Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ quan điểm của v i lênin về bình đẳng dân tộc và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.77 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ BÌNH ĐẲNG

3

DÂN TỘC
1.1. Cơ sở khoa học quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc
1.2. Nội dung quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc
Chương 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG

11
11
25

QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ BÌNH ĐẲNG
DÂN TỘC - KẾT QUẢ VÀ ĐỊNH HƯỚNG VẬN
DỤNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Sự vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng

48

dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới từ năm 1986 đến nay
2.2. Những yếu tố tác động và định hướng vận dụng quan điểm

48

của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay


66
86
88

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc, bình đẳng dân tộc ln là vấn đề chính trị - xã hội có ý nghĩa
quan trọng, liên quan trực tiếp đến đời sống của mỗi quốc gia. Bình đẳng dân tộc
vừa là nhu cầu, mục tiêu, vừa là nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia dân
tộc trên thế giới và giữa các dân tộc (tộc người) trong một quốc gia dân tộc. Bình
đẳng dân tộc là cơ sở để mọi dân tộc thực hiện quyền và nghĩa vụ ngang nhau,
khơng phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, chủng tộc màu ra…
Đồng thời, khắc phục tình trạng phân biệt đối xử giữa các dân tộc, áp bức dân
tộc, đồng hóa dân tộc. Trong phạm vi một nước, bình đẳng giữa các dân tộc là cơ
sở để củng cố, xây dựng tình đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, tạo
nên sức mạnh to lớn thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng đề ra. Nguyên tắc là
vậy, song trên thực tế việc bảo đảm quyền bình đẳng dân tộc ở mỗi quốc gia lại
chịu sự chi phối của các yếu tố, điều kiện khác nhau. Mặt khác, giai cấp bóc lột
ln tìm cách chia rẽ dân tộc với mưu đồ lợi ích khác nhau.
V.I.Lênin là lãnh tụ cách mạng, vừa là một nhà lý luận mác-xit thiên tài.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng vơ sản, Ơng đã vận dụng một cách sáng
tạo, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc vào thực tiễn
hoàn cảnh lịch sử cụ thể nước Nga. Để rồi, nước Nga từ chỗ là nhà tù của các
dân tộc, nhanh chóng trở thành một quốc gia đầu tiên trên thế giới tuyên bố và
bảo đảm quyền bình đẳng dân tộc. Những quan điểm, tư tưởng về bình đẳng
dân tộc đã được V.I.Lênin đúc kết trong những tác phẩm lý luận của mình, là

tài sản vơ giá để các đảng cộng sản và phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế vận dụng trong giải quyết vấn đề dân tộc. Ngày nay, dù thế giới đã có sự
phát triển vượt bậc trên mọi phương diện, song vấn đề dân tộc ln là vấn đề
nóng bỏng đang bị bọn cơ hội chính trị, kinh tế thế giới lợi dụng chia rẽ, gây
mất đoàn kết giữa các dân tộc trong một quốc gia và giữa các quốc gia trên
thế giới với nhau.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta ln vận dụng trung thành, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
2


hoạch định, thực thi đường lối cách mạng và đã đem lại nhiều thành tựu to lớn.
Trong đó, quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc đã trở thành cơ sở
khoa học để Đảng, Nhà nước ta vận dụng giải quyết đúng đắn những vấn đề
dân tộc, góp phần tập hợp lực lượng tạo thành sức mạnh to lớn trong sự nghiệp
đấu tranh cách mạng cũng như quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, chúng ta vững bước trên con đường đổi mới, đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng cường hội nhập quốc tế.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực tiền ẩn
nhiều nguy cơ, khó lường nhất là khu vực biển Đơng. Trong nước tình trạng
tiêu cực, tham nhũng diễn ra phổ biến chậm được khắc phục, sự suy thoái
phẩm chất chính trị, đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng viên do tác
động của mặt trái nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch lợi
dụng hạn chế yếu kém trong giải quyết một số vụ việc liên quan đến vấn
đề dân tộc để kích động hằn thù dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc,
chia rẽ mối quan hệ giữa dân tộc Việt Nam với các nước trong khu vực và
trên thế giới…Thực tiễn đó địi hỏi chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu sâu
sắc hơn quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc, một mặt khẳng

định tính đúng đắn, khoa học trong đường lối lãnh đạo giải quyết vấn đề
dân tộc của Đảng ta thời gian qua, và định hướng trong những năm sắp
tới. Với những lý do trên, việc chọn vấn đề nghiên cứu: “Quan điểm của
V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt
Nam ở nước ta hiện nay” có ý nghĩa lý luận, thực tiễn thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Lâu nay, quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc và sự vận dụng
của Đảng ta trong tiến trình cách mạng Việt Nam đã được nhiều cơng trình
nghiên cứu lý luận mácxít và nghiên cứu học thuật thuộc nhiều chuyên ngành
khác nhau đề cập đến. Có thể chia các cơng trình đó theo các nhóm sau đây:
Các cơng trình nghiên cứu về dân tộc và vấn đề dân tộc ở nước ta đề
cập đến quan điểm dân tộc của V.I.Lênin
3


Ở nước ta, nhóm cơng trình này thường tập trung trong thời kỳ đổi mới
với nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề dân tộc và bình đẳng dân tộc của
các nhà khoa học, có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu như sau:
Phạm Thị Hồng Hà (2012) “Bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực văn hóa
ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay” Luận án Tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án đã trình bày những nhận
thức về bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực văn hóa và những nội dung cơ bản
của bình đẳng dân tộc về văn hóa ở Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu thực
trạng, phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện bình đẳng dân tộc
trên lĩnh vực văn hóa ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Sỹ Họa (2010) “Thực hiện bình đẳng dân tộc ở Tây Nguyên hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị.
Trong đó, tác giả đã đánh giá thực trạng, những vấn đề cấp bách trong bình đẳng
dân tộc ở Tây Nguyên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó tác giả đã đề
xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn công tác này.

Trịnh Quốc Tuấn (chủ biên) (1996), Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện
nay - Vấn đề và giải pháp, Nxb CTQG, Hà Nội. Trên cơ sở trình bày những
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
bình đẳng dân tộc, các tác giả đã phân tích thực trạng tình hình các dân tộc ở
nước ta, sự phát triển khơng đồng đều, tình trạng chênh lệch trên nhiều lĩnh
vực giữa các dân tộc; tìm hiểu nguyên nhân của sự chênh lệch đó và nêu ra
các phương hướng, giải pháp để góp phần từng bước khắc phục sự phát triển
không đều giữa các dân tộc, tiến tới thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân
tộc ở nước ta, trong đó có đề cập đến bình đẳng về văn hóa.
Lê Du Phong, Hồng Văn Hoa (chủ biên) (1998), Phát triển kinh tế xã hội các vùng dân tộc và mền núi theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách đã phân tích thực trạng, những khó
khăn, bất cập trong q trình phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc và
miền núi và đưa ra các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội các địa bàn
đã nêu theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4


Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội. Các
tác giả đã đưa ra một số khái niệm liên quan đến dân tộc, quan hệ dân tộc và
vấn đề dân tộc trên cơ sở đó trình bày thực tiễn vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc ở Việt Nam. Trong đó đã đề cập đến quan hệ dân tộc về văn hóa. Đồng
thời, các tác giả cịn đề cập đến một số nội dung như: quản lý xã hội, nội dung
công tác cán bộ, đào tạo cán bộ trong chính sách dân tộc hiện nay ở nước ta.
Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan
đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách đã tập trung
làm rõ những khái niệm cơ bản của dân tộc học như: cách gọi tên tộc người, tiêu
chí xác định thành phần tộc người, văn hóa tộc người, đồng thời cũng đánh giá
mối quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay trên các lĩnh vực kinh tế - chính trị, văn
hóa - xã hội, dự báo xu hướng của mối quan hệ này và gợi mở một số phương

hướng để phát triển mối quan hệ dân tộc trong điều kiện mới.
Nhiều tác giả (2001), 5 năm công tác dân tộc và miền núi (1996
-2001), Nxb CTQG, Hà Nội. Đây là cơng trình tổng kết thành tựu và hạn chế
trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn
1996 - 2001. Đồng thời các tác giả cũng nêu lên những giải pháp nhằm khắc
phục hạn chế trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
trong giai đoạn tiếp theo.
Ủy ban Dân tộc và Miền núi (2001), Về vấn đề dân tộc và công tác dân
tộc ở nước ta, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách đã nêu những vấn đề cơ bản về
dân tộc, chính sách dân tộc và cơng tác dân tộc của Đảng, Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Quốc Phẩm (2004), Vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc, cơng
tác dân tộc và đồn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng nước ta, Tạp chí
Lý luận Chính trị, số 3-2004. Bài viết đã phân tích vị trí chiến lược của vấn đề
dân tộc, cơng tác dân tộc và đoàn kết dân tộc trong các giai đoạn cách mạng
nước ta, đồng thời cũng đánh giá những thành tựu, sáng tạo trong việc thực thi
chính sách dân tộc, cơng tác dân tộc và đồn kết dân tộc của Đảng, Nhà nước ta.
5


Hồng Chí Bảo (chủ biên) (2009), Bảo đảm bình đẳng và tăng cường
hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay,
Nxb CTQG, Hà Nội. Đây là cơng trình có nhiều đóng góp về mặt khoa học,
đã nêu rõ những nhận thức lý luận mới về dân tộc, quan hệ dân tộc và chính
sách dân tộc, đánh giá thực trạng tình hình kinh tế - xã hội và các quan hệ dân
tộc, đồng thời đề xuất giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề dân tộc, các quan
hệ dân tộc, tạo sự cơng bằng, bình đẳng trong q trình phát triển kinh tế - xã
hội ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay.
Đặc biệt, cơng trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quốc Phẩm (chủ
biên) (2006), Cơng bằng và bình đẳng xã hội trong quan hệ tộc người ở các

quốc gia đa tộc người, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, đã trình bày một cách
hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
cơng bằng, bình đẳng xã hội từ góc độ dân tộc, quan hệ dân tộc. Trên cơ sở
đó, tác giả nhìn nhận về những vấn đề dân tộc và sự phát triển của các quốc
gia dân tộc trong bối cảnh và xu thế hiện nay của thế giới nói chung, về tăng
cường hợp tác giữa các tộc người ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi Việt Nam
nói riêng. Từ đó tác giả đã phân tích các nội dung, điều kiện, biện pháp và nêu
lên một số kiến nghị để góp phần thực hiện cơng bằng, bình đẳng giữa các tộc
người ở các vùng dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay.
Các cơng trình nghiên cứu chun khảo về quan điểm, chính sách dân
tộc của Đảng, Nhà nước ta
Nguyễn Quốc Phẩm (2005), Nhận thức của Đảng ta về vấn đề dân tộc,
chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới, bài viết trong tập sách “Nhìn lại quá
trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986-2005”, Nxb CTQG, Hà Nội, tập
2, tr.265-281. Tác giả đã làm rõ sự phát triển nhận thức của Đảng trong thời
kỳ đổi mới về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Quảng (chủ biên) (2005), Những vấn đề cơ
bản của chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà
Nội. Cuốn sách đã trình bày quan niệm về dân tộc, vùng dân tộc, chính sách
dân tộc của Đảng, Nhà nước qua các giai đoạn cách mạng. Đồng thời cuốn
6


sách cũng chỉ ra thực trạng việc thực hiện chính sách dân tộc trong những
năm qua để đưa ra một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt
chính sách dân tộc trong những năm tới.
Thực hiện chính sách dân tộc, vấn đề và giải pháp. (Kỷ yếu hội thảo
của Tạp chí Cộng sản - Ủy ban Dân tộc, Hà Nội, 2004). Các bài viết đều tập
trung vào việc làm rõ những vấn đề như: quan điểm, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc;

thực trạng vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta trong
những năm gần đây; đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính
sách dân tộc ở nước ta trong thời gian tới.
Một số vấn đề về dân tộc và phát triển của PGS. TS Lê Ngọc Thắng Viện Dân tộc, Ủy ban Dân tộc (Nxb CTQG, H. 2005). Trên cơ sở phân tích
một số nội dung về vấn đề lý luận, chính sách dân tộc, các vấn đề kinh tế, mối
quan hệ giữa kinh tế và văn hóa trong phát triển; vai trị của cơ quan công tác
dân tộc và cơ quan hành chính các cấp trong việc thực hiện chính sách dân
tộc; đổi mới nội dung công tác dân tộc..., tác giả đưa ra một vài ý kiến, gợi ý
về hệ thống các vấn đề thuộc nội dung công tác dân tộc nhằm góp phần nâng
cao nhận thức về cơng tác dân tộc, góp phần hoạch định tốt việc thực hiện
chính sách dân tộc trong tình hình mới.
Phan Huy Hùng (2015), Một số vấn đề trong quan hệ dân tộc và chính
sách dân tộc ở nước ta hiện nay, Nxb CTQG. Cuốn sách đã nêu và luận giải,
làm rõ những vấn đề về quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay; các yếu tố tác
động đến quan hệ dân tộc; nguồn gốc của bất bình đẳng và xung đột dân tộc;
vấn đề nghèo, khoảng cách giàu nghèo giữa các dân tộc, các vùng dân tộc…,
từ đó định hướng một số nội dung trong chính sách dân tộc thời gian tới.
Ngồi ra, có nhiều cơng trình và bài viết của các nhà khoa học, các nhà
quản lý và hoạch định chính sách đánh giá về tình hình và kết quả thực hiện
chính sách dân tộc. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy chưa có một cơng trình nghiên
cứu nào đề cập trực tiếp quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc và sự vận
dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Với ý nghĩa quan trọng về lý luận
7


và thực tiễn, vấn đề này cần phải được nghiên cứu dưới góc độ chính trị - xã hội,
tìm hiểu bản chất quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc và sự vận dụng
của Đảng Cộng sản Việt Nam từ công cuộc đổi mới (Đại hội VI - 1986) đến nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu

Làm rõ quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc và sự vận dụng
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; từ đó, đề xuất định
hướng một số nội dung vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân
tộc ở nước ta trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở khoa học hình thành và nội dung quan điểm của
V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc.
- Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện bình đẳng
dân tộc ở nước ta trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay và định hướng
vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc ở Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc và sự vận dụng của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân
tộc thơng qua các tác phẩm và hoạt động của Ông; sự vận dụng quan điểm
V.I.Lênin về về bình đẳng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới từ năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử tư tưởng và phương
pháp liên ngành của các môn khoa học xã hội và nhân văn như: Phương pháp
8


lịch sử - lôgic; phương pháp nghiên cứu tác phẩm kinh điển của Chủ nghĩa xã

hội khoa học; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp hệ thống và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hệ thống hóa quan điểm
của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc, luận giải và khẳng định tính khoa học,
cách mạng, những đóng góp thiên tài của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc đối
với các đảng cộng sản và cách mạng XHCN; sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo,
phù hợp của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
- Góp phần làm sáng rõ thêm luận cứ khoa học để Đảng, Nhà nước ta
tiếp tục vận dụng sáng tạo quan điểm về bình đẳng dân tộc của V.I.Lênin vào
giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở các học viện, nhà trường trong và
ngoài quân đội về các nội dung có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài được kết cấu gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo.

9


Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC
1.1. Cơ sở khoa học quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc
1.1.1. Cơ sở lý luận quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc
* Trước khi nghiên cứu cơ sở khoa học quan điểm của V.I.Lênin về
bình đẳng dân tộc đòi hỏi chúng ta cần phải hiểu quan niệm về dân tộc, vấn
đề dân tộc và bình đẳng dân tộc
Dân tộc
Cho đến nay, dân tộc thường được được quan niệm với hai nghĩa chính:

dân tộc theo nghĩa tộc người (ethnic, ethnie) và dân tộc theo nghĩa quốc gia
dân tộc (Nation - state).
Trong Đại từ điển tiếng Việt khái niệm “dân tộc” lại được hiểu theo ba
nghĩa: (1) Dân tộc là cộng đồng người ổn định hình thành trong q trình lịch
sử của xã hội, có chung tiếng nói, lãnh thổ, đời sống kinh tế và tâm lý; (2)
Dân tộc là một tộc người (DTTS); (3) Dân tộc là một cộng đồng người ổn
định làm thành nhân dân một nước, một quốc gia gắn bó với nhau trong
truyền thống, nghĩa vụ và quyền lợi. [83, tr.538].
Trong Từ điển Bách Khoa Việt Nam thì khái niệm “dân tộc” được hiểu
theo hai nghĩa là:
1. Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị - xã hội
được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban đầu
do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này của nhiều cộng
đồng mang tính tộc người (ethnic) của bộ phận tộc người. Một cộng đồng dân
tộc thường bao gồm nhiều cộng đồng người, với nhiều ngơn ngữ, yếu tố văn
hóa thậm chí nhiều chủng tộc khác nhau. Ngày nay, do khơng gian xã hội
được mở rộng mang tính tồn cầu, do phương tiện đi lại, mỗi cộng đồng dân
tộc lại có thêm nhiều bộ phận của các cộng đồng tộc người tham gia, nên tình
trạng dân tộc đa tộc người là phổ biến.
2. Dân tộc (ethnie) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người,
thí dụ dân tộc Tày, dân tộc Bana, v.v.. Cộng đồng có thể là chủ thể hay thiểu
10


số của một dân tộc (nation) sinh sống ở nhiều quốc gia dân tộc khác nhau
được liên kết với nhau bằng những đặc điểm ngơn ngữ, văn hóa và nhất là ý
thức tự giác tộc người [21, tr.655].
Theo nghĩa thứ nhất, dân tộc là khái niệm được dùng để chỉ một cộng
đồng tộc người (ethnic, ethnie) có chung ngơn ngữ, lịch sử - nguồn gốc, đời
sống văn hóa và ý thức tự giác dân tộc. Ví dụ: dân tộc Kinh, dân tộc Mông,

dân tộc Dao, dân tộc Tày, v.v..
Theo nghĩa thứ hai, dân tộc được hiểu là quốc gia dân tộc (nation - state),
là cư dân của một quốc gia nhất định bao gồm nhiều dân tộc, nhiều tộc người. Ví
dụ: dân tộc Việt Nam, dân tộc Anh, dân tộc Pháp, dân tộc Đức, v.v.
Vấn đề dân tộc thường được hiểu theo 2 nghĩa:
Nghĩa rộng: Vấn đề dân tộc bao gồm mối quan hệ giữa các tộc người trong
nội bộ quốc gia dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau, diễn ra trên mọi
lĩnh vực đời sống xã hội. Thực chất của vấn đề dân tộc là giải quyết cơng bằng và
bình đẳng quyền và lợi ích giữa các tộc người, giữa các quốc gia dân tộc.
Nghĩa hẹp: Vấn đề dân tộc là những vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa
quốc gia dân tộc, giữa các tộc người trong nội bộ quốc gia dân tộc, diễn ra
trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội, tác động gây ảnh hưởng tiêu cực đến mỗi
dân tộc, mối quan hệ dân tộc, quốc gia - dân tộc đòi hỏi các nhà nước phải
quan tâm giải quyết.
Thực chất của giải quyết vấn đề dân tộc dưới CNXH là xác lập quyền
dân tộc cơ bản tạo nên những quan hệ công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc
trong quốc gia dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trên mọi lĩnh
vực nhằm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của GCCN.
Vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay tập trung vào giải quyết tốt đẹp mối
quan hệ giữa các tộc người trong nước, giữa nhà nước với tộc người và quan
hệ nội bộ các tộc người trên cơ sở ngun tắc bình đẳng, đồn kết, giúp đỡ
nhau cùng phát triển giữa các dân tộc, thực hiện độc lập dân tộc và CNXH.
Bình đẳng dân tộc
Bình đẳng dân tộc là một giá trị xã hội, phản ánh mối quan hệ ngang
bằng nhau giữa các dân tộc cả về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm trên mọi
11


lĩnh vực của đời sống xã hội, được thể hiện và bảo đảm bằng luật pháp hay
thông lệ quốc tế, được mọi dân tộc thừa nhận và tự giác tuân theo.

