Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Chính sách phát triển thông tin khoa học và công nghệ trong xu thế hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 112 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ NHUNG

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN THÔNG TIN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG XU THẾ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Hà Nội, 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ NHUNG

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN THÔNG TIN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG XU THẾ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: 60.34.04.12

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Tạ Bá Hƣng


Hà Nội, 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do nghiên cứu.....................................................................................................1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................................4
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ..........................................................................8
4. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................................9
5. Mẫu khảo sát ...........................................................................................................9
6. Câu hỏi nghiên cứu .................................................................................................9
7. Giả thuyết nghiên cứu ...........................................................................................10
8. Phương pháp chứng minh giả thuyết ....................................................................10
9. Cấu trúc của Luận văn...........................................................................................11
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về chính sách phát triển thông tin KH&CN ..............12
1.1. Chính sách .........................................................................................................12
1.2. Khái niệm phát triển ........................................................................................13
1.3. Một số khái niệm liên quan đến thông tin KH&CN .....................................14
1.4. Một số khái niệm liên quan đến hội nhập ......................................................16
1.4.1. Hội nhập quốc tế .............................................................................................16
1.4.2. Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ...................................................18
1.5. Vai trò của thông tin khoa học ........................................................................20
1.5.1. Vai trò của thông tin trong xã hội ...................................................................20
1.5.2. Vai trò của thông tin khoa học đối với công tác nghiên cứu ..........................21
1.5.3. Vai trò của thông tin khoa học đối với phát triển kinh tế đất nước ................22
1.5.4. Vai trò của thông tin khoa học đối với phản biện xã hội ................................26
Chƣơng 2: Hiện trạng chính sách phát triển thông tin KH&CN củaCục Thông
tin KH&CN quốc gia nói riêng và của Việt Nam nói chung ...............................28
2.1. Chính sách phát triển nguồn tin khoa học và công nghệ .............................28
2.1.1. Chính sách phát triển nguồn tin KH&CN trong nước ....................................28

2.1.2. Chính sách phát triển nguồn tin KH&CN nước ngoài ...................................31


2.2. Chính sách điều hòa, phối hợp trong phát triển nguồn tin và chia sẻ nguồn
tin thông qua Liên hợp thƣ viện Việt Nam về các nguồn tin điện tử .................37
2.3. Chính sách phát triển hạ tầng thông tin, thống kê KH&CN quốc gia về
KH&CN....................................................................................................................42
2.4. Mạng Thông tin KH&CN quốc gia ................................................................46
2.5. Chính sách hội nhập quốc tế trong lĩnh vực thông tin KH&CN thông qua
tiếp cận và áp dụng các chuẩn quốc tế ..................................................................47
2.5.1. Đăng ký xuất bản phẩm nhiều kỳ quốc tế (ISSN) ............................................47
2.5.2. Tạp chí KH&CN Việt Nam trực tuyến (VJOL) ...............................................48
2.5.3. CSDL Tài liệu KH&CN Việt Nam bằng tiếng Anh .........................................49
2.6. Chính sách kết hợp chặt chẽ giữa thông tin KH&CN với thống kê KH&CN.......49
2.7. Chính sách đáp ứng nhu cầu thông tin thông qua cung cấp hệ thống sản phẩm
và dịch vụ thông tin có giá trị gia tăng cao, phù hợp với từng nhóm ngƣời dùng tin
cụ thể .........................................................................................................................52
Chƣơng 3: Đề xuất chính sách phát triển thông tin khoa học và công nghệ
trong xu thế hội nhập quốc tế.................................................................................55
3.1. Hoạt động thông tin-thƣ viện KH&CN của các nƣớc trong khu vực và thế
giới ............................................................................................................................55
3.1.1 Hoạt động thông tin-thư viện KH&CN của các nước ASEAN.........................55
3.1.2. Hoạt động Thông tin KH&CN ở Trung Quốc và Ấn Độ ................................68
3.1.3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc
gia nói riêng và Việt Nam nói chung ........................................................................74
3.2. Đề xuất chính sách phát triển thông tin KH&CN trong xu thế hội nhập
quốc tế.......................................................................................................................77
3.2.1. Chính sách thu thập, xử lý và cung cấp, chia sẻ các nguồn thông tin KH&CN
trong nước .................................................................................................................78
3.2.2. Chính sách chọn lọc, bổ sung và chia sẻ các nguồn tin KH&CN có giá trị của

thế giới phục vụ hiệu quả các lĩnh vực phát triển ưu tiên, chiến lược của đất nước
hướng tới bảo đảm ngưỡng an ninh thông tin KH&CN quốc gia ............................79


3.2.3. Chính sách điều hoà, phối hợp trong bổ sung, chia sẻ nguồn tin KH&CN
trong phạm vi cả nước ..............................................................................................81
3.2.4. Chính sách triển khai công tác tiêu chuẩn hoá, áp dụng rộng rãi các chuẩn
quốc tế trong lĩnh vực thông tin KH&CN .................................................................82
3.2.5. Chính sách tập trung chỉ đạo và triển khai xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia
về KH&CN ................................................................................................................83
3.2.6. Chính sách mở rộng kết nối và nâng cao hiệu quả sử dụng Mạng Nghiên cứu
và Đào tạo Việt Nam .................................................................................................84
3.2.7. Chính sách nâng cấp các sản phẩm và dịch vụ thông tin hiện có và triển khai
các sản phẩm, dịch vụ thông tin mới có giá trị gia tăng cao đáp ứng nhu cầu thông
tin trong lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu, đào đạo và đổi mới sáng tạo ....................86
KẾT LUẬN ..............................................................................................................88
PHỤ LỤC 1. Bảng tổng hợp số liệu khảo sát bằng Bảng hỏi ..................................92
PHỤ LỤC 2. Phiếu điều tra ....................................................................................101


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
APAN

Mạng tiên tiến châu Á – Thái Bình Dương (Asia Pacific
Advanced Network)

CNTT

Công nghệ thông tin


CN&TB

Công nghệ và thiết bị

CSDL

Cơ sở dữ liệu

DV

Dịch vụ

ĐVTT-TV

Đơn vị thông tin thư viện

GPPM

Giải pháp phần mềm

GLORIAD

Mạng toàn cầu cho phát triển ứng dụng tiên tiến (Global Ring
Network for Advanced Application Development)

