Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

tìm hiểu văn hoá Cam pu chia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.92 MB, 41 trang )

Trung học phổ thông Cao Bá Quát

TÌM HIỂU
Văn hóa campuchia
Văn hóa campuchia


Học sinh: Bùi Thị Hoàng Oanh
Học sinh: Bùi Thị Hoàng Oanh
Lớp : 10A4
Lớp : 10A4


________________________________________________
________________________________________________
______________________________
______________________________
Văn hoá Campuchia
ền văn hóa Campuchia có lịch sử phong phú đa dạng trải qua nhiều thế kỷ và
chịu ảnh hưởng nặng của Ấn Độ. Nền văn hóa Campuchia cũng gây ảnh hưởng
mạnh lên Thái Lan, Lào và ngược lại. Trong lịch sử Campuchia, tôn giáo có vai
trò lớn trong các hoạt động văn hóa. Trải qua gần 2000 năm, người dân Campuchia đã phát
triển một tín ngưỡng Khmer độc đáo với các tín ngưỡng hỗn hợp gồm tín ngưỡng thuyết vật
linh bản địa và các tôn giáo Ấn Độ như Phật giáo và Hindu giáo. Nền văn hóa và văn minh Ấn
Độ bao gồm cả nghệ thuật và ngôn ngữ đã vươn đến lục địa Đông Nam Á khoảng vào thế kỷ
thứ nhất trước Công nguyên. Người ta cho rằng, những nhà buôn đi bằng đường biển đã mang
phong tục và văn hóa Ấn Độ đến các cảng dọc theo Vịnh Thái Lan và vùng Thái Bình Dương
khi họ buôn bán với Trung Quốc. Quốc gia đầu tiên hấp thụ nền văn hóa và văn minh này là
Phù Nam. Vào những thời điểm nhất định, Cao Miên cũng hấp thụ các yếu tố của văn hóa
Java, Trung Hoa, Lào và Thái Lan.
N


Đa số dân Campuchia là người Khmer và một tỷ lệ lớn hơn thế nói tiếng Khmer. Các ngôn
ngữ khác được sử dụng ở Campuchia có: tiếng Pháp, tiếng Hoa, tiếng Việt và tiếng Anh (đang
ngày càng trở nên phổ biến).
Campuchia có 90% dân số theo Phật giáo Thượng toạ bộ, và phần đa số còn lại theo Hồi
giáo, thuyết vô thần, hoặc thuyết vật linh.

Kiến trúc Khmer
iến trúc khmer phần lớn được biết đến nhờ vào những công trình được xây dựng từ
thời Vương quốc Khmer (khoảng cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13).
K
Phật giáo, Ấn Độ giáo và tư duy huyền thoại có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật trang trí các
công trình kiến trúc vĩ đại này. Đặc trưng cơ bản của kiến trúc thời này là được xây dựng từ
vật liệu gỗ, tre nứa hoặc rơm rạ và đá. Nhưng những gì còn lại ngày nay là các công trình bằng
đá tảng như các bức tường thành, đường sá, ... và các ngôi đền.
Với con đường thì đó là những bao lơn tạc hình rắn Naga chín đầu, vươn cao từ 2-3 mét,
xòe rộng phủ bóng xuống mặt đường dạo. Còn hình thức chung của các ngôi đền là có đỉnh
chóp nhọn, bốn mặt đền được chạm trổ các bức phù điêu miêu tả cuộc sống con người ở thế
giới bên kia, hoặc cuộc sống hiện tại của người dân Vương quốc Khmer bấy giờ, hay cuộc
chiến với nước láng giềng Chăm Pa.
Chiêm ngưỡng những công trình này, ta không thể không khâm phục sức mạnh phi thường
và bàn tay tài hoa của những người dân Khmer xưa. Kiến trúc Khmer cũng có ảnh hưởng lớn
đến kiến trúc của Thái Lan và kiến trúc Chăm Pa tại Việt Nam.
2
Angkor Wat
ngkor Wat (hay Ăng-kor Vat), còn có tên cổ tiếng Việt là đền Đế Thiên, cả
khu đền Angkor được gọi chung là Đế Thiên Đế Thích. Theo tiếng Khmer
Angkor: kinh đô, Wat: đền thờ hay chùa, là một đền thờ vị thần Visnu của Ấn Độ
Giáo tại Angkor - địa điểm của các thủ đô của Đế quốc Khmer. Đây là một trong các là di tích
quan trọng bậc nhất tại Campuchia, được xem là tuyệt đỉnh của nghệ thuật và kiến trúc Khmer.
A