Hiện nay, BĐDT thường được quan niệm: là quyền lợi của mọi dân tộc
không phân biệt lớn hay nhỏ, đa số hay thiểu số, trình độ văn hố cao hay
thấp, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo… trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, ngơn ngữ.
Bình đẳng giữa các dân tộc khơng chỉ là một nguyên tắc căn bản trong
quan hệ dân tộc mà đây là một quyền lợi cơ bản và tiên quyết của mỗi dân
tộc. Các dân tộc dù lớn hay nhỏ, dân số nhiều hay ít, có trình độ phát triển cao
hay thấp đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, khơng có đặc quyền đặc lợi
về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngơn ngữ cho bất cứ dân tộc nào.
Trong quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc, mọi quốc gia đều bình đẳng
trong quan hệ quốc tế. Hiện nay, quyền BĐDT là cơ sở pháp lý chung để giải
quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới, trong khu vực hay trong một quốc gia.
Nó đã được ghi nhận trong công pháp quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia.
Trong một quốc gia đa dân tộc, BĐDT vừa là quyền, vừa là một trong
những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các dân tộc và giải quyết quan hệ
giữa các dân tộc, đảm bảo cho sự đoàn kết dân tộc và phát triển bền vững của
cả quốc gia dân tộc. Bình đẳng dân tộc chính là bảo đảm các quyền cơ bản
của mỗi con người và mỗi dân tộc, trong đó có quyền sống, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc và phát triển.
Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi dân
tộc. Hiện nay, BĐDT được khẳng định trong Hiến chương Liên hợp quốc và
là nguyên tắc trong quan hệ quốc gia dân tộc.
* Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về dân tộc là cơ sở lý luận quan
trọng để V.I.Lênin đề ra quan điểm về dân tộc và vấn đề dân tộc
Tuy C.Mác và Ph.Ăngghen chưa trình bày tập trung, có hệ thống về dân
tộc và VĐDT nhưng những tư tưởng, quan điểm của các ơng đóng vai trò là
cơ sở lý luận để V.I.Lênin kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm về VĐDT
và giải quyết VĐDT.
12



Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, vấn đề dân tộc gắn liền với vấn đề giai
cấp. Hai ông đã chỉ ra rằng, áp bức dân tộc bắt nguồn từ chế độ người áp bức
bóc lột người trong xã hội phân chia giai cấp. Giai cấp và quan hệ giai cấp có
vai trị quyết định tới sự hình thành xu hướng phát triển, bản chất xã hội của
dân tộc, tính chất quan hệ giữa các dân tộc với nhau. Giai cấp nào lãnh đạo
dân tộc thì dân tộc đó mang bản chất của giai cấp đó. Trong tác phẩm “Tun
ngơn của Đảng Cộng sản”, hai ơng khẳng định: “Hãy xố bỏ tình trạng người
bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ.
Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì
sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo” [53, tr.624].
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường
của một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, chỉ trên
lập trường của GCVS, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn VĐDT. Cũng
trong tác phẩm ấy, hai ông đã đề cập mối quan hệ dân tộc và giai cấp: “Giai cấp
vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành
giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hồn tồn khơng phải theo
cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu” [53, tr.623]. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, chỉ
có GCVS mới thống nhất được lợi ích dân tộc - lợi ích của mình với các lợi ích
của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xóa bỏ áp bức, bóc lột giai
cấp thì mới xóa bỏ áp bức dân tộc, đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình
và cho dân tộc khác.
Có thể thấy, C.Mác và Ph.Ăngghen ln đề cao vấn đề giai cấp, cho
rằng VĐDT lệ thuộc vào vấn đề giai cấp, là một bộ phận của vấn đề giai cấp.
Ngồi ra, hai ơng cịn khẳng định: ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, việc giải
quyết nhiệm vụ dân tộc bao giờ cũng thuộc về một giai cấp tiêu biểu.
Các ông chỉ ra rằng, giải quyết vấn đề dân tộc gắn liền với thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tạo ra động lực cách mạng xã hội chủ
nghĩa
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, sứ mệnh lịch sử của GCCN là xóa bỏ

CNTB xây dựng thành cơng CNXH trên phạm vi mỗi nước và trên tồn thế
13


giới. Xóa bỏ được CNTB là đã giải quyết được VĐDT trên phạm vi quốc gia dân tộc và quốc gia - đa dân tộc. Chính vì vậy, hai ơng kiên quyết chống lại
ách áp bức, bóc lột các dân tộc của GCTS nhằm giải phóng các dân tộc bị áp
bức, trong đó, GCCN là giai cấp triệt để nhất thực hiện nhiệm vụ này. Các
ông cho rằng: “Giai cấp vô sản chiến thắng giai cấp tư sản đồng thời cịn có
nghĩa là khắc phục tất cả những cuộc xung đột dân tộc và xung đột công
nghiệp hiện nay đang sinh ra sự thù hằn giữa các dân tộc. Vì vậy mà thắng lợi
của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản, đồng thời còn là dấu hiệu giải
phóng tất cả các dân tộc bị áp bức” [53, tr.527]. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản”, hai ơng khẳng định: “Hãy xố bỏ tình trạng người bóc
lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ.
Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì
sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo” [53, tr.624].
Không những vậy các ông còn nhận thấy, đối lập với chủ nghĩa dân tộc tư
sản là chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng nhân, đồn kết quốc tế giai cấp cơng
nhân, lợi ích dân tộc của công nhân mỗi nước phù hợp với lợi ích chung của
giai cấp cơng nhân quốc tế, giải quyết hài hòa dân tộc và quốc tế
Trong khi nhấn mạnh vai trò của nhân tố giai cấp, C.Mác và Ph.Ăngghen
cũng không xem nhẹ nhân tố dân tộc. Vấn đề dân tộc là một trong những vấn
đề quan trọng hàng đầu của cách mạng vơ sản song nó chỉ được nhận thức và
giải quyết đúng đắn trên lập trường của GCCN.
Cuộc đấu tranh của GCCN về bản chất mang tính chất quốc tế và đồn
kết quốc tế là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi cuối cùng của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Hai ông thường xuyên nhấn
mạnh rằng, GCCN các nước trước hết là các nước tư bản lớn, phải thoát khỏi
những thiên kiến của chủ nghĩa dân tộc tư sản. Các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác chỉ rõ rằng, đảng của GCCN không lúc nào được coi nhẹ việc giáo dục

chủ nghĩa quốc tế chân chính cho quần chúng nhân dân, nhưng GCCN khơng
được qn rằng cuộc đấu tranh giải phóng của họ có tính chất dân tộc. Dân tộc
là địa bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của GCCN. Vì vậy, “Giai cấp
14


vơ sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành
giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc” [53, tr.623].
Chủ nghĩa quốc tế vơ sản cịn được gọi là chủ nghĩa quốc tế của GCCN,
hay chủ nghĩa quốc tế XHCN, là những nguyên tắc, phương châm hành động
trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của GCCN. Trong tác
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” phần Lời tựa cho lần xuất bản bằng
tiếng Ý năm 1893, Ph.Ăngghen coi nhiệm vụ giải quyết vấn đề độc lập dân tộc
như một tiền đề để GCCN thực hiện tốt chủ nghĩa quốc tế: “Không khôi phục
lại độc lập và thống nhất cho từng dân tộc thì về phương diện quốc tế, khơng
thể thực hiện được sự đồn kết của giai cấp vơ sản và sự hợp tác hịa bình và tự
giác giữa các dân tộc đó để đạt tới mục đích chung”, còn lời kết của tác phẩm
như lời kêu gọi và cũng là mệnh lệnh hành động của tất cả những người vô
sản trên thế giới: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!” [53, tr.534].
* Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về bình đẳng dân tộc là cơ sở lý
luận quan trọng để V.I.Lênin đề ra quan điểm bình đẳng dân tộc
Mặc dù chưa đưa ra một định nghĩa thật đầy đủ về BĐDT, song ở nhiều
tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen, những vấn đề xã hội giữa các dân tộc
được xem xét chủ yếu trong các mối quan hệ dân tộc - quốc gia, quan hệ giữa
giai cấp - dân tộc, dân tộc và quốc tế đã thể hiện quan điểm của các ông về
BĐDT (theo nghĩa rộng dân tộc - quốc gia).
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã nêu lên luận điểm nổi
tiếng về quyền bình đẳng giữa các dân tộc, gắn với tự do của con người và
mang tính chất chung, vượt ra ngồi khn khổ của một quốc gia: “Trong một
hệ thống những quốc gia độc lập, quan hệ với nhau trên một cơ sở bình đẳng