KQNC

Kết quả nghiên cứu

KH&CN


Khoa học và công nghệ

KT-XH

Kinh tế - Xã hội

LHTV

Liên hợp thư viện

NC&ĐT

Nghiên cứu và Đào tạo

NC&PT

Nghiên cứu và Phát triển

TEIN

Mạng thông tin Á – Âu (Trans-Eurasia Information Network)

VinaREN

Mạng Nghiên cứu và Đào tạo Việt Nam (Vietnam Research and
Education Network)


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1: Số lượt bạn đọc sử dụng Thư viện ..........................................................34
Biểu đồ 2: Số lượng các bài tạp chí được tải về từ các CSDL (số lượng sử dụng với
ISI) .............................................................................................................................34
Biểu đồ 3: Giá thành một bài tạp chí được tải về...........................................................35
Biểu đồ 4: Số lượng bài công bố trên các tạp chí ISI của Việt Nam ........................36
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Đánh giá chất lượng-giá trị các nguồn tin do Cục Thông tin mua quyền truy
cập sử dụng................................................................................................................37
Bảng 2. Tình hình cấp kinh phí mua tài liệu KH&CN hàng năm của đơn vị thông
tin thư viện ................................................................................................................38
Bảng 3. Số liệu về kinh phí tại một số cơ quan thông tin năm 2014 ........................39


MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Có ba lý do chủ yếu luận giải sự cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Thứ nhất: Thông tin KH&CN ngày càng khẳng định vai trò không thể thay thế
đối với sự phát triển của nhân loại.
Những năm gần đây, cuộc cách mạng thông tin diễn ra rất sôi động, làm thay
đổi tận gốc rễ mọi hoạt động KT-XH của các quốc gia trên thế giới. Cuộc cách
mạng này đã đưa nhân loại sang một bước chuyển biến mới về chất. Đó là sự
chuyển biến từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế thông tin, trong đó thông
tin, tri thức trở thành nguồn tài nguyên quan trọng nhất và việc tạo ra, thu thập, xử
lý và sử dụng thông tin, tri thức trở thành hoạt động có ý nghĩa chi phối, quyết định.
Tại nhiều nước công nghiệp phát triển, giá trị của khu vực “kinh tế thông tin” ngày
càng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân. Ở Tây Âu, trong những năm
gần đây, ngành công nghiệp thông tin phát triển với tốc độ nhanh gấp 2-3 lần các
ngành khác. Ngay từ những năm 90 của Thế kỷ trước, khối lượng giá trị được tạo ra
từ thông tin (bao gồm công nghệ thông tin và cả hoạt động dịch vụ mang tính thông
tin) đã bằng khoảng 50% giá trị sản xuất công nghiệp của Tây Âu. Những năm cuối

thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ bước sang giai đoạn mới: giai đoạn
bùng nổ thông tin, tri thức, bùng nổ công nghệ mới, công nghệ cao. Một loạt các
công nghệ mới xuất hiện, như: công nghệ thông tin (siêu xa lộ thông tin, internet,
multimedia tương tác, thực tế ảo...), công nghệ sinh học (đặc biệt là công nghệ gen,
công nghệ tế bào), công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng, v.v... Đây không
phải là sự thay đổi bình thường mà là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại,
đánh dấu nhân loại đã chuyển từ nền văn minh công nghiệp chuyển sang văn minh
hậu công nghiệp gắn với việc xuất hiện kinh tế tri thức. Ngay từ năm 1976, các nhà
khoa học Mỹ đã có nhận định: đối với Mỹ, từ nay về sau, thông tin là tài nguyên
quốc gia số một chứ không phải là dầu lửa, sắt thép. Thực tế đó cho thấy, thông tin,
đặc biệt là thông tin KH&CN đóng vai trò rất quan trọng, nó thực sự trở thành nguồn
lực cơ bản tạo nên những ưu thế về kinh tế và chính trị ở mỗi quốc gia, là nguồn tài
nguyên kinh tế cho quốc gia sở hữu, khai thác và sử dụng. Thông tin KH&CN được

1


xem là yếu tố quan trọng đối với hiệu quả của việc tổ chức, quản lý nền kinh tế, nó
giúp con người rút ngắn được khoảng cách về không gian và thời gian, định hướng cho
việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia.
Trong thời đại hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, thông tin KH&CN là nhân
tố không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mà còn nâng cao hiệu quả, chất lượng
tăng trưởng, gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội một cách tối ưu. Thông tin
vừa là tiềm năng, tài sản và cơ hội nhưng cũng đồng thời vừa là thách thức đối với
mỗi quốc gia. Quốc gia nào nắm được nhiều thông tin chất lượng cao và kịp thời,
quốc gia đó sẽ có lợi thế trong quá trình phát triển và ngược lại.
Thứ hai: Ở Việt Nam, việc sử dụng hiệu quả thông tin KH&CN phục vụ cho
công cuộc phát triển KT-XH nước ta trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu rất
cấp bách.
Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến năm

2020, về cơ bản, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Điều đó đòi hỏi cần phải sử
dụng nhiều giải pháp, trong đó phát triển KH&CN là giải pháp quan trọng hàng đầu.
Một trong những động lực để phát triển KH&CN là thông tin KH&CN, bộ phận cấu
thành của hệ thống khoa học. Hiện nay, nhu cầu xã hội về thông tin KH&CN là rất
lớn. Thông tin KH&CN đang phải thực hiện một loạt các nhiệm vụ do thực tiễn KTXH đất nước đặt ra. Có thể liệt kê một số vấn đề cơ bản như sau:
- Thông tin KH&CN phải góp phần cung cấp tri thức khoa học cho việc giải
quyết hài hòa giữa kinh tế và chính trị, giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN với xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN;
- Thông tin KH&CN phải cung cấp tri thức khoa học cho đổi mới và phát
triển kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa;
- Thông tin KH&CN phải cung cấp những luận cứ lý luận và thực tiễn cho
việc phát triển kinh tế với tốc độ cao nhưng đồng thời phải thu hẹp dần khoảng cách
về thu nhập và đặc biệt là nâng cao nhanh hơn mức sống cho các nhóm, bộ phận
dân cư có thu nhập thấp, chú trọng xóa đói và giảm nghèo, cải thiện nhiều hơn mức
sống cho người nghèo và tầng lớp dân cư yếu thế, phát triển kinh tế với giải quyết
các nhu cầu xã hội của cộng đồng;

