Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bảo đảm công bằng xã hội trong thực hiện nghĩa vụ quân sự ở thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.78 KB, 117 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Công bằng xã hội là một giá trị xã hội, phản ánh khát vọng, mục tiêu
đấu tranh của con người và xã hội loài người. Bảo đảm CBXH là động lực
quan trọng để thúc đẩy tiến bộ và phát triển xã hội. Từ khi xã hội có giai cấp,
bảo đảm CBXH luôn phản ánh quan điểm, lập trường và lợi ích của giai cấp
cầm quyền. Trong xã hội XHCN, việc bảo đảm CBXH phản ánh bản chất ưu
việt của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Công bằng xã hội là một trong những mục tiêu phấn đấu của Đảng và
nhân dân ta. Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Đổi mới mang
tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt
để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì
mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [27, tr.16].
Bảo đảm CBXH phải được thể hiện toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố quốc phòng an ninh và
BVTQ, trong đó có bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS. Việc nghiên cứu,
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp bảo đảm
CBXH trong thực hiện NVQS, góp phần tạo ra động lực xã hội to lớn để mọi
công dân tham gia vào sự nghiệp BVTQ một cách tích cực, tự giác, nâng cao
sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước đang là một đòi hỏi cấp thiết
trong tình hình hiện nay.
Hà Nội là Thủ đô của đất nước, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội; đồng thời có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh. Bảo đảm CBXH
trong thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ
góp phần củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh của Thủ đô và đất
nước, mà còn mang ý nghĩa đầu tàu, dẫn dắt để cả nước học tập, noi theo. Trong
những năm qua, việc bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở thành phố Hà
Nội đã đạt được những thành tựu quan trọng: Các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ
quan quân sự và các đơn vị đã đề cao trách nhiệm, xác định rõ nội dung,


3


phương thức bảo đảm công bằng trong thực hiện NVQS; Nhận thức, thái độ
trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc thực hiện NVQS ngày càng
được nâng lên, nhờ đó thành phố đã hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ của
công tác quân sự, quốc phòng. Tuy nhiên, việc bảo đảm CBXH trong thực hiện
NVQS ở thành phố Hà Nội vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập: Nhận thức,
trách nhiệm của một số cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan quân sự còn chưa
đầy đủ; nội dung, biện pháp bảo đảm công bằng trong thực hiện NVQS còn
chưa toàn diện, cụ thể; quá trình thực hiện NVQS còn có biểu hiện thiếu công
bằng, thậm chí bất công, gây nên những dư luận tiêu cực trong xã hội, tạo cớ để
các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị xuyên tạc, nói xấu Đảng,
Nhà nước và quân đội. Những hạn chế đó là do cả nguyên nhân khách quan và
chủ quan, song nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN ở nước ta đang
đặt ra những yêu cầu mới. Trong khi đó, việc thực hiện NVQS ở thành phố Hà
Nội đang bị tác động bởi những tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường; sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên; cùng sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản
động. Nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của thành phố Hà Nội đòi hỏi phải được
củng cố, tăng cường trên cơ sở bảo đảm tính công bằng về sự tham gia đóng
góp giữa các địa phương, các cơ quan quân sự; về quyền hạn và nghĩa vụ của
mỗi công dân, mỗi gia đình.
Từ những luận cứ trên đây, tác giả lựa chọn vấn đề: “Bảo đảm công
bằng xã hội trong thực hiện nghĩa vụ quân sự ở thành phố Hà Nội hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ chuyên ngành chủ nghĩa xã hội
khoa học. Đây là vấn đề có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Công bằng xã hội và bảo đảm CBXH trên các lĩnh vực là những vấn đề đã

được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý quan tâm nghiên cứu, đề cập trên nhiều
phương diện, góc độ tiếp cận khác nhau. Các sản phẩm khoa học đã công bố liên
quan đến đề tài có thể khái quát theo những nhóm công trình tiêu biểu sau:
4


* Nhóm các công trình nghiên cứu về công bằng xã hội và bảo đảm
công bằng xã hội trên các lĩnh vực
Trong cuốn sách “Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội” của tác giả
Nguyễn Minh Hoàn [32] đã đề cập đến hai khái niệm cơ bản: CBXH và tiến bộ
xã hội. Hai khái niệm này được tác giả khảo sát trong lịch sử nhân loại từ thời
cổ đại đến nay. Tác giả đã nêu ra một số vấn đề thực hiện công bằng ở nước ta
hiện nay như: Thái độ ứng xử của chúng ta trước thực trạng phân hóa giàu
nghèo và bất bình đẳng hiện nay; vấn đề công bằng về cơ hội; vấn đề thực hiện
công bằng trong phân phối tư liệu sản xuất, trong giải quyết những vấn đề xã
hội gắn với thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội
và đoàn kết xã hội” [84] đã có nhiều bài viết của các tác giả đề cập đến các
vấn đề lý luận, thực tiễn về CBXH và thực hiện CBXH; đưa ra quan niệm về
CBXH, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội; quan hệ giữa CBXH và trách
nhiệm xã hội với đoàn kết xã hội; từ đó đề xuất giải pháp giải quyết có hiệu
quả mối quan hệ đó.
Trong sách tham khảo “Những vấn đề kinh tế - xã hội trong cương lĩnh
(Bổ sung, phát triển năm 2011” [54] đã tập hợp các bài tham luận Hội thảo
khoa học “Những vấn đề kinh tế - xã hội trong bổ sung, phát triển Cương lĩnh
năm 1991 trình Đại hội XI”, các tác giả đã đi sâu phân tích nhiều vấn đề xã
hội như: Công bằng xã hội, chính sách xã hội, giáo dục, nguồn nhân lực, thực
hiện xóa đói giảm nghèo, gắn kết giữa phát triển kinh tế với an sinh xã hội...
Khái quát thực trạng, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm giải quyết
những vấn đề trên, đảm bảo cho sự phát triển xã hội bền vững.

Trong sách tham khảo “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - Vấn đề và giải pháp” của Nguyễn Thị
Nga [51], tác giả đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và CBXH.
Trên cơ sở phân tích và thực hiện hai mục tiêu trên, tác giả đã cảnh báo về xu
hướng không đồng thuận, thiếu bền vững giữa tăng trưởng kinh tế và CBXH
ở nước ta hiện nay.
5


Đề tài khoa học cấp Bộ “Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” do Trịnh Quốc
Tuấn làm chủ nhiệm [75] đã nghiên cứu cơ bản những vấn đề lý luận, thực
tiễn về sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và CBXH sau gần 30
năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Nhóm tác giả nhấn mạnh: Tăng
trưởng kinh tế đến đâu, thì thực hiện tiến bộ và CBXH đến đó; đến lượt nó,
tiến bộ và CBXH trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế, đảm bảo cho sự
phát triển kinh tế - xã hội bền vững trong từng chính sách.
Trong cuốn sách “Những vấn đề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong
điều kiện nước ta hiện nay” do Phạm Thị Ngọc Trầm làm chủ biên [76], đã trình
bày các quan niệm khác nhau về CBXH của các tác giả trong và ngoài nước;
đồng thời phân tích làm rõ thực hiện công bằng ở một số nước trên thế giới để
xem xét công bằng trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn ở Việt Nam.
Trong cuốn sách “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số
nước châu Á và Việt Nam” do Lê Bộ Lĩnh làm chủ biên [39], các tác giả đã
trình bày lý thuyết về tăng trưởng kinh tế và CBXH, tình hình tăng trưởng kinh
tế và giảm thiểu bất bình đẳng xã hội ở một số nước trong vùng lãnh thổ châu
Á; nêu lên những quan điểm về tăng trưởng kinh tế và CBXH ở Việt Nam;
đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và CBXH ở nước ta.