Nằm cách thủ đô Phnôm Pênh 240 km về Hướng Bắc, được xây dựng dưới thời vua Surja-
warman II (1113-1150), Angkor Wat mới đầu để thờ thần Viśnu của Ấn Độ giáo. Về sau, khi
vương triều Khmer theo Phật giáo, Angkor Wat trở thành linh đền thờ Phật. Sau khi kinh đô
của đế quốc Khmer bị người Xiêm phá hủy và các nhà vua Khmer bỏ về Phnom Penh trong thế
kỉ 15, Angkor Wat rơi vào quên lãng, bị rừng già vây phủ và được khám phá lại vào năm 1860
bởi Herri Mouhot.
Khu Angkor Wat có chu vi gần 6 km và diện tích khoảng 200 ha, nơi cao nhất là đỉnh tháp
của ngôi đền chính, có độ cao 65 m. Angkor Wat là đền núi duy nhất ở Campuchia có lối vào
chính ở hướng tây, hướng Mặt Trời lặn.Khu đền chính bao gồm 398 gian phòng với nghệ thuật
chạm khắc đá trên trần phòng, hành lang, các lan can... thể hiện sức mạnh phi thường và bàn
tay điêu luyện của người Khmer cổ đại. Chính phủ Campuchia đã cho tiến hành phục chế, tu
bổ khu di tích và ngày nay, quần thể này là địa điểm thu hút hàng trăm du khách từ khắp nơi
trên thế giới.
Xung quanh ngôi đền, có hào rãnh bao bọc; bên ngoài bức tường có nhiều hồ chứa nước,
sự thiết kế của ngôi đền này rất cân đối và xinh đẹp, có qui mô to lớn, khu vực nằm trong vòng
tường, rộng tới 83610 m².
Trung tâm của thánh điện là một toà tháp cao 61m. Muốn đi tới đó phải qua mấy cửa, một
bậc thềm cao và một sân rộng. Chung quanh toà tháp thấp hơn, đó là dấu hiệu đặc trưng của
toàn bộ kiến trúc.
Với những phù điêu phong phú, nhiều màu sắc để trang trí, hoàn toàn tương xứng với sự
thiết kế cân đối và nghiêm trang. Trên những bức phù điêu đá này, đã miêu tả những cảnh
tượng trong sử thi Ấn Độ. Rất nhiều thần linh nam và nữ vui vẻ nhảy múa với nhau trong tư
thế trêu chọc. Qua một hành lang phù điêu nối tiếp nhau, chạy dài đến mấy trăm thước Anh, đã
thể hiện nhiều nhân vật chân thật trong lịch sử của Campuchia. Hình tượng được mọi người
yêu thích và thường xuất hiện trên phù điêu, chính là vị nữ thần nhảy múa của Campuchia.
Miêu tả
3
Miêu tả đền đưới đây là miêu tả từ ngoài vào, từ dưới lên và từ thấp lên cao và được chia làm
các khu vực.
• Chu vi đền là 6 km vuông, tường đá cao 8 m, bề dày 1 m. Có tất cả 5 tháp, tháp chính

cao 65 m, 4 tháp phụ cao 40 m.
• Con đường dẫn tới chính môn Angkor Wat cũng được làm bằng đá tảng dài 230 mét,
mặt lộ rộng gần 10 mét cao 5 m so với mặt nước hồ trong xanh ở hai bên.
• Chính điện Angkor Wat là một kiến trúc ba tầng, kết nối với nhau nhờ những hành
lang sâu thẳm. Điểm cần lưu ý là toàn bộ kiến trúc Angkor Wat là những phiến đá
xanh, ở đâu cũng thấy chạm trổ hoa văn, phù điêu theo tích xưa chuyện cổ mà các
chuyên gia nói rằng xuất phát từ sử thi Ấn Độ Mahabharata và Raymana.
• Tầng 1: Có thể nói Angkor Wat được xem là công trình được xây dựng vào nền cực
thịnh của Angkor. Có lẽ độc đáo nhất là những bức tranh điêu khắc trên tường , đây có
thể xem là bức tranh điêu khắc trên đá to nhất, dài nhất của thế giới được điêu khắc
hoàn toàn bằng tay. Với bề
cao 2,5 m và chạy dài hơn 800
mét miêu tả những điển tích
trong kinh điển Bà La Môn,
những chiến công của vua
Suryavarman II . Phía trong cùng
của bức tranh là cuộc chiến
khuấy biển sữa trong truyền
thuyết, những chú khỉ và trận
chiến của thần Sita, những điệu
múa của tiên nữ Aspara...
Những đường nét điêu khắc trên
đá tỉ mỉ đến mức người ta lầm
tưởng là chúng được điêu
khắc trên một khuôn mẫu có sẵn.
• Tầng 2 : của ngôi đền là một khoảng sân rộng được bao bọc bởi dãy tường thành, bên
trong là các gian điện thờ các vị thần .Tại các gian điện thờ các vị thần Visnu giáo to
lớn bằng đá đen. Tại tầng 2 có vô số những bức tranh tiên nữ Apsara nhảy múa.
• Tầng 3 là tầng cao nhất, nơi được xem là nơi cư ngụ của thần thánh với độ cao 65 m..
Tầng thứ ba gồm hai hành lang chữ thập cắt nhau thẳng góc ở giữa. Xưa kia trung tâm

