Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận môn Luật sư và Nghề luật sư: Phân tích các quy định của pháp luật về hình thức hành nghề của luật sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.76 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
2
Tiểu luận môn Luật sư và nghề luật sư
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, thì công lý và đảm bảo công bằng xã hội
cho tất cả công dân của quốc gia đó là một trong những yêu cầu hàng đầu được đặt ra.
Luật sư với xứ mệnh và chức năng xã hội của mình luôn được đặt niềm tin là người góp
phần bảo vệ cán cân công lý, giúp đỡ những người yếu thế, đảm để tất cả mọi người luôn
được hưởng sự công bằng.
Có thể nói ở Việt Nam, càng ngày luật sư càng chiếm một vị trí, vai trò quan trọng
trong xã hội, đặc biệt trong thời điểm hiện nay khi Luật Luật sư 2006 được sửa đổi bổ
sung năm 2012 đã có hiệu lực. Ngày càng có nhiều luật sư và tổ chức hành nghề luật sư
được thành lập trong cả nước, cùng với đó, người dân cũng dần ý thức được sự cần thiết
của luật sư đối với các vấn đề pháp lý mà họ gặp phải trong cuộc sống hàng ngày. Họ tìm
đến luật sư thường xuyên hơn, thay vì tự mình giải quyết các vấn đề pháp lý, như vấn đề
về thủ tục hành chính, những thỏa thuận hay những hợp đồng kinh tế được ký kết với sự
tư vấn của luật sư ngày càng gia tăng.
Đối với luật sư, việc quy định họ được hành nghề dưới hình thức nào là vô cùng
quan trọng, điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của nghề luật sư, cũng như ảnh hưởng
đến nền tư pháp của cả đất nước. Trải qua một thời gian dài, từ Pháp lệnh tổ chức luật sư
1987, Pháp lệnh Luật sư 2001, và đến nay là Luật Luật sư 2006 đã được sửa đổi bổ sung
năm 2012, luật sư ngày càng được trao quyền tự do hơn trong việc lựa chọn hình thức
hành nghề. Xuất phát từ tầm quan trọng và cần thiết của những quy định về hình thức
hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay, người học xin lựa chọn đề tài “Phân tích các quy
định của pháp luật về hình thức hành nghề luật sư” làm bài tiểu luận.
Đỗ Đức Trung Lớp Luật sư 15.2 A-Học viện Tư pháp
3
Tiểu luận môn Luật sư và nghề luật sư
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH THỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ


1.1. Hành nghề luật sư và các hình thức hành nghề luật sư.
1.1.1. Khái niệm hành nghề luật sư
Luật Luật sư hiện hành không quy định thế nào là hành nghề luật sư, tuy nhiên
thông qua Điều 2 Luật Luật sư có thể đưa ra khái niệm hành nghề luật sư như sau: “Hành
nghề luật sư là việc luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý bao gồm tham gia tố tụng, thực hiện
tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức
(gọi chung là khách hàng).”
Nghề luật sư là một nghề cao quý, việc hành nghề của người luật sư có ảnh hưởng
rất lớn đến sự đảm bảo tính công băng, chặt chẽ, tôn nghiêm của pháp luật, bới vậy hành
nghề luật sư có những đặc điểm khác với các ngành nghề khác như phải chuyên nghiệp,
có trình độ chuyên môn sâu về kiến thức pháp lý và kỹ năng hành nghề; Hành nghề chủ
yếu bằng trình độ và kinh nghiệm chuyên môn, chứ không phải là vốn vật chất; Đối tượng
phục vụ là khách hàng. Luật sư cung cấp “dịch vụ pháp lý” cho khách hàng và nhận thù
lao từ khách hàng. Nghề luật sư là một loại “dịch vụ tư”
1
1.1.2. Các hình thức hành nghề luật sư
Pháp luật về luật sư hiện hành, cụ thể là Điều 23 Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung
năm 2012 quy định các hình thức hành nghề luật sư như sau: “Luật sư được lựa chọn một
trong hai hình thức hành nghề sau đây:
1. Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư được thực hiện bằng việc thành lập
hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư; làm việc theo hợp đồng lao động cho
tổ chức hành nghề luật sư;
2. Hành nghề với tư cách cá nhân theo quy định tại Điều 49 của Luật luật sư”
Như vậy, theo quy định này, ở Việt Nam hiện nay, luật sư được lựa chọn hành nghề
cho các tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cả nhân.
1 Xem trang 5 Đặc san tuyên truyền pháp luật số 4 “Luật sư và pháp luật về luật sư Việt Nam”
Đỗ Đức Trung Lớp Luật sư 15.2 A-Học viện Tư pháp
4
Tiểu luận môn Luật sư và nghề luật sư
Đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư, luật sư có thể đứng ra

