Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Trình bày khái quát và đánh giá các hình thực lịch sử cơ bản của chủ nghĩa duy vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.58 KB, 17 trang )

1. Trình bày khái quát và đánh giá các hình thực lịch sử cơ bản
của chủ nghĩa duy vật.
Cũng như tất cả các ngành khoa học khác, chủ nghĩa duy vật triết
học đã có quá trình ra đời và phát triển qua các giai đoạn khác nhau mà
biểu hiện tập trung nhất của nó là việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học theo lập trường duy vật - mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Với
việc giải quyết theo lập trường duy vật biện chứng mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, chủ nghĩa duy vật đã được nâng lên một tầm cao mới về
chất, đặt nền tảng thế giới quan khoa học để giải quyết tất cả những vấn
đề của nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết
học. Phạm trù vật chất và mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được
các nhà triết học trước Mác quan tâm với nhiều quan điểm khác nhau và
luôn diển ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật
trong suốt lịch sử của triết học.
Quan điểm Mácxit cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống
nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan có trước và
độc lập với ý thức con người.
-Theo Lênin "Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác".
thức: là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao
của bộ não người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con
người.
Ý


Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:

Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức. Vật


chất là cái có trước nó sinh ra và quyết định ý thức:
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất: Bộ não người, cơ quan
phản ánh thế giới xung quanh, sự tác động của thế giới vật chất vào bộ
não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên.
Lao động và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) trong hoạt động thực
tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành tồn tại và
phát triển của ý thức.
Mặt khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Vật chất là đối tượng khách thể của ý thức, nó quy định nội dung, hình
thức, khả năng và quá trình vận động của ý thức.

Sự tác động trở lại của ý thức:
Y thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng ý thức lại có tính độc
lập tương đối của nó. Hơn nữa sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là
sự phản ánh tinh thần, phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ
động, máy móc, nguyên xi thế giới vật chất vì vậy nó có tác động trở lại
đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục
tiêu, phương hướng, xác định phương pháp, dùng ý chí để thực hiện mục
tiêu ấy. Vì vậy ý thức tác động trực tiếp đến vật chất theo hai hướng chủ
yếu: Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách
quan thì sẽ thúc đẩy hoặc tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đặc trưng


vật chất. Ngược lại nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho
hoạt động của con người không phù hợp với qluật khách quan do đó sẽ
kìm hãm sự ptriển của vật chất.

Tuy vậy sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một

mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận
động của vật chất được. Và suy cho cùng dù ở mức độ nào nó vẫn phải
dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất.

Biểu hiện của mối quan hệ giữa ý thức và vật chất trong đời sống
xã hội là quan hệ tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong đó tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương
đối và tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức còn làcơ sở để nghiên cứu, xem xét các mối quan hệ khác như:
lý luận và thực tiễn, khách thể và chủ thể, vấn đề chân lý...

* Từ mối quan hệ này ta đánh giá và rút ra được Quan điểm
khách quan như sau:

Nguyên tắc khách quan trong xem xét là hệ quả tất yếu của quan
điểm DVBC về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vật chất quyết định
ý thức là sự phản ánh vật chất cho nên trong nhận thức và hành động
phải đảm bảo tính khách quan, trong hoạt động thực tiễn phải luôn luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách
quan.


Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động
phải xuất phát từ bản thân SVHT, từ thực tế khách quan, không được
xuất phát từ ý thức chủ quan, không lấy ý muốn chủ quan của mình làm
chính sách, không lấy ý chí áp đặt thực tế. Nắm vững nguyên tắc khách
quan đòi hỏi phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan, nóng vội,
định kiến, không trung thực.

Nói như vậy không có nghĩa là quan điểm khách quan coi nhẹ tính

năng động của ý thức. Quan điểm khách quan không những không loại
trừ mà còn đòi hỏi phát huy tính năng động và sáng tạo của ý thức trong
quá trình phản ánh sự vật. Bởi vì quá trình đạt tới tính khách quan đòi
hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động chủ quan trong việc tìm ra
những con đường, những biện pháp để từng bước thâm nhập sâu vào
bản chất của sự vật. Điều đó phân biệt quan điểm khách quan với chủ
nghĩa khách quan. Nguyên tắc khách quan có ý nghĩa ngăn ngừa tư duy
khỏi những sai lầm do việc chủ thể nhận thức đưa vào sự vật (khách thể
nhận thức) một số yếu tố chủ quan vốn không có trong bản thân sự vật.
Tuân theo quan điểm khách quan góp phần ngăn ngừa bệnh chủ quan,
duy ý chí.

Yêu cầu của nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng quy luật
khách quan và hành động theo quy luật khách quan.