Cuốn sách “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Nhật Bản giai
đoạn “thần kỳ” và Việt Nam giai đoạn “đổi mới”” của tác giả Lê Văn Sang và
Kim Ngọc [66] đã phân tích những thành tựu về sự phát triển kinh tế, giải
quyết các vấn đề xã hội và nguyên nhân của những thành công đó. Trên sơ sở
kinh nghiệm của Nhật Bản, các tác giả đã khảo sát thực trạng tăng trưởng kinh
tế và CBXH ở nước ta sau 10 năm đổi mới, đánh giá các biện pháp, chương
trình quốc gia thực hiện tăng trưởng kinh tế và CBXH. Đồng thời, luận giải
một số giải pháp giải quyết tranh chấp lao động, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần cho lao động.
6


Một số bài viết đăng trên các tạp chí như: “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay” của tác
giả Lê Hữu Tầng [67]; “Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” của tác giả Phạm Xuân Nam [50]; “Công bằng
xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của tác
giả Nguyễn Duy Quý [65]; “Công bằng xã hội ở Việt Nam: nhận diện và giải
pháp thực hiện” của tác giả Đỗ Huy [33]; “Tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội ở Việt Nam” của Nguyễn Trần Quế [58]; “Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với công bằng xã hội - một nội dung của kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” của Phạm Tất Dong [20]; “Công bằng xã hội trong giáo dục hiện
nay” của tác giả Lê Quốc Anh [2]; “Vai trò của Nhà nước trong điều tiết phân
phối thu nhập” của tác giả Tô Đức Hạnh [31]…, các tác giả đã phân tích quan
niệm về CBXH, về bảo đảm CBXH trên các lĩnh vực, làm nổi bật quan niệm
về CBXH và thực hiện CBXH trên nhiều khía cạnh khác nhau, trình bày quan
hệ CBXH với bình đẳng xã hội, quan hệ giữa CBXH với tăng trưởng kinh tế;
các tác giả đã chỉ ra những nguyên tắc thực hiện CBXH.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ
bảo vệ Tổ quốc của công dân

Trong sách “Vai trò của gia đình, dòng họ đối với thanh niên trong thực
hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc hiện nay” của tác giả Bạch Hoàng
Khánh” [36], đã trình bày những vấn đề chung về vai trò, thực trạng vai trò,
yếu tố tác động và giải pháp phát huy vai trò của gia đình, dòng họ đối với
thanh niên trong thực hiện nghĩa vụ quân sự, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Trong sách “Quyền và nghĩa vụ công dân về bảo vệ an ninh, quốc
phòng và trật tự, an toàn xã hội” của Đỗ Xuân Lân [38], tác giả đã trình bày
các vấn đề chung và các vấn đề về quyền, nghĩa vụ công dân về quốc phòng,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; xử lý vi phạm hành chính về an ninh,
trật tự, an toàn xã hội.
Trong sách “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân”
của tác giả Nguyễn Mai Bộ [3] đã trình bày những vấn đề lý luận chung về
7


các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân. Các tội xâm phạm
nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân theo quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam và thực tiễn áp dụng, cùng vấn đề hoàn thiện bộ luật hình sự về các tội
xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân.
Sách “Hỏi - đáp về Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015” của tác giả Phạm
Thị Lan Anh [1] đã tập hợp các câu hỏi đáp về những quy định chung và quy
định cụ thể về đăng ký nghĩa vụ quân sự và quản lý công dân trong độ tuổi
thực hiện nghĩa vụ quân sự; phục vụ của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ và hạ sĩ
quan, binh sĩ dự bị; nhập ngũ theo lệnh động viên, xuất ngũ khi bãi bỏ tình
trạng chiến tranh hoặc tình trạng khẩn cấp về quốc phòng...
Trong Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học “Ý
thức công dân trong thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của thanh niên huyện
Thạch Thất, thành phố Hà Nội hiện nay” của Nguyễn Thanh Nghị [52], trên
cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về ý thức công dân trong
thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, trong đó có đề cập đến ý thức của thanh

niên trong thực hiện NVQS, tác giả đã xác định ba yêu cầu và đề xuất bốn
giải pháp cơ bản xây dựng ý thức công dân trong thực hiện nghĩa vụ BVTQ
cho thanh niên huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội hiện nay.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về bảo đảm công bằng xã hội đối
với quân đội
Trong luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học
“Lợi ích của quân nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay” của Đinh Quang Tuấn [74] đã đề xuất một số giải
pháp nhằm giải quyết lợi ích của quân nhân bảo đảm CBXH trước những tác
động của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong đó, giải pháp về
“Đổi mới và thực hiện tốt chính sách xã hội đối với quân đội” được tác giả
luận giải có tính thuyết phục và góp phần nhất định vào thực tiễn giải quyết
lợi ích của quân nhân những năm qua.
Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng: “Nghiên cứu chính sách xã hội
đối với quân đội và gia đình quân nhân trong tình hình mới”[6], công trình đã
8


đề cập đến nhiều vấn đề như: vai trò của chính sách xã hội đối với quân đội
và gia đình quân nhân; khái quát những bổ sung, sửa đổi, tình hình thực hiện
chính sách xã hội đối với quân nhân và gia đình quân nhân cả những thành
tựu và hạn chế. Trước những tác động của tình hình thế giới, khu vực, trong
nước, nhất là bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, ban đề tài đã đề
xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách xã hội đối với quân đội và gia đình
quân nhân trong tình hình mới (đến năm 2020).
Trong Đề tài cấp Nhà nước “Xây dựng hậu phương quân đội trong tình
hình mới” do Trần Văn Minh làm chủ nhiệm [49] đã làm rõ khái niệm “Hậu
phương quân đội” và “Xây dựng hậu phương quân đội”, góp phần phát triển
lý luận về hậu phương quân đội và xây dựng hậu phương Quân đội nhân dân