đền có tượng thờ bằng vàng thần Vishnu, nhưng tượng đã bị mất. Ngày nay trung tâm
đền có các tượng thờ Phật. Tháp. Tháp trung tâm và bốn tháp chung quanh tạo thành
toà chân trời nổi tiếng của Angkor Wat khi ta nhìn từ đàng xa hay lúc gần đến khuôn
viên đền. Các cầu thang đi lên dốc đứng gần như 45 độ, hẹp và vô cùng khó leo. Bốn
mặt của tháp đã được xây dựng một tháp có cầu thang sắt đi lên.
Đền Angkor là một thành tựu kiến trúc huy hoàng, nó thể hiện một trình độ sâu sắc về thể
tích, không gian và sự tổ hợp kỷ hà. Thời bấy giờ, kỹ thuật phong cách kiến trúc còn hết sức
giới hạn - việc sử dụng đá lại có tính chất như sử dụng gỗ; những kết cấu có hình bán nguyệt
và nóc vòm, là những kỹ thuật mà ta chưa biết - những hiệu quả toàn diện của nó làm cho mọi
người phải ngạc nhiên.
4
Preah Khan
reah Khan là một ngôi đền ở Angkor, Campuchia, được xây vào thế kỷ 12 cho vua
Jayavarman VII. Đền này nằm ở Đông Bắc Angkor Thom và ngay phía Tây
Jayatataka Baray. Preah Khan ít được du khách quan tâm bởi vị trí của nó nằm khá xa
khu trung tâm Angkor. Preah Khan bị quên lãng trong khu rừng già và bị các cây cổ thụ mọc
bao trùm lên. Khi khai quật khu di tích này, tổ chức Quỹ Bia tượng Thế giới đã quyết định giữ
toàn bộ nguyên trạng ban đầu của ngôi đền trong tình trạng đổ nát, tạo cho khu vực có ngôi
đền một không khí rất cổ kính, tôn nghiêm, linh thiêng và hoang dã.
P
Preah Khan cùng với Ta Prom và Neak Pean là một nhóm đền gần Jayatataka. Preah Khan
cũng giống như Bayon và Angkor Thom đều là kiến trúc mang đậm kiến trúc của Phật giáo
được vua Jayavarman VII xây dựng nên. Preah Khan dùng tưởng niệm vua Jayavarman VI.
Preah Khan theo tiếng Campuchia là "gươm thiêng", được chính thức xây dựng vào năm 1191
có chứa tượng vua Dhara Nindravarman II dưới dạng bồ tát Jayavarmesvara. Cũng như Bayon,
đền này là đền Phật giáo nhưng khi vua Jayavarman VII mất, các vị vua sau lên ngôi đã biến
nó thành ngôi đền Ấn Độ giáo. Các kiến trúc ban đầu theo kiến trúc Phật giáo được xây dựng
thêm bệ thờ các thần Ấn Độ giáo như Shiva, Vishnu. Một số điêu khắc được xây dựng trước
đó là các đức Phật bị đục bỏ, thay vào đó là các điêu khắc thêm vào là những họa tiết râu tóc
và các họa tiết khác và biến thành các hiền nhân Rishi Ấn Độ.

Preah Khan rất lớn khoảng 57 ha, được bao bọc bởi bốn lớp tường thành và một hào nước
bên ngoài. Preah Khan không phải chỉ là một đền thờ mà thật ra là một thành phố nhỏ. Những
ký tự tìm được ở Preah Khan có nói đến một cộng đồng hơn 90 ngàn dân sống trong vòng đai
đền.Ngôi đền ngày nay mang đậm tính tâm linh bởi ngôi đền này được xem là "hồ của máu".
Ngoài vị thần thờ chính của ngôi đền là Lokesvaravara thì ngôi đền còn thờ đến 430 vị thần
khác.

5

Miêu tả
• Preah Khan xây dựng ở phía Tây Baray và được xây dựng trên nền đất cao theo đường
cấp. Kết thúc đền nằm ở hướng Tây Đông dẫn đến một hồ nước.
• Cái hào thành bao bọc ngôi đền với chiều dài 800 m và chiều rộng là 700 m rộng 56
hecta. Ở phía ngoài con đường có một khoảng cách nhất định giữa khu vực điện thờ và
khu vực nhà dân.
• Tại vòng thành thứ 3 với chiều dài 200 m, chiều rộng 175 m được làm bằng chất liệu là
đá ong với 4 tháp. Trong đó cái phía Đông là lớn nhất.
• Mặt trong phần lớn khoảng cách giữa bức tường thành và khu điện thờ là những kiến
trúc phụ với những ao nhỏ. Những cái ao này có rất nhiều và chúng có kích thước khác
nhau ở mỗi góc.
• Đường đi vào Preah Khan, hai bên là hàng dài các tượng đèn đá, sau đó là qua một cầu
giống như ở Angkor Thom với hai bên là các thần và quỷ ôm con rắn chín đầu. Điều
này cho thấy Preah Khan trước đây là chỗ ở của hoàng gia, có thể nơi đây Jayavarman
VII làm cung điện trong khi Angkor Thom đang được xây dựng. Qua cầu đá là đến cửa
thành vòng ngoài, cửa thành được bảo vệ bởi các tượng chim thần Garuda to lớn. Trên
cửa là tháp (gopura) rất hùng vĩ. Đi qua hai bức tường thành nữa là đến hệ thống kiến
trúc đền với các điện, hành lang, phòng, đền thờ. Trong điện được gọi là “Điện người
múa”, vì trên mi cửa vào là các điêu khắc vũ nữ apsara rất đẹp, thỉnh thoảng có tổ chức
những điệu múa truyền thống Khmer. Giữa
trung tâm Preah Khan có một tháp hình chuông

