Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tiểu luận môn đại cương tâm lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.2 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

----------

TIỂU LUẬN
Học phần: Đại cương về tâm lý và tâm lý học nhà trường
(PSE2001 2)
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS.Đinh Thị Kim Thoa
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hằng
Mã sinh viên: 15010311
Lớp: QH – 2015 – S
Ngành: Sư phạm Hóa học

Hà Nội, tháng 12/2018
0


LỜI CẢM ƠN
Trên thực tế, không có sự thành công nào mà không gắn liền với sự hỗ trợ, giúp đỡ dù
ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Sự giúp đỡ ấy vô cùng quý giá đối
với chúng em trên con đường tiến tới thành công.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin chân thành cảm ơn cô Đinh Thị Kim Thoa đã
tận tâm hướng dẫn chúng em thực hiện tiểu luận. Nếu không có những hướng dẫn, dạy bảo
của cô thì em nghĩ đề tài này của em sẽ rất khó có thể hoàn thiện được.
Kiến thức của em còn hạn chế và nhiều bỡ ngỡ. Do vậy, những thiếu sót là điều chắc
chắn không thể tránh khỏi, chúng em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu
của thầy cô và các bạn để kiến thức của em trong tiểu luận này nói riêng và kiến thức về kỹ
năng giao tiếp nói chung được hoàn thiện hơn.
Sau cùng, em xin kính chúc các thầy cô thật dồi dào sức khỏe, thành công trong sư
nghiệp cao quý để tiếp tục thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho


thế hệ mai sau
Em xin chân thành cám ơn!
Sinh viên
Nguyễn Thị Thanh Hằng

1


NỘI DUNG
Câu 1: Trong học phần “Đại cương tâm lý và tâm lý học nhà trường” được học
trong chương trình có ý nghĩa như thế nào đối với cá nhân em và đối với việc dạy học
sau này? Hãy minh họa bằng việc phân tích cụ thể 1 nội dung trong chương trình mà
em tâm đắc nhất.
“Biết người biết ta trăm trận trăm thắng" – câu nói từ Binh Pháp Tôn Tử này đã
chứng minh được tính đúng đắn và giá trị mạnh mẽ của tâm lý học qua bao thời đại, ở mọi
nền văn hóa. Ra đời và tách ra khỏi triết học trở thành một khoa học độc lập từ năm 1889
nhưng trước đó và cho đến nay tâm lý học vẫn có một vị trí to lớn trong cuộc sống và hoạt
động con người. Theo dòng lịch sử, có thể nói rằng trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội đều
có sự đóng góp của tâm lý học.
Đầu tiên, tâm lý học có ý nghĩa về mặt lý luận, góp phần tích cực vào việc đấu tranh
chống lại các quan điểm phản khoa học về tâm lý người và khẳng định quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử về tâm lý người. Tâm lý con người có chức năng định hướng,
điều khiển, điều chỉnh nên tâm lý học có vai trò to lớn với tất cả các lĩnh vực hoạt động của
con người như: lao động sản xuất, y tế, giáo dục, thể thao, an ninh quốc phòng… Mục đích
cao nhất của hoạt động lao động là tạo ra năng suất lao động cao. Muốn vậy phải chú ý
nhiều mặt từ việc chế tạo công cụ lao động, đảm bảo an toàn lao động, tổ chức lao động hợp
lí khoa học, xây dựng bầu không khí lao động tập thể, động viên khen thưởng trong lao
động... tất cả các mặt đó của lao động đều cần đến các tri thức tâm lý học. Ngoài ra, hầu
khắp các lĩnh vực khác nhau của xã hội như: tư pháp, thanh tra, y tế, thương mại, du
lịch... đều cần sự có mặt của khoa học tâm lý, sự ra đời các khoa học liên ngành như tâm lý

học y học, tâm lý học tư pháp, tâm lý học du lịch... Tâm lý học giúp giải thích một cách khoa
học những hiện tượng tâm lý xảy ra trong bản thân mình, ở người khác, trong cộng đồng,
trong xã hội, là cơ sở của việc tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách và xây dựng tốt mối
quan hệ giao lưu, quan hệ liên nhân cách, quan hệ xã hội. Đó là những minh chứng cụ thể
khẳng định vai trò to lớn của tâm lý học đối với các ngành khoa học khác và đối với cuộc
sống xã hội con người.
Đặc biệt với công tác giáo dục, tâm lý học có vị trí vô cùng quan trọng, những tri thức
tâm lý học là cơ sở khoa học cho việc định hướng đúng trong dạy học và giáo dục học sinh.
2


