Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích các quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng về hai phương pháp tính thuế giá trị gia tăng và liên hệ thực tiễn. So sánh hai phương pháp tính thuế này. Đánh giá về ưu điểm và nhược điểm của từng phương pháp dưới góc độ của cơ quan quản lý thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.39 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Thuế là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, do đó có nhiều loại thuế khác
nhau như thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế giá trị gi tăng; thuế thu
nhập cá nhân… Mỗi một loại thuế thì có những nét đặc trưng riêng, được điều chỉnh bởi những
văn bản quy phạm riêng vì vậy mà phương pháp tính của từng loại thuế cũng không giống nhau.
Và để hiểu rõ hơn về phương pháp tính thuế của một trong những loại thuế mà nhà nước đã đặt
ra em xin lựa chọn đề số 12 “ Phân tích các quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng về hai
phương pháp tính thuế giá trị gia tăng và liên hệ thực tiễn. So sánh hai phương pháp tính
thuế này. Đánh giá về ưu điểm và nhược điểm của từng phương pháp dưới góc độ của cơ
quan quản lý thuế”

NỘI DUNG
I.

Phương pháp tính Thuế GTGT theo quy định của pháp luật hiện hành và liên hệ
thực tiễn
1. Phương pháp tính Thuế GTGT theo quy định của pháp luật hiện hành
1.1.
Một số khái niệm

Để hiểu thế nào là thuế GTGT trước tiên ta phải hiểu thế nào là giá trị gia tăng. Giá trị gia
tăng được hiểu là giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất,
lưu thông đến tiêu dùng. Hay nói cách khác, giá trị gia tăng là phần chênh lệch giữa giá trị mua
vào và giá trị bán ra.Và thuế GTGT là chính là thuế đánh vào phần chênh lệch đó.
Theo quy định Điều 2, Luật Thuế GTGT thì “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị
tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”.
Phương pháp là những cách thức, biện pháp để giải quyết một vấn đề nào đó, như vậy có thể
hiểu phương pháp tính thuế GTGT là những cách thức, biện pháp tính thuế trên phần giá trị gia
tăng của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Theo quy định tài Điều 9 Luật Thuế GTGT thì “Phương pháp tính thuế GTGT gồm phương
pháp khấu trừ thuế GTGT và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng”.


1.2.
Phương pháp khấu trừ thuế
1.2.1. Điều kiện áp dụng
Theo quy định tại khoản 2, điều 10 Luật Thuế GTGT thì: “Phương pháp khấu trừ thuế áp
dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ theo quy định
của pháp luật về kế toán, hóa đơn chứng từ…”. Vậy chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ là gì?
Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính
dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động.1
Chứng từ kế toán là những giấy tờ và vật mang tin phản ánh nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát
sinh và đã hoàn thành, làm căn cứ ghi sổ kế toán.

1 Xem

Điều 3 Luật kế toán 2015.


Hóa đơn là chứng từ do người bán lập, ghi nhận thông tin bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
theo quy định của pháp luật. Hóa đơn GTGT là loại hóa đơn dành cho các tổ chức khai, tính thuế
GTGT theo phương pháp khấu trừ.2
Như vậy, cở sở kinh doanh được áp dụng phương pháp khấu trừ thuế nếu cơ sở đó thực hiện
đầy đủ chế độ kế toán đã nêu trên và có hóa đơn giá trị gia tăng khi bán hàng hóa,cung ứng dịch
vụ.
1.2.2. Các đối tượng áp dụng
Cơ sở kinh doanh khi đã đáp ứng được điều kiện nêu trên thì được áp dụng phương pháp
khấu trừ thuế nếu thuộc các trường hợp sau:
Thứ nhất, cơ sở kinh doanh có doanh thu hàng năm từ bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ từ
một tỷ đồng trở lên trừ hộ, cá nhân khinh doanh.
Doanh thu hàng năm từ một tỷ đồng trở lên là doanh thu bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
chịu thuế GTGT và được xác định như sau:
- Doanh thu hàng năm do cơ sở kinh doanh tự xác định căn cứ vào tổng cộng chỉ tiêu “Tổng