thành lập một tổ chức hành nghề của riêng mình, do mình chịu trách nhiệm hoặc tham gia
cùng những luật sư khác thành lập một tổ chức hành nghề và cùng chịu trách nhiệm với
họ. Tuy nhiên để có thể làm được điều này thì luật sư phải đảm bảo điều kiện theo quy
định của Điểm a, Khoản 3 Điều 32 Luật Luật sư, theo đó: “Luật sư thành lập hoặc tham
gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất hai năm hành nghề liên tục làm
việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách
cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan tổ chức”. Việc quy định điều kiện này đối
với cá luật sư muốn thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề nhằm mục đích
nâng cao trách nhiệm của người luật sư, cũng như đảm bảo các cá nhân, tổ chức được
hưởng những dịch vụ pháp lý tốt nhất khi tìm đến các tổ chức hành nghề. Thực tế cho
thấy trước khi có quy định này đã có rất nhiều tổ chức được thành lập bởi các luật sư
thiếu kinh nghiệm hành nghề dẫn đến việc cung cấp dịch vụ pháp lý thiếu chuyên nghiệp
cho khách hàng, làm ảnh hưởng đến uy tín của nghề luật sư.
Đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, Điều 49 Luật Luật sư quy định:
“1. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân là luật sư làm việc theo hợp đồng lao
động cho cơ quan, tổ chức không phải là tổ chức hành nghề luật sư.
2. Trường hợp hợp đồng lao động có thỏa thuận thì luật sư hành nghề với tư cách
cá nhân phải mua bảo hiểm trách nhiệm cho hoạt động hành nghề của mình theo quy
định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
3. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không được cung cấp dịch vụ pháp lý cho
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác ngoài cơ quan, tổ chức mình đã ký hợp đồng lao động,
trừ trường hợp được cơ quan nhà nước yêu cầu hoặc tham gia tố tụng trong vụ án hình
sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện trợ giúp pháp lý theo sự phân
công của Đoàn luật sư mà luật sư là thành viên.”
1.2. Các hình thức hành nghề luật sư ở Việt Nam từ khi có Pháp lệnh Tổ chức luật
sư 1987 đến nay.
Mặc dù nghề luật sư đã tồn tại từ rất lâu, trước cả khi nước ta ra đời năm 1945, tuy
nhiên phải mãi cho tới năm 1987 mới có một văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy
định một số vấn đề về luật sư và nghề luật sư. Cùng với sự thay đổi của tình hình kinh tế,
Đỗ Đức Trung Lớp Luật sư 15.2 A-Học viện Tư pháp

5
Tiểu luận môn Luật sư và nghề luật sư
chính trị, xã hội, để đáp ứng nhu cầu thực tế, các văn bản khác quy định về luật sư đã ra
đời và ngày càng quy định cụ thể, chi tiết hơn các vấn đề có liên quan đến luật sư và nghề
luật sư. Một trong số những vấn đề thường được thay đổi qua các văn bản đó chính là
những quy định về hình thức hành nghề luật sư.
1.2.1. Các hình thức hành nghề luật sư theo Pháp lệnh Tổ chức luật sư 1987
Trong bối cảnh lịch sử của đất nước lúc đó, khi Hiến pháp 1992 chưa ra đời, vấn đề
hình thức hành nghề luật sư đã không được nhắc tới trong Pháp Lệnh 1987, đặc biệt là
vấn đề hành nghề luật sư với tư cách cá nhân. Vào thời điểm đó Pháp lện 1987 không sử
dụng thuật ngữ “hành nghề luật sư” thay vào đó Điều 13 Pháp lệnh có quy định: “Các
hình thức giúp đỡ pháp lý của luật sư bao gồm:
1. Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc đại diện
cho người bị hại và các đương sự khác trong các vụ án hình sự, kể cả các vụ án thuộc
thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự; đại diện cho các bên đương sự trong các vụ án
dân sự, hôn nhân, gia đình và lao động.
2. Làm tư vấn pháp luật cho các tổ chức kinh tế Nhà nước, tập thể và tư nhân, kể cả
các tổ chức kinh tế nước ngoài.
3. Làm các dịch vụ pháp lý khác cho công dân và tổ chức.”
Pháp lệnh 1987 đã sử dụng thuật ngữ “giúp đỡ pháp lý”, có thể thấy vào thời điểm
đó, luật sư chưa thực sự được coi như một nghề nghiệp của cá nhân luật sư. Hơn nữa
Pháp lệnh đã không có sự tách bạch rõ ràng giữ phạm vi hành nghề của luật sư (tham gia
tranh tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng…) với các hình thức hành nghề luật
sư. Mặc dù vậy Pháp lệnh 1987 cũng đã có quy định cho phép luật sư làm tư vấn cho các
tổ chức kinh tế Nhà nước, tập thể và tư nhân và thậm chí là cả cho cá tổ chức kinh tế nước
ngoài.
1.2.2. Các hình thức hành nghề luật sư theo Pháp lệnh Luật sư 2001
Tại Pháp lệnh này, các nhà làm luật đã không đưa một điều luật cụ thể nào quy định
về các hình thức hành nghề luật sư, tuy nhiên thông qua một số quy định có thể nhận
thấy, Pháp lệnh Luật sư 2001, không cho phép luật sư hành nghề dưới bất kỳ hình thức