Việc hiểu được các yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân cách, các quy luật tâm
lý… sẽ giúp cho việc xây dựng chương trình dạy học và phương pháp dạy học phù hợp với
sự phát triển của người học. Từ đó, tâm lý học đã góp phần vào việc đào tạo các thế hệ công
dân có ích cho dân tộc và cho nhân loại. Có thể nêu ra vài ví dụ về vấn đề này: Vận dụng các
quy luật cảm giác, tri giác để điều chỉnh ngôn ngữ, sử dụng đồ dùng trực quan... có hiệu quả
nâng cao mức độ nhận thức bài giảng cho học sinh. Hiểu biết các quy luật tình cảm là cơ sở
khoa học cho việc tổ chức các biện pháp giáo dục "ôn nghèo gợi khổ" để "giáo dục trong tập
thể và bằng tập thể". Mặt khác, việc nhận thức đúng logic phát triển nhận thức của học sinh
đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng đã định hướng cho giáo viên xây dựng các
phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy những năng lực cốt lỗi cho học sinh.
Mặc dù còn khá mới, song những năm gần đây, lĩnh vực tâm lý học giáo dục ngày
càng trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của ngành giáo dục nói riêng và cả xã hội nói
chung. Nhất là trong bối cảnh giới trẻ đang nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến đạo đức, lối
sống… hay áp lực thi cử, áp lực chọn ngành nghề trước ngưỡng cửa vào đời. Trên các cơ sở
thống nhất về quan niệm dạy học và giáo dục, chuyên ngành tâm lý học giáo dục (nghĩa
rộng) là một khoa học chuyên nghiên cứu các hiện tượng tâm lý, quy luật phát triển của
chúng dưới tác đông của quá trình giáo dục. Tâm lý học giáo dục bao gồm hai nhánh chuyên
sâu nằm bên trong nó đó là tâm lý học dạy học (sự phát triển mặt năng lực trí tuệ của con
người dưới tác động của quá trình dạy học) và tâm lý học giáo dục (nghĩa hẹp – sự phát triển

mặt phẩm chất đạo đức, giá trị thẩm mý của nhân cách con người dưới tác động của quá
trình giáo dục hành vi đạo đức và các giá trị).
Ở Việt Nam hiện nay đã có chương trình đào tạo ngành tâm lý học đường. Đặc biệt,
trong bối cảnh sống, học tập và rèn luyện của thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại hiện nay chứa
đựng nhiều yếu tố bất lợi, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển nhân cách các em lứa tuổi
học sinh. Bởi vậy, nhu cầu được hỗ trợ về mặt tinh thần để phát triển thuận lợi ngày càng trở
nên cấp bách. Hơn nữa, bản thân hoạt động giáo dục trong các nhà trường cũng cần được
làm phong phú thêm với những hiểu biết sâu hơn về mặt tâm lý của học sinh để các nội dung
giáo dục phù hợp với khả năng và tâm lý lứa tuổi của các em. Một điểm quan trọng không
kém, đó là thông qua hoạt động tư vấn hướng nghiệp, tư vấn học đường và hỗ trợ việc làm,
các nhà tâm lý học tiếp cận tới học sinh, sinh viên để giúp đỡ các em đánh giá, tìm hiểu đặc
3


điểm bản thân. Từ đó, các em có cơ sở chọn ngành học, tìm phương pháp học tập, tìm công
việc phù hợp với bản thân, phát hiện ra những điểm mạnh, điểm yếu của mình để liên tục
hoàn thiện. Hiện nay có khá nhiều các em học sinh có những vướng mắc cần chia sẻ và
mong muốn có một không gian riêng tư trong trường học để nói ra và tìm giải pháp cho
những vấn đề của bản thân. Chính vì vậy, các dịch vụ tham vấn hướng nghiệp, tham vấn
khủng hoảng học đường, tham vấn sức khỏe tâm thần trường học... đã và đang trở thành nhu
cầu xã hội cấp bách. Từ đó đòi hỏi phải có cần có đội ngũ chuyên gia tham vấn tâm lý được
đào tạo bài bản. Những năm gần đây, một số địa phương, trong đó có Hà Nội đã thí điểm,
triển khai phòng tư vấn tâm lý học đường tại một số trường học để có thể nắm bắt tâm tư
tình cảm, giáo dục định hướng và phát triển nhân cách cho học sinh ngay từ khi còn trên ghế
nhà trường. Hoạt động của các nhà tâm lý trong nhà trường có tác dụng nâng cao chất lượng
học tập của học sinh, nhất là đối với những trẻ có khó khăn về học tập; đồng thời giảm thiểu
những khó khăn tâm lý, phát huy tối đa tiềm năng trong mỗi cá nhân học sinh. Nhưng những
hoạt động tư vấn tâm lý học đường này chủ yếu mới dừng lại ở hình thức tham vấn, giải đáp
những thắc mắc, băn khoăn của học sinh, phụ huynh riêng lẻ, chưa trở thành một hoạt động
trợ giúp tâm lý học đường thật sự chuyên nghiệp. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ban hành

nhiều văn bản, quyết định về công tác tư vấn, tư vấn tâm lý và các vấn đề xã hội cho học
sinh, sinh viên. Gần đây nhất, Bộ đã ban hành Thông tư 31/2017/TT-BGDĐT “Hướng dẫn
thực hiện công tác tư vấn tâm lý cho học sinh trong trường phổ thông” có hiệu lực từ 2-22018, góp phần giải quyết những tồn tại hiện nay.
Yếu tố chương trình góp phần không nhỏ trong việc tạo ra chất lượng đào tạo. Trong
nhà trường sư phạm, các môn học nghiệp vụ đóng vai trò cơ bản đối với việc hình thành
những kỹ năng nghề nghiệp. Học phần “Đại cương tâm lý và tâm lý học nhà trường” mà cụ
thể được chia ra thành 3 bộ phận là Tâm lý học đại cương, Tâm lý học phát triển và Tâm lý
học giáo dục đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành những kiến thức và
những kỹ năng nghiệp vụ sư phạm nền tảng cho người học. Đặc biệt là với người học - sinh
viên sư phạm, sau thời gian kiến thực và thực tập, sinh viên sẽ có đầy đủ 2 mặt cơ sở lý luận
và thực tiễn để tự đánh giá về tính phù hợp của nội dung chương trình, nguyên tắc xây dựng
chương trình, nội dung dạy học. Chương trình giảng dạy học phần “Đại cương tâm lý và tâm
lý học nhà trường” được thực hiện tại Trường đại học Giáo dục trong nhiều năm qua đã liên
4