doanh thu của HHDV bán ra chịu thuế GTGT” trên Tờ khai thuế GTGT tháng của kỳ tính thuế từ
tháng 11 năm trước đến hết kỳ tính thuế tháng 10 năm hiện tại trước năm xác định phương pháp
tính thuế GTGT hoặc trên Tờ khai thuế GTGT quý của kỳ tính thuế từ quý 4 năm trước đến hết
kỳ tính thuế quý 3 năm hiện tại trước năm xác định phương pháp tính thuế GTGT. Thời gian áp
dụng ổn định phương pháp tính thuế là 2 năm liên tục.
- Trường hợp doanh nghiệp mới thành lập hoạt động không đủ 12 tháng thì xác định doanh
thu ước tính của năm như sau: Tổng cộng chỉ tiêu “Tổng doanh thu của HHDV bán ra chịu thuế
GTGT” trên Tờ khai thuế GTGT của kỳ tính thuế các tháng hoạt động sản xuất kinh doanh chia
(:) số tháng hoạt động sản xuất kinh doanh và nhân với (x) 12 tháng.
- Đối với cơ sở kinh doanh tạm nghỉ kinh doanh trong cả năm thì xác định theo doanh thu
của năm trước năm tạm nghỉ kinh doanh.
Đối với cơ sở kinh doanh tạm nghỉ kinh doanh một thời gian trong năm thì xác định doanh
thu theo số tháng, quý thực kinh doanh.
Trường hợp năm trước năm tạm nghỉ kinh doanh cơ sở kinh doanh kinh doanh không đủ 12
tháng thì xác định doanh thu theo số tháng, quý thực kinh doanh.
Kết quả xác định doanh thu của năm nếu trên 1 tỷ thì cơ sở đó áp dụng phương pháp khấu trừ
thuế, nếu không đạt doanh thu 1 tỷ thì cơ sở kinh doanh áp dụng phương pháp tính trực tiếp
trong hai năm, trừ trường hợp cơ sở đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế.
Thứ hai, cơ sở kinh doanh đã đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế, trừ hộ,
cá nhân kinh doanh.

Xem Thông tư 39/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày
14/5/2010 và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/01/2014 của Chính phủ quy định về hóa đơn
bán hàng, cung ứng dịch vụ.
2


- Doanh nghiệp, hợp tác xã đang hoạt động có doanh thu hàng năm từ bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ chịu thuế GTGT dưới một tỷ đồng đã thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, sổ sách, hóa
đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hóa đơn, chứng từ.

- Doanh nghiệp mới thành lập từ dự án đầu tư của cơ sở kinh doanh đang hoạt động nộp thuế
giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ.
Doanh nghiệp mới thành lập có thực hiện đầu tư theo dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền
phê duyệt thuộc trường hợp đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế.
Doanh nghiệp, hợp tác xã mới thành lập có dự án đầu tư không thuộc đối tượng được cấp có
thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về đầu tư nhưng có phương án đầu tư được
người có thẩm quyền của doanh nghiệp ra quyết định đầu tư phê duyệt thuộc đối tượng đăng ký
áp dụng phương pháp khấu trừ thuế.
- Doanh nghiệp, hợp tác xã mới thành lập có thực hiện đầu tư, mua sắm, nhận góp vốn bằng
tài sản cố định, máy móc, thiết bị, công cụ, dụng cụ hoặc có hợp đồng thuê địa điểm kinh doanh.
- Tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam theo hợp đồng nhà thầu,
hợp đồng nhà thầu phụ.
- Tổ chức kinh tế khác hạch toán được thuế GTGT đầu vào, đầu ra không bao gồm doanh
nghiệp, hợp tác xã.
Như vậy, cơ sở kinh doanh thuộc một trong các trường hợp nêu trên sẽ được áp dụng phương
pháp khấu trừ thuế.
1.2.3. Công thức tính thuế
Theo quy định tại Điều 9 Luật Thuế GTGT thì thuế GTGT được xác định theo công thức sau:
Số thuế GTGT phải nộp = Số thuế GTGT đầu ra - Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
Trong đó:
Số thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng tổng số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra
ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng.
Thuế giá trị gia tăng ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng bằng giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ
chịu thuế bán ra nhân (x) với thuế suất thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ đó.
Trường hợp sử dụng chứng từ ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì thuế GTGT đầu
ra được xác định bằng giá thanh toán trừ (-) giá tính thuế
Như vậy, cơ sở kinh doanh khi bán hàng hóa, dịch vụ phải tính và nộp thuế GTGT của hàng
hóa, dịch vụ bán ra. Khi lập hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán
chưa có thuế, thuế GTGT và tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hóa đơn chỉ
ghi giá thanh toán (trừ trường hợp được phép dùng chứng từ đặc thù), không ghi giá chưa có thuế