2


- Thông tin KH&CN phải cung cấp cứ liệu để phát triển bền vững về xã hội,
về sinh thái, tiết kiệm tài nguyên;
- Thông tin KH&CN phải cung cấp cứ liệu để phát triển kinh tế có hiệu quả, đồng
thời tạo cơ sở thúc đẩy phát triển nền văn hóa Việt Nam XHCN, dân tộc, đại chúng và
tiên tiến, phát triển kinh tế đi đôi với xây dựng con người Việt Nam, xây dựng một nền
kinh tế giàu tính văn hóa và nhân văn Việt Nam v.v...
- Thông tin KH&CN phải đáp ứng được nhu cầu tri thức cho lãnh đạo - quản
lý về phát triển, về tư duy KT-XH cũng như phổ cập tri thức cho người dân, để
người dân hình thành tư duy KT-XH hợp lý, lành mạnh nhất.
Để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ quan trọng nói trên, không còn cách nào

khác là phải gắn thông tin KH&CN với phát triển KT-XH, vì thông tin KH&CN là
phương tiện của sự phát triển và ngược lại, sự phát triển KT-XH luôn có nhu cầu
nhiều hơn, cao hơn về thông tin KH&CN.
Ở nước ta, hoạt động thông tin KH&CN được bắt đầu từ cuối những năm 50
của thế kỷ XX. Tuy nhiên, về cơ bản đến nay nước ta vẫn là một nước lạc hậu về
thông tin KH&CN. Biểu hiện của sự lạc hậu này là chúng ta còn thiếu và chưa thực
sự quản lý, kiểm soát được nguồn thông tin trong nước cũng như thông tin nước
ngoài để phục vụ cho việc hoạch định chiến lược và kế hoạch phát triển KT-XH;
phục vụ nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ, nâng cao chất lượng sản
phẩm và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần đẩy mạnh phong trào lao
động sáng tạo và nâng cao dân trí của quần chúng lao động.
Trước sự đòi hỏi của công cuộc đổi mới KT-XH, trước những thách thức của
sự hội nhập với cộng đồng thế giới, yêu cầu khắc phục tình trạng nghèo và thiếu
thông tin là một yêu cầu có tính chất sống còn. Thông tin và tri thức KH&CN phải
nhanh chóng trở thành nguồn tài nguyên quan trọng của quốc gia và cần được sử
dụng rộng rãi, hiệu quả trong phát triển kinh tế-xã hội và trong đời sống xã hội của
đất nước. Do đó, việc nghiên cứu để hoàn thiện chính sách phát triển thông tin
KH&CN theo hướng phù hợp nhu cầu phát triển và hội nhập quốc tế thực sự trở
thành cấp thiết.

3


Thứ ba: Cục Thông tin KH&CN quốc gia với chức năng giúp Bộ Khoa học
và Công nghệ quản lý nhà nước về thông tin KH&CN và trực tiếp thực hiện nhiều
nhiệm vụ thông tin KH&CN ở quy mô toàn quốc.
Một trong những nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu của Cục Thông tin
KH&CN quốc gia là phát triển thông tin KH&CN. Chính vì vậy, nghiên cứu đề xuất
các chính sách phát triển thông tin KH&CN để đáp ứng yêu cầu phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong xu thế hội nhập quốc tế đang trở thành

vấn đề cấp thiết.
Với những lý do nêu trên, việc thực hiện đề tài Luận văn là một nhiệm vụ có
tính thời sự, cấp bách và thiết thực, góp phần hoạch định và thực hiện chính sách phát
triển thông tin khoa học và công nghệ ở nước ta trong xu thế hội nhập hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Nƣớc ngoài
Năm 1992, tác giả Lewis M. Branscomb, chuyên gia làm việc tại Đại học
Havard, Hoa Kỳ đã đề cập đến chính sách phát triển thông tin KH&CN trong bối
cảnh của chính sách công nghệ quốc gia định hướng phổ biến: “S&T Information
Policy in the Context of a Diffusion Oriented National Technology Policy”. Tác giả
đã phân tích vai trò đặc biệt quan trọng của thông tin KH&CN trong việc phổ biến,
tiếp thu, sử dụng và phát huy tri thức KH&CN và coi chính sách phát triển thông tin
KH&CN là một bộ phận cấu thành của chính sách phát triển công nghệ của một
quốc gia, nhất là đối với một chính sách phát triển công nghệ có định hướng phổ
biến, quảng bá rộng rãi, nhanh chóng các tri thức công nghệ mới, tiên tiến đến với
các đối tượng sử dụng, khai thác tiềm tàng trong xã hội.
Năm 1994, tác giả C.Entasua-Mensah đã có bài viết nhấn mạnh sự cần thiết của
chính sách định hướng phát triển và chia sẻ thông tin KH&CN tại các cơ quan
thông tin - thư viện ở Ghana: “Strategies for Library and Information Development
in Ghana”. Theo tác giả, ở một đất nước đang phát triển như Ghana, việc đầu tư tài
chính để thu thập được nhiều thông tin KH&CN của thế giới là rất hạn chế và khó
khăn trong khi nhu cầu sử dụng, khai thác thông tin KH&CN của đất nước ngày
một gia tăng. Để vượt qua vấn đề nan giải này, cần phải có chinh sách phát triển

4


thông tin KH&CN theo hướng đẩy mạnh công tác điều hoà, phối hợp giữa các cơ
quan thông tin-thư viện trong việc bổ sung, chia sẻ, khai thác tài nguyên thông tin
KH&CN.