Việt Nam trong tình hình mới; đánh giá đúng thực trạng, tổng kết kinh
nghiệm xây dựng hậu phương quân đội trong 30 năm đổi mới; đề xuất mục
tiêu, quan điểm chỉ đạo, nội dung và giải pháp cơ bản xây dựng hậu phương
quân đội trong tình hình mới.
Bài viết “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước đối với xây dựng hậu phương quân đội trong tình hình mới” [48] của hai
tác giả Trần Văn Minh và Phạm Văn Thắng đã đề cập đến việc phải đổi mới
tư duy, bổ sung, hoàn thiện quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương
xây dựng hậu phương quân đội. Bài viết chỉ ra cần thể chế hóa, hoàn thiện hệ
thống chính sách, pháp luật về xây dựng hậu phương quân đội; tăng cường sự
lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương các cấp;
sự phối hợp đồng bộ, thiết thực, hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội và
nhân dân trong xây dựng hậu phương quân đội.
Bài viết “Phát huy truyền thống, ngành chính sách quân đội phấn đấu
thực hiện tốt nhiệm vụ trong thời kỳ mới” [21] của Trần Quốc Dũng đã khái
quát những kết quả mà ngành chính sách quân đội đã đạt được trong 70 năm
qua góp phần ổn định tình hình chính trị, xã hội, tạo động lực xây dựng quân
đội vững mạnh về mọi mặt, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, bảo vệ
9


vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, trước yêu cầu của
nhiệm vụ xây dựng quân đội, tăng cường quốc phòng - an ninh, xây dựng và
BVTQ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, tác
giả đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt công tác chính sách
đối với quân đội, hậu phương quân đội trong thời gian tới.
Như vậy, từ nhiều góc độ, phương diện tiếp cận khác nhau, các công trình
nghiên cứu trên đây đã bàn đến những vấn đề lý luận, thực tiễn về CBXH và thực
hiện CBXH; khẳng định những giá trị nổi bật của nó đối với con người và xã hội
nói chung, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN ở Việt Nam

nói riêng. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống,
chuyên sâu về bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội hiện
nay. Vấn đề này cần được nghiên cứu làm rõ dựa trên cơ sở khoa học,; vì vậy, đề
tài không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm CBXH
trong thực hiện NVQS ở Thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất một số yêu cầu
và giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở thành phố
Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về CBXH trong thực
hiện NVQS và bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội
hiện nay.
Thứ hai, đánh giá thực trạng bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở
thành phố Hà Nội hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số yêu cầu và giải pháp cơ bản bảo đảm CBXH
trong thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội hiện nay.
10


* Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS, tập trung vào
vấn đề tuyển quân, giao quân, tiếp nhận và giải quyết chế độ cho quân nhân
xuất ngũ của các địa phương, cơ quan, đơn vị ở thành phố Hà Nội.
Địa bàn khảo sát tập trung ở một số quận, huyện của thành phố Hà Nội:
quận Cầu Giấy; quận Hà Đông; quận Thanh Xuân; huyện Ba Vì; thị xã Sơn

Tây và Sư đoàn 301 - Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.
Các số liệu tham khảo được sử dụng từ năm 2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về CBXH, thực hiện CBXH, chính sách xã hội, thực hiện chính
sách xã hội, xây dựng tiềm lực quân sự, quốc phòng và BVTQ.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội,
dựa trên các báo cáo sơ kết, tổng kết về thực hiện NVQS của cấp ủy, chính
quyền, cơ quan quân sự địa phương và kết quả khảo sát, điều tra xã hội học của
tác giả ở một số địa bàn trọng điểm.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
của khoa học xã hội và nhân văn như logic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, trao đổi
để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Về lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận
về bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở Việt Nam nói chung, địa bàn
thành phố Hà Nội nói riêng.
11


Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận
cứ khoa học để cấp ủy, chính quyền, chỉ huy các đơn vị ở thành phố Hà Nội
nghiên cứu xác định chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và thực
hiện tốt NVQS trong tình hình mới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham

khảo trong giảng dạy, tuyên truyền, giáo dục về công tác quân sự địa phương,
pháp luật về quốc phòng, quân sự trong các cơ sở giáo dục - đào tạo và cơ quan
quân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài gồm Mở đầu, 2 chương (4 tiết); Kết luận; Danh mục tài liệu tham
khảo và Phụ lục.
`

12


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BẢO ĐẢM
CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo đảm công bằng xã hội trong thực
hiện nghĩa vụ quân sự ở thành phố Hà Nội
1.1.1. Công bằng xã hội trong thực hiện nghĩa vụ quân sự ở Việt Nam
* Công bằng xã hội
Trong lịch sử, ý thức của con người về sự công bằng bắt đầu xuất hiện từ
khi xã hội có sự bất công, đó là khi hình thành giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Quan niệm của con người về CBXH luôn phụ thuộc vào thái độ, lập trường giai
cấp, đồng thời chịu sự chi phối mang tính quyết định của điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử. Mỗi giai cấp, tầng lớp khác nhau, trong những điều kiện lịch sử khác
nhau lại có quan niệm riêng về CBXH. Do đó, khi nghiên cứu về khái niệm
CBXH, nhất thiết phải đứng trên một lập trường giai cấp xác định.
Trước Mác, đã có nhiều quan niệm khác nhau về CBXH, song do sự chi
phối của lập trường, lợi ích giai cấp và sự hạn chế của hoàn cảnh lịch sử, quan
niệm về CBXH của các nhà tư tưởng chưa chỉ rõ được vai trò, bản chất giai

cấp trong thực hiện CBXH; chưa nêu lên được phương thức, điều kiện, lực
lượng để thực hiện CBXH. Tuy nhiên, đó cũng là những tiền đề quan trọng để
sau này C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin kế thừa những hạt nhân hợp lý nêu
ra quan niệm về CBXH khoa học và cách mạng.
Đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, đấu tranh cho lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa, vì sự công bằng và tiến bộ của loài người, các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa có chọn lọc và phát triển các thành tựu tư tưởng
trước đó để tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển nhận thức của
con người về CBXH. Các ông cho rằng, CBXH là một phạm trù có tính lịch sử,
là sản phẩm của đời sống xã hội, là quan hệ giữa con người với con người hình
thành trong quá trình hoạt động, sinh sống. Công bằng xã hội thực chất là mối
quan hệ về mặt lợi ích của con người trong xã hội, trong đó, lợi ích về kinh tế là
13


cơ bản nhất. Để thực hiện CBXH, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng cần phải xóa
bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ sở hữu XHCN về tư
liệu sản xuất. Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, phân phối theo lao
động là một bước tiến lớn trong thực hiện CBXH. C.Mác viết: “Cùng một lực
lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội dưới một hình thức này thì anh
ta lại nhận trở lại của xã hội dưới một hình thức khác” [13, tr.34]. Tuy nhiên,
hình thức phân phối này cũng chưa thể tạo ra CBXH một cách hoàn toàn trong
xã hội. Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta, C.Mác viết: “Với một công
việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng
của xã hội thì trên thực tế người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này
vẫn giầu hơn người kia... Muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải là
không bình đẳng, chứ không phải là bình đẳng” [13, tr.35]. Các ông cũng chỉ ra
rằng, CBXH theo xu hướng vận động của nó luôn đối lập với bất công xã hội,
luôn hướng tới giải quyết tốt hơn những nhu cầu căn bản của con người, bảo
đảm tốt hơn những điều kiện cho sự tồn tại và phát triển toàn diện con người. Do