và ở vào trình độ phát triển tư sản xấp xỉ ngang nhau, cho nên lẽ dĩ nhiên là
u sách về bình đẳng phải mang một tính chất chung, vượt ra ngoài ranh giới
của một quốc gia riêng biệt, là tự do và bình đẳng phải được tuyên bố là
những quyền của con người” [56, tr.153].
Trong thư gửi La Phacgơ năm 1893, Ph.Ăngghen đã từng khẳng định:
“Sự bình đẳng giữa các dân tộc cũng cần thiết như sự bình đẳng giữa các cá
15


nhân” [57; tr.125]. Tuy nhiên, trong xã hội tư bản, quyền bình đẳng giữa các
dân tộc với tư cách là quyền con người đã phản ánh “đặc thù tư sản”.
Ph.Ăngghen đã phê phán cái “đặc thù tư sản” ấy thể hiện trong Hiến pháp của
nước Mỹ khi thần thánh hóa đặc quyền chủng tộc, tức là tạo nên sự bất cơng,
bất bình đẳng trong quan hệ dân tộc: “Đồng thời sự việc sau đây cũng nói lên
tính chất đặc thù tư sản của những quyền con người ấy: hiến pháp của nước Mỹ,
hiến pháp đầu tiên đã thừa nhận quyền của con người, đồng thời cũng lại chuẩn
y luôn cả chế độ nô lệ của người da màu đang tồn tại ở nước Mỹ; đặc quyền giai
cấp bị cấm chỉ, đặc quyền chủng tộc được thần thánh hóa” [56, tr.153].
Theo quan điểm của hai ông, thực chất của việc thực hiện cơng bằng,
BĐDT là phải xóa bỏ những khác biệt về giai cấp, xóa bỏ áp bức giai cấp, áp
bức bóc lột giữa người với người. Hai ơng đã bày tỏ quan điểm nêu trên khi
phê phán những quan điểm mơ hồ, lệch lạc của Látxan: “Thay vào cái câu kết
luận mơ hồ ở cuối đoạn là: “thủ tiêu mọi sự bất bình đẳng về xã hội và chính
trị” thì đáng lẽ phải nói là: cùng với việc thủ tiêu những sự khác biệt giai cấp
thì mọi sự bất bình đẳng về xã hội và chính trị bắt nguồn từ những sự khác
biệt giai cấp đó, tự chúng cũng khơng cịn nữa” [55, tr.43].
Cần phải đặt vấn đề cơng bằng, bình đẳng xã hội trong quan hệ dân tộc
với quan hệ giai cấp. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định rằng: “Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì
tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối

kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì sự thù địch giữa
các dân tộc cũng đồng thời mất theo” [53, tr.624], và chỉ có GCCN là giai cấp có
khả năng lãnh đạo tồn xã hội, thủ tiêu mọi áp bức bóc lột, thực hiện cơng bằng,
bình đẳng xã hội trong quan hệ dân tộc.
C.Mác và Ph.Ăngghen luôn ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của
các nước thuộc địa, phụ thuộc, đặt cơ sở đầu tiên cho giải quyết quan hệ giữa
quyền tự quyết, tự trị dân tộc với BĐDT và cả việc thành lập các liên bang khi
có điều kiện. Trong cuốn “Bàn về Ba lan”, Ph.Ăngghen đã nêu rõ VĐDT liên
hệ chặt chẽ với cách mạng của GCVS, “lấy liên minh anh em công nhân của
16


các dân tộc để chống lại liên minh anh em GCTS của dân tộc”, đồng thời đưa
ra suy luận phán đốn khoa học nổi tiếng: “Khơng một dân tộc nào có thể trở
thành tự do trong khi cịn tiếp tục áp bức những dân tộc khác” [53, tr. 528].
1.1.2. Cơ sở thực tiễn hình thành, phát triển quan điểm của V.I.Lênin
về bình đẳng dân tộc
Thứ nhất, thực tiễn trong các xã hội có giai cấp, quan hệ dân tộc trên
thế giới và ở các quốc gia đa dân tộc là quan hệ bất bình đẳng, phân biệt và
áp bức dân tộc
Nếu như áp bức giai cấp là nguyên nhân sâu xa của áp bức dân tộc thì áp
bức dân tộc tác động mạnh mẽ trở lại đối với áp bức giai cấp, nó ni dưỡng và
làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Thực tiễn lịch sử nhân loại đã chứng minh, ở
bất kỳ nơi đâu, thời gian nào, còn tồn tại đối kháng giai cấp thì cịn áp bức, bất
bình đẳng giữa các giai cấp; cịn sự phân hóa giàu nghèo, lớn nhỏ giữa các
nước thì cịn bất bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc. Đặc biệt hơn nữa, bất
bình đẳng cịn thể hiện sâu sắc ở chế độ TBCN.
Dưới chế độ TBCN, nền sản xuất ngày càng phát triển, quy luật cạnh
tranh theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé” càng đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế,
hình thành các tập đồn tư bản ngày càng lớn. Để thắng trong cạnh tranh GCTS

phải ra sức tìm ra những biện pháp hữu hiệu để bóc lột GCCN. Đây chính là
biểu hiện của bất bình đẳng giữa các dân tộc - tộc người trong từng quốc gia.
Để có lợi nhuận cao nhất, GCTS đã tiến hành những cuộc chiến tranh,
xung đột thế giới nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên các nước thuộc địa
cạn kiệt. Nó đã để lại hậu quả nặng nề cho quần chúng nhân dân lao động.
Tình trạng nghèo đói ngày càng gia tăng, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo
nước các nước ngày càng lớn. Chính điều đó cho thấy bất bình đẳng giữa các
quốc gia dân tộc với nhau ngày càng sâu sắc, đòi hỏi phải tiến hành cuộc cách
mạng XHCN lật đổ chế độ áp bức bóc lột, đem lại quyền tự do, bình đẳng,
bác ái thực sự cho nhân dân từng quốc gia và cho tất cả nhân loại.
Đây là cơ sở thực tiễn quan trọng để V.I.Lênin hình thành và đưa ra
quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa đấu tranh giải phóng dân tộc và đấu
17