nào ngoại trừ hình thức hành nghề cho các tổ chức hành nghề luật sư. Điều 17 Pháp lệnh
Luật sư quy định: “Hình thức tổ chức hành nghề luật sư
1. Văn phòng luật sư.
2. Công ty luật hợp danh.
Luật sư có thể lựa chọn một trong hai hình thức quy định tại Điều này để hành nghề
luật sư.”
Từ đây có thể thấy, các nhà làm luật đã gián tiếp thông qua quy định về hình thức tổ
chức hành nghề luật sư để quy định về hình thức hành nghề của luật sư. Trong toàn bộ
Đỗ Đức Trung Lớp Luật sư 15.2 A-Học viện Tư pháp
6
Tiểu luận môn Luật sư và nghề luật sư
văn bản của Pháp lệnh không hề có một Điều nào quy định về việc luật sư có thể hành
nghề với tư cách cá nhân, điều này dẫn tới một hệ quả là khi các tổ chức muốn luật sư tư
vấn cho mình hoặc tham gia đại diện cho to chức trước tòa thì họ phải thông qua các tổ
chức hành nghề luật sư hoặc thông qua đoàn luật sư để cử luật sư tham gia vụ việc. Các
cơ quan, tổ chức có nhu cầu không được phép ký hợp đồng lao động với luật sư để họ làm
việc cho mình. Đây thực sự là một bất cập đối với việc hành nghề của các luật sư trong
giai đoạn này.
Thêm vào đó, trong giai đoạn này không có sự xuất hiện của hình thức công ty luật
trách nhiệm hữu hạn, việc không quy định hình thức kể trên là nhằm nâng cao tối đa trách
nhiệm của các luật sư khi tham gia hành nghề, nhằm đảm bảo cho quyền và lợi ích của
các khách hàng khi tìm đến các tổ chức hành nghề.
1.2.3. Các hình thức hành nghề luật sư theo Luật Luật sư 2006
Luật Luật sư là một bước tiến lớn trong việc quy định các vấn đề liên quan đến luật
sư, lần đầu tiên một nghề nghiệp được quy định trong luật. Các quy định về luật sư đã có
hệ thống rõ ràng hơn, từ việc quy định về luật sư, đào tạo nghề luật sư, hành nghề luật sư
đến việc quy định về tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư.
Luật Luật sư ra đời đánh dấu một cột mốc quan trọng đối với các luật sư, đó là việc
quy định tại Điều 23 về hình thức hành nghề luật sư, theo đó lần đầu tiên đã có một sự
công nhận chính thức về việc hành nghề luật sư với tư cách cá nhân cụ thể như sau:

“1. Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư.
Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư được thực hiện bằng việc thành lập
hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư; làm việc theo hợp đồng cho tổ chức
hành nghề luật sư.
2. Hành nghề với tư cách cá nhân.
3. Luật sư được lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề quy định tại khoản 1
và khoản 2 Điều này để hành nghề.”
Luật Luật sư 2006 đã cho phép luật sư tự do lựa chọn hình thức hành nghề cho mình, theo
đó luật sư có thể hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư, hoặc hành nghề với tư cách cá nhân.
Đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, Luật này đã mở đến mức tối đa sự tự do lựa chọn
cho các luật sư, Điều 49 đã quy định:
“1. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân là việc luật sư tự mình nhận vụ, việc,
cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với hoạt động hành nghề và hoạt động theo loại hình hộ kinh doanh cá thể.
Đỗ Đức Trung Lớp Luật sư 15.2 A-Học viện Tư pháp
7
Tiểu luận môn Luật sư và nghề luật sư
Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân chỉ được đăng ký một địa điểm giao dịch và
không có con dấu.
2. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân bằng việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho
khách hàng theo hợp đồng dịch vụ pháp lý, làm việc cho cơ quan, tổ chức theo hợp đồng
lao động.”
Với quy định này luật sư có thể hoạt động mà không bị ràng buộc với bất kỳ tổ
chức nào ngoại trừ đoàn luật sư mà luật sư đó đã tham gia làm thành viên.
1.2.4. Các hình thức hành nghề luật sư theo Luật Luật sư 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012
Mặc dù đã có những bước tiến và thành quả nhất định, nhưng Luật Luật sư vẫn tiếp
tục được sửa đổi nhằm đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, đồng thời nhằm phát triển đội
ngũ luật sư cũng như nghề luật sư. Ngày 20 tháng 11 năm 2012, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội
đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư, theo đó một lần nữa quy
định về các hình thức hành nghề luật sư đã được thay đổi.

Luật sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư, vẫn giữ nguyên những nội dung cơ bản khi quy
định hình thức hành nghề luật sư đó là, luật sư có thể hành nghề trong các tổ chức hành
nghề luật sư bằng việc thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành nghề hoặc làm việc cho
các tổ chức hành nghề thông qua hợp đồng lao động, luật sư có thể hành nghề với tư cách
cá nhân. Tuy nhiên trong mỗi hình thức lại có những sự thay đổi, đối với luật sư muốn
thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề thì phải có tối thiểu hai năm hành
nghề liên tục. Đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, mức độ tự do lựa chọn hình
thức hành nghề đã bị giảm đi khi các luật sư lựa chọn hình thức này chỉ có thể hành nghề
thông qua việc ký kết các hợp đồng lao động với các cơ quan, tổ chức không phải là tổ
chức hành nghề luật sư. Khi đã làm việc cho các cơ quan, tổ chức này thì luật sư không
được không được cung cấp dịch vụ pháp lý cho cá nhân, cơ quan, tổ chức khác ngoài cơ
quan, tổ chức mình đã ký hợp đồng lao động, trừ trường hợp được cơ quan nhà nước yêu
cầu hoặc tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng
và thực hiện trợ giúp pháp lý theo sự phân công của Đoàn luật sư mà luật sư là thành
viên.
Đỗ Đức Trung Lớp Luật sư 15.2 A-Học viện Tư pháp
8
Tiểu luận môn Luật sư và nghề luật sư
CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI TRONG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH
THỨC HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
.1. Những vấn đề tồn tại trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về hình
thức hành nghề luật sư
Tính đến hết năm 2013, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội đang quản lý 855 tổ chức
hành nghề luật sư (trong đó có 440 Văn phòng luật sư, 276 Công ty Luật trách nhiệm hữu
hạn một thành viên, 83 Công ty luật trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên, 32 Công ty
luật hợp danh và 24 tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài). Ngoài ra có 34 Chi nhánh tổ
chức hành nghề luật sư trong nước, 14 Chi nhánh của Công ty luật nước ngoài và 15 luật
sư hành nghề với tư cách cá nhân. Tổng số Luật sư khoảng 2.200, tổng số người tập sự
hành nghề luật sư khoảng 1.800