vậy, CBXH vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, CBXH là một đặc trưng cơ bản, là mục
tiêu và động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH và xây dựng CNXH là
phương thức và điều kiện tất yếu để thực hiện CBXH. Công bằng xã hội chỉ
có thể đạt được dưới chế độ XHCN và cộng sản chủ nghĩa. Người viết: “Chỉ
có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân
biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả
đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui hòa bình và hạnh
phúc” [42, tr.461]. Theo Hồ Chí Minh, nguyên tắc phân phối trong thực hiện
CBXH dưới CNXH chính là phân phối theo lao động. Tuy nhiên, thực hiện
hình thức phân phối này đồng thời phải quan tâm đến những hoàn cảnh đặc
thù, các giai cấp, tầng lớp cụ thể, mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc.
Dựa trên nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động là chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
CBXH vừa có sự thống nhất, vừa có sự phát triển sáng tạo cho phù hợp với
14


điều kiện cụ thể trong quá trình lãnh đạo đất nước đi lên CNXH. Đảng ta khẳng
định: công bằng xã hội ở nước ta là một trong những đặc trưng của xã hội
XHCN; CBXH trong phát triển theo định hướng XHCN không chỉ là điều tiết
phân phối lại thu nhập của các giai tầng trong xã hội cho hợp lý mà quan trọng
hơn là phải tạo điều kiện phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng
đồng; CBXH phải tính đến hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm sự phát triển không
đều giữa các nhóm người, các vùng, các dân tộc khác nhau.
Đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, bám sát mục tiêu, đối
tượng nghiên cứu của đề tài, có thể quan niệm: Công bằng xã hội là một giá
trị xã hội, phản ánh sự ngang bằng nhau giữa người với người trong mối
quan hệ tương ứng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ, trách nhiệm
và quyền lợi, giữa lao động và trả công, giữa vi phạm và sự trừng phạt theo
nguyên tắc cống hiến ngang ngau thì hưởng thụ ngang nhau.

Công bằng xã hội trước hết là một giá trị xã hội. Mức độ bảo đảm
CBXH là kết quả trực tiếp của những nỗ lực đấu tranh của con người chống
lại sự bất công. Công bằng xã hội vừa là động lực của tiến bộ xã hội, vừa là
thước đo về mặt xã hội của tiến bộ xã hội. Theo logic đó, CBXH hoàn toàn
chỉ có thể đạt được trong xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử, phản ánh khả năng hiện thực
của xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Quan niệm về CBXH được sản
sinh và song hành tương ứng, đối lập với sự bất công. Công bằng xã hội có
tính lịch sử, nên không thể có một quan niệm chung về CBXH cho mọi thời
đại, dân tộc và giai cấp.
Công bằng xã hội là một phạm trù chính trị - xã hội, đồng thời cũng là
một phạm trù đạo đức pháp quyền. Sự đảm bảo CBXH, một mặt, luôn gắn
liền với thể chế chính trị, phụ thuộc vào quan điểm, thái độ, lập trường của
giai cấp cầm quyền; song mặt khác, nó cũng là yếu tố giữ vai trò điều chỉnh
mối quan hệ giữa người với người trong xã hội.

15


Công bằng xã hội có nội dung toàn diện, trên nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội. Tuy nhiên, công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển, công bằng
trong phân phối sản phẩm lao động là chủ yếu.
Khái niệm CBXH có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, vừa giao thoa, vừa
khác biệt với khái niệm bình đẳng xã hội. “Bình đẳng là khái niệm chỉ sự
ngang bằng nhau giữa các cá nhân hay các nhóm xã hội xét trong một lĩnh vực
kinh tế - xã hội cụ thể nào đó, như sự ngang bằng về địa vị kinh tế, chính trị,
pháp quyền, đạo đức, tôn giáo…”[32, tr.9-10]. Sự ngang bằng nhau giữa người
với người về các phương diện tự nhiên như thể lực, trí lực, tâm lý… thì không
được gọi là bình đẳng. Còn khi nói tới CBXH là nói tới sự ngang bằng nhau
giữa người với người không phải về một phương diện bất kỳ, mà chỉ về một

phương diện hoàn toàn xác định: Phương diện giữa cống hiến và hưởng thụ
theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Trong đó,
cống hiến và hưởng thụ là những khái niệm cần được hiểu theo nghĩa rộng, bao
hàm trong đó cả mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa lao động và sự
trả công, giữa công trạng và sự tưởng thưởng, giữa vi phạm và sự trừng phạt…
Như vậy, CBXH chính là một dạng, một biểu hiện cụ thể của bình đẳng
xã hội và thực hiện CBXH chính là thực hiện một phần của bình đẳng xã hội.
Công bằng xã hội không đồng nhất với bình đẳng xã hội; trong khi thực hiện
được CBXH, có thể vẫn chưa thực hiện được bình đẳng xã hội. Bình đẳng có
khía cạnh công bằng (như sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân; bình
đẳng trong hưởng thụ ở những người có lao động, đóng góp ngang nhau),
nhưng cũng có khía cạnh không công bằng như sự phân phối bình quân. Bình
quân là bình đẳng ở trình độ sơ khai theo kiểu cào bằng, nhưng hoàn toàn
không công bằng, bởi vì những người có cống hiến, đóng góp khác nhau lại
được phân phối như nhau. Trong công bằng vừa có bình đẳng, vừa có bất bình
đẳng, cái mà xã hội thừa nhận là công bằng thì nhất thiết không phải là sự bình
đẳng và sự bất bình đẳng không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với bất công.
* Thực hiện nghĩa vụ quân sự ở Việt Nam
Theo từ điển tiếng Việt, nghĩa vụ là “việc mà pháp luật hay đạo đức bắt
buộc phải làm đối với xã hội, đối với người khác” [85, tr.705]. Tính bắt buộc
16


là đặc trưng nổi bật của nghĩa vụ, được thể hiện ở sự trừng phạt nếu người
hay tổ chức không làm, không tuân theo. Sự trừng phạt đó có thể là chịu trách
nhiệm trước pháp luật nếu đó là nghĩa vụ pháp luật; là sự lên án của dư luận
và sự day dứt của lương tâm nếu đó là nghĩa vụ đạo đức; là sự tẩy chay, phản
đối của tập thể nếu đó là nghĩa vụ với tổ chức...
Quân sự, theo Từ điển Bách khoa quân sự, là: 1) lĩnh vực hoạt động đặc
biệt của xã hội liên quan đến đấu tranh vũ trang, chiến tranh và quân đội, củng