tục được cập nhật, bổ sung, điều chỉnh mang lại hiệu quả vô cùng to lớn cho sinh viên chúng
em. Đối với bản thân em, học phần này đã mang lại ý nghĩa vô cùng to lớn mà em xin trình
bày dưới đây.
Đầu tiên, học phần “Đại cương tâm lý và tâm lý học nhà trường” đã giúp em nắm
được các tri thức cơ bản về tâm lý học, từ đó em có thể nhìn nhận lại bản thân mình, thay đổi
để khiến bản thân mình trở thành người có ích hơn cho xã hội. Thứ hai, thông qua học phần
này, em đã bước đầu biết vận dụng các tri thức được học vào công tác xây dựng phương
pháp dạy học và giáo dục hiệu quả - đây là thành quả lớn nhất mà em có thể mang theo trên
con đường sự nghiệp tương lai của mình cũng như quá trình kiến tập và thực tập sư phạm
sắp tới.
Đối với phần Tâm lý học đại cương, qua các bài học, em đã được cung cấp rất nhiều
kiến thức về các vấn đề tâm- sinh lý của các hiện tượng tâm lý người, các qui luật, cơ chế
tâm lý, các quá trình, trạng thái và thuộc tính tâm lý con người đồng thời giúp em phân tích
và chứng minh được vai trò của các hiện tượng tâm lý trong đời sống con người. Ở nội dung

đầu tiên, em đã nắm được cơ sở sinh lý thần kinh của ý thức, các trạng thái ý thức, chú ý,
chức năng của ý thức. Tiếp đó, em đã hiểu được bản chất cơ chế của hiện tượng ý thức, phân
biệt được các trạng thái ý thức, vô ý thức, hiểu được vài trò chú ý của ý thức trong đời sống
của con người đồng thời vận dụng kiến thức đã học giải thích được các hành động có ý thức
và vô thức ở con người. Bên cạnh đó, em đã được tìm hiểu về các quá trình thu nhận, xử lý
thông tin, hiểu được khái niệm cảm giác sự phát triển tâm lý, ý thức thông qua các loại cảm
giác đồng thời biết vận dụng quy luật cảm giác vào học tập, cuộc sống. Bên cạnh quy luật
cảm giác, em con được tìm hiểu về các nguyên tắc tổ chức tri giác, tri giác hình và nên, tri
giác chiều sâu, khoảng cách, chuyển động, ảo ảnh tri giác, hiểu được bản chất quy luật, quá
trình xử lý thông tin của tri giác, mối quan hệ của cảm giác và tri giác đối với sự phát triển
tâm lý, ý thức, biết vận dụng các kiến thức để giải thích nhận thức cảm tính ở người và ứng
dụng các quy luật của tri giác vào học tập, cuộc sống. Ngoài ra, nhờ nắm bản chất của tư
duy, tưởng tượng, ngôn ngữ, cơ sở chức năng của tư duy, chu kỳ, các giai đoạn của tư duy,
mối quan hệ của tư duy, tưởng tượng, ngôn ngữ, các thành tố và các giai đoạn phát triển
ngôn ngữ , phân biệt được các giai đoạn giải quyết vấn đề, bản thân em đã tự vận dụng được
kiến thức để phân tích mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ trong giải quyết những vấn đề
5


của học tập Sau khi giải quyết được những vấn đề đó, em đã được tìm hiểu về cơ sở tâm sinh
lý, các giai đoạn trí nhớ: ghi nhớ lưu giữ, tái hiện thông tin, nắm được nguyên nhân, quy luật
của sự quên và kỹ thuật nhớ, hiểu được bản chất, vai trò của trí nhớ, mối quan hệ giữa các
giai đoạn và vai trò của trí nhớ đối với đời sống con người và vận dụng chúng để giải thích
các vấn đề của trí nhớ và ứng dụng vào học tập của bản thân. Ở chương tiếp theo, em đã
nắm được những nhu cầu cơ bản của con người, động cơ thúc đẩy hành vi, các trạng thái xúc
cảm, bản chất xã hội của tình cảm và mối quan hệ giữa động cơ và cảm xúc biểu hiện trong
hành vi con người, hiểu được bản chất, qui luật của động cơ, cảm xúc, nguyên nhân, động
lực của hành động, vai trò của động cơ, cảm xúc đối với sự phát triển tâm lý, nhân cách, nhờ
đó em có thể vận dụng kiến thức để lý giải sự điều khiển, điều chỉnh hành vi bản thân và
người khác thông qua động cơ và cảm xúc. Nội dung cuối cùng phần Tâm lý học đại cương