Năm 2002, Jens Thorhauge đã tập hợp những bài viết mới nhất về chính sách
phát triển thông tin-thư viện, trong đó có chính sách phát triển nguồn tin KH&CN
của Đan Mạch trong cuốn: “Danish Library Policy”.
Năm 2005, tác giả Yoon-ok Han đã chỉ ra một số chính sách về phát triển thư
viện trường học nói chung, tại Hàn Quốc, trong đó cũng đề cập tới việc cập nhật
nguồn tin KH&CN trong bài viết: “A study of the school library policy and it’s
development in Korea”.
Nghiên cứu của các tác giả nêu trên đều coi chính sách phát triển thông tin
KH&CN, nhất là phát triển nguồn tin KH&CN là rất quan trọng và cần được thực
hiện ở tầm vi mô và tầm vĩ mô. Kinh nghiệm hoạch định và thực thi chính sách
thông tin KH&CN được các tác giả đề cập và chia sẻ rất có ích trong quá trình
hoạch định chính sách tương ứng ở nước ta. Tuy nhiên, nội dung và giải pháp của
chính sách phát triển thông tin KH&CN một cách toàn diện ở tầm quốc gia trong xu
thế hội nhập quốc tế chưa được các tác giả quan tâm giải quyết.
2.2. Trong nƣớc
Việt Nam đã có một số nghiên cứu về thông tin khoa học và công nghệ như sau:
- Nghiên cứu xây dựng chính sách quốc gia phát triển công tác thông tin khoa
học và công nghệ trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chủ nhiệm đề tài:
Nguyễn Hữu Hùng; Cơ quan chủ trì: Trung tâm Thông tin Tư liệu KH&CN quốc
gia; Năm hoàn thành báo cáo: 2000. Đề tài đã nghiên cứu, xác định cơ sở khoa học
của việc hoạch định chính sách quốc gia về phát triển thông tin KH&CN. Khảo sát,
trình bày một số chính sách quốc gia về thông tin KH&CN của các nước khu vực và
thế giới. Đánh giá thực trạng hoạt động thông tin KH&CN nước ta liên quan đến
chính sách quốc gia về lĩnh vực này. Phác thảo nội dung "Khung chính sách phát
triển quốc gia để phát triển công tác thông tin KH&CN giai đoạn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”

5



- Thông tin khoa học với việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng hiện nay.Chủ
nhiệm đề tài: Hoàng Ngọc Kim; Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh; Năm hoàn thành báo cáo: 2003. Đề tài đã báo cáo 16 chuyên đề nghiên
cứu về tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng nói chung xét trên quan điểm thông
tin học nói riêng. Nêu mối quan hệ giữa hoạt động thông tin khoa học với việc tổ
chức thực hiện Nghị quyết của Đảng những năm qua. Vai trò của thông tin khoa
học trong tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Đảng qua một số địa bàn như Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, khu vực miền Trung, Tây Nguyên. Trên cơ sở đó, đưa
ra một số giải pháp nhằm đảm bảo cho thông tin khoa học phục vụ quá trình tổ chức
thực hiện Nghị quyết của Đảng.
- Nghiên cứu áp dụng các chuẩn lưu trữ và trao đổi thông tin trong hệ thống thông
tin khoa học và công nghệ quốc gia. Chủ nhiệm đề tài: Phan Huy Quế; Cơ quan chủ
trì: Trung tâm Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia; Năm hoàn thành báo cáo:
2003. Đề tài đã đánh giá tổng quát hiện trạng hoạt động tiêu chuẩn hoá về thông tintư liệu ở Việt Nam. Nghiên cứu, chọn lựa các đối tượng tiêu chuẩn hoá trong lĩnh
vực thông tin-tư liệu; Chọn, đề xuất các tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn nước ngoài
có thể áp dụng cho các đối tượng tiêu chuẩn hoá đã chọn. Đánh giá, đề xuất việc áp
dụng 6 Tiêu chuẩn Việt Nam về thông tin-tư liệu đã ban hành. Xây dựng dự thảo sơ
bộ 3 tiêu chuẩn: Viết địa danh Việt Nam trong xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin;
Viết tên cơ quan tổ chức Việt Nam trong xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin; Bộ yếu
tố Metadata cho hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia. Hoàn thiện
một bước khung đề mục Hệ thống Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia
- Thông tin khoa học với công tác nghiên cứu lý luận chính trị ở hệ thống Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.Chủ nhiệm đề tài: Phạm Hữu Tiến; Cơ quan chủ
trì: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Năm hoàn thành báo cáo: 2005.
Đề tài giới thiệu về thông tin khoa học, nội dung và vai trò của nó đối với công tác
nghiên cứu lý luận chính trị. Đánh giá thực trạng và kinh nghiệm hoạt động thông
tin khoa học ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh trong 20 năm đổi mới. Đề
xuất một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
thông tin khoa học phục vụ công tác nghiên cứu lý luận chính trị.


6


- Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin phục vụ công tác đào tạo và nghiên
cứu khoa học ở các trường chính trị khu vực Nam Bộ.Chủ nhiệm đề tài: Lê Hanh
Thông; Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Năm hoàn thành
báo cáo: 2007. Đề tài giới thiệu vai trò của hoạt động thông tin khoa học đối với
công tác nghiên cứu khoa học và giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị. Đánh giá
thực trạng hoạt động thông tin khoa học của các trường chính trị khu vực Nam Bộ.
Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động thông tin
khoa học ở các trường chính trị khu vực Nam Bộ.
- Thông tin khoa học với sự phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay.Chủ nhiệm đề
tài: Đặng Lễ Nghi; Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; Năm
hoàn thành báo cáo: 2007. Đề tài trình bày khái quát lý luận về thông tin khoa học.
Đánh giá thực trạng hoạt động thông tin khoa học phục vụ sự phát triển kinh tế ở
nước ta. Đề xuất những giải pháp để thông tin khoa học tác động có hiệu quả đối
với sự phát triển kinh tế.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn của việc hiện đại hóa hệ thống thông
tin khoa học và công nghệ quốc gia Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Chủ
nhiệm đề tài: PGS. TS. Nguyễn Hữu Hùng; Năm hoàn thành báo cáo: 2005.
Đề tài trình bày cơ sở lý luận về hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia
và vấn đề hiện đại hoá. Đánh giá hiện trạng của hệ thống thông tin KH&CN quốc gia
Việt Nam. Đề xuất các giải pháp hiện đại hoá hệ thống thông tin KH&CN quốc gia.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển công tác thông tin-thư viện,
thống kê khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2020. Chủ nhiệm đề tài: ThS.
Phan Huy Quế; Năm hoàn thành báo cáo: 2011. Đề tài giới thiệu cơ sở lý luận về
hoạt động thông tin - thư viện, thống kê khoa học và công nghệ. Trình bày hiện
trạng hoạt động thông tin-thư viện, thống kê khoa học và công nghệ Việt Nam.
Tổng quan hoạt động thông tin-thư viện, thống kê khoa học và công nghệ nước
ngoài. Rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam. Đề xuất giải pháp chủ yếu phát triển hoạt