tranh giải phóng giai cấp trên phạm vi tồn cầu cũng như trong từng quốc gia
dân tộc trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Năm 1920, V.I.Lênin đưa ra khẩu
hiệu nổi tiếng mà ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị: “Vô sản tất cả các nước
và các dân tộc bị áp bức đồn kết lại”. Ơng đã đánh giá đúng đắn vai trị cách
mạng có ý nghĩa thời đại của các dân tộc bị áp bức, chỉ ra sứ mệnh lịch sử của
GCCN, các dân tộc bị áp bức là nắm ngọn cờ dân tộc để lãnh đạo quần chúng
làm cách mạng.
Thứ hai, giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản
chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, tình thế cách mạng vơ sản đã xuất hiện,
V.I.Lênin đã nghiên cứu, chỉ đạo cách mạng vô sản, đề ra cương lĩnh dân tộc
Đặc trưng cơ bản nhất của giai đoạn này là sự ra đời các tổ chức độc
quyền và sự bóc lột ngày càng tinh vi hơn đối với nhân dân lao động làm cho
mâu thuẫn trong xã hội ngày càng gay gắt. Sự xuất hiện các tập đoàn tư bản
xuyên quốc gia, đa quốc gia tạo ra khả năng hình thành hệ thống kinh tế thế
giới mới. Tính chất đế quốc và tính chất phát triển không đồng đều của CNTB

giai đoạn này thể hiện ở những cuộc chiến tranh giành quyền bá chủ thế giới
ngày càng quyết liệt về mức độ, mở rộng về quy mô. Mâu thuẫn giữa các
cường quốc tư bản “trẻ” (Đức, Nhật…) và các nước phát triển sớm hơn, có một
khu vực thuộc địa rộng lớn, đã đưa đến chiến tranh thế giới, biến hàng triệu
người lao động, cả ở “chính quốc” lẫn ở thuộc địa, thành nạn nhân của nó.
Sản xuất TBCN được tập trung và cho ra đời các xí nghiệp, cơng ty lớn.
Sau cạnh tranh dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, “bắt tay với nhau” và dẫn đến sự
ra đời các tổ chức độc quyền. Lợi ích của việc xuất khẩu tư bản thúc đẩy các
cường quốc đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa, chúng tiến hành các cuộc chiến
tranh xâm lược các nước chậm phát triển, để biến các nước đó thành thuộc địa
của chúng. Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ là sự phân chia thế giới về
mặt chính trị - là kết quả trực tiếp của phân chia thế giới về mặt kinh tế, nhằm
biến các nước khác thành thuộc địa và phụ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc.
Sự phân chia thế giới là nguyên nhân dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1914 - 1918) và lần thứ hai (1939 - 1945), hình thành hai loại
18


nước: Một nhóm nhỏ các nước đế quốc có sức mạnh kinh tế và quân sự và
phần đông các nước bị áp bức, nơ dịch hình thành nên hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa đế quốc.
Tóm lại, chủ nghĩa đế quốc không phải là phương thức sản xuất mới mà
là giai đoạn phát triển cao của CNTB. Về mặt kinh tế là sự thống trị của các tổ
chức độc quyền; về mặt chính trị là sự hiếu chiến, xâm lược và phản động
tồn diện. Cịn chủ nghĩa đế quốc là còn nguy cơ chiến tranh, và chiến tranh
là bạn đường của chủ nghĩa đế quốc. Đấu tranh xóa bỏ sự áp bức bóc lột của
chủ nghĩa đế quốc là nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng XHCN.
V.I.Lênin đã nghiên cứu kỹ bối cảnh chủ nghĩa đế quốc để nghiên cứu chỉ đạo
cách mạng vô sản, đề ra cương lĩnh dân tộc.
Thứ ba, Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc, các quốc

gia bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, các nước thực dân, đế quốc tiếp tục
đẩy mạnh nơ dịch và bóc lột các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.
Từ tháng 11 năm 1918, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, kết cục
của cuộc chiến tranh này đã tác động mạnh mẽ đến cục diện chiến lược quốc
tế, làm thay đổi hoàn toàn tương quan lực lượng cũng như tình hình thế giới,
đặc biệt là đối với châu Âu.
Đồng thời thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 cũng
tạo ra một chuyển biến căn bản của tình hình thế giới. CNTB khơng còn tồn
tại như một hệ thống duy nhất thống trị thế giới nữa. Sự tồn tại của Nhà nước
XHCN đầu tiên trên thế giới đã trở thành một thách thức to lớn đối với thế
giới TBCN, buộc các nước này phải tìm cách dàn xếp để đối phó. Trong bối
cảnh đó, để giải quyết những vấn đề do chiến tranh đặt ra, các hội nghị hịa
bình được triệu tập. Hệ thống hịa ước Vecxai (Versailles) và sau đó là Hệ
thống hiệp ước Oasinhtơn đã được ký kết nhằm tổ chức lại thế giới sau chiến
tranh, phù hợp với tương quan lực lượng mới.
Như vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, cục diện chính trường thế
giới có nhiều thay đổi, dù thắng hay bại các nước đế quốc đều bị kiệt quệ nặng
nề. Song, bên cạnh những nước bị suy yếu, xuất hiện một số nước phát triển
mạnh: Mỹ, Nhật, Tây Âu. Do đó, các nước đế quốc đã họp bàn phân chia lại thị
19


trường thế giới, ra sức áp bức, nô dịch các nước thuộc địa phụ thuộc. Đây chính
là nguyên nhân châm ngòi nổ cho cuộc cách mạng XHCN.
Thứ tư, trước Cách mạng Tháng Mười năm 1917, V.I.Lênin đã hoạt
động cách mạng ở nhiều nước, đã chứng kiến sự nô dịch dân tộc ở trong và
ngoài nước Nga Sa Hoàng từ 1913 - 1916.
Những năm 1907 - 1917 là thời kỳ diễn ra cuộc khủng hoảng về thế
giới quan ở nhiều nhà vật lý học. Điều này tác động không nhỏ đến việc xuất
hiện những tư tưởng duy tâm theo quan điểm của chủ nghĩa Makhơ và phủ

nhận chủ nghĩa Mác. V.I.Lênin đã tổng kết toàn bộ thành tựu khoa học tự
nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỳ XX; tổng kết những sự kiện lịch sử giai
đoạn này để viết tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán” (1909). Bằng việc đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất, mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, những nguyên tắc cơ
bản của nhận thức .v.v, V.I.Lênin đã bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác lên một
tầm cao mới. Việc bảo vệ và phát triển này còn thể hiện rõ nét tư tưởng của
V.I.Lênin về nguồn gốc lịch sử, bản chất và kết cấu của chủ nghĩa Mác trong tác
phẩm “Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác” (1913), về phép
biện chứng trong tác phẩm “Bút ký triết học” (1914 - 1916), về nhà nước
chun chính vơ sản, bạo lực cách mạng, vai trò của đảng cộng sản và con
đường xây dựng CNXH trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” (1917), v.v..
Thứ năm, cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi, xóa bỏ “nhà
tù của các dân tộc”, nước Nga bắt tay vào xây dựng xã hội mới, mở ra con đường
hiện thực hóa giải quyết vấn đề dân tộc theo Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin.
Thực tiễn hoạt động cách mạng của V.I.Lênin vơ cùng phong phú, Ơng
đã tích cực đấu tranh cho chủ nghĩa quốc tế vô sản, thành lập Quốc tế Cộng
sản để lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tập hợp mọi lực
lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ. Ông đã vận dụng sáng
tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác vào giải quyết mối quan hệ giữa yếu
tố dân tộc và yếu tố quốc tế trong cuộc đấu tranh cách mạng của GCVS. Ông
đã phát triển VĐDT của chủ nghĩa Mác thành VĐDT và thuộc địa trong thời
20


kỳ đế quốc chủ nghĩa; đề ra những nguyên tắc có tính cương lĩnh của GCVS
về VĐDT; coi phong trào giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô
sản thế giới; phê phán chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi cũng như chủ nghĩa sơvanh
nước lớn. Khẩu hiệu của C.Mác “Vơ sản tất cả các nước đồn kết lại” đã được
V.I.Lênin phát triển thành “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức

đoàn kết lại!”. Dưới ngọn cờ của Ơng, Liên bang Cộng hịa XHCN Xơviết và
hệ thống XHCN thế giới được hình thành; chủ nghĩa phát xít bị tiêu diệt; các
dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập dân tộc, làm cho hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc tan rã.
Ngay sau khi cách mạng vừa thắng lợi, hành động đầu tiên của Chính
quyền Xơviết là thơng qua Sắc lệnh của V.I.Lênin về hịa bình. Chính phủ
Xơviết đề nghị nhân dân và chính phủ tất cả các nước tham chiến ký kết một
hịa ước với những điều kiện cơng bằng hợp lý đối với tất cả các dân tộc, tức là
một hịa ước khơng có sự thơn tính và khơng có bồi thường chiến tranh. Trong
báo cáo của V.I.Lênin và trong Sắc lệnh về hịa bình đã nêu những ngun tắc
của một kiểu quan hệ quốc tế mới xây dựng không phải trên cơ sở áp bức các
dân tộc nhỏ yếu, mà là trên cơ sở thiết lập một nền hịa bình giữa tất cả các dân
tộc, thừa nhận quyền bình đẳng của các dân tộc, nền độc lập của tất cả các quốc
gia. Sắc lệnh của V.I.Lênin đã đem chính sách cùng tồn tại hịa bình giữa các
nước có chế độ xã hội khác nhau, ủng hộ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp
bức để giành quyền tự quyết, dân chủ và CNXH, đối lập lại chính sách xâm lược
và tiến hành các cuộc chiến tranh phản động của chủ nghĩa đế quốc.
Ngày 02 tháng 11 năm 1917 (theo lịch Nga cũ), Chính phủ Xơviết đã
tun bố bản “Tuyên ngôn về quyền của các dân tộc nước Nga”. Tuyên bố
khẳng định những nguyên tắc căn bản của Chính quyền Xơviết đối với các
VĐDT, khẳng định quyền bình đẳng không chỉ đối với các dân tộc trong nước
Nga mà cịn khẳng định quyền tự quyết, bình đẳng của các dân tộc thuộc địa
của Nga hoàng. Ngày 10 tháng 01 năm 1918, Đại hội Xơviết tồn Nga lần thứ
III đã khai mạc, Đại hội quyết định hợp nhất các Xôviết đại biểu nông dân với
Xôviết đại biểu công nhân và binh lính, thơng qua bản “Tun ngơn về quyền
21


lợi của nhân dân lao động và bị bóc lột”. Trong bản tuyên ngôn đã chỉ thị
thành lập Hồng quân, đã tuyên bố những nguyên tắc cơ bản của chính sách

đối ngoại hịa bình của Nhà nước Xơviết - thủ tiêu những hiệp ước bí mật, tơn
trọng chủ quyền dân tộc của tất cả các dân tộc, đoạn tuyệt hoàn tồn chính
sách thuộc địa man rợ của các nước tư bản. Bản “Tun ngơn” lần đầu tiên
trong lịch sử lồi người đã thực tiễn đặt ra những nhiệm vụ cơ bản của chun
chính vơ sản: thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xóa bỏ các giai cấp bóc lột,
xây dựng CNXH. Với tính cách là văn bản lập hiến quan trọng nhất, bản
“Tuyên ngôn” đã được đưa vào chương đầu trong Hiến pháp của nước Cộng
hòa liên bang XHCN Xơviết Nga, trong đó đã hiến định quyền bình đẳng của
các dân tộc Nga, cụ thể các dân tộc được sử dụng tiếng nói và chữ viết của
dân tộc mình, Hiến pháp đã được Đại hội V toàn Nga các Xôviết thông qua
vào tháng 7 năm 1918. Đại hội đã thơng qua quyết định lịch sử cải tổ nước
Cộng hịa Xơviết Nga thành Cộng hịa XHCN Xơviết Liên bang Nga, trên cơ
sở liên minh tự nguyện giữa các dân tộc ở nước Nga.
Tháng 4 năm 1918, V.I.Lênin viết tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt
của Chính quyền Xơviết”, Người kêu gọi cần tổ chức thật chặt chẽ sự kiểm soát
và kiểm sốt của tồn dân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm, củng cố kỷ
luật lao động, lôi kéo các chuyên gia tư sản, sử dụng những thành tựu mới nhất
của khoa học và kĩ thuật. Tuy nhiên, trong khi nước Nga đang xây dựng chế độ
XHCN thì các phần tử bạch vệ với sự giúp sức của 14 nước đế quốc đã ra sức lật
đổ chính quyền Xơviết. Trước tình hình đó, nước Nga Xơviết đã áp dụng chính
sách cộng sản thời chiến, xây dựng Hồng quân công nông. Cuộc nội chiến
Nga đã diễn ra từ đầu năm 1918 đến tháng 11 năm 1920 khi Hồng quân đã đánh
tan ngoại xâm và nội phản. Cuộc nội chiến kết thúc với thắng lợi thuộc về chính
quyền Xơviết, nước Nga Xôviết được giữ vững.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã mở ra một thời
đại mới - thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi quốc tế. Sự kiện
này làm nảy sinh những nhu cầu mới về lý luận mà thời C.Mác và
Ph.Ăngghen chưa được đặt ra. V.I.Lênin tổng kết thực tiễn cách mạng của
22