(stupa) cho thấy đền Preah Khan ban đầu được
xây là đền Phật giáo.
• Bờ tường phía Đông có rất nhiều cụm tháp to nhỏ,
tuy nhiên những cái này không là gì hết so với
những bức tường điêu khắc và những bức tượng ở
bốn góc được chia thành nhóm và chia nhỏ bởi
những trục tường điêu khắc dẫn đến những điện
thờ.
Đền trung tâm cao 2
tầng hình cột
Ở Preah Khan có một bệ đá khắc chữ, liệt kê các công trình kiến trúc được vua
Jayavarman VII xây dựng , trong đó có 23 tượng đá gọi là Jayabudha Mahanatha được biết là
có đặt ở các thành phố trong đó có Lopburi, Suphan, Ratharaburi, Phetchaburi, Muang Sing
(hiện nay nằm trên lãnh thổ Thái Lan). Tên tượng cho phép ta đoán là các tượng này tượng
trưng cho nhà vua.
Bia đá khắc ở Preah Khan cũng có nói đến 121 nhà nghỉ mà nhà vua xây dọc đường trên
vương quốc. Các nhà nghỉ chân này vẫn còn tồn tại một thế kỷ sau vì Châu Đạt Quan đã viết
về chúng trong chuyến lưu hành ở Angkor của ông như sau "Trên những đường lộ chính, có
các nhà nghỉ tương tự như các nhà nghỉ đưa thư tín của chúng ta". Ngoài ra nhà vua còn cho
xây 102 bệnh viện khắp trên vương quốc mà hiện nay vị trí của 32 bệnh viện này đã được xác
định.
6
Wat Phnom
at Phnom là một ngôi chùa lịch sử và là một trong những chùa quan trọng nhất
ở Phnôm Pênh. Đây là ngôi chùa linh thiêng thu hút khách hành hương từ mọi
miền đất nước và là điểm
W
Chùa được xây năm 1373. Nằm ở độ cao 27 m so với xung quanh, nó là điểm cao nhất
trong thành phố này và cũng là công trình tôn giáo cao nhất. Chùa được một quả phụ giàu có là
Daun Chi Penh xây trên một ngọn đồi nhân tạo, sau

khi một trận lụt lớn đã cuốn trôi các bức tượng
Phật tới đây. Truyền thuyết kể lại rằng sự ra đời
của Wat Phnom gắn chặt với sự khởi đầu của
Phnôm Pênh. Người ta kể rằng năm 1372 bà Penh
(Yea Penh) vớt được một cây gỗ trôi dạt trên
sông. Bên trong cây gỗ là 4 bức tượng Phật. Bà đã
cho đắp một ngọn đồi (phnom có nghĩa là đồi) và
một ngôi chùa nhỏ (wat) ở khu vực mà ngày nay gọi
là Wat Phnom. Sau này, khu vực xung quanh
được gọi theo ngọn đồi (Phnom) và người tạo ra nó
(Penh), vì thế mà có Phnom Penh. Ngôi chùa
hiện đang tồn tại được xây dựng lại lần cuối vào
năm 1926. Đã có nhiều hạng mục thêm vào trong
các thế kỷ qua. Tháp chứa hài cốt lớn nhất chứa
tro của vua Ponhea Yat (1421?-1462), người đã di
chuyển kinh đô của đế chế Khmer từ Angkor về
Phom Penh. Khu vực chùa này là trung tâm lễ hội
của thành phố trong Năm mới Campuchia và
Pchum Benh.
Tháp chứa hài cốt phía trước Wat Phnom
Miêu tả
Chùa có tất cả hai hướng để tham quan, du khách tham quan ngôi chùa sẽ đi một đường và
xuống một đường. Đường lên chùa không cao, phía con đường đi có bức tượng của rắn thần
Naga và 2 con linh sư - những con vật quen
thuộc trong tín ngưỡng của người
Campuchia và là những linh vật được
thấy hầu hết trong đền quần thể đền
Angkor. Phần ngôi chùa phía trên đồi
tôn thờ giống như hầu hết các ngôi chùa ở
Campuchia, phía sau , Bà Pênh được thờ

phía sau chùa rất linh thiêng mà du khách
thường đến cúng bái. Phần tháp màu trắng
được xây dựng lại phía sau tượng bà Pênh
được sơn màu trắng dùng để chứa hài
cốt của vua Ponhea Yat
Tượng vua Ponhea Yat phía cổng đồng hồ cỏ
7
Đền Trapeang Ropeak
ền Trapeang Ropeak, nơi thờ thần Indra - là một trong nhóm 7 ngôi đền còn
nguyên vẹn trong quần thể cố đô cố đô Sambor Prei Kuk được xây dựng vào thế
kỷ 7, nguyên là
kinh đô của vương quốc Chân
Lạp xưa. Nó có niên đại sớm
hơn cả các di tích trong quần
thể Angkor. Các kiến trúc của cố
đô hoàn toàn bằng gạch và
được xây dựng hoàn toàn không
có chất kết dính. Cố đô gồm có
nhiều tháp nhỏ hình ống cao
trong đó nhóm đền Trapeang
Ropeak hầu như còn nguyên vẹn
nhất trong quần thể di tích và là
điểm tham quan hấp dẫn nhất
trong khu di tích vì phần lớn
ngôi đền bị các cây cổ thụ nuốt
trọn mà người ta gọi là nhóm "cây
nuốt đền" .
D
Lịch sử
Đền hiện nay nằm ở vị trí từ