đề cập đến là cơ sở tự nhiên và cơ sở xã hội của sự hình thành và phát triển nhân cách, bản
chất của nhân cách và mối quan hệ của các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc hình thành nhân
cách. Từ đó em có thể vận dụng kiến thức để hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách
của bản thân. Như vậy, phần Tâm lý học đại cương đã cung cấp cho em hệ thống tri thức cơ
bản về Tâm lý học dưới góc độ quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm cơ sở
nghiên cứu các lĩnh vực khác của Tâm lý học, đặc biệt là 2 lĩnh vực Tâm lý học phát triển và
Tâm lý học giáo dục mà em đã được tìm hiểu ngay sau đó.
Đối với phần Tâm lý học phát triển, em đã được tiếp xúc với quá trình phát triển tâm
lý của con người từ lứa tuổi sơ sinh đến lứa tuổi thanh niên sinh viên (0-25 tuổi). Quá trình
này bao gồm 8 giai đoạn: sơ sinh (0-2 tháng tuổi), hài nhi (2-15 tháng tuổi), ấu nhi (15-36
tháng tuổi), mẫu giáo (3-6 tuổi), học sinh tiểu hoc (7-11 tuổi), học sinh trung học cơ sở (1115 tuổi), học sinh trung học phổ thông (16-18 tuổi) và thanh niên sinh viên (19-25 tuổi). Đối
với mỗi giai đoạn, học phần đã cung cấp cho em các kiến thức về các hoạt động chủ đạo, các
quá trình phát triển tâm lý, đặc điểm của các quá trình phát triển trí tuệ, tư duy, tình cảm …
Từ những kiến thức đó, bản thân em có thể tự giải thích được các hành động của bản thân và
mọi người xung quanh, đồng thời đề xuất được những giải pháp ngăn chặn những ảnh hưởng
tiêu cực của tâm lý đối với đời sống của từng lứa tuổi.
Ở phẩn Tâm lý học giáo dục – đây là phần cung cấp cho em nhiều kiến thức liên quan
đến công việc sau này của mình nhất. Sau khi tìm hiểu về các vấn đề nói chung của tâm lý
6


học giáo dục, em đã được học về bản chất tâm lý của hoạt động dạy học, sự phát triển của trí
tuệ và vận dụng được các kiến thức đó để xây dựng các phương pháp dạy học nhằm phát
triển năng lực và nhận thức cho học sinh. Bên cạnh đó, bản chất tâm lý của hoạt động học
tập cũng là nội dung quan trọng được đề cập đến, từ đó em có thể hình thành được các kỹ
năng học tập cho bản thân, tự xây dựng động cơ và hứng thú học tập cho mình và ứng dụng
để hướng dẫn học sinh của mình sau này. Ngoài ra, thông qua việc tìm hiểu về bản chất tâm
lý của hoạt động giáo dục đạo đức, thái độ và các giá trị, em đã ứng dụng được những kiến
thức đó vào việc đề xuất các phương án hình thành đạo đức, thái độ và các giá trị cho lứa
tuổi học sinh. Cuối cùng, phần Tâm lý học giáo dục đã giúp em hình thành năng lực sư

phạm và tự xây dựng con đường phát triển năng lực sư phạm của mình.
Lấy ví dụ rõ hơn trong phần Tâm lý học đại cương, khi em học về nội dung “Chú ý”.
Rèn luyện khả năng chú ý cho bản thân và cho học sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
hoạt động sư phạm của người giáo viên, bởi học sinh có khả năng này tốt sẽ ghi nhớ sâu nội
dung học tập, ảnh hưởng tới kết quả nhận thức, nâng cao hiệu quả học tập. Nhận thức của
con người không thể sử lý được hết mọi thông tin mà thế giới cung cấp. Hàng ngày , chúng
ta bị " tấn công " bởi các cảnh tượng, âm thanh , mùi vị và các kích thích khac nhau. ở bất kỳ
thời điểm nào chúng ta có xu hướng chỉ đáp trả hoặc ghi nhớ một số các kích thích, thông tin
mà thôi. Chú ý là cái phông, nền để cho quá trình nhận thức diễn ra. Chú ý là sự tập trung
của ý thứ vào một hay một số các sự vật hiện tượng để định hướng hoạt động, đảm bảo điều
kiện thần kinh - tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành có hiệu quả. Chú ý được xem như
là một trạng thái tâm lý "đi kèm" các hoạt động tâm lý khác giúp cho các hoạt động đó diễn
ra hiệu quả, chẳng hạn như chăm chú nhìn, lắng nghe v.v... Chú ý không có đối tượng riêng
của bản thân nó: đối tượng của chú ý chính là đối tượng của hoạt động tâm lý mà nó đi kèm.
Chú ý được chia thành 3 loại: Chú ý không chủ định, chú ý có chủ định và chú ý sau chủ
định. Chú ý không chủ định là loại chú ý không có mục đích tự giác, không cần sự nỗ lực
của bản thân, không cần sử dụng biện pháp nào mà vẫn chú ý vào đối tượng được. Chú ý
không chủ định chủ yếu do tác động bên ngoài gây ra, phụ thuộc vào đặc điểm vật kích thích
như: Vật kích thích mới lạ, hấp dẫn về hình dáng, màu sắc; cường độ hay sự tương phản
giữa vật kích thích và bối cảnh. Ngoài đặc điểm của bản thân đối tượng thì quan hệ của đối
tượng với nhu cầu, hứng thú của chủ thể cũng là nguyên nhân gây ra chú ý không chủ định.
7