cố quốc phòng, BVTQ. Hoạt động quân sự do nhà nước, tập đoàn xã hội tiến
hành vì lợi ích của nhà nước hay tập đoàn xã hội đó; 2) một trong những hoạt
động cơ bản trong quân đội, cùng các hoạt động khác (chính trị, hậu cần, kĩ
thuật...) tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội [4].
Khoản 1, Điều 4 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 của nước ta xác
định: “Nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong
quân đội nhân dân. Thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm phục vụ tại ngũ và
phục vụ trong ngạch dự bị của Quân đội nhân dân”[63].
Trên thế giới, quy định về thực hiện NVQS được chia theo thực trạng
quân đội của các nhóm nước khác nhau, gồm: Các nước không có quân đội;
các nước có chế độ thực hiện NVQS không bắt buộc; các nước có chế độ
NVQS vừa bắt buộc vừa tự nguyện; các nước có chế độ NVQS bắt buộc và có
tuyển chọn; các nước có NVQS bắt buộc nhưng cho lựa chọn hình thức nghĩa
vụ… Nước ta nằm trong nhóm các nước có chế độ NVQS bắt buộc và có
tuyển chọn. Tính bắt buộc thể hiện trong hệ thống các quy định của pháp luật
về việc thực hiện NVQS của công dân.
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua
ngày 28 tháng 11 năm 2013 là cơ sở để nhà nước ta tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật quản lý đất nước trong tình hình mới. Điều 45, Hiến pháp nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam (Hiến pháp năm 2013) quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa
vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ
quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân”[60]. Quy định trên
khẳng định mọi công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội,

17


tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú đều phải thực hiện
NVQS. Trên cơ sở của Hiến pháp, đồng thời để phù hợp với sự phát triển của đất
nước và những yêu cầu của nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới, tại kỳ họp thứ

9, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật số 78/2015/QH13 (Luật Nghĩa vụ quân
sự 2015) thay thế cho Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1981 sửa đổi, bổ sung năm
1990, 1994, 2005. Đây là Luật Nghĩa vụ quân sự hiện hành của nước ta.
NVQS là nghĩa vụ đặc biệt, gắn với gian khổ, hy sinh xương máu. Đây là
đặc trưng phổ biến của việc thực hiện NVQS. Hoạt động quân sự là một dạng
lao động đặc biệt của đời sống xã hội, gắn với đấu tranh vũ trang, với chiến
tranh và quân đội. Nét đặc biệt của hoạt động quân sự là tính chất phức tạp
của nội dung, tính biến động rất lớn về nhiệm vụ và diễn ra trong không gian
rộng lớn và thời gian khẩn trương. Mục tiêu của hoạt động quân sự là sử dụng
phương tiện vũ trang tiêu diệt kẻ thù. Vì vậy, đây là lĩnh vực hoạt động đòi
hỏi cao về thể lực, bản lĩnh, tâm lý, trí tuệ, đặc biệt là gắn với gian khổ, thậm
chí là hy sinh xương máu. Bên cạnh đó, hoạt động quân sự diễn ra trong
những điều kiện nghiêm ngặt của điều lệnh, kỷ luật quân sự, của những quy
định chặt chẽ trong quan hệ chỉ huy và phục tùng. Đây là những thử thách rất
lớn đặt ra đối với người thực hiện NVQS.
Việc thực hiện NVQS ở nước ta có sự thống nhất cao giữa tính bắt buộc
và tính tự nguyện. Tính bắt buộc thể hiện ở hệ thống các quy định của pháp luật
về việc thực hiện NVQS mà mọi công dân đều phải tuân theo. Còn tính tự
nguyện thể hiện ở sự sẵn sàng, niềm vui, niềm hạnh phúc, tự hào của mỗi người
khi được đứng trong hàng ngũ của Quân đội nhân dân thực hiện nhiệm vụ
BVTQ. Tính tự nguyện được hình thành trên cơ sở của văn hóa và đạo đức. Sự
thống nhất giữa tính bắt buộc và tính tự nguyện thể hiện ở chỗ, những quy định
của pháp luật cũng thống nhất (nhưng không đồng nhất) với những quy chuẩn
văn hóa và đạo đức; ngược lại, văn hóa và đạo đức coi việc tuân thủ theo pháp
luật là một trong những yêu cầu hàng đầu. Sự thống nhất giữa tính bắt buộc và
tính tự nguyện trong thực hiện NVQS ở nước ta là một đặc trưng riêng có, xuất
phát từ truyền thống văn hóa, đạo đức, từ bản chất, mục tiêu chiến đấu của quân
đội cách mạng do Đảng ta sáng lập, tổ chức và rèn luyện.
18



* Quan niệm về công bằng xã hội trong thực hiện nghĩa vụ quân sự
ở Việt Nam
Trên cơ sở khái niệm CBXH và thực hiện NVQS ở Việt Nam, có thể
quan niệm: Công bằng xã hội trong thực hiện nghĩa vụ quân sự ở Việt Nam là
sự ngang bằng nhau giữa các công dân trong mối quan hệ tương xứng giữa
nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa
thưởng và phạt khi phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của quân
đội theo quy định của nhà nước Việt Nam.
Công bằng xã hội trong thực hiện NVQS là công bằng trên một lĩnh vực
hoạt động đặc thù của đời sống xã hội, đó là hoạt động quân sự. Nghĩa vụ quân
sự là nghĩa vụ pháp luật, mà khi nói đến nghĩa vụ pháp luật thì thường được
nhấn mạnh ở khía cạnh bình đẳng, mọi người đều được đối xử ngang bằng nhau
trước những quy định mang tính bắt buộc của pháp luật. Tuy nhiên, người tham
gia thực hiện NVQS, bên cạnh nghĩa vụ, trách nhiệm phải cống hiến thì còn
được thụ hưởng quyền lợi theo các quy định về chế độ, chính sách do Nhà nước
ban hành. Mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi, giữa cống hiến
và hưởng thụ, giữa thưởng và phạt khi xem xét trong sự tương xứng hay không
tương xứng giữa các công dân với nhau khi thực hiện NVQS chính là xét trên
khía cạnh công bằng.
Trước hết, CBXH trong thực hiện NVQS ở nước ta thể hiện ở sự bình
đẳng giữa các công dân cả về cơ hội và tính bắt buộc việc tham gia phục vụ
trong quân đội. Về cơ hội, mọi công dân có đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật, khi có nguyện vọng đều được xem xét để tuyển chọn phục vụ trong Quân
đội nhân dân Việt Nam. Việc bảo đảm cơ hội cho công dân trong thực hiện
NVQS nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ tham gia BVTQ. Nhu cầu đó nảy sinh
trên cơ sở tính tự nguyện trong thực hiện NVQS của công dân. Về tính bắt buộc,
mọi công dân đều phải chấp hành các quy định của pháp luật về việc tham gia
thực hiện NVQS. Ngược lại, bất kỳ ai không tuân thủ các quy định của pháp luật
về thực hiện NVQS thì đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