thủ đô Phnom Penh ngược lên
quốc lộ 6 lên thị xã Kompong Thom và sau đó ngược lên hướng Đông Bắc, đi trên con đường
đất đỏ cực kỳ xấu dẫn vào rừng sâu. Khu đền này có 54 cụm tháp lớn nhỏ nằm rải rác trong
khu rừng hoang rộng đến 30km2 .
Sử sách ghi lại thì từ giữa thế kỷ thứ 6, vương quốc Phù Nam đã bắt đầu suy yếu do những
cuộc trường chinh, Bhavavarman - một người thuộc dòng dõi hoàng gia - đã lấy công chúa
Chân Lạp và sau đó được tôn làm vua nước này. Theo các văn bia cổ được tìm thấy ở khu vực
Chamkrong, chính vị vua Bhavavarman đã biến cuộc hôn nhân của mình thành nền móng cho
việc ra đời vương triều Kampuja - ánh bình minh của đế chế Khơme hùng mạnh sau này.
Chính vua Isanavarman I (615 - 635), cháu của Bhavavarman, là người quyết định dựng
kinh đô tại Sambo Prey Kuk vào giữa thế kỷ thứ 7.
Ngay từ khi phát hiện khu đền ẩn mình trong rừng, người ta đã tìm ra nhiều bia ký được
khắc từ thời Isanavarman I cho thấy đó là một kinh thành to lớn và tráng lệ.
Bốn bề cố đô là rừng rậm, đó đây là những phế tích tường thành, hồ công chúa, vọng gác, đền
thờ..., những hình bóng của một kinh đô ngàn năm trước hoàn toàn đổ nát tại các đền đài
chính. Duy chỉ có 2 khu còn nguyên vẹn là Đền sư tử Yeai Pourn và nhóm Đền Trapeang
Ropeak.
Miêu tả
8
Đền Trapeang Ropeak, nơi thờ thần Indra vẫn còn nguyên hình hài, vào bên trong đền
nhiều nơi như đã mục ruỗng, đỉnh tháp đã bị sụp, lộ ra ánh sáng bên trên đỉnh tháp, những rễ
cây cổ thụ đã bao bọc trùm kín cả ngôi đền trông thật ấn tượng và đặc biệt các phù điêu với
nhiều hoa văn, họa tiết cực kỳ tinh xảo và sống động.
Trên vách đền có nhiều lỗ thủng, là nơi người xưa đã đính kim cương và ngọc quí, những
báu vật này đã biến mất một cách bí ẩn. Ở những tháp đền trong khu vực hoàng cung, những
đoạn tường thành với nét điêu khắc tuyệt mỹ vẫn còn nằm rải rác khắp khu rừng, các đền bệ
thờ cúng Linga to lớn và những bức tượng thần Shiva vẫn lăn lóc đây đó theo thời gian.
Những ngôi đền ở đây bị bao bọc hoặc “nuốt chửng” bởi những cây đa hàng ngàn năm
tuổi, nhiều cây trong ruột của nó chỉ còn là dấu vết của những ngôi đền to lớn.Đền vẫn còn là
bí ẩn đối với các nhà khoa học về cách xây dựng đền và cả về lịch sử, niên đại và về các vị vua

