văn hoá truyền thống của người Chăm khá phong phú, đa dạng và độc
đáo.
Sản phẩm gốm của người Chăm đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng và thị hiếu không
chỉ ở cộng đồng người Chăm mà còn mà còn được trao đổi rộng rãi với nhiều vùng và
nhiều nơi của các dân tộc khác trong và ngoài nước. Trên cơ sở đó chúng ta phải ra sức
gìn giữ và phát huy nét đẹp cổ truyền củanghề gốm Chăm – một bản sắc văn hoá của dân
tộc Việt Nam.
 Nghề dệt:
Người Chăm có truyền thống trồng bông, kéo sợi và dệt vải lâu đời. Nghề thủ công
truyền thống này đã phát triển cực thịnh dưới thời các vương triều Chămpa cổ và đã hình
thành nhiều trung tâm dệt vải nổi tiếng phục vụ riêng cho các vua chúa.
Vào đầu thế kỷ XX, nghề dệt vải của người Chăm vẫn còn phổ biến ở vùng Ninh
Thuận, và hầu hết phụ nữ Chăm đều biết đến việc kéo sợi, dệt vải.
Trong thời gian gần đây, địa bàn phân bố nghề dệt vải của người Chăm đã thu hẹp lại
rất nhiều, chỉ còn một số làng Chăm ít ỏi như: Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ, Văn Lâm… vẫn
còn cố gắng duy trì nghề dệt, nhưng chỉ bó hẹp trong một số gia đình.

Về nguyên liệu cho ngành dệt: Người Chăm chủ yếu sử dụng các loại chỉ sợi được
kéo từ bông của cây bông để dệt vải.
Kỹ thuật dệt nổi bật là kỹ thuật bắt bông, thể hiện các mô tuýp trang trí trên vải cho
phù hợp với từng tầng lớp người trong xã hội
Trên khung dệt ban: người thợ đã tạo ra các loại vải có khổ từ 40 – 100 cm và chiều
dài khoảng 200cm.
Trên khung dệt dalah: họ đã tạo ra các loại thổ cẩm với nhiều màu sắc sặc sỡ và mô
tuýp hoa văn trang trí độc đáo, hẹp nhưng chiều dài có thể tới 100m.
Ban và Dalah là những sản phẩm dệt tiêu biểu nhất dược người thợ lấy tên của chúng
đặt tên cho hai khung dệt cổ truyền của họ.
 Các nghề thủ công khác
Ngoài nghề gốm và nghề dệt là hai nghề thụ công chính, người Chăm còn đẩy mạnh
việc chế tác công cụ, vũ khí bằng sắt, đóng thuyền, luyện kim… để đáp ứng nhu cầu sản
22


xuất. Do nhu cầu sản xuất và nhu cầu chiến tranh cần nhiều vũ khí cho nên nghề rèn sắt
rất phát triển ở Chămpa. Nghề đóng thuyền của người Chăm cũng đã phát triển từ rất
sớm, từ nhu cầu đánh cá và dùng cho thuỷ quân.
Tóm lại, hoạt động sản xuất của nhiều nghề thủ công dưới thời vương quốc Chămpa
đã đạt tới quy mô toàn dân, thu hút đông đảo nguồn nhân lực của cộng đồng. Thủ công
nghiệp được chuyên môn hoá sản xuất theo từng ngành nghề cụ thể nhất định. Đội ngũ
thợ thủ công trở thành lực lượng lao động đông đảo, có tính chuyên nghiệp cao tại mỗi
làng nghề, mỗi công trường thủ công.
Căn cứ trên nhiều tài liệu ghi lại, cũng như những chứng tích văn hoá khác nhau, ta có
thể khẳng định nền kinh tế Champa tương đối ổn định và phát triển.
Nông nghiệp Chăm có truyền thống lâu đời, có những cơ sở về thiên văn, nông lịch,
thời vụ, đồng thời kỹ thuật canh tác đã đạt được những bước tiến bộ quan trọng, đặc biệt
là trong lĩnh vực thuỷ lợi. Điều này chứng tỏ không phải người Chăm không phải là một
dân tộc chỉ thạo nghề đi biển, đánh cá, mà chămpa còn có một nền nông nghiệp khá vững