2
. Những con số nói trên đã được gia tăng đáng kể nếu
nhìn lại năm 2009, trên địa bàn Hà Nội chỉ có 330 Văn phòng luật sư, 165 Công ty luật,
34 Chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư và không có luật sư nào hành nghề với tư cách cá
nhân
3
. Có được những sự phát triển như vậy chắc chắn không thể phủ nhận sự đóng góp
của pháp luật về luật sư nói chung và Luật Luật sư hiện hành nói riêng. Tuy nhiên trong
thực tế, vẫn còn những vấn đề bất cập mà Luật Luật sư hiện hành cần xem xét thay đổi
cho phù hợp với thực tiễn.
Kể từ khi có Luật luật sư đến nay, đã có rất nhiều Văn phòng luật sư chuyển đổi mô
hình tổ chức hành nghề luật sư sang mô hình Công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Nghề luật
sư là một nghề đặc biệt, việc hành nghề luật sư ảnh hưởng lớn đến sự công bằng xã hội,
uy tín của giới luật sư cũng như ảnh hưởng đến lòng tin của xã hội đối với nghề luật sư.
Vì vậy liệu có hay không việc chuyển đổi mô hình như vậy làm nhằm giảm nhẹ trách
nhiệm của tổ chức hành nghề đối với các quyết định của mình bởi đối với hình thức Văn
phòng luật sư thì người đứng đầu văn phòng phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng tất cả tài
sản của mình. Trong khi đó với Công ty luật trách nhiệm hữu hạn thì người đứng đầu chỉ
chịu trách nhiệm hữu hạn bằng số vốn góp vào công ty mà thôi.
Theo pháp luật hiện hành, thì những luật sư hành nghề với tư cách cá nhân không
còn được tự do lựa chọn hình thức hành nghề như trước nữa (theo quy đinh của Luật Luật
sư 2006). Rất nhiều luật sư mong muốn hành nghề nhưng không muộn chịu sự ràng buộc
của các cơ quan, tổ chức khác. Họ chỉ muốn thực hiện các hợp đồng dịch vụ pháp lý với
các khách hàng một cách độc lập. Lý luận về nghề luật sư cho thấy, hầu hết các quốc gia
2 Xem />3 Xem Thống kê về tổ chức, hoạt động luật sư năm 2009.
Đỗ Đức Trung Lớp Luật sư 15.2 A-Học viện Tư pháp
9
Tiểu luận môn Luật sư và nghề luật sư
đều ghi nhận rằng, nghề luật sư là một nghề tự do, luật sư được làm việc một cách tự do
và độc lập. Bởi vậy quy định hiện hành về các hình thức hành nghề luật sư có thể là rào

cản của sự phát triển đội ngũ luật sư cũng như nghề luật sư.
Có thể thấy rằng sự tự do trong hoạt động hành nghề của luật sư ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển của nghề luật sư và đội ngũ luật sư, tuy nhiên hiện nay việc hành nghề
của luật sư còn chịu sự chi phối từ phía Đoàn luật sư. Dù luật sư lựa chọn bất kỳ hình
thức hành nghề nào thì họ cũng phải gia nhập, đăng ký tại Đoàn luật sư nơi mình muốn
hành nghề. Trong khi đó về bản chất Đoàn luật sư là tổ chức xã hội-nghề nghiệp, các
thành viên tham gia Đoàn luật sư là trên cơ sở tự nguyện. Chẳng hạn tại Hoa Kỳ, tổ chức
xã hội-nghề nghiệp của luật sư là Hiệp hội luật sư, và các thành viên tham gia hiệp hội
một cách tự nguyện, ngay cả các đối tượng không phải luật sư cũng có thể tham gia tổ
chức này bằng việc đóng một khoản phí theo quy định và nộp đơn xin vào hiệp hội.
.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về hình thức hành nghề của
luật sư
Đối với hình thức Công ty luật trách nhiệm hữu hạn, cần phải có quy định nâng cao
trách nhiệm của trưởng tổ chức hành nghề hoặc thay đổi, cần xem xét có nên hủy bỏ hình
thức tổ chức hành nghề này để trách sự so sánh từ phía người sử dụng dịch vụ pháp lý
cũng như tránh việc xã hội có cái nhìn không đúng về tổ chức hành nghề luật sư rằng
trưởng Văn phòng luật sư thì chịu trách nhiệm vô hạn nên Văn phòng luật sư cung cấp
dịch vụ tốt hơn còn Giám đốc Công ty luật trách nhiệm hữu hạn chỉ chịu trách nhiệm
trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên dịch vụ của Công ty luật trách nhiệm hữu hạn
kém hơn. Đối với vấn đề này có thể tham khảo mô hình của các tổ chức hành nghề luật sư
tại một số quốc gia có nghề luật sư phát triển như, Mỹ, Anh, Đức…
Về việc nới rộng hơn sự tự do lựa chọn hình thức hành nghề của các luật sư, như đã
trình bày ở trên vấn đề này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nghề luật sư và đội
ngũ luật sư của nước ta. Bản chất nghề luật sư là một nghề tự do, vì vậy cần để luật sư
được tự do chọn hình thức hành nghề cho mình, không nhất thiết bắt buộc các luật sư phải
làm việc cho một tổ chức, cơ quan nào đó (thông qua ký kết hợp đồng lao động với cơ
quan, tổ chức đó). Ở một quốc gia có nghề luật sư cực kỳ phát triển như Hoa Kỳ, đa số
các luật sư hành nghề với danh nghĩa cá nhân (70%) hoặc liên kết với duy nhất một đồng
nghiệp khác (15%). Tuy nhiên, ở những thành phố lớn, luật sư thường làm việc trong một
Văn phòng luật bao gồm khoảng từ 10 đến 200 luật sư