Chú ý này có đặc điểm là không có mục đích đặt ra từ trước, không có biện pháp để chú ý,
không đòi hỏi sự cố gắng, sự nỗ lực ý chí vì vậy sẽ ít mệt mỏi, không căng thẳng thần kinh
song chú ý không chủ định thường kém bền vững. Chú ý có chủ định là sự định hướng hoạt
động do bản thân chủ thể đặt ra. Do bản thân xác định mục đích hành động nên chú ý có chủ
định phụ thuộc nhiều vào chính mục đích và nhiệm vụ hành động. Loại chú ý này mang tính
bền vững cao hơn. Tuy nhiên do cần phải có sự nỗ lực cố gắng, nên nếu kéo dài thì dễ gây

căng thẳng, mệt mỏi. Chú ý sau chủ định: Loại chú ý này vốn là chú ý có chủ định nhưng
không đòi hỏi sự căng thẳng về ý chí, lôi cuốn con người vào nội dung và phương thức hoạt
động tới mức khoái cảm, đem lại hiệu quả cao của chú ý. Chú ý sau chủ định giống với chú
ý không chủ định ở tính có mục đích tri giác nhưng nó cũng không đồng nhất với chú ý có
chủ định vì sự say mê, hứng thú và không có sự căng thẳng ý chí. Ba loại chú ý trên có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung và chuyển hóa cho nhau, giúp con người phản ánh tốt
nhất đối tượng. Các loại chú ý này đều cần thiết cho hoạt động của con người vì mỗi loại
đều có ưu điểm và hạn chế của nó, trong đó chú ý sau chủ định là loại cần hình thành trong
các hoạt động của con người. Chú ý có các thuộc tính cơ bản sau: Thứ nhất là sức tập trung
chú ý. Đây là khả năng tập trung vào một phạm vi hẹp, chỉ chú ý đến một hay một số đối
tượng cần thiết cho hoạt động nhằm phản ánh đối tượng được tốt nhất, số lượng các đối
tượng mà chú ý hướng tới gọi là khối lượng chú ý. Sức chú ý càng cao thì cường độ chú ý
càng lớn và hiệu quả hoạt động cao. Thứ hai là tính bền vững của chú ý. Đây là khả năng
duy trì chú ý trong một thời gian dài đối với một hay một số đối tượng nhất định không
chuyển sang đối tượng khác. Đối lập với tính bền vững là sự phân tán chú ý. Phân tán chú ý
là có chú ý nhưng không tập trung cao độ, lâu bền vào đối tượng, cũng như không phân phối
di chuyển chú ý một cách có tổ chức. Tính bền vững của chú ý không mâu thuẫn với sức tập
trung chú ý và sự di chuyển của chú ý. Tính bền vững của chú ý có quan hệ mật thiết với các
đặc điểm của cá nhân cũng như điều kiện khách quan của hoạt động. Thứ ba là sự phân phối
chú ý. Đây là khả năng cùng một lúc chú ý đầy đủ đến nhiều đối tượng hay nhiều hoạt động
khác nhau một cách có chủ định. Phân phối chú ý không có nghĩa là chia đều chú ý cho mọi
đối tượng hoạt động mà có sự không đồng đều chú ý ở các đối tượng khác nhau, đối tượng
chính được chú ý nhiều, các đối tượng khác được chú ý ít hơn. Muốn phân phối chú ý tốt thì
phải đưa một số đối tượng hoạt động trở thành quen thuộc, chỉ có một hay một số hoạt động
8


mới. Sự phân phối chú ý không có mâu thuẫn gì với sức tập trung chú ý vì trong phân phối
chú ý cũng có sự tập trung chú ý vào hoạt động mới. Thứ tư là sự di chuyển chú ý: Đó là khả
năng chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác theo yêu cầu của hoạt động. Sự di

chuyển chú ý không mâu thuẫn với độ bền vững của chú ý và cũng không phải phân tán chú
ý vì nó được di chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác một cách có ý thức và khi
chuyển sang đối tượng chú ý mới thì chú ý lại được tập trung với cường độ cao.
Từ những đặc điểm về khả năng tập trung chú ý, em đã tự biết cân nhắc các hành
động, công việc của bản thân. Sau khi học xong bài “Chú ý”, em đã tìm hiểu cách để tăng sự
chú ý của bản thân, em đã tìm được “Phương pháp Pomodoro”, theo phương pháp này chúng
ta sẽ luyện tập tập trung trong 45 phút liền và cho bản thân nghỉ ngơi 15 phút. Thời gian đầu
tiên khi áp dụng phương pháp này vô cùng khó khăn, nhưng nếu cố gắng và kiên trì, em nghĩ
ai cũng có thể rèn luyện được khả năng chú ý của mình.Bên cạnh đó, em cũng tự xây dựng ý
chí cho bản thân. Chú ý và ý chí gắn liền với nhau, ý chí cho phép ta bỏ qua có ý thức những
yếu tố gây xao lãng trong khi vẫn tập trung vào công việc đang làm. Ngoài ra, em đã rèn
luyện được thói quen ghi lại những vấn đề gây phân tâm để xử lí sau. Internet giúp ta có thể
truy cập tức thì bất kỳ thông tin nào, mỗi khi nghĩ ra điều gì đó, ta có xu hướng muốn tra cứu
nó ngay. Do đó, mỗi khi có những suy nghĩ hoặc câu hỏi như vậy, ta sẽ bị ngừng tập trung
vào công việc đang làm. Để tiếp tục hoàn thành công việc của mình, bất cứ khi nào chợt
nghĩ đến một điều gì đó, em đã viết nó ra một quyển sổ nhỏ và tự hứa với bản thân rằng sau
khi hết thời gian tập trung và đến lúc giải lao, em sẽ quay lại kiểm tra. Khi tham gia học tập,
em luôn tự ý thức chuyển điện thoại về chế độ im lặng, dùng bút highlight đánh dấu các nội
dung theo lời giảng của giảng viên. Bằng những cố gắng của mình và việc áp dụng những
kiến thức Tâm lý học vào việc rèn luyện khả năng chú ý của mình, kết quả học tập học kì
này của em đã tiến bộ hơn rõ rệt so với kì trước, em luôn hoàn thành công việc của mình
đúng thời hạn và có chất lượng công việc tốt.
Ngoài việc áp dụng kiến thức để rèn luyện bản thân, em đã tim hiểu được một số
phương pháp giúp học sinh của mình rèn luyện được khả năng chú ý. Để rèn luyện khả năng
này ở học sinh, giáo viên nên giao cho các em những công việc hay bài tập đòi hỏi sự chú ý
và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng linh động theo từng độ tuổi và lưu ý đến
tính cá thể của học sinh, điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
9