chắc.
Người Chăm còn có thị trường buôn bán khá phát đạt, đặc biệt là xuất khẩu các mặt
hàng lâm sản. Các nghề chăn nuôi, khai thác lâm nghiệp, các ngàng thủ công cũng đã
phát triển tương đối.
Như vậy có thễ khẳng định người Chăm đã có chung một nền văn hoá Đông Nam Á
với các dân tộc anh em khác như: Việt, Khmer…trên bán đảo Đông Dương. Mặc dù có
một số khác biệt về phong tục, lối sống nhưng nhìn chung lại có cùng một nền văn hoá
bản địa.
2.4 Nhận xét.
Qua quá trình hình thành và phát triển của đất nước Chăm trên lãnh thổ Việt đã để lại
cho chúng ta nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể rải rác khắp các tỉnh Miền Trung
đến Nam Bộ Việt Nam.
Vốn có một nền văn hoá gần gũi với nhiều dân tộc khác về nguồn gốc, ngôn ngữ, lịch
sử… nên cư dân Chăm có mối quan hệ giao lưu tiếp biến văn hoá với nhiều dân tộc kề
cận từ rất sớm.
Trước hết là giao lưu với các dân tộc ở Tây nguyên. Đây là một quá trình giao lưu đan
xen một cách rõ rệt. Bên cạnh đó, giao lưu với văn hoá Việt là gắn bó, hoà hợp và sâu sắc
nhất. Người ta đã tìm thấy dấu vết văn hoá Đông Sơn trong văn hoá Sa Huỳnh. Ngoài ra,
người Chăm còn giao lưu văn hóa với Ấn Độ nhất là văn hoá tôn giáo và giao lưu với
một số nước ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Do đó, từ nền văn hoá bản địa, người Chăm vốn đã có một nền văn hoá phong phú
của mình nhưng lại tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hoá ngoại nhập để xây dựng
23


cho mình một nền văn hoá đặc sắc hơn, đa dạng hơn. Để rồi cuối cùng tộc người Chăm
cùng cư dân Champa đã để lại cho hậu thế một nền văn hoá độc đáo như Thánh địa Mỹ
Sơn và nhiều đền tháp, tượng, cổ vật quí hiếm…
Từ những giai đoạn đầu tiên của qua trình lặp nước, đồng bao Chăm đã có những nền
văn hóa đầu tiên như Văn hóa Sa Huỳnh hình thành từ thiên niên kỷ I trước công nguyên

là văn hóa gắn liền và có nguồn gốc phần nào của sự di cư từ nhưng người ven biển và
đảo. Đây là một giai đoạn mới của nền văn hóa, và đến giữa thiên niên kỷ I trước công
nguyên vùng đất miền Trung đã bước vào thời sơ kỳ đồ sắt. Trước khi xem Sa Huỳnh có
phải là nền văn hóa tiền than của Champa hay không thì chúng ta nên nhìn nhận một số
đặc điểm nổi bật của nền văn hóa này. Thứ nhất, đồ gốm đã có chân và trang trí hoa văn,
chủ yếu khắc vạch, hình song, có nắp đậy, một số được miết bóng, đó là về đồ gốm. Thứ
hai, người chết được chôn trong vò đất nung (có hình trứng hay hình trụ, đáy cong, cái
lớn đường kính từ 80 – 100 cm, cái nhỏ từ 40 -50 cm), đã sử dụng hình thức cải tang và
hỏa tang, trong các vò chôn có mảnh thủy tinh màu, mã não, … có thể người Sa Huỳnh
đã biết chế tạo thủy tinh, nhưng không hoàn toàn là vậy, vì các mảnh thủy tinh có nguồn
gốc từ nước ngoài và được mài dũa lại khi đến đây. Bên cạnh đó, người ta còn tìm thấy
trong các mộ còn có đồ trang sức pendant hình đầu thú và trang sức vỏ sò của người Nam
Đảo, điều này chứng tỏ sự hòa hợp cộng cư là có thật. Thứ ba, các nhà khảo cổ còn tìm
thấy các khuôn đúc đồng, xỉ đồng, vũ khí sắt, dao, rìu, cuốc, thuổng, và đồ đá,… do đó có
thể khẳng định niên đại của văn hóa Sa Huỳnh là vào cuối thòi kỳ đồ đồng và đầu đồ sắt,
và có sự giao thao, đóng góp của nhóm người di cư từ biển vào là rất rõ.
Cho đến sau này ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độnhưng người Chăm đã có
những sáng tao riêng và mang nét riêng cho mình, đó là chữ Chăm cô, hay sự gia giảm
văn hóa tôn giáo Ấn Độ. Chính hệ thống Ấn giáo đã quy định nên đặc điểm xã hội và các
nghĩa vụ của các tầng lớp. Đặc biệt nó là công cụ để củng cố vương quyền rất hiệu quả
cho vua chúa.
Chúng ta là những người may mắn được kế thừa những di sản văn hoá có giá trị đó thì
không có lý do gì không ra sức bảo tồn và phát triển nó để làm tôn vinh giá trị của các di
sản – tài sản vô giá của nhân loại.