và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra phải tính trên giá thanh toán ghi trên
hóa đơn, chứng từ.
Cơ sở kinh doanh phải chấp hành chế độ kế toán, sổ sách, hóa đơn, chứng từ theo quy định
của pháp luật về kế toán, hóa đơn, chứng từ. Trường hợp hóa đơn ghi sai mức thuế suất thuế giá


trị gia tăng mà cơ sở kinh doanh chưa tự điều chỉnh, cơ quan thuế kiểm tra, phát hiện thì xử lý
như sau:
Đối với cơ sở kinh doanh bán hàng hóa, dịch vụ: Nếu thuế suất thuế GTGT ghi trên hóa đơn
cao hơn thuế suất đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thuế GTGT thì phải
kê khai, nộp thuế GTGT theo thuế suất đã ghi trên hóa đơn; Nếu thuế suất thuế GTGT ghi trên
hóa đơn thấp hơn thuế suất đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thuế GTGT
thì phải kê khai, nộp thuế GTGT theo thuế suất thuế GTGT quy định tại các văn bản quy phạm
pháp luật về thuế GTGT.
Thuế GTGT đầu vào xuất hiện ở khâu mua vào, được tính trong tổng giá mà chủ thể nộp thuế
đã trả để nhận được hàng hóa, dịch vụ. Theo quy định của Luật Thuế GTGT thì “số thuế GTGT
đầu vào được khấu trừ bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng hóa,
dịch vụ, chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hóa nhập khẩu và đáp ứng điều kiện quy định tại
điều 12 Luật này”.
Dẫn chiếu đến quy định tại điều 12 thì để được khấu trừ thuế thì cơ sở kinh doanh phải đáp
ứng thêm điều kiện: có chứng từ thanh toán không dùng tiền đối với hàng hóa dịch vụ mua vào
có giá trị trên 20 triệu đồng; đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu thì còn phải có thêm hợp đồng,
hóa đơn, chứng từ không dùng tiền mặt, tờ khai hải quan.
Thực hiện khấu trừ thuế đầu vào cần chú ý những điểm sau:
-

Đối với tài sản cố định đầu tư để sản xuất hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT,
phần thuế tương ứng giá trị tài sản đầu tư được xác định là thuế đầu vào để tính số thế
phải nộp
- Không phải phần thuế GTGT của mọi giá trị hàng hóa dịch vụ ở khâu mua vào đều được

coi là phần thuế đầu vào.
- Số thuế đầu vào phát sinh trong tháng nào thì kê khai trong tháng đó.
1.3.
Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT
1.3.1. Các đối tượng áp dụng
Theo quy định của pháp luật Thuế GTGT thì phương pháp tính trực tiếp trên GTGT được áp
dụng đối với các đối tượng sau:
Thứ nhất, cơ sở mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý. Bởi vì, bản thân vàng, bạc, đá quý, ngoại
tệ là vật ngang giá chung hơn là hàng hóa, bản thân nó không có sự gia tang giá trị trong quá
trình lưu thông. GTGT (nếu có) thực chất là biểu hiện thông qua sự gia tăng giá trị của một loại
hàng hóa, dịch vụ khác.
Thứ hai, doanh nghiệp, hợp tác xã có doanh thu hàng năm dưới mức ngưỡng doanh thu một
tỷ đồng và không tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ
Thứ ba, hộ, cá nhân kinh doanh;
Thứ tư, tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ sở thường trú tại Việt Nam
nhưng có doanh thu phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn,
chứng từ, trừ tổ chức cá nhân nước ngoài cung cấp hàng hóa, dịch vụ để tiến hành hoạt động tìm
kiến, thăm dò, phát triển và khai thác dầu, khí nộp thuế theo phương pháp khấu trừ do bên Việt
Nam khấu trừ nộp thay.


Thứ năm, tổ chức kinh tế khác không đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.
1.3.2. Công thức tính thuế
a. Đối với cơ sở mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý
Phương pháp khấu trừ trực tiếp là phương pháp tính thuế mà theo đó: “số thuế giá trị gia
tăng phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng bằng giá trị gia tăng nhân
với thuế suất thuế giá trị gia tăng áp dụng đối với hoạt động mua bán, chế tác vàng, bạc, đá
quý”.3 Trong đó:
Thuế suất thuế giá trị gia tăng áp dụng đối với hoạt động mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý
là 10% căn cứ theo quy định tại điều 8 Luật Thuế GTGT.