giáo dục. Có những trẻ phát triển hơn về tinh thần và ngôn ngữ nhưng lại kém các bạn đồng
lứa về mặt hoạt động hoặc ngược lại, vì vậy tùy theo năng lực của học sinh, giáo viên có cân
nhắc đặt ra yêu cầu vừa sức so với khả năng cố gắng thực hiện của các em. Bên cạnh đó, chú
ý thường diễn ra trong một thời gian nhất định tùy theo độ tuổi. Vì vậy, sau mỗi tiết học giáo
viên nên yêu cầu cả lớp ra ngoài giải lao, vui chơi vào giờ chơi (không nên ngồi lại trong
lớp). Việc học sinh tham gia vận động, tập thể dục hay tham gia chơi một môn thể thao nào
đó sẽ giúp máu luân chuyển đều khắp cơ thể, làm gia tăng hoạt động trí não, tăng độ nhạy
bén. Đồng thời giáo viên cũng nên nhắc nhở học sinh không bỏ bữa sáng vì ăn sáng đảm bảo
sẽ nâng cao khả năng chú ý trong học tập. Ở học sinh sự chú ý không chủ định rất dễ xuất
hiện, chỉ cần có sự thay đổi nhỏ là sự chú ý này sẽ lấn át sự chú ý chủ định. Ngoài khả năng
tập trung chú ý ổn định, khả năng chuyển hướng chú ý của học sinh cũng rất mạnh. Trẻ có
thể căn cứ theo yêu cầu mà chủ động và kịp thời chuyển sự chú ý từ đối tượng này sang đối
tượng khác.
Như vậy, có thể khẳng định rằng “Đại cương tâm lý và tâm lý học nhà trường” là một
học phần mang lại rất nhiều ý nghĩa đối với bản thân em cũng như đối với sinh viên sư
phạm. Trên cơ sở các hiểu biết về Tâm lý học, chúng em sẽ tự đánh giá và điều chỉnh được
các hành vi của bản thân đồng thời tự xây dựng và đề xuất được các phương pháp dạy học
tích cực, ứng dụng trong công việc của mình sau này.
Câu 2: Giải quyết tình huống: Trong lớp học của em có 1 học sinh thuộc loại
trung bình tỏ ra chán học nhưng luôn giữ được quan hệ khá tốt với mọi người. Em sẽ
làm gì để cải thiện học sinh này? Hãy dùng kiến thức Tâm lý học để giải thích việc làm
của mình.
Không khó để bắt gặp tình trạng học sinh chán học trong các trường trung học phổ
thông hiện nay. Nhiệm vụ của giáo viên và sinh viên sư phạm chúng em – những giáo viên
tương lai là luôn phải tìm mọi cách để giải quyết tình trạng này giúp các em học sinh của
mình ngày càng phát triển hơn. Dưới đây là đề xuất một cách giải quyết của em.
Để giải quyết bất kì tình huống nào, trước hết chúng ta cần tìm nguyên nhân của vấn
đề. Đặc trưng lớn nhất của hoàn cảnh xã hội của sự phát triển ở lứa tuổi học sinh trung học
phổ thông là các quan hệ có tính mở và sự chuyển đổi vai trò và vị thế xã hội. Ở lứa tuổi học
sinh trung học phổ thông, các mối quan hệ ít tính mâu thuẫn hơn so với độ tuổi trước đó.