Từ những cơ sở lý luận trên chúng ta nhận thấy Bệnh chủ
quan duy ý chí trong quá trình xây dựng CNXH thời kỳ trước đổi
mới:


Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm khá phổ biến ở nước ta và
ở nhiều nước XHCN trước đây, gây tác hại nghiêm trọng đối với sự
nghiệp xây dựng CNXH.

thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vo bộ ĩc nguời một
cách sáng tạo, l ci thực tại chủ quan tồn tại ở trong óc người dưới dạng
hình ảnh tinh thần của sự vật khch quan. Vì vậy nếu cường điệu tính
sáng tạo của ý thức sẽ rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí. Bệnh chủ quan
duy ý chí là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan,
cường điệu tính sáng tạo của ý thức, của ý chí, xa thời hiện thực khách

quan, bất chấp quy luật khách quan lấy nhiệt tình Cách mạng thay cho
sự yếu kém về tri thức khoa học.
Ý

Sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động
giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, sai lầm đó thể hiện
rõ trong khi định ra chủ trương chính sách và lựa chọn phương pháp tổ
chức hoạt động thực tiễn theo hướng áp đặt, rơi vào ảo tưởng, chủ quan.

Bệnh chủ quan duy ý chí có nguồn gốc từ nhận thức, sự yếu kém
về tri thức khoa học, tri thức lý luận không đáp ứng được đòi hỏi của
thực tiễn. Bệnh chủ quan duy ý chí còn do nguồn gốc lịch sử, xã hội,
giai cấp, tâm lý của người sản xuất nhỏ chi phối. Cơ chế quan liêu bao
cấp cũng tạo điều kiện cho sự ra đời của bệnh chủ quan, duy ý chí...

Trước thời kỳ đổi mới (ĐH6), Đảng ta đã mắc bệnh chủ quan, duy
ý chí trong việc xây dựng mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật
chất kỷ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế, Đảng ta đã nóng vội


muốn xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, muốn sau khi cải tạo
XHCN chỉ còn lại hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể hay có
lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý
phát triển công nghiệp nhẹ, chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý
kinh tế tập trung bao cấp mang tính quan liêu, cơ chế xin cho, có nhiều
chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ.
Để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, phải tiến hành đồng bộ
nhiều biện pháp. Trước hết phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng
lực trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng, trong hoạt động thực tiễn phải tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phải đổi mới cơ chế quản

lý kinh tế, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chí
trị, chống bảo thủ, trì trệ, quan liêu.

Bài học kinh nghiệm của Đảng:

Trong quá trình xác định đường lối Cách mạng và chỉ đạo thực
tiễn. Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn luôn quán triệt mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng cộng sản Việt Nam "luôn luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng
lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn
đầu đúng đắn của Đảng" là một bài học kinh nghiệm lớn rút ra từ thực
tiễn Cách mạng nước ta. Đó chính là biểu hiện coi quan điểm vật chất,
các quy luật khách quan có vai trò quyết định được ý thức đối với nhận
thức.

Đảng ta thừa nhận đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm
quy luật khách quan, muốn nhanh chống thực hiện nhiều mục tiêu của
CNXH trong điều kiện mới ở chặng đường đầu tiên. Chúng ta đã có


những thành kiến không đúng trên thực tế chưa thật sự thừa nhận những
quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan (quy luật cung
cầu, cạnh tranh, giá trị) do đó không chú ý vận dụng chúng vào việc chế
định các chủ trương chính sách kinh tế làm cho nền kinh tế trì trệ, khủng
hoảng trầm trọng.

Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến tình hình, Đảng ta
trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng
đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó
các quy luật đặc thù của CNXH ngày càng chi phối mạnh mẽ phương

hướng phát triển chung của xã hội.

Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu
thông thông suốt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước
được ổn định và nâng cao, con người mới XHCN ngày càng hình thành
rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ XHCN ngày càng được cũng
cố. Điều đó là điều kiện đảm bảo sự dẫn dắt đúng đắn của Đảng. Mọi
chủ trương chính sách gây tác động ngược lại là biểu hiện sự vận dụng
không đúng quy luật khách quan, phải được sữa đổi hay bãi bỏ.

Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức, rút kinh nghiệm từ những sai lầm do chủ quan duy ý chí, từ Đại
hội VI của Đảng (1986) Đảng đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm và đề ra
phương hướng, biện pháp khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh
bảo thủ, trì trệ nhằm từng bước sửa chữa những sai lầm. Những phương
hướng biện pháp đó là:


Một là phải tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để
với những hình thức, bước đi, cách làm phù hợp, trong đó lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao
trình độ tri thức, năng lực nhận thức và vận dụng quy luật cho đội ngũ
cán bộ Đảng viên. Đây là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc và đồng bộ
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội…), từ đổi mới quan niệm, tư duy lý luận đến đổi mới cơ chế
chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối làm việc.
-

Để đảm bảo sự lãnh đạo thành công trong công cuộc đổi mới này

thì Văn kiện Đại hội Đảng lần VI đã xác định: “Đảng phải luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm
bảo sự dẫn đầu của Đảng. Năng lực nhận thức theo quy luật là điều kiện
đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”. Trên cơ sở hiểu rõ mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và tình hình chính trị, ổn định xã hội, Đảng
ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tập trung trước hết vào việc
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng
KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn
định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi
để đổi mới các mặt khác của đời sống XH. Bên cạnh đó, với quan điểm
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, trong các chủ trương,
chính sách kinh tế từ sau Đại hội Đảng

lần VI đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể như: Đại
hội VI xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một
công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không
thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: "Nay phải sửa
lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù


hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện
một vấn đề lớn có tính lý luận, hoàn toàn mới mẻ: " Kinh nghiệm thực
tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp
quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không
đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ".Trong cơ cấu sản xuất

và cơ cấu đầu tư, tôn trọng nguyên tắc quan hệ SX phải phù hợp với lực
lượng SX, Đại hội VI đã xác định phải điều chỉnh lại các cơ cấu này
theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều
kiện và khả năng thực tế", tập trung sức người, sức của vào việc thực
hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực-thực phẩm, sản xuất
hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chương trình
chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là
điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra
sphẩm hàng hóa

- Hai

là trong điều kiện ngày nay khi thế giới đang đi vào nền kinh tế
tri thức thì chúng ta phải “nâng cao hàm lượng tri thức trong các
nhân tố phát triển KTXH, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở
nước ta”(VKĐH IX) và VKĐH X tiếp tục phát triển tư tưởng đó
trong điều kiện đất nuớc ta đã hội nhập với cộng đồng quốc tế và
nhấn mạnh phải: “phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là
yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”. Đây là biện pháp nhằm khắc phục nguyên nhân sâu xa
của bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ là sự yếu kém về lý
luận, lạc hậu về trình độ, tri thức KH công nghệ. Văn kiện ĐH
Đảng lần VIII đã nhấn mạnh: “phải lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Để thực hiện được điều đó, Đảng ta cũng đã đề ra phương hướng


trong VK ĐH X là “phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và
tinh thần của mọi người dân”, đặc biệt phải chú ý: “trọng dụng
nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư

trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân có tay nghề cao. Có
chính sách thu hút các nhà khoa học, công nghệ giỏi ở trong nước
và ngòai nước, trong cộng đồng người VN ở nước ngòai”

Để đảm bảo công cuộc đổi mới đi đúng hướng và ngày càng đạt
kết quả cao, Đảng ta đẽ đề ra biện pháp: “nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng…”(VKĐH X), đồng thời phải: “tiếp tục phát
huy truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc, nêu cao tinh thần yêu
nước, ý chí tự cường, ra sức thi đua thực hiện thắng lợi nghị quyết của
ĐH, sớm đưa nuớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và tiến mạnh trên
con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nuớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Từ những kinh nghiệm thời gian qua, tại Đại hội XI của Đảng
(tháng 1-2011), Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm sau:

- Một

là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực
hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng
tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn
diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp. Tích cực, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc.
Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ


cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp và cả cộng đồng.


Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng
trưởng và phát triển bền vững, nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền
kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định
kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước,
sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát
triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng
-

thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố
và tăng cường các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế.

- Ba

là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh
tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh
xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa,
đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng,
an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Bốn

là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững
nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết thống nhất, gắn bó
mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ

của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng
đội ngũ cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng,


trong sáng về đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu cao, thành
thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
- Năm

là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén,
kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng
công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp với tình
hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận
cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã
hội.

Trên đây là phần trình bày khái quát và đánh giá các hình thức
lịch sử cơ bản của Chủ nghĩa duy vật gắn liền với tình hình KT-XH
thực tiễn của Việt Nam thời gian qua.

1b. Anh chi ̣hãy trình bày những đặc trưng cơ bản của tri
thức triết học. Mỗi quan hệ triết học với môn khoa học khác.
Hiện nay, vấn đề tri thức đang được quan tâm nghiên cứu sâu
sắc cả về phương diện triết học lẫn nhận thức khoa học nói chung.
Điều đó không chỉ do yêu cầu của kinh tế tri thức, mà còn do sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin. Trong nghiên cứu tri thức, một khía cạnh nổi lên, đó
là xác định bản chất tri thức hay định nghĩa khái niệm tri thức.