Giá trị gia tăng của vàng, bạc, đá quý được xác định bằng giá thanh toán của vàng, bạc, đá
quý bán ra trừ (-) giá thanh toán của vàng, bạc, đá quý mua vào tương ứng.
Giá thanh toán của vàng, bạc, đá quý bán ra là giá thực tế bán ghi trên hóa đơn bán vàng, bạc,
đá quý, bao gồm cả tiền công chế tác (nếu có), thuế giá trị gia tăng và các khoản phụ thu, phí thu
thêm mà bên bán được hưởng.
Giá thanh toán của vàng, bạc, đá quý mua vào được xác định bằng giá trị vàng, bạc, đá quý
mua vào hoặc nhập khẩu, đã có thuế GTGT dùng cho mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý bán ra
tương ứng.
Trường hợp trong kỳ tính thuế phát sinh giá trị gia tăng âm (-) của vàng, bạc, đá quý thì được
tính bù trừ vào giá trị gia tăng dương (+) của vàng, bạc, đá quý. Trường hợp không có phát sinh
giá trị gia tăng dương (+) hoặc giá trị gia tăng dương (+) không đủ bù trừ giá trị gia tăng âm (-)
thì được kết chuyển để trừ vào giá trị gia tăng của kỳ sau trong năm. Kết thúc năm dương lịch,
giá trị gia tăng âm (-) không được kết chuyển tiếp sang năm sau.
b. Đối với các đối tượng còn lại
Đối với các đối tượng còn lại căn cứ theo quy định tại khoản 2, Điều 11 Luật Thuế GTGT thì
số thuế GTGT phải nộp bằng tỉ lệ % nhân với doanh thu, trong đó:
Về tỉ lệ %: tỉ lệ % đối với từng trường hợp là khác nhau, pháp luật Thuế GTGT đã quy định
cụ thể như sau:
– 1% đối với hoạt động phân phối, cung cấp hàng hóa
– 5% đối với hoạt động dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu;
– 3% đối với hoạt động sản xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hóa, xây dựng có bao thầu
nguyên vật liệu;
– 2% đối với hoạt động kinh doanh khác.
Về doanh thu: doanh thu để tính thuế GTGT là tổng số tiền bán hàng hóa, dịch vụ thực tế ghi
trên hóa đơn bán hàng đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT bao gồm các khoản phụ thu,
phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng.
3

Xem: khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT năm 2013.



Trường hợp cơ sở kinh doanh có doanh thu bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thuộc đối tượng
không chịu thuế GTGT và doanh thu hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu thì không áp dụng tỷ lệ (%)
trên doanh thu đối với doanh thu này.
Cơ sở kinh doanh nhiều ngành nghề có mức tỷ lệ khác nhau phải khai thuế GTGT theo từng
nhóm ngành nghề tương ứng với các mức tỷ lệ theo quy định; trường hợp người nộp thuế không
xác định được doanh thu theo từng nhóm ngành nghề hoặc trong một hợp đồng kinh doanh trọn
gói bao gồm các hoạt động tại nhiều nhóm tỷ lệ khác nhau mà không tách được thì sẽ áp dụng
mức tỷ lệ cao nhất của nhóm ngành nghề mà cơ sở sản xuất, kinh doanh.
2. Liên hệ thực tiễn
Trên thực tế, tùy vào từng điều kiện của từng cơ sở kinh doanh mà các cơ sở kinh doanh sẽ
lựa chọn những phương pháp tính thuế GTGT sao cho phù hợp.
Đối với những doanh nghiệp có số thuế GTGT mua vào gần tương ứng với số thuế GTGT
bán ra, có nghĩa là chênh lệch giữa thuế GTGT bán ra và thuế GTGT mua vào không đáng kể,
nên số thuế GTGT phải nộp ít, hoặc không phải nộp thuế GTGT. Những doanh nghiệp loại này
thì nên chọn phương pháp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.
Đối với những doanh nghiệp không có số thuế GTGT mua vào, hoặc thuế GTGT mua vào
quá nhỏ so với số thuế GTGT bán ra, nên số thuế GTGT phải nộp là rất lớn nếu chọn phương
pháp tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Những doanh nghiệp loại này nên chọn phương pháp
tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Thực tế quản lý cho thấy, các chủ thuể nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế
chiến tỉ lệ không cao so với tổng các chủ thể nộp thuế GTGT nhưng số thuế thu, nộp lại chiếm đa
số. Ngược lại chủ thể nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT chiếm tỷ lệ lớn nhưng
tổng thu thuế GTGT lại không nhiều, chi phái quản lý lớn so với các chủ thể nộp thuế theo
phương pháp khấu trừ.
Trên thực tế, khi áp dụng các phương pháp tính thuế GTGT vẫn còn tồn tại một số bất cập
như:
Vấn đề chứng từ chưa theo được luồng tiền, luồng hàng nên vẫn còn tình trạng doanh nghiệp
gian lận, thành lập “doanh nghiệp ma” để kinh doanh hóa đơn chứng từ. Trong khi các doanh
nghiệp khác lại muốn có hóa đơn chứng từ để hợp thức hóa, dẫn đến tình trạng gian lận hóa đơn