trì vì lúc bấy giờ . Đền là nơi cầu mưa và là nơi cúng bái của cả dân làng Sambor vì sự linh
thiêng mà cũng là nơi tiên đế đã mở ra triều đại.
Nghệ thuật kiến trúc Sambor Prei Kuk
Nghệ thuật kiến trúc đền chùa ở Sambor Prei Kuk có phong cách khác với nền nghệ thuật
kiến trúc của Ấn Độ, đền chùa xây bằng gạch, cửa cuốn
bằng đá, thường xây cách biệt nhau hoặc hợp thành từng
cụm. Nghệ thuật tạc tượng cũng thế, mặc dù còn giữ lại một
số nét của các loại hình Ấn Độ, nhưng đã mang phong cách
đặc biệt, độc đáo của nền nghệ thuật tạc tượng Khmer cổ
đã từng tạo nên những pho tượng đẹp như tượng thần
Harihara và pho tượng nửa người ở Uma.
Điêu khắc trên gạch cụm
tháp N7 nhóm B
Tình trạng
Cố đô chìm vào quên lãng tiếp theo hàng ngàn năm xây dựng sau đó khi các triều đại
Angkor quyết định dời đô về Siem Reap để xây dựng một đế chế mới.
Cố đô nằm tại tỉnh Kampong Thom, bị chìm vào rừng sâu và bị quên lãng. Các cây cổ thụ
bao bọc lấy cố đô như minh chứng cho sự trường tồn và một sức sống mãnh liệt. Các rễ của
các cây đại thụ mọc bao trùm lên ngôi đền khiến cho chúng ta cảm giác có sự đấu tranh giữa
các ngôi đền trong cố đô và thiên nhiên - nhưng cuối cùng thiên nhiên cũng đã thắng với các
bộ rễ ôm trọn các ngôi tháp. Sự hủy diệt của thiên nhiên khiến cho ngôi đền rất hoang tàn - gần
như là đổ nát và bị hủy hoại rất nặng nề. Các bức tranh điêu khắc trên đá bị thời gian xóa nhòa
khiến cho việc định hình các tác phẩm này gặp rất nhiều khó khăn.
Sambor Prei Kuk tuy không đồ sộ như Angkor, nhưng vẻ trầm mặc,sự thô ráp toát lên từ
những ngôi đền tháp còn lại sau bao biến thiên của lịch sử cũng đủ làm rung động những ai đã
tới đây .
Đền Preah Vihear
9
rasat Preah Vihear là một ngôi đền toạ lạc trên một chỏm núi thuộc núi Dângrêk
ở Campuchia gần biên giới với Thái Lan. Ngôi đền này được lấy làm tên cho tỉnh

Preah Vihear, nơi nó toạ lạc. Năm 2008, ngôi đền được tổ chức UNESCO liệt kê
vào danh sách di sản thế giới.
P
Lịch sử
Ngôi đền đầu tiên được bắt đầu vào đầu thế kỷ 9 dùng để thờ thần Shiva trong những thế kỷ
tiếp theo. Các di vật được tìm thấy ở tỉnh này cho thấy khu vực này là khu định cư quan trọng
của Đế quốc Khmer trong thế kỷ 12.
Những phần còn sót lại sớm nhất lại có niên đại thời Koh Ker vào thế kỷ 10 khi kinh đô của
Đế quốc Khmer gần hơn so với khi nó ở Angkor. Có một số yếu tố thuộc phong cách Banteay
Srei cuối thế kỷ 10, nhưng phần lớn ngôi đền được lập dưới thời các vua Suryavarman I và
Suryavarman II trong các nửa đầu thế kỷ 11 và 12.
Năm 2007 Campuchia đề nghị công nhận Di sản văn hoá cho đền Preah Vihear nhưng đã bị
UNESCO bác bỏ do còn tồn tại những bất đồng với Thái Lan và vì một phần Thái Lan bác bỏ
và phản đối đề nghị này của Campuchia
Tuy nhiên, một năm sau, được Bộ Ngoại giao Thái Lan ủng hộ, vào ngày 7 tháng 6 năm 2008,
Ủy ban di sản thế giới họp tại Canada đã công nhận đền Preah Vihear là di sản thế giới. Đây là
di sản thế giới thứ ba của Campuchia, hai di sản công nhận trước đó là Đền Angkor Wat
(1992) và Điệu múa hoàng gia (2003). Ngay sau đó, Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan bị trong
nước cáo buộc là vi phạm pháp luật khi ủng hộ Campuchia đăng ký Đền Preah Vihear là di sản
thế giới, và ông này đã phải từ chức. Chính vì điều này mà quan hệ giữa Campuchia và Thái
Lan trở nên căng thẳng.
10

Miêu tả
Đền nằm cheo leo trên dãy núi Dângrêk, một phần vì đền nằm trong khu vực khá nhạy
cảm là đường biên giới giữa Campuchia và Thái Lan.Phần nửa đền nằm bên vườn quốc gia
Khao Phra Viharn của huyện Kantharalak thuộc tỉnh Sisaket của Thái Lan, một nửa đền thuộc
tỉnh Preah Vihear của Campuchia. Do ngôi đền được xây trên một mỏm đá thuộc lãnh thổ
Campuchia (trước đây được cho là lãnh thổ Thái Lan), nhưng lối dẫn vào ngôi đền Preah
Vihear nằm trên một vách đá dựng đứng cheo leo và không thể tiếp cận từ phía Campuchia.