24


3. KẾT LUẬN.
Champa từ thế kỉ II đến cuối thế kỉ XV là một phần quan trọng của lịch sử Việt

Nam nói chung và lịch sử miền Trung nói riêng. Nhưng để hiểu rõ tường tận là một điều
không hề dễ dàng chút nào. Nhưng ở đây có thể rút ra mấy nét như sau.
Cũng như các quốc gia cổ đại ở Đông Nam Á, Champa không thoát khỏi cái vòng
ảnh hưởng văn hóa từ các nền văn minh lớn mà từ Ấn Đô và Trung Hoa là chủ yếu.
Nhưng khác với trường hợp của các quốc gia Băc Đông Nam Á, văn hóa Ấn mới là cái
chủ đạo ảnh hưởng đến Champa chứ không phải là Trung Hoa. Bên canh đó, dựa trên
những cơ sở văn hóa bản địa, nhưng đã có sự giao thoa từ việc sống cộng cư giữa nhóm
ngữ hệ Mã Lai – Nam Đảo với Môn – Khơme, giữa người biển và rừng, nhưng có lẽ văn
hóa biển chiếm ưu thế hơn cũng như nhóm người theo ngữ hệ Malayo – Polynesien
chiếm ưu thế. Chính đều này đã tạo nên nền văn hóa tiền Sa Huỳnh, rồi đến Sa Huỳnh kết
hợp với văn minh Ấn Độ đã đưa cư dân nơi đây đến ngưỡng hình thành nhà nước. Nhưng
chỉ khi có một nguyên nhân trực tiếp mà ở đây là chống ngoại xâm – nhà Hán mới thực
sự cho ra đời Lâm Ấp – Champa.
Suốt 15 thế kỉ thực sự có vai trò trong lịch sử Champa đã trải qua nhiều giai đoạn
như: Sinhapura, Virapura, Indrapura, Vijaya. Mỗi thời kì có một đặc điểm riêng nhưng
nhìn chung vẫn là sự đấu tranh và phát triển để đi tới thống nhất. Có thời kì làm được
nhưng có thời kì phá vỡ nó. Chính những cơ sỏ xã hội mà đặc biệt là đẳng cấp trên – quý
tộc với hệ thống tôn giáo của mình tạo nên những khác biệt giữa các vùng mà tiêu biểu là
Nam và Bắc Champa. Sự đấu tranh giành quyền cai trị đã diễn ra, nhưng một lần nữa ta
thấy được vai trò của thần thánh troing cuộc sống Champa, đó là công cụ đắc lực để đi
đến thống nhất thay vì dùng bạo lực.
Nói về văn hóa, mặc dù là mang tiếng ảnh hưởng mạnh từ Ấn Độ nhưng người
Chăm đã có những sáng tao riêng và mang nét riêng cho mình, đó là chữ Chăm cô, hay
sự gia giảm văn hóa tôn giáo Ấn Độ. Chính hệ thống Ấn giáo đã quy định nên đặc điểm
xã hội và các nghĩa vụ của các tầng lớp. Đặc biệt nó là công cụ để củng cố vương quyền
rất hiệu quả cho vua chúa.
Suốt từng đó thế kỉ, Champa luôn thay đổi chính sách đối nôi và đối ngoại cảu
mình, mà trong đối ngoại hai hướng chính họ đặc biệt quan tâm là Đại Việt phía Bắc và
Chân Lạp ở phía Tây. Những thời kì khác nhau Champa lại ngả về một hướng, và chính
bất cẩn giai đoạn trị vì của Chế Bồng Nga trong đối nội lẫn đối ngoại là nguyên nhân làm

Champa dần dần mất đi vai trò lịch sử của mình, và còn một nguyên nhân nữa là do họ
không theo kịp nền văn minh thứ Hai của nhân loại.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×