vẫn còn diễn ra.
Hiện nay hoá đơn bất hợp pháp đa dạng và phong phú chưa từng có và trở thành hàng hoá
được mua bán công khai. Vấn đề này đã làm đau đầu cơ quan thuế hơn bao giờ hết. Trước đây
khi thực hiện thuế doanh thu sử dụng hoá đơn giả, chỉ có thể ăn gian thuế trên số hàng bán ra,
còn bây giờ, với hoá đơn giả, Nhà nước không những không thu được đồng nào mà ngược lại
còn phải chi thêm để hoàn thuế.
Bên cạnh đó, việc sử dụng hoá đơn bất hợp pháp tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giưa
các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào không trốn thuế được sẽ mất dần sức cạnh tranh, những cơ
sở trốn thuế sẽ có điều kiện hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh. Hậu quả là những doanh
nghiệp làm ăn chân chính bị thua thiệt, sân chơi giữa các doanh nghiệp trở nên bất bình đẳng.


Nếu tình trạng này không được ngăn chặn và xử lý kịp thời sẽ làm cho nguồn Ngân sách bị thâm
hụt một khoản rất lớn và tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta, làm giảm hiệu lực của luật
thuế.
Thực tiễn áp dụng quy định về xác định điều kiện nộp thuế GTGT trong thời gian qua gây
nhiều khó khăn cho doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp bị bắt buộc áp dụng nộp thuế GTGT theo
phương pháp tính trực tiếp do không đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ hoặc
không thỏa mãn điều kiện (đã được phân tích là không có cơ sở cần thiết) được pháp luật quy
định. Rất nhiều các doanh nghiệp quy mô nhỏ lâm vào tình cảnh khó khăn khi không bán được
hàng chỉ vì hóa đơn bán hàng không có thuế GTGT.
II. So sánh hai phương pháp tính Thuế GTGT
1. Điểm giống
Hai phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực
tiếp trên GTGT có những điểm tương đồng với nhau như sau:
Thứ nhất, cả hai phương pháp này suy cho cùng cũng là một biện pháp, cách thức để tính
thuế GTGT trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ trong quá trình từ sản xuất, lưu
thông đến tiêu dùng mà các chủ thể phải nộp vào ngân sách nhà nước.
Thứ hai, cả hai phương pháp này đều có thể áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có
tổng doanh thu hàng năm đạt ngưỡng dưới một tỷ đồng mà có thực hiện đầy đủ chế độ kế toán,

hóa đơn chứng từ. Trong trường hợp này, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã tự nguyện đăng ký áp
dụng phương pháp khấu trừ thuế thì phương pháp khấu trừ thuế sẽ được áp dụng, ngược lại, nếu
doanh nghiệp, hợp tác xã không tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế thì mặc nhiên
phương pháp tính thuế GTGT đối với doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ là phương pháp tính trực tiếp
trên phần GTGT.
2. Điểm khác
Bên cạnh những điểm tương đồng như đã trình bày ở trên, giữa hai phương pháp tính thuế
GTGT này cũng có những điểm khác biệt, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về điều kiện áp dụng. Chỉ có doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện đầy đủ chế độ kế
toán, hóa đơn chứng từ mới được áp dụng phương pháp khấu trừ thuế, ngoài ra phương pháp
khấu trừ thuế cũng không áp dụng đối với hộ, cá nhân kinh doanh. Còn đối với phương pháp tính
trực tiếp trên GTGT thì không đặt ra điều kiện được áp dụng, doanh nghiệp, hợp tác xã không
cần thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ và phương pháp này áp dụng đối với cả
hộ, cá nhân kinh doanh.
Bởi lẽ có sự khác nhau như vậy là xuất phát từ nội dung của các phương pháp tính thuế. Nội
dung cơ bản của phương pháp khấu trừ thuế là số thuế GTGT phải nộp được tính trên cơ sở số
thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ mà số thuế giá trị gia tăng đầu ra
bằng tổng số thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng,
số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hóa đơn giá trị gia tăng
mua hàng hóa, dịch vụ, chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hóa nhập khẩu. Như vậy, để có thể
xác định được số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế thì nhất thiết phải có hóa
đơn, chứng từ, đấy được coi như bằng chứng chứng minh việc cơ sở kinh doanh đã nộp thuế