quần chúng nhân dân, tiếp tục bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác qua một
loạt tác phẩm nổi tiếng như: “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng
sản” (1920), “Về chính sách kinh tế mới” (1921), v.v.. trong đó có tác phẩm
nổi tiếng “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa” của V.I.Lênin thường được gọi tắt là Luận cương của
V.I.Lênin hay Sơ thảo luận cương. Đây là một trong những văn kiện được
Người viết xong vào tháng 6, 7 năm 1920 để trình bày tại Đại hội II Quốc tế
Cộng sản, họp từ 19 tháng 7 đến 07 tháng 8 năm 1920.
Sau chiến tranh Nhà nước Xôviết non trẻ đang cần được bảo vệ hơn
bao giờ hết. Điều có ý nghĩa là bảo vệ trung tâm của cách mạng vô sản thế
giới, bảo vệ học thuyết cách mạng của C.Mác. Do vậy, việc củng cố các đảng
chuẩn bị cho việc tiến hành chun chính vơ sản trên phạm vi toàn thế giới và
liên hiệp tất cả những người vô sản cách mạng ở những nước tư bản tiên tiến
với quần chúng cách mạng bị áp bức, bóc lột ở các nước thuộc địa, ở các
nước phương Đông được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong chương
trình nghị sự của Đại hội II Quốc tế Cộng sản.
Trong điều kiện như vậy, V.I.Lênin đã soạn thảo những luận cương về
VĐDT và vấn đề thuộc địa. Tác phẩm tuy ngắn gọn nhưng vơ cùng quan
trọng. Nó đã củng cố những nguyên tắc mácxít về VĐDT và vấn đề thuộc địa.
Theo đó, V.I.Lênin đã chỉ ra VĐDT ln phải đi đôi với vấn đề thuộc địa,
quyền tự quyết của các dân tộc bao gồm quyền tự quyết của các dân tộc thuộc
địa phải đi đến công nhận, thực hiện quyền độc lập tự chủ chứ khơng phải chỉ có
tự trị văn hóa; V.I.Lênin cịn nêu rõ để chiến thắng hồn toàn CNTB, đảm bảo
cho các dân tộc giành lại được độc lập, thì phải thực hiện sự liên minh, thống
nhất của GCVS tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
V.I.Lênin khẳng định rằng: “Điều quan trọng nhất trong chính sách của
Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa phải là làm cho vô
sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và tất cả các nước gần gũi
nhau để tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng chung nhằm lật đổ bọn địa chủ

và giai cấp tư sản. Bởi vì, chỉ có sự gần gũi ấy mới bảo đảm việc chiến thắng
23


chủ nghĩa tư bản, nếu khơng có chiến thắng đó thì khơng thể thủ tiêu được
ách áp bức dân tộc và tình trạng bất bình đẳng” [47, tr.266].
Tóm lại, Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quan điểm của V.I.Lênin
về bình đẳng dân tộc cho thấy: Quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc
là tập hợp các bài viết, bài nói chuyện được trình bày trong các tác phẩm,
phản ánh tư tưởng của V.I.Lênin về những vấn đề liên quan đến dân tộc và
bình đẳng dân tộc; là sự vận dụng sáng tạo, phát triển quan điểm của C.Mác
và Ph.Ăngghen về dân tộc trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể, gắn với
hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản công nhân quốc tế, phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới với nhiều cương vị khác nhau và trí tuệ thiên
bẩm của Ơng, nhằm khẳng định quyền của mọi dân tộc không phân biệt đa số
hay thiểu số, trình độ văn hóa cao hay thấp, chủng tộc, màu da và được thực
hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cùng phương thức hiện thực
hóa quyền bình đẳng dân tộc.
1.2. Nội dung quan điểm của V.I.Lênin về bình đẳng dân tộc
1.2.1. V.I. Lênin kế thừa, bổ sung, phát triển quan niệm về bình đẳng
dân tộc của C.Mác và Ph.Ăngghen
Kế thừa một cách có chọn lọc, bổ sung những quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, phát triển thành những quan điểm mang tính hệ thống của chủ
nghĩa Mác về VĐDT, quan hệ dân tộc, cơng bằng, bình đẳng xã hội trong
quan hệ dân tộc trong điều kiện lịch sử mới. Đặc biệt, V.I.Lênin kế thừa, bổ
sung, hồn thiện quan niệm mácxít về quyền BĐDT.
Theo V.I.Lênin, bình đẳng dân tộc là sự ngang bằng nhau giữa các dân
tộc, không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ hay trình độ phát triển
Ơng cho rằng, lợi ích của GCCN nói chung hay những lợi ích của tự do
chính trị nói riêng địi hỏi phải có sự bình quyền hết sức đầy đủ giữa tất cả mọi

dân tộc, không trừ một dân tộc nào trên thế giới hay giữa các dân tộc ở trong
một nước nhất định. Chỉ có quyền tự do đầy đủ và đảm bảo giải quyết được
thực sự VĐDT bằng cách thừa nhận quyền bình đẳng hồn tồn và quyền tuyệt
đối về tự quyết chính trị của tất cả các dân tộc, khơng trừ một dân tộc nào.
V.I.Lênin viết: “Đảm bảo giải quyết được thực sự vấn đề dân tộc bằng cách
24


thừa nhận quyền bình đẳng hồn tồn và quyền tự quyết chính trị tuyệt đối của
tất cả các dân tộc” [27, tr.249].
Trong tác phẩm “Về bản tuyên ngôn của “Hội liên hiệp những người dân
chủ - xã hội”” được viết năm 1903, V.I.Lênin đã nhắc nhở những người trong
Hội liên hiệp, đó chính là thái độ của Hội liên hiệp đối với VĐDT. Ơng trích
dẫn trong bản tun ngơn: “Nhận thấy thành phần dân tộc ở nước Nga bao gồm
nhiều dân tộc khác nhau hiện đang ở các trình độ phát triển văn hóa khác nhau,
và cho rằng chỉ có phát triển rộng rãi chế độ tự trị địa phương mới bảo đảm
được lợi ích của các thành phần khơng giống nhau ấy” [25, tr.128].
Bình đẳng giữa các dân tộc là không phân biệt dân tộc thuộc các chủng
tộc hay các tôn giáo khác nhau. Trong những năm 1902 - 1903, khi nói về
VĐDT V.I.Lênin chỉ rõ rằng, một trong những nguyên tắc cơ bản mà tất cả
những người dân chủ - xã hội phải tuân theo trong VĐDT là yêu sách về
quyền tự quyết của mỗi dân tộc nằm trong thành phần của quốc gia. Yêu sách
đó có nghĩa là đảng của GCVS bao giờ cũng phải đấu tranh một cách vô điều
kiện chống áp bức dân tộc, chống lại mọi ý đồ muốn dùng bạo lực hoặc dùng
thủ đoạn phi nghĩa để từ bên ngoài tác động đến quyền tự quyết của nhân dân.
Sau này, V.I.Lênin đã giải thích rằng khi đề ra trong cương lĩnh yêu sách quyền
dân tộc tự quyết, Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga hiểu khái niệm tự quyết
với ý nghĩa là tự quyết chính trị, tức là quyền tách ra và thành lập một quốc gia
độc lập. Cương lĩnh bao gồm u sách về quyền bình đẳng hồn tồn của công
dân (không phân biệt nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chủng tộc, dân tộc v.v.) và

quyền tự quyết một cách tự do dân chủ của họ.
Bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, được bảo
đảm bằng pháp luật; xóa bỏ mọi đặc quyền đặc lợi dân tộc. Bình đẳng dân tộc là
quyền của mọi dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ văn hóa cao
hay thấp, khơng phân biệt chủng tộc màu da…, và trên tất cả các lĩnh vực trong
kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội. Đây cũng là cơ sở pháp lý chung để giải
quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới trong khu vực hay trong một quốc gia.

25


×