4
. Việc quy định về hình thức hành
4 Xem Nghề luật sư ở Mỹ - Luật sư Di trú Mỹ, />Đỗ Đức Trung Lớp Luật sư 15.2 A-Học viện Tư pháp
10
Tiểu luận môn Luật sư và nghề luật sư
nghề luật sư như tại Luật Luật sư 2006 có lẽ là phù hợp hơn với xu thế hiện nay của nghề
luật sư, cũng như là thích hợp cho việc thúc đẩy sự phát triển của nghề luật sư.
Bên cạnh việc mở rộng sự tự do lựa chọn hình thức hành nghề, thì việc hạn chế sự
ràng buộc của Đoàn luật sư đối với luật sư cũng là một vấn đề cần thiết. Thực tế cho thấy
rất nhiều người đã trải qua khóa đào tạo nghề luật sư, đã đủ điều kiện và được cấp chứng
chỉ hành nghề luật sư nhưng lại không thể trở thành luật sư vì không tham gia Đoàn luật
sư. Hơn nữa hiện nay để tham gia Đoàn luật sư cần phải đáp ứng một số điều kiện nhất
định, và một số người không đồng tình với điều kiện này vì vậy họ mặc dù đã đủ điều
kiện để trở thành luật sư nhưng lại không tham gia Đoàn luật sư và do đó họ không có thẻ
hành nghề.
Đỗ Đức Trung Lớp Luật sư 15.2 A-Học viện Tư pháp
11
Tiểu luận môn Luật sư và nghề luật sư
KẾT LUẬN
Nghề luật sư ở nước ta hiện nay đang ngày càng phát triển, những đóng góp của luật
sư đang ngày một nhiều hơn. Cùng với đó, xã hội cũng ngày càng nghi nhận đúng hơn
những đóng góp của luật sư cho sự đảm bảo công bằng xã hội, bảo đảm sự tôn nghiêm
của pháp luật Việt Nam. Ngày 18 tháng 01 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn
Dũng đã ký Quyết định số 123/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển đội ngũ luật sư phục
vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020” và ngày 14 tháng 01 năm 2013,
Thủ tướng đã ký Quyết định số 149/QĐ-TTg quyết định lấy ngày 10 tháng 10 hàng năm
là ngày truyền thống nghề luật sư. Từng đó đủ để thấy sự quan tâm của Nhà nước đối với
nghề luật sư và đội ngũ luật sư cũng như có thể thấy vai trò, vị thế ngày càng được nâng
cao của luật sư.
Bên cạnh những điểm tích cực đó, nghề luật sư vẫn còn gặp phải những vấn đề tồn

tại như đã nêu ở trên, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền, các nhà làm luật cần có những
điều chỉnh sao cho phù hợp nhất với thực tiễn của việc hành nghề luật sư. Những thay đổi
đúng đắn từ những quy định pháp luật về luật sư sẽ góp phần không nhỏ cho sự phát triển
của đội ngũ luật sư, nâng cao trình độ, chất lượng của luật sư. Trong phạm vi nghiên cứu,
tự tìm hiêu và tầm hiểu biết có hạn, người thực hiện đề tài xin nêu ra những vấn đề trên
đây như một đóng góp nhỏ cho sự phát triển của nghề luật sư trong tương lai.
Đỗ Đức Trung Lớp Luật sư 15.2 A-Học viện Tư pháp
12
Tiểu luận môn Luật sư và nghề luật sư
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Hoàng Yến và Nguyễn Văn Bốn, “Luật sư và pháp luật về luật sư Việt Nam”, Đặc
san tuyên truyền pháp luật số 4.
2. Th.S Nguyễn Hữu Ước và TS. Nguyễn Văn Điệp, Tập bài giảng Luật sư và nghề luật
sư-Học viện Tư Pháp.
3. Website />hoat-dong-luat-su/
4. Nghề luật sư ở Mỹ - Luật sư Di trú Mỹ, />o-my-luat-su-di-tru-my
Đỗ Đức Trung Lớp Luật sư 15.2 A-Học viện Tư pháp

×