động thông tin-thư viện, thống kê khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2020.

7


- Nghiên cứu đề xuất định hướng quốc gia về phát triển nguồn tin khoa học và
công nghệ. Chủ nhiệm đề tài: ThS. Trần Thị Hải Yến; Năm hoàn thành báo cáo:
2015. Đề tài đã nghiên cứu đánh giá thực trạng phát triển nguồn tin KH&CN ở
nước ta hiện nay. Nghiên cứu đề xuất nội dung và giải pháp phát triển nguồn tin
KH&CN phục vụ các đối tượng người dùng tin ở Việt Nam. Đề xuất định hướng
quốc gia về phát triển nguồn tin KH&CN.
Nhận xét chung:
Các công trình nghiên cứu về hoạt động thông tin khoa học và công nghệ
trước đây tập trung chủ yếu vào một số nội dung: chiến lược phát triển hoạt động
thông tin, tình hình quản lý nhà nước về thông tin, khả năng áp dụng tin học và viễn
thông trong hoạt động thông tin, các phương tiện nghiệp vụ cho hoạt động thông
tin, Tiêu chuẩn quốc gia về thông tin. Các công trình nghiên cứu đã bao quát hoạt
động thông tin KH&CN từ cơ quan đầu mối quốc gia (Trung tâm Thông tin
KH&CN quốc gia - nay là Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia) đến các
bộ, ngành và địa phương. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu
một cách tổng thể chính sách phát triển thông tin KH&CN trong xu thế hội nhập
quốc tế, nhất là khi Luật Khoa học và Công nghệ được Quốc hội thông qua tháng
6/2013 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2014.
3. Đối tƣợng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng chính của đề tài Luận văn là nội dung và giải pháp của chính sách
phát triển thông tin khoa học và công nghệ trong xu thế hội nhập quốc tế.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài Luận văn có mục tiêu tổng quát là đề xuất được chính sách phát triển
thông tin KH&CN của nước ta trong xu thế hội nhập quốc tế.

Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, đề tài Luận văn đặt ra một số mục
tiêu cụ thể như sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận về chính sách phát triển thông tin KH&CN trong xu
thế hội nhập quốc tế thông qua việc khảo sát các khái niệm có liên quan;

8


- Nhận dạng và đánh giá được hiện trạng chính sách phát triển thông tin
KH&CN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, nhất là từ khi Luật Khoa học và công
nghệ năm 2013 có hiệu lực thi hành (từ năm 2014);
- Đề xuất được nội dung và giải pháp tăng cường thực thi chính sách phát
triển thông tin KH&CN trong xu thế hội nhập ở nước ta.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: từ năm 2014 - 2017, tức là từ khi Luật Khoa học và công
nghệ 2013 đi vào cuộc sống đến nay.
Phạm vi không gian: Nghiên cứu được tiến hành một cách khái quát trên
diện rộng qua việc khảo sát các nội dung liên quan tại một số nước, tại một số bộ,
ngành, địa phương và tập trung chủ yếu vào nghiên cứu trường hợp tại Cục Thông
tin khoa học và công nghệ quốc gia, cơ quan đứng đầu hệ thống các tổ chức thông
tin KH&CN của nước ta, thực hiện đồng thời chức năng quản lý nhà nước và triển
khai nhiều nhiệm vụ phát triển thông tin KH&CN ở tầm quốc gia và quốc tế.
5. Mẫu khảo sát
Mẫu điều tra được xác định một cách ngẫu nhiên với sự chú trọng đến các đối
tượng khảo sát là những khách thể chính của chính sách phát triển thông tin
KH&CN. Đó là các cán bộ khoa học làm việc trong các lĩnh vực quản lý, nghiên
cứu, giảng dạy, sản xuất kinh doanh, đồng thời là người dùng tin của các cơ quan
thông tin KH&CN, nhất là người dùng tin của Cục Thông tin KH&CN quốc gia.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài đã đặt ra một số câu hỏi nghiên cứu cần giải đáp, đó là:

- Hiện trạng chính sách phát triển thông tin KH&CN ở nước ta hiện nay như
thế nào? Có thể học hỏi được gì từ chính sách phát triển thông tin KH&CN của một
số nước tiên tiến trong khu vực và thế giới?
- Nội hàm của chính sách nói chung, chính sách phát triển thông tin khoa học
và công nghệ là gì? Chính sách phát triển thông tin KH&CN ở nước ta trong xu thế
hội nhập hiện nay phải được đề xuất, hoàn thiện như thế nào?