19


Công bằng xã hội trong thực hiện NVQS thể hiện ở sự bình đẳng giữa các
công dân trong mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ, trách
nhiệm và quyền lợi khi tham gia phục vụ trong quân đội. Mọi công dân tham gia
phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam đều được thụ hưởng các chế độ,
chính sách do nhà nước quy định tương xứng với sự đóng góp, cống hiến của
bản thân. Tính công bằng thể hiện ở chỗ, cùng một mức độ đóng góp, cống hiến,
cùng một công trạng thì đều được thụ hưởng quyền lợi, sự tưởng thưởng ngang
bằng nhau. Sự ngang bằng nhau đó phải được xem xét ở từng thời điểm lịch sử
cụ thể, dựa trên những quy định của chế độ, chính sách do Nhà nước ban hành.
Công bằng xã hội trong thực hiện NVQS thể hiện ở sự bình đẳng giữa
các công dân trong mối quan hệ giữa vi phạm và sự trừng phạt trong việc thực
hiện NVQS. Công bằng giữa các công dân chính là mọi biểu hiện vi phạm các
quy định của pháp luật về thực hiện NVQS đều được xử lý tương xứng với lỗi
phạm và ngang bằng nhau trong cùng lỗi phạm.
Khi xem xét CBXH trong thực hiện NVQS cần thấy rằng, đó không chỉ
là sự bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân trong thực hiện NVQS, mà
còn là đòi hỏi về sự hoàn thiện của chính sách, pháp luật trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, vi phạm và sự trừng phạt khi tham
gia thực hiện NVQS. Nếu chính sách, pháp luật về vấn đề này chưa hoàn thiện,
chưa bảo đảm công bằng thì sự bình đẳng trước pháp luật lại chính là nguyên
nhân của sự bất công.
1.1.2. Quan niệm và vai trò bảo đảm công bằng xã hội trong thực
hiện nghĩa vụ quân sự ở thành phố Hà Nội hiện nay
* Khái quát về thực hiện nghĩa vụ quân sự ở thành phố Hà Nội
Thành phố Hà Nội nằm ở trung tâm của đồng bằng sông Hồng, phía
Bắc tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc; phía Nam tiếp giáp với
các tỉnh Hà Nam, Hòa Bình; phía Đông tiếp giáp với các tỉnh Bắc Giang, Bắc

Ninh và Hưng Yên; phía Tây tiếp giáp với các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ. Diện
tích tự nhiên của Hà Nội là 3358,9 km2, chiếm khoảng 15,9% diện tích đồng

20


bằng sông Hồng và khoảng 1% diện tích tự nhiên cả nước. Dân số Hà Nội
năm 2016 là 7328,4 nghìn người [73].
Hà Nội là thủ đô của cả nước, là trung tâm chính trị, nơi tập trung các
cơ quan đầu não của Trung ương Đảng và Nhà nước ta. Hà Nội đồng thời là
một trung tâm văn hóa, có bề dày lịch sử hơn một nghìn năm tuổi với một hệ
thống các di sản văn hóa đồ sộ, phong phú, đặc sắc. Quy mô kinh tế của Hà
Nội đứng thứ 2 cả nước (sau Thành phố Hồ Chí Minh). Hiện nay, Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị loại đặc biệt của Việt Nam. Với vị trí, vai
trò đặc biệt quan trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, nên Hà Nội đồng thời
cũng là địa bàn quân sự trọng điểm của quốc gia.
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội là cơ quan quân sự của Thành phố, trực thuộc
Bộ Quốc phòng, chịu sự quản lý, chỉ huy của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Bộ Tư
lệnh Thủ đô Hà Nội có chức năng tham mưu cho Đảng bộ và chính quyền thành
phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và công tác quân sự địa
phương; giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội
thực hiện quản lý nhà nước về lĩnh vực quân sự, quốc phòng tại địa phương; tổ
chức thực hiện xây dựng quản lý chỉ huy các đơn vị lực lượng thường trực và
lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ thuộc quyền.
Thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội là quá trình tổ chức cho công dân
của Hà Nội tham gia phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của quân
đội theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm tổ chức thực hiện NVQS ở thành
phố Hà Nội là của UBND các cấp; Hội đồng NVQS các cấp và toàn thể nhân
dân Hà Nội. Nghĩa vụ, trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc tổ chức thực hiện NVQS được quy định cụ thể trong Luật Nghĩa vụ quân

sự năm 2015. Công dân Hà Nội khi tham gia thực hiện NVQS tại ngũ bên cạnh
việc phục vụ trong các cơ quan, đơn vị của Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội còn có
thể phục vụ trong các cơ quan, đơn vị khác trong toàn quân.
Quá trình tổ chức thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội chịu sự tác động,
chi phối bởi một số đặc điểm sau:

21


Một là, thành phố Hà Nội có mật độ dân số đông, song phân bố không
đồng đều giữa các địa phương, khu vực
Theo Niên giám thống kê, dân số Hà Nội năm 2016 là 7.328,4 nghìn
người. Trong đó dân cư sống ở thành thị là 3.928,6 nghìn người, ở nông thôn
là 3.399,8 nghìn người. Mật độ dân cư trung bình của Hà Nội năm 2016 là
2.182 người/km2 (trong khi mật độ trung bình của cả nước là 280 người/km 2).
Tuy nhiên, dân cư phân bố không đều, mật độ dân số tập trung tại các quận
khá cao (mật độ dân số trung bình của 12 quận là 11.220 người/km 2, trong đó
cao nhất là quận Đống Đa 42.171 người/km2, thấp nhất là quận Long Biên
4.840 người/km2), cao gấp 4,9 lần so mật độ dân số trung bình toàn thành phố.
Trong khi đó, ở những huyện ngoại thành như Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, Ứng
Hòa mật độ dưới 1.000 người/km² [73].
Với mật độ dân số đông, thành phố Hà Nội có một nguồn nhân lực dồi
dào để tuyển chọn công dân tham gia thực hiện NVQS. Nguồn tuyển chọn dồi
dào chính là cơ sở để thành phố có điều kiện xét tuyển, lựa chọn được những
thanh niên ưu tú nhất, đáp ứng đủ các tiêu chí về lý lịch, ý thức chính trị, sức
khỏe, trình độ văn hóa để tham gia phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt
Nam. Tuy nhiên, sự phân bố dân cư không đồng đều giữa các địa phương, khu
vực khiến cho nguồn tuyển chọn của mỗi địa phương lại khác nhau. Do đó,
UBND thành phố và Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội cần căn cứ vào đặc điểm cụ
thể của từng quận (huyện), phường (xã) để giao chỉ tiêu tuyển quân cho phù