10


Quan hệ với cha me, thầy cô, bạn bè đã trở nên thuận lợi hơn do sự trưởng thành nhất định
trong nhận thức của học sinh và sự thay đổi trong cách nhìn nhận của người lớn. Tuy vậy,
tính chất ít xác định về quan hệ xã hội vẫn còn. Một mặt học sinh đã có những sự độc lập
nhất định trong tư duy, trong hành vi ứng xử, mặt khác học sinh lại chưa có đuợc sự độc lập
về kinh tế do vẫn phụ thuộc vào gia đình. Trong gia đình, học sinh có thể có được quan hệ
tương đối dân chủ hơn, được tôn trọng và lắng nghe. Học sinh có thể tự quyết định một sổ
vấn đề của bản thân hoặc được tham gia vào việc ra các quyết định đó như lựa chọn nghề
nghiệp, học hành, tình cảm. Việc can thiệp trực tiếp theo kiểu “ra lệnh”, “ép buộc” của cha
mẹ với trẻ không phù hợp và cũng không thể hiệu quả nữa. Sự tôn trọng và trò chuyện của
phụ huynh với học sinh có thể tạo được mối quan hệ tốt giữa cha mẹ và con cái. Từ đặc
điểm này có thể tìm ra một vài những nguyên nhân chán học xuất phát từ phía gia đình như
do bố mẹ ép buộc phải học quá nhiều nên chán học, hoặc do bố mẹ quá thờ ơ với việc học
của con nên em học sinh này chán học theo.
Trong quan hệ với bạn bè, học sinh trung học phổ thông có thể tham gia vào nhiều
nhóm bạn đa dạng hơn. Nhóm bạn có các định hướng giá trị rõ rệt hơn và cỏ điều kiện tồn
tại lâu dài hơn. Đặc điểm này không rõ ở học sinh trung học cơ sở. Học sinh trung học phổ
thông có thể vừa tham gia vào các nhóm có tổ chức như lớp học, chi đoàn vừa tham gia vào
các nhóm bạn bè tự phát, trong đó có những nhóm thường xuyên, ổn định và các nhóm tạm
thời tình huống. Các nhóm thường xuyên có sự phân hoá vai trò ổn định hơn và một số
trường hợp có sự đoàn kết. Điều này khiến em học sinh này luôn giữ được mối quan hệ tốt
với bạn bè trong lớp của mình. Tuy nhiên, các mối quan hệ này có thể dẫn đến hệ quả xấu
khi em học sinh này chơi với nhóm bạn chán học và chán học theo. Thậm chí em đó có thể
khiến các bạn khác chán học theo mình.
Về đặc điểm nhận thức và phát triển trí tuệ trong giai đoạn này, nhận thức, hiểu biết
rộng và phong phú hơn. Cụ thể thể hiện ở tính độc lập và sáng tạo thể hiện rõ nét, sự phân
hóa hứng thú học tập và sự phát triển trí tuệ đạt đến đỉnh cao. Sự phát triển trí tuệ gắn liền
với năng lực sáng tạo. Sự phát triển nhận thức và trí tuệ không giống nhau ở mỗi cá nhân,

đặc biệt phụ thuộc nhiều vào cách dạy học. Từ điểm này có thế hình dung ra được một số
nguyên nhân xuất phát từ giáo viên và môi trường học tập. Giáo viên không có phương pháp
11


dạy học hiệu quả, thu hút học sinh, môi trường học không đủ cơ sở vật chất sẽ là nguyên
nhân gây nên tình trạng chán học ở học sinh
Tuy gắn với trí tuệ phát triển thì đời sống tình cảm và ý chí của học sinh cũng có
nhiều thay đổi như có tính phân hóa sâu,tính tự chủ và được điều tiết tốt hơn. Những tình
cảm như tính thẩm mỹ, tình bạn, tình yêu bộc lộ một cách rõ ràng. Tình yêu ở thời học sinh
trung học phổ thông học sinh dễ “hiệu ứng nhiễm sắc” – chỉ nhìn thấy nét đẹp của người yêu
và hiệu ứng “hiệu ứng phi cá tính hóa” – dễ dàng từ bỏ cái tôi của bản thân để làm đẹp lòng
người yêu. Tình yêu tuổi học trò cũng là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng
chán học của em học sinh này.
Ý chí của học sinh trung học phổ thông thể hiện rõ ở việc chọn nghề trong tương lai.
Tuy nhiên có học sinh có ý chí kiên định chọn rõ và có thành tích, bên cạnh đó có học sinh
còn chưa phát huy hết khả năng của bản thân. Đặc điểm nổi bật trong nhân cách của HS thể
hiện ở tự ý thức và cái tôi. Tự ý thức là khả năng học sinh tự tách ra khỏi bản thân mình làm
đối tượng của nhận thức, để đánh giá. Tự đánh giá là một khả năng được hình thành trong
suốt quá trình phát triển nhân cách và được coi là dấu hiệu cơ bản để nhận biết mức độ
trưởng thành của nhân cách. Tuy nhiên, quá trình hình thành nhân cách bao gồm cả việc
hình thành “cái tôi”. Cái tôi hay hình ảnh về cái tôi có nhiều nội dung và nhiều mức độ như
cái tôi thể chất, cái tôi hiện thực, cái tôi lí tưởng. Khi ở độ tuổi này, học sinh rất quan tâm
đến thân thể của mình trong con mắt người khác. Hình ảnh cái tôi được đánh giá qua nhiều
tiêu trí khác nhau: tính bền vững, tính tương phản, mức độ rõ ràng. Nét nổi bật của tuổi
thanh niên là xác định kế hoạch cuộc đời. điều này là do sự trưởng thành nhất định về nhân
cách, sự cụ thể hóa ít nhiều có tính hiện thực các ước mơ. Ở học sinh trung học phổ thông
khái niệm chọn nghề dựa vào khái quát kinh nghiệm có được từ người xung quanh, tuy
nhiên chưa đầy đủ. Chọn nghề là quá trình phức tạp và lâu dài. Tuy nhiên, học sinh ở độ tuổi
này thể hiện tính tích cự xã hội cũng rất rõ nét. Tính tích cực xã hội của lứa tuổi này được

thúc đẩy bởi các yếu tố sau: Nhu cầu tìm hiểu, nắm bắt thông tin; các hứng thú liên quan đời
sống xã hội. Từ đó nhận thấy rằng nguyên nhân tình trạng chán học của em học sinh này có
thể xuất phát từ việc bản thân em chưa có ước mơ, định hướng cho tương lai.
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra 2 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng chán học của
em học sinh này. Thứ nhất là nguyên nhân chủ quan, xuất phát từ bản thân học sinh chưa có
12