9


7. Giả thuyết nghiên cứu
Chính sách phát triển thông tin khoa học và công nghệ hiện nay ở nước ta tuy
đã hình thành và đang được thực thi nhưng hiệu quả và tác động còn hạn chế. Chính
sách này sẽ phát huy vai trò tích cực hơn đối với phát triển kinh tế-xã hội nếu được
bổ sung, hoàn thiện với những nội dung và giải pháp đáp ứng nhu cầu phát triển của
đất nước, các chuẩn mực tiên tiến và thông lệ quốc tế trong xu thế hội nhập. Cụ thể
là tập trung vào các chính sách sau:
- Thu thập, xử lý, cung cấp và chia sẻ các nguồn thông tin KH&CN trong
nước. Chọn lọc, bổ sung và chia sẻ các nguồn tin KH&CN có giá trị của thế giới.
- Điều hoà, phối hợp trong bổ sung, chia sẻ nguồn tin KH&CN trong phạm
vi cả nước.
- Triển khai công tác tiêu chuẩn hoá, áp dụng rộng rãi các chuẩn quốc tế
trong lĩnh vực thông tin KH&CN.
- Xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về KH&CN. Mở rộng kết nối và nâng
cao hiệu quả sử dụng Mạng Nghiên cứu và Đào tạo Việt Nam.
8. Phƣơng pháp chứng minh giả thuyết
Các phương pháp nghiên cứu sau đây được sử dụng trong quá trình thực
hiện đề tài:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu
tài liệu thứ cấp để tìm hiểu các nội dung liên quan đến cơ sở lý luận và thu thập, xử

lý, phân tích, tổng hợp thông tin, tài liệu;
+ Điều tra, khảo sát bằng bảng hỏi: Đề tài sử dụng phương pháp này với mục
đích thu thập thông tin, dữ liệu từ các đối tượng cần khảo sát làm căn cứ để phân
tích, đánh giá hiện trạng chính sách phát triển thông tin KH&CN ở nước ta hiện nay
cũng như thu thập các ý kiến, đề xuất về các chính sách cụ thể cần được bổ sung,
hoàn thiện trong thời gian tới. Bảng hỏi đã được thiết kế với nội dung phong phú,
bao gồm 12 câu hỏi đóng và 3 câu hỏi mở. Tổng số phiếu được phát ra là 120. Số
phiếu thu về và được xử lý là 100, đạt tỷ lệ phản hồi là trên 83%.
+ Thống kê: Phân tích các số liệu theo các tiêu thức định lượng và định tính;

10


+ Phân tích hệ thống: tổng hợp, xem xét các tác động, đề xuất cấu trúc và
kiến nghị giải pháp cho toàn hệ thống;
9. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của Luận văn được trình bày
trong 3 chương, cụ thể là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách phát triển thông tin khoa học và công
nghệ.
Chương 2: Hiện trạng chính sách phát triển thông tin KH&CN của Cục Thông
tin KH&CN quốc gia nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Chương 3: Đề xuất chính sách phát triển thông tin KH&CN trong xu thế hội
nhập quốc tế.

11


Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về chính sách phát triển thông tin KH&CN
1.1. Chính sách

Theo James E. Anderson đưa ra định nghĩa về chính sách như sau: “Chính
sách là quá trình hành động có mục tiêu, mà một hoặc một số chủ thể theo đuổi, để
giải quyết những vấn đề mà họ quan tâm” [10, tr. 18]. Có thể thấy đây là một định
nghĩa hết sức cô đọng, có tầm khái quát cao về chính sách. Tuy nhiên, định nghĩa
này mới nhấn mạnh vào hành động có mục tiêu, vào chủ thể với sự quan tâm thiết
thực của họ. Định nghĩa nêu trên không chỉ ra một cách rõ ràng khách thể của chính
sách là ai, ưu tiên, ưu đãi của chính sách là gì, đặc biệt chưa cụ thể hoá nội hàm của
chính sách bao gồm những gì. Yêu cầu và mức độ thể chế hoá chính sách không
được đề cập tới trong cách định định nghĩa của James E. Anderson.
Về phần mình, PGS. TS Vũ Cao Đàm đưa ra định nghĩa về chính sách như
sau: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền
lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã
hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm
thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống
xã hội”. Như vậy, nói về một quyết định chính sách, người quản lý có thể hiểu theo
những khía cạnh như sau:
- Chính sách là một tập hợp biện pháp. Đó có thể là một biện pháp kích thích
kinh tế, biện pháp động viên tinh thần, một biện pháp mệnh lệnh hành chính hoặc
một biện pháp ưu đãi đối với các cá nhân hoặc các nhóm xã hội;
- Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa dưới dạng các đạo
luật, pháp lệnh, sắc lệnh; các văn bản dưới luật như: nghị định, chỉ thị của chính
phủ; thông tư hướng dẫn của các bộ, hoặc các văn bản quy định nội bộ của các tổ
chức (doanh nghiệp, trường học,.v.v...);
- Chính sách phải tác động vào động cơ hoạt động của các cá nhân và nhóm
xã hội. Đây phải là nhóm đóng vai trò động lực trong việc thực hiện một mục tiêu
nào đó;
- Chính sách phải hướng động cơ của các cá nhân và nhóm xã hội nói trên vào
một mục tiêu nào đó của hệ thống xã hội. Chẳng hạn, mục tiêu kinh doanh của

12



doanh nghiệp, mục tiêu đào tạo của nhà trường, mục tiêu phát triển của một địa
phương, mục tiêu bảo vệ Tổ quốc của một quốc gia,.v.v.[10, tr 29, 30].
Tác giả Luận văn hoàn toàn đồng ý với cách định nghĩa và nội hàm của khái
niệm “chính sách” nêu trên của PGS. TS Vũ Cao Đàm. Cách định nghĩa này vừa
đưa ra được nội hàm đầy đủ của khái niệm chính sách vừa gợi mở, hướng dẫn cho
chủ thể phải làm gì, tiếp cận ra sao, nội dung và thể thức cần phải có khi xây dựng
và ban hành một chính sách cụ thể. Điều đó cũng nhấn mạnh đến đối tượng, khách
thể của chính sách cần được quan tâm ngay trong quá trình xây dựng và ban hành
chính sách cụ thể.
1.2. Khái niệm phát triển
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần
dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc
và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
Quan điểm duy vật biện chứng đối lập với quan điểm duy tâm và tôn giáo về
nguồn gốc của sự phát triển. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định nguồn gốc
của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật. Đó là do mâu thuẫn trong chính sự vật
quy định. Quá trình giải quyết liên tục mâu thuẫn trong bản thân sự vật, do đó, cũng
là quá trình tự thân phát triển của mọi sự vật.
Trên cơ sở khái quát sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong hiện
thực, quan điểm duy vật biện chứng khẳng định, “phát triển là một phạm trù triết
học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật”.
Theo quan điểm này, phát triển không bao quát toàn bộ sự vận động nói
chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của sự vận động - xu hướng vận động đi
lên của sự vật, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Sự phát triển chỉ là một
trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển của mình trong sự
vật sẽ hình thành dần dần những quy định mới cao hơn về chất, sẽ làm thay đổi mối
liên hệ, cơ cấu, phương thức tồn tại và vận động, chức năng vốn có theo chiều

hướng ngày càng hoàn thiện hơn [16, tr. 97]