Điều này có nghĩa là, để tham quan được di sản này bắt buộc du khách phải đi từ phía cổng
của vườn quốc gia Khao Phra Viharn của Thái Lan.
Kiến trúc đền tương tự kiến trúc của đền Banteay Srei với điêu khắc trên đá sa thạch cực
kỳ tinh xảo. Phần khu vực xung quanh đền với nhiều thự viện và các tháp cao nhưng hiện nay
phần lớn các kiến trúc phụ xung quanh đền đều bị đổ nát nghiêm trọng.
Kiến trúc phức hợp của ngôi đền chạy theo trục Bắc Nam dài 800 m, và bao gồm một bờ
đường đắp cao và những bậc tam cấp dẫn lên điện thờ nằm trên đỉnh khu vực đền thờ phía
Nam (cao 120 m so với khu Bắc và 525m so với đồng bằng Campuchia). Mặc dù cấu trúc này
khác với những ngôi đền trên núi khác của Campuchia được tìm thấy ở Angkor, nhưng ngôi
đền cũng có cùng mục đích thờ phụng những vị thần ở đỉnh Meru.Trong khi đó các bức tường
thành bao quanh đền lại mang dáng dấp của Wat Phou (Lào)
Cột thứ năm theo kiểu kiến trúc Koh Ker vẫn giữ lại những vết sơn đỏ từ thời gian trước
mặc dù ngói đỏ bây giờ không còn nữa. Cột thứ 4 nằm ở phía sau có từ triều đại Khleang-
Baphuon và là một "kiệt tác của Preah Vihear". Cột thứ 3 lớn nhất và nằm giữa hai phòng lớn.
Muốn đến được đền thờ phải thông qua hai sân liên tiếp nhau.
Điêu khắc đá ở lintel (dãy sa thạch phía trên cửa vào, cửa sổ thường có điêu khắc)
11
Cầu cổ Kampong Kdei
ompong Kdei là một cây cầu cổ có số tuổi trên 1000 năm, nằm trên quốc lộ số
6, con đường huyết mạch dẫn vào thành phố Xiêm Riệp - cố đô của vương quốc
Angkor xưa. Cây cầu được xây dựng dưới thời vua Chayravaman VII. Cầu là di
tích không thể bỏ qua của du khách khi đến tham quan cố đô Siêm Riệp.
K
Miêu tả
Nằm trên quốc lộ số 6 trên đường vào cố đô Xiêm Riệp, cây cầu vẫn sừng sững qua bao nhiêu
năm tháng dù nó được xây dựng từ thế kỷ 12 ( 1186 ) dưới thời vua Chayravaman VII. Cầu dài
khoảng 85 mét, cao 14 mét, mặt cầu rộng chừng 14 mét. Cầu làm kiểu vòm với rất nhiều trụ
bằng đá ong. Kiến trúc cầu tương tự những chiếc cầu vòm bằng đá do người La Mã xây ở
Châu Âu. Ở hai đầu cầu có tượng rắn thần Naga 7 đầu khá linh thiêng được người dân tôn thờ
như thần thánh, thân cầu cũng mang dáng dấp thân hình của rắn thần này. Nhằm mục đích bảo

tồn cây cầu nên khi cho xây dựng lại quốc lộ số 6, người ta đã làm một con đường tránh để
không cho xe tải nặng qua cầu nữa.
Giá trị
Du khách khi tham quan cầu cổ rất thán phục người dân Campuchia xưa làm cách nào để xây
dựng một cây cầu tuyệt vời về nghệ thuật lẫn kiến trúc mà sau 1000 năm vẫn không hề bị hư
hại. Cây cầu vẫn không hề già nua, nó vẫn làm tốt vai trò của nó suốt một ngàn năm và giờ đây
nó là điểm tham quan du lịch không thể bỏ qua trên đường tham quan Angkor Wat.
12
Cung điện Hoàng gia Campuchia
Toàn cảnh cung điện Hoàng gia
ung điện Hoàng gia Campuchia ở thủ đô Phnôm Pênh là một tổ hợp các tòa nhà nơi
Hoàng gia Vương quốc Campuchia được xây dựng từ hơn một thế kỷ trước để phục
vụ việc ăn ở, sinh hoạt của quốc vương, gia đình quốc vương và các quan khách nước
ngoài, nơi đây còn là nơi diễn ra các cuộc thiết triều, các nghi thức ngoại giao và lễ nghi hoàng
gia.
C
Các Vua Campuchia đã ở trong cung điện này kể từ ngày cung điện được xây dựng từ
1866, ngoại trừ có một thời kỳ gián đoạn khi đất nước này dưới quyền cai trị của Khmer Đỏ.
Cung điện được khởi xây sau khi vua Norodom chuyển đô từ Oudong về Phnom Pênh sau giữa
năm 1800. Cung điện nhìn về hướng Đông và tọa lạc tại bờ Tây của ngã 4 các phân nhánh của
sông Mêkong gọi là Chaktomuk.
13
Chùa Bạc - công trình nằm trong khu vực Hoàng Cung
Hoàng Cung bao gồm một khu phức hợp các di tích bao gồm Hoàng cung với Chùa Bạc
và là sự kết hợp của rất nhiều công trình kiến trúc khác cộng với nhựng khu vườn với rất nhiều
hoa kiểng quý đã nhiều năm tuổi. Hoàng cung và Chùa Bạc tạo thành một quần thể kiến trúc là
biểu tượng cho đất nước Campuchia. Công trình nằm quay mặt ra bờ sông thoáng mát , là một
đỉa điểm tham quan không thể thiếu trong cuộc hành trình khám phá đất nước Campuchia.
Vị trí
Tòan bộ công trình được xây dựng kiên cố bao gồm nhiều công trình hình tháp cao chót