Tri thức là một thành phần của nhận thức, của toàn bộ đời sống
tinh thần, ý thức con người nói chung. Tri thức liên quan đến mọi tồn tại,
hoạt động của con người, xã hội và có những cơ sở tự nhiên nhất định


của nó. Mỗi đặc trưng của tri thức sẽ được vạch ra dựa trên một hoặc
những quan điểm xem xét nhất định, trong đó có quan điểm cơ bản, làm
nền tảng của toàn bộ sự xem xét. Việc chỉ ra những đặc trưng của tri
thức dưới đây sẽ mang nội dung và ý nghĩa như vậy. Phải thấy ngay rằng
việc nhận thức bản chất của tri thức sẽ trở nên hỗn độn, khó xác định,
nếu trước hết không thừa nhận tri thức là một dạng thái nhất định của
tinh thần, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Một trong
những luận điểm tiêu biểu của triết học Mác về ý thức: “ý niệm chẳng
qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được
cải biến đi ở trong đó”. Luận điểm đó thể hiện rõ quan điểm duy vật
khoa học về ý thức, cho thấy rõ ý thức là sự phản ánh hiện thực vật chất
khách quan vào bộ óc người. Do đó, tri thức với tư cách thành phần của
nhận thức và của ý thức, tất nhiên cũng được xem là cái phản ánh, cái
tồn tại trong bộ óc người - chủ thể tri thức, phân biệt, đối lập với cái
được phản ánh là hiện thực vật chất khách quan. Như vậy, tri thức là cái
tinh thần, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Với tư cách là
cái tinh thần, tri thức phản ánh các đối tượng vật chất không phải bằng
cách tái hiện đối tượng đó bằng những đặc tính vật chất như
những phản ánh vô cơ, vật lý, mà bằng những đặc tính tự
nhiên - xã hội tổng hợp, đặc trưng cho hoạt động và chức năng phản
ánh của bộ não người.

Tri thức là hình thức cao nhất của sự tiến hoá các hình thức
phản ánh. Cùng với việc hiểu tri thức theo quan điểm phản ánh luận
duy vật mácxít, thì việc hiểu nó với tư cách một hình thức của sự

tiến hoá của các hình thức phản ánh, lại là một góc nhìn khác, góc
nhìn tiến hoá luận về tri thức.
Tri thức là kết quả của nhận thức. Việc xem xét tri thức theo
quan điểm phản ánh luận không tách rời tiếp cận tri thức theo quan
điểm hoạt động. Nhận thức của con người dù dưới bất kỳ hình thức


nào với mức độ nào, cũng đều là quá trình hoạt động. Theo cơ cấu
chung, thì hoạt động nào cũng có yếu tố cuối cùng mang ý nghĩa
“khép lại” một chu trình, đó là sản phẩm hay kết quả của nó. Không
thể đồng nhất kết quả với quá trình tạo ra nó trong bất kỳ hoạt động
nào của con người. Thí dụ, việc người ta đặt ra câu hỏi: “Trái đất có
hình gì?”, việc người ta đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đó và việc
người ta đưa ra được câu trả lời rằng “Trái đất hình cầu”, rõ ràng là
hai thành tố khác nhau của hoạt động nhận thức. Cái sau là kết quả
và cái trước là quá trình đạt đến cái sau. Tất nhiên, trong quá trình
đi đến kết luận “Trái đất hình cầu”, người ta phải vận dụng nhiều tri
thức khác như những hiểu biết (tri thức) về “trái”, “đất”, “trái đất”,
về “hình”, “cầu” và “hình cầu” v.v.. Những tri thức này cấu thành
quá trình nhận thức, sáng tạo ra những tri thức mới, giúp người ta
hiểu ra điều là “Trái đất hình cầu”. Nhưng những tri thức ấy khi
tách riêng ra, chúng vẫn là kết quả của những quá trình nhận thức đã
diễn ra trước đó, còn trong quá trình nhận thức để đạt đến tri thức
mới (nhận ra “Trái đất hình cầu”), chúng là những yếu tố cấu thành
quá trình ấy, là phương tiện, chứ không phải mục đích.