hợp, đảm bảo công bằng giữa các địa phương.
Hai là, thành phố Hà Nội có cơ cấu dân cư đa dạng, có sự phân hóa lớn
về thu nhập, mức sống, trình độ văn hóa giữa các tầng lớp dân cư
Hà Nội là một thành phố có cơ cấu dân cư rất đa dạng, bao gồm cả thành
thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, dân tộc đa số và dân tộc thiểu số....
Hiện nay, Hà Nội có 12 quận, 1 thị xã, 17 huyện, 177 phường, 21 thị trấn, 386
xã. Năm 2016, dân số thành thị của Hà Nội chiếm 53,3%, dân số nông thôn
chiếm 46,7%[73]. Ở Hà Nội hiện còn có 9 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn là
các xã Ba Trại, Ba Vì, Khánh Thượng, Minh Quang, Vân Hòa, Yên Bài thuộc
22


huyện Ba Vì; các xã Đông Xuân, Phú Mãn thuộc huyện Quốc Oai; xã An Phú
thuộc huyện Mỹ Đức. Về mức sống, chênh lệch thu nhập bình quân đầu người
một tháng năm 2016 giữa nhóm thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp
nhất theo giá hiện hành ở thành phố Hà Nội là 8,5 lần [73]. Tỷ lệ hộ nghèo của
thành phố Hà Nội là 1,4%. Về thành phần dân tộc, Hà Nội hiện có khoảng gần
68.000 người thuộc 37 thành phần dân tộc, chiếm 0,9% dân số toàn thành phố;
trong đó dân tộc Mường chiếm 78,5% (trên 53.000 người); dân tộc tày chiếm
8,8% (trên 6.000 người); dân tộc Dao chiếm 3,6% (2.435 người); dân tộc Nùng
chiếm 2,9% (khoảng 2.000 người); còn lại là các dân tộc thiểu số khác. Đồng
bào các dân tộc thiểu số sinh sống ở tất cả 30/30 quận, huyện, thị xã.
Cơ cấu dân cư đa dạng, phức tạp đó khiến cho có sự khác biệt rất lớn về
nhận thức, nhu cầu, nguyện vọng giữa các tầng lớp dân cư của Hà Nội về
NVQS. Ở các khu vực thành thị, nơi dân cư có mức sống, trình độ văn hóa cao
hơn, thanh niên thường có điều kiện để học tập ở các trường đại học, cao đẳng,
hoặc du học nên diện tạm hoãn thực hiện NVQS nhiều. Ở các khu vực này,
thanh niên và các gia đình thường ít có nguyện vọng thực hiện NVQS. Trong
khi đó, ở các khu vực nông thôn, nơi có thu nhập, mức sống thấp hơn, số lượng
thanh niên có nguyện vọng tham gia thực hiện NVQS thường cao hơn, nhiều

thanh niên muốn được phục vụ lâu dài trong quân đội, và coi việc thực hiện
NVQS là cơ hội để tiếp cận với các chế độ, chính sách, nhất là về chính sách
dạy nghề và hỗ trợ việc làm. Sự khác biệt đó đặt ra vấn đề phải có sự đa dạng,
linh hoạt trong lựa chọn các hình thức, biện pháp giáo dục, tuyên truyền, vận
động thực hiện NVQS cho phù hợp.
Ba là, cư dân ở thành phố Hà Nội trình độ dân trí cao hơn mặt bằng
chung của cả nước, là nơi hội tụ đội ngũ trí thức đông đảo trên nhiều lĩnh vực
Là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, có tốc độ đô thị
hóa nhanh, nên trình độ dân trí của thủ đô Hà Nội cao hơn mặt bằng chung của
cả nước. Số học sinh phổ thông tại thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2016 của Hà
Nội là 190.934 người ; số sinh viên đại học và cao đẳng năm 2016 của Hà Nội
là 610.872 người. Trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện có 57 trường đại học; 29
23


Học viện; 31 trường cao đẳng[73]. Chính vì vậy, thành phố Hà Nội cũng đồng
thời tập trung một đội ngũ trí thức đông đảo trên nhiều lĩnh vực.
Với mặt bằng trình độ dân trí cao, cùng với hệ thống cơ sở hạ tầng tương
đối hoàn thiện, hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng phát triển đa
dạng, thành phố Hà Nội có rất nhiều thuận lợi trong việc triển khai các hình
thức, biện pháp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đường lối, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước đến các tầng lớp nhân dân, trong đó có chính sách,
pháp luật về NVQS. Trình độ văn hóa cao giúp cho cư dân của Hà Nội vừa có
khả năng tiếp cận, quán triệt hệ thống chính sách, pháp luật về NVQS nhanh
hơn, sâu sắc hơn, vừa có khả năng tham gia phản biện hệ thống chính sách,
pháp luật. Bên cạnh đó, đội ngũ trí thức đông đảo, có trình độ cao của Hà Nội
là lực lượng quan trọng tham gia góp ý, xây dựng, phản biện hệ thống chính
sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về NVQS.
Bốn là, thành phố Hà Nội có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh;
nhân dân Hà Nội có truyền thống yêu nước nồng nàn, sâu sắc, có ý thức trách

nhiệm cao đối với nhiệm vụ BVTQ
Với vai trò là Thủ đô của đất nước, nơi tập trung các cơ quan đầu não
của Trung ương Đảng và Nhà nước ta, nên thành phố Hà Nội cũng đồng thời
có vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh. Thủ đô Hà Nội là nơi đặt trụ sở
của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, các Tổng cục,
các Cục, Bộ chỉ huy các quân chủng, binh chủng trực thuộc Bộ, các Học viện,
nhà trường và nhiều cơ quan, đơn vị khác trực thuộc các quân, binh chủng.
Đặc điểm này đặt ra cho Hà Nội những yêu cầu rất cao đối với công tác quân
sự, quốc phòng, an ninh, trong đó có công tác NVQS. Hoạt động của các cơ
quan, đơn vị trong thực hiện công tác NVQS luôn nhận được sự chỉ đạo, giám
sát chặt chẽ của các cấp ủy Đảng, chính quyền.
Thủ đô Hà Nội có một bề dày truyền thống văn hiến lâu đời, được hun
đúc qua quá trình xây dựng, phát triển và đấu tranh chống giặc ngoại xâm suốt
hàng ngàn năm lịch sử. Truyền thống “Ngàn năm văn hiến Thăng Long - Đông
Đô - Hà Nội” đã được nhân dân và lực lượng vũ trang Thủ đô trong thời đại Hồ
24