vót - một kiến trúc tiêu biểu cũa xứ sở chùa Tháp. Tòan bộ công trình được ngăn cách với con
đường phía ngoài bằng môt bức tường thành với hàng lọat điêu khắc . Các công trình bên trong
được trang trí công phu và chăm sóc kỹ lưỡng cùng với khu vườn đầy hoa . Trừ khu vực sinh
sống của Hoàng gia (Cung điện Khemarin), các nơi khác trong Hoàng Cung và Chùa Bạc được
mở cửa cho du khách tham quan. Lối vào Hoàng Cung ở cổng trên đường Sothearos cách
khoảng 100m về hướng Bắc đường 240.
Hor Samrith Phimean (Cung điện đồng)
Được xây dựng năm 1917 và là nơi cất giữ những trang phục và vật tượng trưng của
Hoàng Gia. Ngày nay tầng 1 của ngôi nhà dùng là nơi trưng bày những trang phục và biểu
trưng Hoàng Gia. Hầu hết các trang phục của vua chúa , hoàng hậu , chén bát và các trang phục
cung nữ trong suốt một tuần lễ cũng được trưng bày tại đây .
14
Phòng khánh tiết
Tiếng Khmer gọi là Preah Thineang Vinnichay có nghĩa là "Thánh vị phán xử". Phòng
khánh tiết là nơi nhà vua cùng nội các thiết triều. Ngày nay Điện này được sử dụng để cử hành
nghi lễ hoàng gia và tôn giáo như đăng quang, kết hôn hoàng gia và nơi nhà vua tiếp khách.
Phòng khánh tiết
Phòng khánh tiết đã được xây dựng hai lần, lần đầu tiên được xây dựng bằng gỗ vào năm
1869-1870 dưới thời vua Norodom, công trình này bị phá bỏ năm 1915. Phòng khánh tiết ngày
nay được xây dựng năm 1917 và được khánh thành năm 1919 bởi nhà vua Sisowath. Toà nhà
có diện tích 30*60m, với đỉnh tháp cao 59m. Như tất cả các ngôi nhà và công trình xây dựng
trong hoàng cung, Phòng khánh tiết có hướng đông và rực rỡ nhất vào buổi sáng. Ngai vàng
(Reach Balaing) được đặt trang trọng chính giữa phòng . Chiếc ngai vàng này được sử dụng để
làm lễ đăng quang cho các vị vua vào ngày đăng quang, lần cuối cùng dưới thời vua
Sihanmoni vẫn chưa làm lễ đăng quang trên chiếc ngai vàng này .Trần có cấu trúc mái vòm
trang trí họa tiết rực rỡ mô tả truyền thuyết Reamker (Sử thi Ramayana đã Khmer hóa).Đây
được xem là một bức tranh khá độc đáo với cách vẽ trần và màu không phai theo thời gian.
Tòa nhà hình chữ thập được viền bằng 3 mái chóp. Ở trung tâm có mái chóp cao 59 m
màu trắng, tượng Brahma. Phía trong có ngai vàng và 4 bức tượng bán thân của các vị vua
trước đây. Cánh trái của tòa điện có một ngai vàng có hình dạng một cây kiệu cáng và một bức

tượng đồng bằng người thật của Vua Sisowath trong biểu chương của hoàng gia.
Sân khấu Chanchhaya
15
Khu sân khấu ngày nay là công trình đã được xây dựng lần hai, trước đó dưới thời vua
Norodom đây là một công trình bằng gỗ. Năm 1913-1914, dưới thời vua Sisowath, công trình
được tái xây dựng với cùng kiểu dáng thiết kế với công trình trước đó. Sân khấu Chanchhaya
còn được gọi là sân khấu Ánh trăng. Mặt trước sân khấu hướng ra đường Sothearos. Sân khấu
là nơi tổ chức các điệu múa cung đình, là khán đài để nhà vua diễn thuyết trước nhân dân và
cũng là nơi tổ chức các sự kiện và những bữa tiệc lớn của hoàng gia. Năm 2004, nhân ngày
quốc vương Norodom Sihamoni lên ngôi khu sân khấu đã được sử dụng để tổ chức bữa tiệc
lớn mừng tân quốc vương đăng quang.
Hor Samran Phirun (Điện nghỉ yên tĩnh)
Là nơi nghỉ ngơi và thư giãn của hoàng cung, nơi mà nhà vua đợi để lên lưng voi trong
các dịp rước lễ của hoàng gia, được xây dựng năm 1917, đây còn là nơi cất giữ nhạc cụ và các
đạo cụ biểu diễn. Ngày nay, điện dùng để trưng bày vật kỷ niệm của những nhà lãnh đạo nước
ngoài
Điện Phochani
Là một sân khấu rộng dùng vào mục đích biểu diễn nghệ thuật cung đình, công trình được
xây dựng năm 1912 và ngày nay được sử dụng làm nơi đón tiếp và hội nghị của hoàng gia.
Vườn Hoa
Có thể nói vườn hoa Hoàng Cung là tập hợp nhiều cây kiểng quý và đẹp mắt, Hoàng Cung
thu hút khách tham quan cũng nhờ vào khu vực trồng hoa cảnh được chăm chút kỹ lưỡng.
Ngay cửa ra vào có trồng rất nhiều cây Sala - một loại cây của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Khu vực phía trong trồng rất nhiều cây bò cạp vàng và cây si trên trăm tuổi to lớn.
16

×