Tri thức với tư cách là thông tin. Quan niệm tri thức, sự phản
ánh ở giới tự nhiên hữu sinh nói chung, là thông tin. Như mọi vật
mang thông tin, bộ não con người mang, lưu giữ tri thức không phải
để cố định chúng trong trạng thái đã xong xuôi, kết thúc, hoặc thậm

chí trong trạng thái chết, mà là để chuẩn bị, đem lại, cung cấp cho
những yêu cầu, hoạt động mới của con người. Chỉ với ý nghĩa ấy, tri
thức mới tồn tại với nghĩa là thông tin và cũng chỉ nhờ vậy, bộ óc
con người mới trở thành vật mang thông tin là tri thức. Tuy nhiên,
với tư cách là thông tin, tri thức khác với những hình thức thông tin
tinh thần, vật chất khác. Tri thức không đem lại những thông tin về
các cảm xúc, ý chí, niềm tin và khát vọng của con người. Mặt khác,
những xúc cảm của con người cũng là những thông tin, nhưng


chúng không trực tiếp đem lại tri thức. Tuy vậy, thông tin tri thức và
thông tin tình cảm không tách rời nhau. Thí dụ, nhìn thấy một người
gặp cảnh ngộ bi đát, đau thương, chúng ta cũng cảm thấy đau đớn.
Nhưng tri thức không đem lại chính sự đau đớn ấy, mà chỉ cho
chúng ta biết những “dấu hiệu” của sự đau thương, như sự buồn bã
trên nét mặt, sự quằn quại, kêu rên… của người có cảnh ngộ ấy.
Còn sự đau đớn của chúng ta không bắt nguồn chủ yếu từ sự nhận
ra những dấu hiệu ấy, mà là từ chính cái tình cảnh của đối tượng mà
những dấu hiệu nói trên đã đụng chạm đến và làm rung động cái
lương năng bên trong của chúng ta. Thông tin - tri thức là thông tin
sống, có khả năng sinh sôi không ngừng. Một mặt, nó không ngừng
được nạp thêm, làm đầy thêm về khối lượng, loại hình, dung lượng
từ môi trường; mặt khác, không ngừng truyền vào môi trường.
Trong cả hai quá trình ấy, thông tin tri thức vẫn có thể vừa là sự nạp
thêm, vừa là sự mất đi, vừa cung cấp và vừa sửa chữa, điều chỉnh.
Đây là quá trình đặc biệt của thông tin tri thức.

Tri thức là sự biểu hiện, khẳng định bản chất con người. Đây
là sự tiếp cận con người, tiếp cận văn hóa về tri thức. Vì thế, câu hỏi
trước tiên phải được đặt ra và giải đáp là: “Con người là gì?”. Sự

giải đáp là toàn bộ những luận giải về tri thức phù hợp với nhận
thức khoa học.

Mối quan hệ của triết học với các môn khoa học khác:
Triết học là một hình thái ý thức xã hội; là hệ thống tri thức lý
luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con
người trong thế giới ấy.


Với quan niệm đó, triết học cổ đại không có đối tượng nghiên
cứu riêng của mình, mà được xem là"khoa học của mọi khoa học".
Quan niệm macxit cho rằng:"Triết học là một trong những
hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung
nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con người đối với thế giới;
là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy".
Sự hình thành, phát triển của triết học không thể tách rời sự phát
triển của khoa ho khái quát các thành tựu của khoa học cụ thể. Tuy
nhiên, triết học cụ thể, nó là thế phương pháp luận cho khoa học cụ thể,
nó là thế giới quan và phương pháp luận cho kh
thể, là cơ sở lý luận cho các khoa học cụ thể trong việc đánh giá
các thành tựu đã đạt vạch ra phương hướng, phương pháp cho quá trình
nghiên cứu khoa học cụ thể. Khác với các học cụ thể chỉ đi vào nghiên
cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế giới, triết học xem xét thế giới như
một chỉnh thể và đem lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó.
Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận. Mặc dù có sự khác
nhau giữa các hệ thống triết học, nhưng điểm chung của chúng là đều
nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con người,
mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy nói riêng với thế giới.
Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đóng vai trò tích cực đối

với sự phát triển ngược lại chủ nghĩa duy tâm thường được sử dụng làm
công cụ biện hộ cho tôn giáo và học phát triển. Sự ra đời của chủ nghĩa
duy vật biện chứng luôn gắn liền với các thàn học hiện đại, là sự khái
quát các thành tựu khoa học đồng thời nó đóng vai trò to lớn hình phát
triển của khoa học hiện đại. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng
không th các khoa học khác. Theo yêu cầu của sự phát triển đòi hỏi phải
có sự liên minh chặt c học với các khoa học khác.
Như vậy, có thể kết luận:


-

Kết luận của các khoa học là những tư liệu để từ đó triết học rút ra
những kết luậ
-

Những kết luận chung nhất của triết học quay lại phục vụ cho
các khoa học cụ thể định hướng để các khoa học cụ thể có thể
đạt được kết quả tối ưu



×