13


1.3. Một số khái niệm liên quan đến thông tin KH&CN
Do mục tiêu chính của Luận văn là đề xuất chính sách phát triển thông tin
KH&CN nên tác giả Luận văn không đi sâu khảo sát, trình bày về học thuật các
khái niệm cơ bản có liên quan như thông tin, nguồn tin, tiềm lực thông tin, v.v. mà
tập trung đề cập các khái niệm quan trọng đã được chấp nhận một cách chính tắc,
được sử dụng trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành ở nước ta từ khi
có Luật Khoa học và công nghệ năm 2013.
Theo Luật Khoa học và công nghệ số 29/2013/QH13, khái niệm “Khoa học”
và khái niệm “Công nghệ” được hiểu như sau:
“Khoa học” là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của
sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy .
“Công nghệ” là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc
không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm
[17, tr. 1].
Theo Nghị định số 11/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/02/2014 về hoạt
động thông tin KH&CN [6, tr. 1-2], một số khái niệm quan trọng có liên quan đến
thông tin khoa học và công nghệ được xác định như sau:
Thông tin khoa học và công nghệ:
“Thông tin khoa học và công nghệ” là dữ liệu, dữ kiện, số liệu, tin tức được tạo
ra trong các hoạt động khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Như đã nêu ở trên, nội hàm của khái niệm này được hiểu trong văn cảnh của
một tài liệu quy phạm pháp luật hiện hành (Nghị định số 11/2014/NĐ-CP), xong nội
hàm đó cũng phù hợp với nội hàm khái niệm “thông tin khoa học và công nghệ” về
mặt học thuật. Đó là : thông tin khoa học là thông tin logic, phản ánh một cách
trung thực, khách quan các sự vật, hiện tượng, các quy luật trong tự nhiên, xã hội và

tư duy và được sử dụng trong thực tiễn lịch sử cụ thể. Nội hàm của khái niệm thông
tin nêu trên được cập nhật với sự bổ sung thông tin được tạo ra trong hoạt động
sáng tạo, không chỉ đóng khung trong hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ như trước đây. Thông tin khoa học và công nghệ ngày nay, ngoài việc
phản ánh các kết quả của hoạt động nghiên cứu, phát triển, nó còn phải phản ánh kết

14


quả và các vấn đề của đổi mới sáng tạo đang diễn ra sôi động trên thực tế, nhất là tại
các doanh nghiệp, nơi sự liên kết, tích hợp giữa tri thức khoa học, thành tưu công
nghệ và năng lực sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp tạo ra
giá trị gia tăng và việc làm cho xã hội.
Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ:
“Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ” là hoạt động dịch vụ khoa học và
công nghệ, bao gồm các hoạt động liên quan đến thu thập, xử lý, phân tích, lưu giữ,
tìm kiếm, phổ biến, sử dụng, chia sẻ và chuyển giao thông tin khoa học và công
nghệ, các hoạt động khác có liên quan.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ:
“Cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ” là tập hợp thông tin về
tiềm lực và kết quả hoạt động khoa học và công nghệ quốc gia, được xây dựng, duy
trì và phát triển nhằm cung cấp dữ liệu và thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời về
khoa học và công nghệ.
Nguồn tin khoa học và công nghệ:
“Nguồn tin KH&CN được hiểu là “các thông tin KH&CN được thể hiện
dưới dạng sách, báo, tạp chí khoa học, kỷ yếu hội nghị, hội thảo khoa học, thuyết
minh nhiệm vụ, báo cáo kết quả thực hiện, ứng dụng kết quả nhiệm vụ KH&CN,
luận án khoa học, tài liệu thiết kế, kỹ thuật, cơ sở dữ liệu, trang thông tin điện tử,
tài liệu thống kê KH&CN, tài liệu đa phương tiện và tài liệu trên các vật mang tin
khác”.

Nguồn tin KH&CN là toàn bộ thông tin KH&CN được ghi lại, trình bày
hoặc thể hiện dưới bất cứ dạng thức nào và trên bất cứ loại vật mang tin nào (ở dạng
truyền thống và dạng điện tử) mà tổ chức, quốc gia có được. Theo xuất xứ, nguồn
tin KH&CN có thể là nội sinh, trong nước (do tổ chức hoặc quốc gia đó tạo ra, lưu
giữ, phổ biến), hoặc là ngoại sinh, nước ngoài (thu thập được qua các kênh khác
nhau (mua, trao đổi, biếu tặng,...) hoặc truy cập được một cách ổn định, lâu dài
(thông qua mua quyền truy cập hoặc có thể truy cập được do bên có thông tin tạo
điều kiện truy cập lâu dài).
Nguồn tin KH&CN rất phong phú, đa dạng, nếu phân loại theo vật mang tin,
nguồn tin KH&CN chia thành hai loại:

15


- “Nguồn tin KH&CN trên giấy”, còn gọi là nguồn tin KH&CN truyền
thống, nguồn tin KH&CN dạng in, bao gồm các loại hình nguồn tin KH&CN được
ghi trên các vật mang tin xuất hiện lâu đời như: tre, nứa, giấy, phim ảnh, băng
từ...và khi truy cập và khai thác không cần sự trợ giúp của các thiết bị tin học và
viễn thông.
- “Nguồn tin KH&CN điện tử”: là nguồn tin khi truy cập và khai thác cần sự
trợ giúp của các thiết bị tin học và viễn thông (máy tính, mạng thông tin, điện thoại
di động...) và thường được ghi trên các vật mang tin như: ổ cứng máy tính (cố định
hoặc lưu động), đĩa quang hoặc lưu giữ trên mạng intenet.
Phân loại theo tên gọi, nguồn tin KH&CN có các loại hình chủ yếu như sau:
Sách KH&CN; Tạp chí KH&CN; Tài liệu hội nghị, hội thảo; Báo cáo kết quả
nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Băng hình, băng tiếng;Sáng chế;
Catalô công nghiệp; Tiêu chuẩn; Bản đồ, bản vẽ thiết kế; Tệp (file) dữ liệu; Cơ sở
dữ liệu KH&CN.
1.4. Một số khái niệm liên quan đến hội nhập
1.4.1. Hội nhập quốc tế