GTGT trước đó và chính là cơ sở để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Đảm bảo nguyên tắc
tránh đánh cùng một loại thuế nhiều lần trên cùng một đối tượng.
Đối với phương pháp tính trực tiếp trên GTGT, nội dung cơ bản là tính trực tiếp, số thuế phải
nộp bằng tỉ lệ % nhân với doanh thu trừ hoạt động mua bansm chế tác vàng, bạc, đá quý, mà tỉ lệ
% do pháp luật quy định, doanh thu thì được xác định là tổng số tiền bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ ghi trên hóa đơn bán hàng, và trước đó cơ sở kinh doanh chưa nộp thuế GTGT do vậy

cũng không được khấu trừ thuế. Do đó, khi áp dụng phương pháp này cơ sở kinh doanh không
cần thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ.
Thứ hai, về đối tượng áp dụng.
Đối với phương pháp khấu trừ thuế chỉ áp dụng đối với cơ sở kinh doanh có doanh thu hàng
năm từ bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên một tỷ đồng hoặc dưới một tỷ nhưng tự nguyện áp
dụng phương pháp này; Tổ chức cá nhân nước ngoài cung cấp hàng hóa, dịch vụ để tiến hành
hoạt động tìm kiến, thăm dò, phát triển và khai thác dầu, khí nộp thuế theo phương pháp khấu trừ
do bên Việt Nam khấu trừ nộp thay.
Đối với phương pháp khấu trừ trực tiếp trên GTGT thì đối tượng bao gồm: cơ sở mua bán,
chế tác vàng, bạc, đá quý; doanh nghiệp, hợp tác xã có doanh thu hàng năm dưới một tỷ đồng
không tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ; hộ, cá nhân kinh doanh; tổ chức, cá nhân nước
ngoài kinh doanh không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nhưng có doanh thu phát sinh tại Việt
Nam chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ; các tổ chức kinh tế khác không
đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.
Thứ ba, về công thức tính thuế
 Đối với phương pháp khấu trừ thuế:
Số thuế GTGT phải nộp = Số thuế GTGT đầu vào – Số thuế GTGT đầu ra được khấu trừ
 Đối với phương pháp tính trực tiếp trên GTGT:
 Đối với cơ sở mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý
Số thuế GTGT phải nộp = GTGT của vàng, bạc, đá quý x thuế suất (10%)


Đối với các đối tượng khác:

Số thuế GTGT phải nộp = doanh thu x tỉ lệ %
Trong đó, các cách xác định số thuế GTGT đầu vào, đầu ra được khấu trừ, GTGT của vàng,
bạc, đá quý, doanh thu và tỉ lệ phần trăm như đã trình bày cụ thể ở phần I.
Thứ tư, về hóa đơn sử dụng
Căn cứ theo quy định tại điều 14 Luật Thuế GTGT thì:
Hóa đơn sử dụng cho phương pháp khấu trừ thuế là hóa đơn giá trị gia tăng. Trong hóa đơn

giá trị gia tăng có ghi cụ thể về thuế suất thuế GTGT, tiền thuế GTGT mà chủ thể phải nộp. Chủ
thế nếu muốn được khấu trừ thuế thì phải có hóa đơn GTGT này.


Hóa đơn sử dụng cho phương pháp tính trực tiếp trên GTGT là hóa đơn bán hàng. Trong hóa
đơn bán hàng thì không có nội dung thuế suất và tiền thuế GTGT mà chỉ có tổng số tiền phải
thanh toán. Và dựa trên tổng số tiền phải thanh toán này để tính thuế GTGT chủ thể sẽ phải nộp
theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Thứ năm, về khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Theo quy định tại Điều 12 Luật Thuế GTGT 2016 thì “ cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ thuế được khấu trừ thuế GTGT đầu vào…”. Như vậy chỉ có cơ sở
kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mới được khấu trừ thuế GTGT đầu vào,
khấu trừ thuế GTGT đầu vào không được áp dụng đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế theo
phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Bởi lẽ điều kiện của khấu trừ thuế GTGT đầu vào là phải:
“a) Có hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng ở
khâu nhập khẩu;
b) Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng
hóa, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng;
c) Đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a và điểm b khoản
unày còn phải có: hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia công hàng hóa, cung ứng
dịch vụ; hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ; chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt; tờ khai hải
quan đối với hàng hóa xuất khẩu”.
Mà chỉ có cơ sở kinh doanh áp dụng phương pháp khấu trừ thuế mới đáp ứng các điều
kiện này do đó mà chỉ có cơ sở kinh doanh áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT mới
được áp dụng khấu trừ thuế.
III. Đánh giá hai phương pháp tính thuế GTGT dưới góc độ của cơ quan quản lý thuế
1. Phương pháp khấu trừ thuế
1.1.
Ưu điểm
Dưới góc độ của cơ quan quản lý thuế thì phương pháp khấu trừ thuế có những ưu điểm sau:

Thứ nhất, phương pháp này xác định rõ số thuế phải nộp ở từng khâu, từng chủ thể nộp thuế,
chống thất thu thuế. Vì phương pháp này yêu cầu phải có hóa đơn, chứng từ rõ ràng, do vậy dựa
vào hóa đơn chứng từ mà doanh nghiệp cung cấp, cơ quan thuế có thể các định cụ thể số thuế mà
doanh nghiệp phải nộp ở từng khâu, từng chủ thể nộp thuế. Và chính nhờ việc xác định rõ được
số thuế phải nộp và chủ thể nộp giúp cho cơ quan thuế thu đúng và đủ số tiền thuế mà doanh
nghiệp phải nộp, chống thất thu thuế, đảm bảo cho ngân sách nhà nước không bị hao hụt.
Thứ hai,đảm bảo thu đủ số thuế cần thiết điều tiết thu nhập của người tiêu dùng. Với việc số
thuế GTGT phải nộp bằng số thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào được xác định cụ
thể trên các hóa đơn chứng từ, từ đó giúp cho cơ quan thế thu đủ số thuế cần thiết, không thu
thừa mà cũng không thiếu có thể điều tiết thu nhập của người tiêu dùng.
Thứ ba, đơn giản hóa quá trình thu thuế và quản lý thuế, do số thuế phát sinh ở các khâu
được phản ánh rõ trên chứng từ, hóa đơn. Thật vậy, như đã trình bày ở phần trên, trong hóa đơn
GTGT luôn có nội dung thuế suất thuế GTGT, số thuế GTGT chính vì vậy, khi tính thuế GTGT
phải nộp, cơ quan thuế chỉ cần căn cứ vào hóa đơn chứng từ là có thể xác định được vì số thuế


GTGT đầu ra và số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ đã được phản ánh rõ trên hóa đơn, chứng
từ. Từ đó mà việc quản lý thuế và thu thuế của cơ quan thuế trở nên đơn giản và thuận tiện hơn.
1.2.

Nhược điểm

Vì điều kiện để được áp dụng phương pháp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ là cơ
sở kinh doanh phải thực hiện đầy đủ chế độ kế toán hóa đơn chứng từ, do đó, để hợp thức hóa
điều kiện này nhiều cơ sở kinh doanh đã sử dụng hóa đơn giả để có thể đủ điều kiện áp dụng
phương pháp khấu trừ thuế, các doanh nghiệp ma được thành lập để kinh doanh hóa đơn, chứng
từ giả. Điều này đã làm cho cơ quan thuế gặp khó khăn trong việc quản lý, xác định hóa đơn là
thật hay giả, vì nếu không tiến hành kiểm tra, xem xét một cách kĩ lưỡng thì hậu quả là các cơ sở
kinh doanh sẽ trốn thuế thành công và đồng nghĩa với việc bị thất thu thuế khiến cho ngân sách
nhà nước bị thâm hụt. Vì vậy, đây là một vấn đề khiến cho cơ quan thuế phải đau đầu để giải

quyết.
Ngoài ra, cơ sở áp dụng phương pháp khấu trừ thuế được khấu trừ thuế đầu vào, hoàn thuế,
điều này khiến cho cơ quan thuế phải tiến hành hai giai đoạn, một giai đoạn thu thuế và sau đó là
khấu trừ thuế, hoàn thuế cho cơ sở kinh doanh.
2. Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT
2.1.
Ưu điểm
Với phương pháp tính trực tiếp trên GTGT, phương pháp này giúp cho cơ quan thuế tiến
hành truy thế một cách nhanh gọn “ăn đứt bán đoạn” chỉ phải tiến hành thu trong một lần là
xong. Cơ sở áp dụng phương pháp này không được khấu trừ thuế, hoàn thuế do đó cơ quan thuế
không cần phải tiến hành thêm giai đoạn khấu trừ thuế đầu vào, hoàn thuế cho cơ sở kinh doanh
như đối với cơ sở kinh doanh áp dụng phương pháp khấu trừ thuế. Từ đó, việc truy thu thuế của
cơ quan thuế được tiến hành nhanh gọn hơn.
Bản chất của phương pháp tính trực tiếp thuế GTGT là tính trực tiếp vào phần giá trị tăng
thêm của hàng hóa, dịch vụ theo nguyên tắc: GTGT được xác định bằng giá thanh toán bán ra trừ
giá thanh toán mua vào tương ứng, sau đó lấy phần GTGT này nhân cho thuế suất thuế GTGT.
Do đó, về khía cạnh công thức thì việc xác định số thuế cơ sở kinh doanh phải nộp cũng khá là
đơn giản.
2.2.