Chí Minh kế thừa, phát huy để tạo nên tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết
sinh” - tinh thần sẵn sàng hy sinh, quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ
quốc trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Ý chí, tinh thần ấy
đã được hun đúc trở thành truyền thống tiêu biểu, phương châm hành động của
nhân dân và lực lượng vũ trang Thủ đô, không chỉ được thể hiện rõ nét trong đấu
tranh chống ngoại xâm, mà còn tiếp tục được phát huy, thực hiện với nội dung,
hình thức mới, chất lượng cao hơn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Thủ đô,
BVTQ Việt Nam XHCN. Đặc điểm này tạo ra những điều kiện thuận lợi cho
công tác NVQS của thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
* Quan niệm về bảo đảm công bằng xã hội trong thực hiện nghĩa vụ
quân sự ở thành phố Hà Nội
Theo Từ điển Tiếng Việt, bảo đảm có nghĩa là làm cho chắc chắn thực

hiện được, chắc chắn giữ gìn được, chắc chắn có đầy đủ những gì cần
thiết’’[85, tr.54]. Theo đó, bảo đảm là sự cam kết về trách nhiệm và quá trình
thực hiện cam kết đó của các chủ thể đối với một đối tượng, một công việc,
hoạt động nhất định về kết quả đạt được của công việc, hoạt động đó; hoặc về
các điều kiện nhằm giúp cho công việc, hoạt động đó được thuận lợi.
Từ cách tiếp cận về CBXH trong thực hiện NVQS nói chung và những
khái quát về việc thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội nói riêng, có thể quan
niệm: Bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội là tổng hòa
những tác động chủ quan của các chủ thể nhằm giúp cho mọi công dân của Hà
Nội đều được ngang bằng nhau trong mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm
và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa thưởng và phạt khi phục vụ tại
ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của Quân đội theo quy định của Nhà nước.
Mục tiêu bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội hiện
nay là làm cho sự công bằng giữa các công dân trong thực hiện NVQS được
thực hiện đúng theo đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và mong muốn của nhân dân; qua đó tạo sự đồng thuận giữa các tầng
lớp nhân dân, giữa nhân dân với hệ thống chính trị; thể hiện sự tiến bộ trong
cách thức xây dựng lực lượng vũ trang, thực hiện nhiệm vụ BVTQ, cách thức
25


quản lý xã hội của một Nhà nước theo chế độ XHCN; nâng cao ý thức và tạo
động lực cho người dân trong việc thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc.
Chủ thể bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội là
hệ thống chính trị của thành phố, Đảng ủy quân sự địa phương; các cơ quan
quân sự địa phương; Hội đồng NVQS các cấp; lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị
quân đội; các đoàn thể chính trị - xã hội; các gia đình và mọi công dân của
thành phố Hà Nội. Như vậy, chủ thể bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS
của thành phố Hà Nội rất phong phú, đa dạng. Mọi tổ chức, cá nhân có liên
quan đến việc tổ chức và thực hiện NVQS đều có trách nhiệm đối với việc

bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS của công dân ở thành phố Hà Nội.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của từng chủ thể, có thể phân chia thành chủ thể lãnh đạo, chủ thể quản
lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở
thành phố Hà Nội hiện nay, bao gồm:
Chủ thể lãnh đạo việc bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở thành
phố Hà Nội hiện nay là các cấp ủy đảng từ Thành ủy Hà Nội đến Đảng ủy các
quận (huyện), phường (xã); từ Đảng ủy Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội đến Đảng
ủy các cơ quan quân sự quận (huyện), phường (xã). Hai hệ thống tổ chức
Đảng này cùng chịu trách nhiệm lãnh đạo việc bảo đảm CBXH trong thực
hiện NVQS, trong đó trên cơ sở các nghị quyết của Đảng, các quy định của
pháp luật Nhà nước về NVQS, các cấp ủy Đảng địa phương ban hành nghị
quyết lãnh đạo hoạt động quân sự, quốc phòng của địa phương, trong đó có
việc thực hiện NVQS và bảo đảm công bằng trong thực hiện NVQS. Các cấp
ủy Đảng của cơ quan quân sự địa phương chấp hành sự lãnh đạo của cấp ủy
Đảng địa phương cùng cấp và sự lãnh đạo của Đảng ủy quân sự cấp trên, ban
hành Nghị quyết lãnh đạo đơn vị tổ chức thực hiện việc bảo đảm CBXH trong
đăng ký, khám tuyển, quản lý công dân trong độ tuổi thực hiện NVQS, các
chế độ, chính sách đối với quân nhân xuất ngũ.
Chủ thể quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc bảo đảm CBXH trong
thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội là các cấp chính quyền của Thành phố,
26


các cơ quan quân sự địa phương, các đoàn thể chính trị - xã hội, mọi gia đình
và công dân của Hà Nội.
Đối tượng được bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS là mọi công
dân của thành phố Hà Nội. Việc bảo đảm CBXH là giúp cho mọi công dân
đều được bình đẳng trước pháp luật, đều phải chịu nghĩa vụ, trách nhiệm như
nhau trong việc thực hiện NVQS, đều được thụ hưởng các chế độ, chính sách

khi hoàn thành NVQS (hưởng quyền lợi như nhau với những cống hiến ngang
bằng nhau), đều bị xử phạt khi vi phạm các quy định về NVQS (mức phạt
ngang nhau với cùng một mức độ vi phạm).
Các tầng lớp nhân dân của thành phố Hà Nội vừa là đối tượng được
bảo đảm, vừa là chủ thể tích cực, chủ động của quá trình bảo đảm CBXH
trong thực hiện NVQS. Họ vừa là người chấp hành, tổ chức thực hiện, vừa
tham gia giám sát, phản biện các đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước về bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS.
Trong đó, những công dân đang trong độ tuổi thực hiện NVQS chính là đối
tượng và chủ thể trực tiếp nhất. Quá trình bảo đảm CBXH trong thực hiện
NVQS ở thành phố Hà Nội hiện nay sẽ không thể có hiệu quả cao nếu
không phát huy vai trò, trách nhiệm, tính tích cực, tự giác của các tầng lớp
nhân dân, đặc biệt là thanh niên.
Nội dung bảo đảm CBXH trong thực hiện NVQS ở thành phố Hà Nội
là toàn diện trên tất cả các mặt, các khâu, các bước của quy trình thực hiện
NVQS, bao gồm:
Một là, bảo đảm công bằng trong đăng ký NVQS và quản lý công dân
trong độ tuổi thực hiện NVQS. Đó là đảm bảo cho mọi công dân khi đến tuổi
thực hiện NVQS (công dân nam từ đủ 17 tuổi trở lên, công dân nữ từ đủ 18 tuổi
trở lên có ngành, nghề chuyên môn phù hợp yêu cầu của Quân đội nhân dân Việt
Nam) đều phải (và được) đăng ký NVQS và chịu sự quản lý của các cấp có thẩm
quyền; đảm bảo cho mọi công dân đều được đối xử ngang bằng nhau trong việc
thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký; trong việc miễn đăng ký NVQS; trong việc
đăng ký NVQS bổ sung, khi thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc, học tập, tạm
27


×