Khái niệm “Hội nhập” (integration) xuất phát từ phương Tây và cho đến ngày
nay vẫn chưa có một định nghĩa nào được thừa nhận tuyệt đối. Theo “Báo cáo năng
lực hội nhập kinh tế quốc tế cấp địa phương 2013” của nhóm nghiên cứu của Ủy
ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế do Nguyễn Thành Trung làm trưởng nhóm,
đã giới thiệu khái niệm “Hội nhập” được nhìn nhận dưới ba góc độ:
- Hội nhập là kết quả: Hội nhập được hiểu như một tài sản của một hệ thống,
là thứ có thể đại diện cho một cấu trúc hoặc một loại liên kết nào đó. Điều này có
nghĩa, hội nhập chỉ có thể được tạo ra khi có những điều kiện phù hợp;
- Hội nhập là quá trình: Hội nhập được hiểu như một quá trình liên tục phản
ánh sự phát triển của một quốc gia, một vùng từ tình trạng cô lập đến tình trạng sẵn
sàng cho hội nhập;
- Hội nhập vừa là kết quả vừa là quá trình: Hội nhập là bất kỳ một cấp độ liên
kết nào được công nhận bởi bất kỳ phương thức chia tách nào, hoặc là bất kỳ một cấp
độ liên kết nào giữa những cá nhân, trên một chiều kích này hoặc chiều kích khác.
Thuật ngữ “Hội nhập quốc tế” trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng
nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration

16


internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực
chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước ở châu
Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự
hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến
tranh thế giới.
TS. Phạm Quốc Trụ cho rằng cách tiếp cận phù hợp nhất là xem xét hội nhập
như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn diện và thường xuyên vận động hướng
tới mục tiêu nhất định. Theo đó, “hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các
nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ
về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách)

và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc
tế”[21]. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi
ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên
trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của
các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình thành nên và
củng cố các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới của quan hệ quốc
tế. Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế,
chính trị, an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.), nhưng cũng có thể
đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ gắn kết), phạm vi
(gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức (song phương, đa phương, khu vực, liên
khu vực, toàn cầu) rất khác nhau. Nội hàm của hội nhập quốc tế bao gồm:
o Hội nhập kinh tế quốc tế;
o Hội nhập chính trị;
o Hội nhập an ninh – quốc phòng;
o Hội nhập về văn hóa – xã hội.
Qua nghiên cứu các khái niệm hiện có PGS. TS Mai Hà đưa ra định nghĩa tổng
quát về hội nhập quốc tế như sau: “Hội nhập quốc tế là quá trình phát triển và tích
hợp để trở thành bộ phận cấu thành tích cực của hệ thống quốc tế với thể chế được
thống nhất, đảm bảo lợi ích lâu dài cho các bên tham gia”[13, tr 108]. Theo khái
niệm này, hội nhập quốc tế có những đặc điểm sau:

17


1) Tính tự nguyện: Nguyên tắc này đảm bảo không quốc gia nào bị ép hội nhập
quốc tế. Việc quốc gia nào, khi nào tham gia hội nhập quốc tế là do năng lực và tầm
nhìn của lãnh đạo quốc gia đó.
2) Chấp thuận luật lệ chung: Nguyên tắc này khuyến cáo các quốc gia tham gia
phải chấp thuận luật lệ chung đã có hoặc sẽ hình thành, đồng thời các luật lệ nội bộ
cũng phải thích ứng với những luật lệ chung.

3) Tính hợp chuẩn: Nguyên tắc này khuyến cáo các quốc gia tham gia phải chấp
thuận vấn đề hợp chuẩn cho tất cả các luật lệ chung đã có hoặc sẽ hình thành, đồng
thời các luật lệ nội bộ cũng phải thay đổi để thích ứng với những luật lệ chung.
4) Cạnh tranh bình đẳng: Cạnh tranh bình đẳng là hệ quả tất yếu khi quốc gia
nào cũng hướng tới lợi ích bền vững chính đáng trên cơ sở chấp thuận luật lệ chung
và hợp chuẩn. Đồng thời, chỉ có cạnh tranh bình đẳng mới đảm bảo cho yếu tố bền
vững của lợi ích trong điều kiện hội nhập quốc tế.
5) Lợi ích bền vững: Đảm bảo lợi ích bền vững là yếu tố sống còn của hội nhập
quốc tế nói chung. Đồng thời đó cũng là mục tiêu để các quốc gia hội nhập quốc tế,
cùng hợp tác, cạnh trạnh và phát triển.
1.4.2. Hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ
Theo Nguyễn Danh Sơn và cộng sự, “Hội nhập quốc tế về KH&CN là quá
trình hoạt động KH&CN trên thế giới liên kết lại với nhau tạo thành một bộ phận,
thành phần hữu cơ của hội nhập kinh tế quốc tế với những nguyên tắc, chuẩn mực
hành động hướng vào phục vụ cho sự vận động tự do và thuận lợi của các hoạt động
kinh tế - thương mại trên phạm vi toàn cầu” [18, tr. 19]. Hội nhập quốc tế về
KH&CN như là một bộ phận cấu thành của hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước,
tạo điều kiện thuận lợi cho sự chủ động tham gia hoạt động KH&CN của đất nước
với hoạt động KH&CN quốc tế và khai thác lợi ích từ sự tham gia ấy cho sự phát
triển của chính mình và của nền kinh tế quốc gia.
Theo PGS.TS Đặng Ngọc Dinh, hội nhập quốc tế về KH&CN trong xu thế
toàn cầu hóa được thể hiện ở 3 nội dung chủ yếu sau:

18


×