Nhược điểm

Phương pháp tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT đối với chủ thể nộp thuế
thì đơn giản, do không phải đáp ứng đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ, tuy nhiên dưới
góc độ của cơ quan quản lý thuế thì phương pháp này lại là một vấn đề phức tạp, vì khi xác định
số thuế phải nộp, cơ quan thuế không thể xác định được chính xác số doanh thu của doanh
nghiệp mà số doanh thu này chỉ dựa trên sự khai báo của chủ thể nộp thuế thông qua hóa đơn
bán hàng nên dễ dẫn đên tình trạng khai báo không đúng để trốn thuế.
Bên cạnh đó, do phương pháp tính trực tiếp đơn giản hơn so với phương pháp khấu trừ, do
đó, tỉ lệ cơ sở kinh doanh đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp này cao hơn so với

phương pháp khấu trừ thuế, chính vì thế mà chi phí và nguồn nhân lực để quản lý cũng tốn kém
hơn so với phương pháp khấu trừ thuế.


3. Kiến nghị hoàn thiện sửa đổi
Từ những phân tích trên, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể nộp thuế cũng
như đảm bảo cho cơ quan thuế tiến hành quản lý và thu thuế thuận tiện hơn thì em có một số
kiến nghị sau:
Thứ nhất, Nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ là lựa chọn tối ưu nhất cho người nộp
thuế, giảm thiểu tình trạng trùng thuế, chồng thuế GTGT qua các khâu của quá trình kinh doanh.
Do đó, quy định về điều kiện áp dụng phương pháp tính thuế GTGT phải theo hướng tạo điều
kiện tốt nhất cho người nộp thuế có khả năng chọn lựa phương pháp khấu trừ thuế GTGT. Cơ sở
kinh doanh chỉ phải nộp thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp khi họ tự nguyện áp dụng
(vì họ muốn chọn lựa thủ tục tính thuế đơn giản), hoặc do cơ sở kinh doanh không đủ điều kiện
về chế độ kế toán, hóa đơn GTGT, chứng từ theo quy định để chứng minh được thuế GTGT đầu
vào và thuế GTGT đầu ra.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác kiểm tra, rà soát, xử lý nghiêm hành vi kinh doanh hóa đơn giả,
sử dụng hóa đơn giả nhằm đảm bảo cho việc kê khai thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế được tiến
hành một cách đúng đắn, tránh tình trạng bị thất thu thuế, ảnh hưởng đến nguồn thu của ngân
sách nhà nước

KẾT LUẬN
Như vậy, qua tìm hiểu về hai phương pháp tính thuế của thuế GTGT em đã có được
những nhận thức nhất định về phương pháp tính thuế này. Em biết được phương pháp tính thuế
GTGT như thế nào, trường hợp nào thì được áp dụng một trong hai phương pháp đó, nó có gì
giống và khác nhau hay nói cách khác là có thể phân biệt được hai phương pháp này, từ đó đã rút
ra được những ưu nhược điểm của phương pháp tính thuế GTGT.
Trên đây là bài làm của em, do kiến thức còn hạn chế nên bài làm vẫn còn nhiều thiếu
sót, em mong thầy cô góp ý để bài làm được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, nxb Công an nhân dân, Hà
Nội – 2017;
2. Văn bản hợp nhất số 01/VBHN-VPQH ngày 28 tháng 4 năm 2016 Luật Thuế Giá trị gia
tăng;
3. Luật kế toán 2015;
4. Thông tư 39/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày
14/5/2010 và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/01/2014 của Chính phủ quy định về
hóa đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ
5. Văn bản hợp nhất số 14/VBHN-BTC ngày 09 tháng 5 năm 2018 thông tư hướng dẫn thi
hành Luật Thuế GTGT và Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18 tháng 12 năm 2013
của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế GTGT;
6. Văn bản hợp nhất số 10/2018/VBHN-BTC ngày 07 tháng 5 năm 2018 nghị định quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thuế GTGT
7. />


×