ước mơ hoài bão, chưa có định hướng tương lai nên chưa xác định được mục tiêu của việc
học tập, em cảm thấy học tập là việc không cần thiết nên chưa tập trung vào việc học. Thứ
hai, nguyên nhân khách quan dẫn đễn việc em học sinh này chán học là do các yếu tố môi
trường xung quanh tác động lên bản thân em: gia đình, thầy cô, bạn bè, phương pháp giảng
dạy, tình yêu ….
Để giải quyết được tình huống này, ứng với mỗi em học sinh, chúng ta bắt buộc phải
tim hiểu nguyên nhân ở tất cả mọi khía cạnh, sau đó tìm nguyên nhân chính và giải quyết
các nguyên nhân đó. Có như vậy, tình trạng chán học của học sinh mới có thể được thay đổi.
Nếu học sinh chưa có định hướng tương lai, là một người giáo viên, chúng ta cần liên hệ với
gia đình để cùng đồng hành định hướng cho học sinh của mình. Ở học sinh trung học phổ
thông khái niệm chọn nghề dựa vào khái quát kinh nghiệm có được từ người xung quanh,
tuy nhiên chưa đầy đủ. Chúng ta cần cung cấp các nguồn thông tin tuyển sinh chính xác và
an toàn cho các em, tránh trường hợp các em tiếp cận với các nguồn thông tin sai lệch sẽ ảnh
hưởng đến tương lai của các em sau này. Hơn nữa, chọn nghề là quá trình phức tạp và lâu
dài, chúng ta nên giành thời gian trò chuyện với các học sinh của mình xem các em đang
trong giai đoạn nào để có thể hỗ trợ các em kịp thời.
Nếu nguyên nhân xuất phát từ phía gia đình, hoàn cảnh gia đình hiện tại tác động
phần nhiều đến tâm lý học sinh. Trong tình huống này, giáo viên nên liên hệ với bố mẹ của
các em để tìm hiểu các hoạt động học tập thường ngày ở nhà của em, mối quan hệ của em
với bố mẹ. Từ đó chúng ta đưa ra các giải pháp giúp đỡ học sinh này cả từ phía gia đình và
nhà trường: Giáo viên sẽ trao đổi các nội dung học tập với phụ huynh để phụ huynh hỗ trợ
học sinh học ở nhà, phụ huynh sẽ phản hồi những khó khăn cho giáo viên để giáo viên kịp

thời giải quyết.
Trên phương diện bạn bè và tình yêu, may mắn là em học sinh này luôn giữ được
quan hệ khá tốt với mọi người, chúng ta có thể liên hệ với các mối quan hệ thân thiết nhất
của em và nhờ người đó giúp đỡ em cải thiện tình trạng chán học. Người đó có thể là người
yêu, bạn thân. Đối với học sinh ở lứa tuổi này, lời nói của giáo viên và bố mẹ có thể ít tầm
ảnh hưởng hơn lời nói của bạn bè xung quanh. Sự hỗ trợ, động viên từ bạn bè luôn luôn là
động lực to lớn giúp các em học sinh cải thiện tình trạng chán học của bản thân.
13


Đối với giáo viên cần thường xuyên trau dồi kinh nghiệm của bản thân, khi dạy học
cần đưa ra các biện pháp phù hợp để kích thích sự hứng thú học tập của học sinh. Ví dụ như:
Có các biện pháp để động viên khích lệ các em mỗi khi làm được một việc tốt, cùng cả lớp
tổ chức những trò chơi chung, những buổi học ngoại khóa, động viên học sinh nhiệt tình
tham gia vào các hoạt động của lớp của trường, tổ chức thi đua giữa các tổ trong lớp, cuối
tuần có biểu dương khen thưởng kịp thời. Khi có học sinh mắc lỗi, giáo viên cần nhắc nhở,
phê bình học sinh này trước lớp nhưng lưu ý dùng những lời nói lịch sự, tránh ảnh hưởng
đến lòng tự trọng của các em, điều đó sẽ phản tác dụng. Nếu là giờ bài tập: chọn 1 bài tập
vừa sức để cho học sinh đó lên bảng giải. Giúp em nâng cao kiến thức của mình chứ không
ép buộc các em học quá nhiều kiến thức. Nếu là giờ lý thuyết thì nêu câu hỏi để buộc học
sinh này cùng tham gia vào bài giảng. Tạo điều kiện cho học sinh củng cố lại kiến thức bằng
một số hình thức như học nhóm, đôi bạn cùng tiến,...
Tóm lại, vấn đề học sinh chán học luôn luôn là một vấn đề đau đầu đối với mỗi giáo
viên. Để giải quyết được vấn đề này, chúng ta nên trau dồi thêm các kiến thức chuyên môn
giảng dạy cũng như các kiến thức về tâm lý lứa tuổi. Đó sẽ là cơ sở để chúng ta giải quyết
vấn đề chán học của từng học sinh cụ thể.

14



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tâm lý học đại cương, Đinh Thị Kim Thoa, Trần Văn Tính, Đặng Hoàng Minh, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội
2. Tâm lý học phát triển, Đinh Thị Kim Thoa, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Trần Văn Tính, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội
3. Tâm lý học giáo dục, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Trần Văn Tính, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội

15



×